Tốc độ sinh trưởng của Cá Bơn được cải thiện nhờ quá trình sinh sản chọn lọc

Nhà nghiên cứu Robbert Blonk đã tìm ra cách cải thiện đáng kể tốc độ sinh trưởng của loài cá bơn biển bắc.

Điều này khiến việc nuôi cá bơn thu được nhiều lợi nhuận. Tám năm trước đây, loài cá bơn gần như biến mất khỏi khu vực Biển Bắc.Đây là loài cá rất khó nuôi và việc thụ tinh nhân tạo không mang lại hiệu quả.

Người ta phải cho cá sinh sản trong môi trường tự nhiên với cá bố cá mẹ bắt tại biển. Phương pháp này mất trung bình 2 năm để một con cá bơn có thể đạt trọng lượng là 200 g. Đây là một khoảng thời gian quá dài và tốn nhiều chi phí.

Nhà nghiên cứu Robbert Blonk mong muốn đẩy nhanh tốc độ sinh trưởng này bằng việc lựa chọn các con cá bơn sinh sản nhanh.

Bản phân tích DNA cho thấy hơn một nửa số cá bơn con chỉ do 6 cặp cá bố mẹ sinh ra. Blonk đã tiến hành lựa chọn các con cá bố mẹ có tốc độ tăng trưởng khá. Trong hai năm, các con cá bố mẹ này đã sản sinh ra các con cá bơn có trọng lượng trung bình lớn hơn 20% so với các con khác. Tức là, phương pháp này của Blonk giúp các con cá bơn đạt được mức trọng lượng yêu cầu chỉ trong 1,5 năm thay vì 2 năm. Loài cá bơn có khả năng sinh sản khi được 4 năm tuổi.

Nghiên cứu của Blonk được tài trợ bởi Tổ chức Nghiên cứu NWO của Hà Lan.

Nguồn: Physorg được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi Cá Bơn công nghệ cao hướng làm giàu trên vùng đất cát ven biển Hà Tĩnh

Dồn sức kịp tiến độ

Dự án nuôi cá mú, cá bơn chính thức được khởi động sau khi UBND tỉnh ra Thông báo số 384, ngày 29/9/2014 về “Chiến lược phát triển mô hình nuôi cá trên cát có giá trị kinh tế cao”. Kể từ đó, Sở NN&PTNT, với vai trò chủ công, đã phối hợp với đối tác là Công ty Fineton (Hồng Kông) khảo sát thiết kế dự án và cùng chính quyền các địa phương lựa chọn nhà đầu tư.

HTX Nuôi trồng thủy sản và kinh doanh thương mại Việt Hải tranh thủ làm ngày làm đêm để hoàn thành ao nuôi cá mú kịp ngày thả giống cuối tháng 2 năm 2015.

3 vùng đất cát ven biển: Xuân Liên (Nghi Xuân); Thạch Trị, Thạch Lạc (Thạch Hà); Cẩm Dương (Cẩm Xuyên) với diện tích gần 20 ha được chọn làm các mô hình thí điểm. Đồng thời, các nhà đầu tư có kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản cũng như nguồn lực kinh tế dồi dào được “chọn mặt gửi vàng”, giao trách nhiệm thực hiện dự án, gồm: Công ty Hoàng Dương, Công ty TNHH Như Nam, HTX Nuôi trồng thủy sản và Kinh doanh tổng hợp Việt Hải.

Mục tiêu ấn định cho ngày thả giống cá mú chậm nhất là cuối tháng 2/2015. Bởi vậy, “sức ép” tiến độ có tác động lớn đến các ngành chức năng, chính quyền địa phương và cả nhà đầu tư. Theo ông Nguyễn Công Hoàng – Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh: Nếu cuối tháng 2 không thả giống sẽ mất cơ hội và dự án sẽ bị chậm lại đến năm 2016. Do vậy, quá trình từ thiết kế, thẩm định đến xem xét lựa chọn vùng đất và nhà đầu tư đều được các ngành linh hoạt lồng ghép nhằm đạt hiệu quả cao nhất.

Bắt tay vào cuộc “chạy đua”, các huyện, xã cũng gặp không ít khó khăn bởi công tác GPMB liên quan đến hàng chục hộ dân. Đặc biệt là tại Xuân Liên phải lập lại dự án đầu tư vì diện tích nuôi cá bơn, cá mú chồng chéo với phần diện tích đã được UBND tỉnh phê duyệt nuôi tôm trên cát. Tuy nhiên, đến nay, mọi việc đang “thuận buồm xuôi gió”. Công tác GPMB cơ bản hoàn tất, cả 3 nhà đầu tư đang tích cực tiến hành san lấp và xây dựng các trại. Hiện tại, các nhà đầu tư đã chuyển hơn 137.000 USD để mua giống và trong những ngày tới sẽ chuyển đủ 90% tiền giống, tương đương hơn 273.000 USD.

Hứa hẹn hiệu quả cao

Dự án nuôi cá mú, cá bơn trên cát công nghệ cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả khai thác những vùng cát trắng; đồng thời, ngăn chặn tình trạng sa mạc hóa. Bởi vậy, quá trình thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ những cơ chế, chính sách của tỉnh. Hiện tại, 3 nhà đầu tư đều bỏ ra nguồn vốn 5-6 tỷ đồng/mô hình.

Công ty Hoàng Dương đẩy nhanh tiến độ thi công ao nuôi tại Xuân Liên (Nghi Xuân) để nuôi cá mú.

Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Nuôi trồng thủy sản và Kinh doanh tổng hợp Việt Hải – Tôn Đức Việt, đơn vị từng nuôi cá mú hơn 15 năm, tự tin: “Dự án sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao”.

Theo tính toán, kinh phí trọn gói cho mô hình nuôi cá mú hơn 3 tỷ đồng; sau khoảng 3 năm sẽ hoàn vốn. Trong khi đó, chi phí cho mỗi ha nuôi cá bơn hơn 10 tỷ đồng; thời gian hoàn vốn 6 năm. Đặc biệt, đây là những mô hình nuôi hợp tác nên ngoài hỗ trợ của tỉnh, các nhà đầu tư còn được cung cấp giống, kỹ thuật và bao tiêu toàn bộ sản phẩm (lợi nhuận được chia theo tỷ lệ: nhà đầu tư 70%, công ty Fineton 30%). Ông Nguyễn Công Hoàng cho biết: “Nếu so với nuôi tôm, lợi nhuận của 2 loại cá không bằng, tuy nhiên, lợi thế của nuôi cá là ít xảy ra dịch bệnh và rủi ro không lớn”.

Dự án nuôi cá bơn, cá mú công nghệ cao sẽ mở ra hướng làm giàu đối với các địa phương ven biển. Khi các mô hình đi vào hoạt động, sẽ tạo hàng trăm việc làm cho lao động địa phương.

Nguồn: Báo Hà Tĩnh được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nhận biết và phòng trị một số bệnh thường gặp khi ương nuôi Cá Bơn Vỉ

Cá bơn vỉ có thân cá to, thịt thơm ngon, hàm lượng đạm cao. Cá có tốc độ sinh trưởng nhanh, sức sinh sản mạnh.

1. Bệnh nấm

Bệnh thường phát sinh khi cá được 25 ngày tuổi, chiều dài cơ thể 9mm.

Cá nhiễm bệnh da bị phồng rộp lên dẫn đến các tế bào biểu bì của cá bị hoại tử.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá xuất hiện các đốm trắng thường ở phía trước vây lưng, đó là các quần thể nấm có kích cỡ thường 1×100 µm, vi khuẩn nấm hình sợi.

– Phòng bệnh: Trước và trong quá trình ương nuôi, công trình nuôi, dụng cụ phải vệ sinh, nguồn nước ương nuôi cá phải sạch.

Đây là phương pháp tốt nhất để ngừa bệnh.

– Trị bệnh: phun hoá chất pronopol xuống bể ương nuôi với nồng độ 3-5 ppm.

2. Bệnh truyền nhiễm về đường ruột

Bệnh thường phát sinh ở cá được 30 ngày tuổi, giai đoạn cá chuyển xuống sống đáy.

Nuôi trong điều kiện nhiệt độ nước 18-200C thì tỷ lệ cá mắc bệnh giảm.

Khi cá nhiễm bệnh sẽ chết rất nhanh, thường 3-5 ngày cá có thể chết.

Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio sp.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, bụng trướng to, đường tiêu hóa thức ăn không tiêu, cá hoạt động kém, bơi chậm chạp, màu sắc cá biến sang màu xám đen, ống tiêu hóa co rút và khi cá chết giải phẫu phát hiện ống tiêu hóa có rất nhiều khuẩn hình que.

– Biện pháp phòng bệnh: Nguồn gây bệnh thường do nguồn thức ăn là luân trùng và artemia.

Do đó, nuôi luân trùng và ương artemia nên sử dụng tiểu cầu tảo (Chorella sp), không nên nuôi trong điều kiện nhiệt độ quá cao và mật độ ương dày.

Môi trường nước ương phải sạch, không ô nhiễm.

Đây là cách phòng ngừa bệnh có hiệu quả.

– Trị bệnh: Trộn vào thức ăn cá thuốc kháng sinh oxytetracyline với nồng độ 1-2 g/1kg cá/ngày.

Cho ăn liên tục 3-5 ngày, kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

3. Bệnh do vi khuẩn vibrio anguillarium

Bệnh này thường xuất hiện chủ yếu ở giai đoạn cá giống, tỷ lệ chết có thể lên tới 50%, thường gặp ở cá có chiều dài thân 5-20 cm.

Bệnh thường phát sinh quanh năm, đặc biệt phát sinh cao ở thời kỳ từ tháng 4-7.

Tác nhân gây bệnh này là do vi khuẩn vibrio anguillariu.

– Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, vảy bị bong ra, vây bị hoại tử phần tia vây ngoài, vây bị xuất huyết thối rữa.

– Biện pháp phòng bệnh: Vi khuẩn vibrio anguillariu tồn tại ở trong nước biển, do vậy muốn phòng bệnh này nguồn nước phải đảm bảo sạch, phải thường xuyên sát trùng đáy bể ương nuôi.

Dung thuốc phun trực tiếp vào bể nuôi để nước bể có nồng độ thuốc formaline nồng độ 10-15ppm.

– Trị bệnh: dùng một trong các loại thuốc kháng sinh (oxytetracyline, rifammycine…) trộn với thức ăn cho cá ăn trong 7 ngày liên tục với lượng như sau: ngày đầu tiên từ 100mg thuốc/kg cá /ngày, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 lượng thuốc mỗi ngày bằng một nửa ngày đầu.

Kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

4. Bệnh do vi khuẩn (liên cầu khuẩn)

Bệnh phát sinh từ tháng 4 đến tháng 12, tập trung vào thời điểm nhiệt độ nước khoảng 250C (nhất là tháng 7-10), cá nuôi mật độ cao, tỷ lệ nước thay ít.

Cá bị bệnh có tỷ lệ chết hàng ngày 0,1-2%, có lúc đạt 10%.

Khi nhiệt độ hạ thấp, bệnh hạn chế phát sinh.

Tác nhân gây bệnh do liên cầu khuẩn Streptoccous sp

– Dấu hiệu bệnh lý: màu sắc cơ thể chuyển sang màu xám đen, nhãn cầu trắng đục, xuất huyết, bộ phận đầu và hàm trên hàm dưới cá màu đỏ.

Mang cá có màu đỏ do xuất huyết hoặc tái xám do chuyển sang giai đoạn hoại tử.

Khi giải phẫu nội tạng thấy ruột có màu đỏ.

– Biện pháp phòng bệnh: Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ nước lên cao, thức ăn chất lượng kém.

Do đó, khi phát hiện cá bị bệnh phải tách cá bệnh ra riêng.

Cho cá ăn thức ăn tươi sống, chất lượng tốt, ngừng cho ăn hoặc cho ăn ít hơn khi phát hiện cá nhiễm bệnh.

Tăng chất dinh dưỡng cho cá, giảm mật độ ương nuôi, tăng cường thay nước, hạn chế thức ăn dư thừa.

– Trị bệnh: trộn vào thức ăn và thuốc kháng sinh Tetracyline hoặc Erythromycine với nồng độ 50mg/1 kg cá/ngày.

Cho ăn liên tục 3-5 ngày, kết hợp bổ sung B.complex và vitamin C.

5. Bênh do ký sinh trùng Benedenia epinepheli:

Gây ra do ký sinh trùng Benedenia epinepheli ký sinh ở phần vây và da cá.

– Dấu hiệu bệnh cá: ký sinh trùng có kích thước nhỏ, màu sắc trong suốt nên khó nhìn thấy bằng mắt thường.

Khi ký sinh trùng ký sinh tập trung với số lượng nhiều mới nhìn thất hiện tượng cá xuất hiện cá đốm loét nhỏ trên vây và da.

– Phòng bệnh: nuôi cá ở mật độ vừa phải, tăng cường thay nước, tăng cường vệ sinh ở đáy bể khi ương nuôi cá.

Bảo đảm điều kiện nuôi sạch, tránh ô nhiễm.

– Trị bệnh: tắm cho cá bằng nước ngọt, sau 24 giờ tắm lặp lại lần 2.

6. Bệnh do ký sinh trùng Endamoeba ở mang cá

Bệnh thường xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 3, khi nhiệt độ nước 13-140C, cá ở giai đoạn từ 5-14g/con.

Tỷ lệ chết hàng ngày khi cá nhiễm bệnh từ 0,05-0,2%.

– Dấu hiệu bệnh lý: cá bị nhiễm bệnh hoạt động chậm chạp, bắt mồi kém, mang và đầu cá biến màu đỏ.

Ký sinh trùng thường bám vào mang cá.

– Phòng bệnh: nuôi cá ở mật độ vừa phải, tăng cường thay nước, tăng cường vệ sinh ở đáy bể khi ương nuôi cá.

Bảo đảm điều kiện nuôi sạch, tránh ô nhiễm.

– Trị bệnh: tắm cho cá bằng nước ngọt, sau 24 giờ tắm lặp lại lần 2.

Nguồn: Trung Tâm Nghiên Cứu khoa Học Nông Vận, Hội Nông Dân Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cá bơn: Công nghệ sản xuất và thị trường tiêu thụ (Phần 2)

Cá bố mẹ là cá nuôi đã được chọn lọc qua hơn một thập kỉ. Nuôi vỗ cá bố mẹ với mật độ thấp (khoảng 5 kg/m2) trong bể xi măng, cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp dành riêng cho cá bố mẹ. Đảm bảo ánh sáng và nhiệt độ tối ưu cho cá bố mẹ có vai trò quan trọng để trứng cá đạt năng suất và chất lượng cao và năng suất quanh năm.

Cá bơn nuôi trong hệ thống tái lưu thông nước (RAS)

Công nghệ nuôi

Sản xuất giống

Cá bố mẹ là cá nuôi đã được chọn lọc qua hơn một thập kỉ. Nuôi vỗ cá bố mẹ với mật độ thấp (khoảng 5 kg/m2) trong bể xi măng, cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp dành riêng cho cá bố mẹ. Đảm bảo ánh sáng và nhiệt độ tối ưu cho cá bố mẹ có vai trò quan trọng để trứng cá đạt năng suất và chất lượng cao và năng suất quanh năm.

Cá bơn không đẻ trứng trong điều kiện nuôi, do vậy, phải thụ tinh nhân tạo. Cá cái sản xuất 1-10 triệu trứng/mùa, phụ thuộc vào kích cỡ.

Ấu trùng mới nở (sau 6-7 ngày thụ tinh) dài khoảng 3mm, được ương nuôi thâm canh ở mật độ khoảng 20 triệu ấu trùng/lít nước, tần suất thay nước khá thấp. Khi ấu trùng lớn hơn, tần suất thay nước sẽ tăng lên. Khoảng 3 ngày sau khi nở, ấu trùng bắt đầu giai đoạn ăn thức ăn ngoài. Ban đầu cho ăn luân trùng Brachionus plicatilis trong khoảng 10 ngày, sau đó chuyển sang ăn ấu trùng Artemia. Sau 40-50 ngày, quá trình biến thái kết thúc, khi đó ấu trùng dài khoảng 25 mm. Trong 2 tháng tiếp theo, con giống được ương trong bể nhỏ, cho ăn thức ăn viên khô cho đến khi cá đạt trọng lượng 5-10 g. Trong số ấu trùng còn sống, có khoảng 10-25% biến thái, và 90% số không biến thái còn lại được chọn để nuôi tiếp. Tất cả con giống đều được tiêm vắcxin phòng các bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, đôi khi vẫn có những loại bệnh hoặc ký sinh trùng “mới” xâm nhập vào con giống; nếu không bị phát hiện, chúng sẽ gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho các công ty nuôi cá bơn như tình hình ở Galicia trong giai đoạn 2006-2007.

Nuôi thương phẩm

Con giống cỡ 5-10 g được thả nuôi trong phòng ương đến cỡ 200-400 g sẽ chuyển sang bể nuôi cố định, diện tích mặt nước từ 60-120 m2 và độ sâu 0,5-1,0 m. Mật độ thả ban đầu là 20 kg/m2 sẽ tăng lên 50-70 kg/m2 khi cá đạt cỡ thu hoạch.

Các bể nuôi luôn được tự làm sạch nhờ thiết kế của bể bảo đảm lưu thông nước. Hàm lượng ôxy bão hòa ở nước thoát duy trì ở mức trên 60%, cong ở nước cấp là 120-150%, nhờ đó giảm được một nửa công đoạn bơm nước

Cho cá ăn thức ăn viên tổng hợp bằng máy cho ăn hoặc bằng phương pháp thủ công (đối với các trại nuôi nhỏ). Phân loại kích cỡ cá 2-4 lần trong khoảng thời gian 1-1,5 năm tiếp theo. Do có tốc độ tăng trưởng chậm hơn, trọng lượng thu hoạch của con đực chỉ đạt dưới 1kg, còn con cái dao động từ 1-2 kg, một số trên 2 kg. Thời gian thu hoạch là 2 năm từ lúc thả con giống 5-10 g.

Ở các trại nuôi lớn, cá bơn được nuôi trong bể ngoài trời với hệ thống dẫn nước liên tục từ biển. Chỉ một lượng nhỏ cá bơn châu Âu sản xuất trong hệ thống nuôi tái lưu thông nước (RAS). Phần lớn các trại được xây dựng tại các vị trí có nhiệt độ nước biển từ 10-20oC quanh năm, và hầu như luôn duy trì nhiệt độ quanh giá trị tối ưu (khoảng 15oC).

Các khu nuôi công nghiệp

Phần lớn các hoạt động nuôi thủy sản trên đất liền hiện nay đều đòi hỏi diện tích đất lớn. Để giảm diện tích, người nuôi cần áp dụng các công nghệ mới như hệ thống ống dẫn nước nông. Với hệ thống này, cá nuôi trong kênh với các ống dẫn nước phân loại ở các mức khác nhau (từ 3-6 mức). Đây là công nghệ nuôi thủy sản siêu thâm canh, thích hợp để áp dụng tại các khu nuôi công nghiệp với sản lượng cao gấp 5-10 lần công nghệ nuôi thông thường.

Các khu nuôi công nghiệp là giải pháp mở rộng sản xuất thủy sản đầy triển vọng với tốc độ tăng trưởng nhanh, có thể triển khai ở nhiều khu vực duyên hải và vùng nội địa.

Quá trình phát triển ngành nuôi thủy sản từ các đơn vị quy mô nhỏ thành các khu công nghiệp mang lại rất nhiều lợi ích, do có thể sử dụng cơ sở vật chất đã được xây dựng chắc chắn trên đất liền, từ đó giúp các quốc gia có chi phí sản xuất cao vẫn có thể cạnh tranh ở các mặt hàng thủy sản giá trị cao.

Sản xuất chi phí thấp được tạo ra thông qua các giải pháp tiết kiệm nguồn lực dựa trên công nghệ tiên tiến và các phương thức sản xuất tuân thủ các quy định về truy xuất nguồn gốc, an sinh động vật, môi trường và các tiêu chuẩn bền vững khác. Các khu công nghiệp có sự phối hợp giữa các hoạt động sản xuất và dịch vụ quan trọng, có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn này dễ dàng hơn rất nhiều so với các cơ sở sản xuất đơn lẻ, tách rời.

Sản phẩm cá bơn hun khói lạnh cắt lát

Ví dụ, để sản xuất 10.000 tấn cá bơn bằng công nghệ thông thường sẽ cần hơn 300.000 m2 đất. Đó là thách thức lớn. Tuy nhiên, với công nghệ siêu thâm canh, diện tích xây dựng khu công nghiệp có thể giảm 80%, tức là có thể đạt sản lượng cá trên chỉ với 60.000 m2 đất xây dựng. Nói cách khác, công nghệ mới này có thể giúp tăng năng suất nuôi cá từ 30 lên hơn 150 kg/m2.

Ngoài ra, công nghệ siêu thâm canh cũng được kì vọng là sẽ giúp cắt giảm sử dụng các yếu tố đầu vào như thức ăn, nước, ôxy, năng lượng và sức lao động. Một yếu tố khác nữa là năng suất lao động. Khi áp dụng công nghệ thông thường, năng suất đạt khoảng 20-50 tấn/năm.lao động. Hệ thống ống dẫn nước nông được thiết kế nhằm mục đích nâng cao sản lượng lên 50- 200 tấn/năm.lao động, phụ thuộc vào quy mô trại nuôi.

Các khu quy hoạch

Tại Galicia, chính quyền đã thông qua kế hoạch xây dựng 25 khu nuôi thủy sản công nghiệp trên diện tích 300 ha với năng suất dự kiến hằng năm 22.500 tấn. Đây có thể sẽ là mô hình mẫu cho ngành nuôi thủy sản ở châu Âu và tạo ra hiệu ứng dây chuyền trong ngành sản xuất này.

Theo kế hoạch, các khu nuôi sẽ áp dụng công nghệ nuôi thủy sản thông thường, cũng có thể chuyển sang công nghệ siêu thâm canh nếu vẫn trong giai đoạn quy hoạch. Sự chuyển giao công nghệ này có thể sẽ tạo ra tác động rất lớn với sự gia tăng sản lượng lên mức 200.000 tấn.

Hệ thống ống dẫn nước nông có những lợi ích sau:

• Diện tích đất tối thiểu: Với sinh khối tương đương, hệ thống này chỉ cần sử dụng 20% diện tích đất so với hệ thống thông thường.

• Bảo toàn nước: Hệ thống này dễ kết nối với các nguồn nước và hỗ trợ việc tái sử dụng hoặc tái lưu thông nước. Hệ thống ống dẫn nước nông chỉ cần 30% lượng nước sử dụng trong công nghệ thông thường để duy trì sinh khối tương đương.

• Mật độ cao: Việc sử dụng thức ăn viên công nghiệp nổi và các tấm chắn có thể di chuyển trong hệ thống ống dẫn nước nông giúp duy trì mật độ nuôi thả cao. So với công nghệ thông thường, sinh khối cá ở hệ thống này cao hơn khoảng 30%.

• Linh động chọn loài nuôi: Có thể sử dụng đối với các loài cá nổi và cá đáy-nổi.

• Hiệu quả sử dụng thức ăn: Sử dụng thức ăn viên công nghiệp nổi có thể làm giảm 10% hệ số thức ăn.

• Hiệu quả sản xuất: Hệ thống ống dẫn nước nông có thể thiết kế như các mô-đun “tòa tháp” để phù hợp với mức tăng sinh khối và giảm chi phí ban đầu.

• Sức lao động giảm: Với cùng năng suất, hệ thống ống dẫn nước nông chỉ cần 50-70% lượng lao động sử dụng trong hệ thống thông thường.

Chi phí sản xuất

Trong trường hợp thông thường, với sản lượng hằng năm 133 tấn, chi phí ước tính trung bình 7,54 eur/kg cá bơn. Khi sản lượng tăng lên 400 tấn/năm, chi phí trung bình giảm 33%, xuống còn 5,07 eur/kg. Qua đó, có thể thấy lợi thế kinh tế nhờ quy mô là rất lớn.

Xét về chi phí đầu tư, một trại nuôi cá bơn sản lượng 133 tấn/ năm cần 4,3 triệu eur. Nếu gấp ba lần sản lượng đó lên mức 400 tấn, chi phí đầu tư bổ sung là khoảng 1,8 triệu eur. So với mức tăng sản lượng, chi phí bổ sung này thấp hơn rất nhiều; đó là lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Hơn nữa, với sản lượng cao hơn, lực lượng lao động và đội ngũ quản lý được sử dụng hiệu quả hơn, nhờ đó cũng góp phần giảm chi phí sản xuất.

Điểm đáng chú ý là cá bơn là một loài thủy sản rất được ưa chuộng nhưng đắt tiền. Do đó, triển vọng tăng trưởng loài này phụ thuộc nhiều vào giá bán. Việc áp dụng các công nghệ nuôi mới sẽ giúp sản lượng tăng mạnh, đồng thời làm giảm chi phí sản xuất, từ đó tháo gỡ bài toán giá cá bơn trên thị trường.

Nguồn: Vietfish được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cá Bơn: Công nghệ sản xuất và thị trường tiêu thụ (Phần 1)

Sự phát triển công nghệ nuôi sẽ làm tăng sản lượng và giảm chi phí sản xuất cá bơn trong những năm tới. Giá bán và thị trường tiêu thụ loài thủy sản này, do dó, cũng sẽ thay đổi.

Cá bơn (Scophthalmus maximus) là một loài thủy sản giá trị cao được ưa chuộng ở nhiều phân khúc thị trường, nhất là chuỗi nhà hàng cao cấp. Nguồn lợi tự nhiên của loài này tập trung ở vùng Đông Bắc Đại Tây Dương – từ các bờ biển Châu Âu tới Bắc cực, xuyên suốt khu vực Địa Trung Hải và miền Tây biển Bantích.

Cá bơn sống ở nhiều tầng nước khác nhau, từ tầng nước nông cho tới 100 mét nước sâu, ở đáy biển nhiều cát và bùn. Từ nguồn khai thác và nuôi thương phẩm, cá bơn được cung ứng ra thị trường dưới hai dạng sản phẩm tươi và đông lạnh.

Nghề nuôi cá bơn có lịch sử từ những năm 1970 ở Scốtlen, nhưng chỉ đến đầu những năm 80, sản lượng và số lượng trại nuôi mới bắt đầu mở rộng ở Galicia, Tây Ban Nha. Tiến bộ công nghệ sinh học trong những năm đầu thập niên 90 đã giúp ngành cá bơn ở nhiều nước Châu Âu tăng trưởng ổn định dù tốc độ hơi chậm. Galicia vẫn là khu vực sản xuất cá bơn chính, bên cạnh Pháp, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Đức, Aixơlen, Ailen, Italia, Na Uy và xứ Wales.

Tuy nhiên, vị trí nhà sản xuất cá bơn hàng đầu thế giới có thể sẽ chuyển từ Tây Ban Nha sang Bồ Đào Nha, khi vùng nuôi Pescanova ở phía Bắc Bồ Đào Nha ước tính sản xuất 7.000 tấn cá trong năm 2011. Sản lượng cá bơn ở Châu Âu cũng sẽ tăng từ khoảng 11.000 tấn trong năm 2010 lên 16.500 tấn trong năm 2012. Do đó, thị phần cá bơn nuôi sẽ cao hơn ngành khai thác (6.700 tấn trong năm 2008).

Sản lượng khai thác cá bơn tự nhiên

Hình 1 cho thấy sản lượng khai thác cá bơn của thế giới và Liên minh Châu Âu (EU) trong giai đoạn 1970-2008 với đặc điểm chung là đều tuân theo một chu kì lặp lại. Vào năm 1970, sản lượng cá bơn toàn cầu ước đạt 10.800 tấn và của EU đạt 6.600 tấn. Sản lượng thế giới đạt mức cao nhất là 15.000 tấn vào năm 1979, sau đó giảm xuống mức thấp nhất là 5.500 tấn vào năm 1985. Sau một thập kỉ tăng liên tục, từ giữa những năm 1990, sản lượng khai thác bắt đầu có xu hướng giảm. Năm 2008, sản lượng khai thác cá bơn toàn cầu đạt 6.665 tấn, trong đó 5.740 tấn là từ EU (chiếm 86% sản lượng khai thác toàn cầu).

Ngoài EU, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia có sản lượng khai thác cá bơn đáng kể trên thế giới với 528 tấn trong năm 2008. Tuy nhiên, con số này thấp hơn rất nhiều so với mức khai thác vào những năm 1980 và 1990. Một số quốc gia khai thác cá bơn khác bao gồm: Ukraina, Na Uy, Marôc và Liên bang Nga.

Đội tàu khai thác cá bơn chủ lực của Châu Âu tập trung ở các nước Hà Lan, Anh, Đan Mạch, Pháp, Bỉ, Đức, Ailen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hi Lạp (Hình 2). Từ năm 1970 đến nay, sản lượng khai thác của các quốc gia này luôn chiếm từ 88-97% sản lượng khai thác của khối EU25, trong đó tỉ trọng giảm dần theo thời gian. Nhìn chung, sản lượng khai thác cá bơn của các nước này đều giảm kể từ giữa những năm 1990.

Hà Lan có sản lượng khai thác cá bơn lớn nhất trong khối EU với con số kỷ lục 4.098 tấn vào năm 1979. Tuy nhiên, sản lượng đã giảm xuống còn 3.780 tấn vào năm 1991 và chỉ còn 1.751 tấn vào năm 2008.

Sản lượng khai thác cá bơn dự đoán sẽ tiếp tục giảm; do đó, ngành nuôi cá bơn sẽ đóng vai trò quyết định đối với việc tăng sản lượng loài thủy sản này.

Sản lượng nuôi cá bơn của EU

Nói đến ngành nuôi cá bơn của thế giới thì EU dường như giữ vai trò là nhà sản xuất độc quyền (Hình 3). Sản lượng cá bơn của EU Trong giai đoạn 1985-2007, tổng sản lượng nuôi cá bơn của EU tăng từ mức 53 tấn (1985) lên 8.205 tấn (2007) với tốc độ tăng trưởng hàng năm cao nhất vào khoảng cuối những năm 80-đầu những năm 90. Trong vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng dao động ở mức 10-15%/năm. Ngành nuôi cá bơn của EU đạt tốc độ tăng trưởng cao tới mức sản lượng nuôi của nó trong năm 2007 chiếm 50% tổng sản lượng khai thác và nuôi cá bơn của thế giới.

Ngoài EU, Aixơlen là một quốc gia nuôi cá bơn nhỏ (đạt mức sản lượng cao nhất 115 tấn trong năm 2005, giảm xuống còn 100 tấn trong năm 2006-07). Nam Phi cũng có tên trong danh sách các nước sản xuất cá bơn trong vài năm trở lại đây .

Theo Hình 4, khu vực nuôi cá bơn của Châu Âu tập trung ở 5 quốc gia, trong đó Tây Ban Nha giữ vai trò là nhà sản xuất chính (cung cấp 84% sản lượng của EU trong năm 2007). Sản lượng nuôi cá bơn của nước này nhìn chung không ngừng tăng, từ 38 tấn (1985) lên 6.838 tấn (2007), tuy giảm nhẹ vào năm 1997 và 1998.

Sản lượng cá bơn của Pháp cũng tăng từ 15 tấn năm 1985 lên 980 tấn năm 1997 (tuy nhiên, sản lượng gần như chạm đáy trong năm 1996) trước khi chững lại trong giai đoạn sau (1998-2006). Năm 2007, sản lượng nuôi của Pháp đạt 850 tấn, chiếm 12% tổng sản lượng nuôi toàn EU.

Trong khi đó, ngành nuôi cá bơn mới chỉ xuất hiện ở Bồ Đào Nha chưa đầy hai thập kỉ. Với xuất phát điểm 35 tấn vào năm 1994, sản lượng nuôi cá bơn của nước này liên tục tăng lên mức cao nhất là 386 tấn vào năm 2002, trước khi giảm xuống còn 167 tấn vào năm 2007 . Dự đoán, mức sản lượng này sẽ tăng mạnh trong những năm tới nhờ chiến lược tăng cường đầu tư trong thời gian gần đây.

Tại Anh, mặc dù ngành nuôi cá bơn đã hình thành vào năm 1970 ở Scốtlen, nhưng hoạt động nuôi cá bơn thương phẩm chỉ mới phát triển vào khoảng năm 2000 (107 tấn) và đạt sản lượng cao nhất là 233 tấn vào năm 2004, sau đó lại giảm xuống mức 62 tấn vào năm 2007 . Sản lượng nuôi của Hà Lan trong năm 2007 cũng đạt con số tương đương của Anh trong năm này.

Tổng sản lượng nuôi cá bơn của 5 quốc gia này chiếm trên 98,5% sản lượng toàn EU. Gần 1,5% còn lại do các hệ thống sản xuất quy mô nhỏ ở Đan Mạch , Đức và Ailen cung cấp.

Giá trị ngành nuôi cá bơn của EU

Sự tăng trưởng của ngành sản xuất cá bơn EU đã khiến giá trị cá bơn nuôi trong khu vực này tăng từ mức 38.000 EUR (1984) lên 64,3 triệu EUR (2007) (Hình 5).

Tây Ban Nha

Ngành sản xuất cá bơn của Tây Ban Nha tập trung chủ yếu ở khu vực Galicia (sản lượng của Galicia chiếm khoảng 95% sản lượng cả nước). Bảng 1 cung cấp số liệu sản xuất cá bơn của Tây Ban Nha (1999-2010) trong mối tương quan với tổng sản lượng thế giới (2007-2010). Sản lượng nuôi của Tây Ban Nha tăng đáng kể, từ 2.243 tấn (1999) lên 9.400 tấn (2010). Với mức sản lượng này, Tây Ban Nha đóng góp 85,5% tổng sản lượng cá bơn thế giới trong năm 2010.

Acuinova đã xây dựng một trại nuôi cá bơn công suất 7.000 tấn ở Mira, Bồ Đào Nha, với nguồn vốn hỗ trợ từ EU. Theo ước tính, trại này sản xuất 1.500 tấn cá trong năm 2010 và đạt công suất hoạt động tối đa trong năm 2012, khiến tăng sản lượng nuôi cá bơn toàn cầu, và do đó, giảm thị phần nuôi cá bơn của Tây Ban Nha trong năm 2012.

Cán cân thương mại của EU

Các nước trong khối EU25 đã ngừng NK cá bơn kể từ năm 1991 trong khi vẫn tiếp tục XK loài thủy sản này, nhưng với khối lượng không đáng kể. Sản lượng XK giảm từ 879 tấn vào năm 1979 xuống còn 464 tấn vào năm 2006. Theo đó, sự thay đổi trong cán cân thương mại của ngành cá bơn EU25 trong những năm gần đây phụ thuộc hoàn toàn vào XK. Với mức sản xuất giới hạn, trên 95% sản lượng cá bơn (gồm cả nuôi và khai thác) của Châu Âu hiện nay dành cho tiêu dùng nội địa.

*Lưu ý:

1 Báo cáo này không đề cập đến Trung Quốc, mặc dù đây là quốc gia sản xuất trên 50.000 tấn cá bơn.

2 Tây Ban Nha là quốc gia sản xuất cá bơn lớn nhất toàn cầu với công ty Stolt Sea Farm SA là nhà sản xuất cá bơn nuôi dẫn đầu thế giới. Hai trại nuôi của công ty này cung cấp khoảng 1 triệu con giống cá bơn mỗi năm cho các cơ sở nuôi vỗ trong khu vực.

3 Mặc dù nuôi cá bơn, Pháp vẫn phải NK loài thủy sản này với nguồn cung chủ yếu từ Tây Ban Nha. Đây cũng là quốc gia sản xuất cá bơn giống lớn nhất thế giới với thị trường XK chính là Trung Quốc. Sản phẩm cá bơn XK của Pháp bao gồm cả cá sống.

4 Bồ Đào Nha nuôi cá bơn qua hệ thống trên cạn với hầu hết các cơ sở sản xuất được quản lý bởi công ty Stolt Sea Farm SA.

5 Sản lượng do một nhà sản xuất cung cấp.

6 Seafarm BV là công ty nuôi cá bơn duy nhất từ giai đoạn cá bột đến cá trưởng thành (bán ra trên thị trường) thông qua hệ thống nuôi trên cạn. Seafarm BV cung cấp cá bơn sống cho các thị trường Trung Quốc và Nhật Bản.

7 Công nghệ sản xuất cá bơn ở Đan Mạch phát triển mạnh, đặc biệt là sản xuất cá bột – sản phẩm có khối lượng XK lớn.

8 Chỉ có một trại giống và một cơ sở nuôi cá bơn ở Đức.

9 Ailen có một cơ sở nuôi cá bơn thương phẩm ở hạt Galway. Tuy nhiên, trại nuôi này đã bị thanh lý vào đầu năm 2005.

Nguồn: Vietfish được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.