Trồng Rong Sụn làm rau xanh ở đảo Trường Sa

Các nhà nghiên cứu mới đây đã trồng thành công loại rong biển này, khắc phục phần nào tình trạng thiếu rau xanh triền miên của bộ đội trên đảo Trường Sa. Quy trình nuôi trồng rong sụn rất đơn giản, cho năng suất khá.

Rong Sụn được sử dụng làm rau xanh tại Trường Sa

Đây là dự án hợp tác giữa Viện Công nghệ sinh học, phân viện Hải dương học Hải Phòng, phân viện Khoa học vật liệu Nha Trang, ĐH quốc gia Hà Nội cùng các cán bộ, chiến sĩ trên đảo.

Rong biển là loại thực vật giàu dinh dưỡng, chứa hàm lượng cao protein, đường, chất khoáng, và nhiều loại vitamin (A, C, E…) cũng như các axit amin cần thiết cho cơ thể. Ở nước ta, rong sụn (tên khoa học là Kappaphycus alvarezii) đã được nuôi trồng tại nhiều địa phương như Kiên Giang, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hoà, và đã giúp nhiều gia đình thoát khỏi đói nghèo.

Rong sụn thích hợp với các vực nước ven bờ, các bãi ngang vùng triều, các đìa đầm nuôi tôm… Quy trình trồng loại cây này rất đơn giản, chỉ cần đóng cọc, buộc dây, rồi treo giống. Trọng lượng ban đầu của búi giống từ 100-150g/bụi, được treo xuống cách mặt nước từ 0,6 đến 0,8 mét (mùa nắng nóng) và từ 0,2 đến 0,4 mét trong mùa mát. Sau hai đến ba tháng là có thể thu hoạch được, trọng lượng bụi trưởng thành từ 14 đến 16 kg.

Nghiên cứu cho thấy, nước biển tại vùng quần đảo Trường Sa rất sạch (hàm lượng tất cả các chất độc hại đều dưới giới hạn cho phép nhiều lần so với tiêu chuẩn Việt Nam), song lại rất nghèo chất dinh dưỡng (như các ion NO2, NO3, PO4 và NH4) so với nước biển ven bờ. Vì thế, việc nuôi trồng rong sụn ở quanh đảo là rất thuận lợi, tuy rằng phải bổ sung thêm những quy trình mới cho phù hợp với chất lượng nước ở đây.

Các nhà nghiên cứu cho biết có thể trồng theo kiểu giàn bè nổi ở những vũng sâu, hay kiểu dây đơn trên đáy các bãi ngang kín sóng gió. Kỹ thuật này tuy cho năng suất cao, song do sóng lớn và cá ăn nên không hiệu quả. Vì thế, có thể nuôi trồng trong bể ngay trên đảo, dễ chăm sóc, quản lý và khai thác cho từng bếp ăn nhỏ.

Cây rong sụn chứa rất nhiều giá trị dinh dưỡng

Qua 3 năm nuôi trồng thử nghiệm trong 6 bể nuôi bằng composit ở đảo Trường Sa lớn, rong sụn đạt tốc độ tăng trưởng 0,2-0,5%/ngày, thấp hơn so với nuôi trồng ven bờ, chủ yếu do ánh sáng và nhiệt độ trong bể cao. Để khắc phục tình trạng này, các nhà nghiên cứu đã tạo nên lớp cách nhiệt xung quanh bể (xếp đá san hô hoặc chèn xốp) và che bớt ánh sáng.

Nghiên cứu về rong sụn hiện vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhằm đảm bảo tính bền vững và hiệu quả nuôi trồng tại quần đảo Trường Sa.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kinh nghiệm trồng Rong Sụn ở Khánh Hòa

Rong sun (Kappaphicus alvarezii) là nguyên liệu chủ yếu để chế biến Carrageenan – chế phẩm được sử dụng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, y dược, mỹ phẩm. Đặc biệt, rong sụn có tính ưu việt về hàm lượng các nguyên tố vi lượng hữu ích như: Mg, Cu, Fe, Mn,… là một loại Polysacharide có tính nhũ hóa cao, có thể giải độc, chữa các bệnh mãn tính, làm nguyên liệu keo…

Rong nho – Món quà thiên nhiên ban tặng cho con người

Hiện nhiều nước trong khu vực như: Philippines, Indonesia, Tanzania… đã đầu tư nghiên cứu và sản xuất loài rong này. Rong sụn là loài rong biển nhiệt đới, có nguồn gốc từ Philippines. Tháng 2-1993, Phân Viện Khoa học vật liệu Nha Trang đã nhập từ Nhật Bản về Việt Nam thông qua chương trình hợp tác khoa học Việt Nam – Nhật Bản. Đến nay, rong sụn đã không ngừng phát triển và lan rộng ra một số tỉnh như Phú Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang…

Một số kinh nghiệm trồng rong nho tại Khánh Hòa xin được chia sẻ cho bà con:

1. Vận chuyển rong giống

Dùng sọt tre hay bao để đựng rong giống (không nên nén chặt rong với nhau). Nếu vận chuyển lượng lớn, phải đi xa nên dùng xe tải có máy lạnh, nhớ định giờ để tưới nước biển giữ độ ẩm cho rong.

2. Mùa vụ trồng rong sụn (Áp dụng cho các tỉnh Trung và Nam Trung bộ)

Mùa chính: Thường từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, còn ở các tỉnh Nam bộ thường từ tháng 6 đến tháng 3 năm sau.

Mùa phụ: Từ tháng 4 đến tháng 6

3. Thời gian trồng và cách sơ chế

Kể từ ngày ra giống, với trọng lượng giống ban đầu 80 – 100g/bụi, đến trọng lượng đạt từ 1kg trở lên và thu hoạch. Kinh nghiệm cho thấy, nếu trồng rong sụn ở các vùng nước cạn, dòng chảy và sự lưu chuyển của nước yếu, vào mùa nhiệt độ cao… thì sau 2 – 2,5 tháng mới cho thu hoạch. Nếu ở những vùng nước sâu, biển hở, sóng gió và sự lưu chuyển của nước tốt có thể sau 45 – 50 ngày là thu hoạch được.

Cách sơ chế: Phơi vài ngày nắng (tùy thuộc vào mức độ) cho đến khi rong khô và xuất hiện lớp muối trắng trên bề mặt rong là được. Gỡ bỏ rác, dây buộc còn sót, giũ sạch cát muối rồi cho vào bao, cất giữ nơi thoáng mát, tránh ẩm, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nguyên liệu.

4. Bệnh rong và biện pháp phòng ngừa

– Bệnh trắng lũn thân là một bệnh chủ yếu và phổ biến nhất đối với rong sụn, nó gây thiệt hại ở nhiều mức độ khác nhau về sản lượng cũng như chất lượng…

– Trồng rong ở những vùng có dòng nước chảy, không kín sóng gió, xa nguồn nước ngọt, tránh vùng nước quá cạn và quá kín sóng gió. Sự lưu chuyển tốt của nước luôn là nhân tố quan trọng nhất trong nghề trồng rong sụn.

– Các giàn trồng rong cần có kích thước nhỏ đến vừa, mỗi giàn chỉ nên có kích thước tối đa 2000 – 3000m2 để dễ dàng trong việc điều chỉnh độ sâu của giàn cũng như thuận lợi cho việc xử lý khi bệnh rong xuất hiện.

5. Biện pháp xử lý bệnh xảy ra

Bệnh xuất hiện phát triển nhanh và lây lan. Khi rong bệnh cần phải xử lý bằng cách:

– Thu và cắt bỏ các phần bị bệnh rồi buộc giống trở lại.

– Hạ giàn rong xuống sâu 0,6 – 0,8m cách mặt nước.

– Di chuyển giàn trồng đến vùng dòng nước chảy tốt, thường xuyên có gió và sóng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Rong Sụn

Rong sụn (Kappaphycus alvarezii Dotty) là loài rong biển nhiệt đới có giá trị kinh tế cao, được thị trường ưa chuộng.

Rong sụn có giá trị kinh tế cao

Chọn vùng nuôi

Rong sụn có thể trồng ở thủy vực, mặt nước ven biển và ở đảo chìm có độ sâu 0,5 – 10 m. Có thể trồng quanh năm hoặc theo mùa, tùy điều kiện từng vùng.
Vùng nuôi rong sụn cần đảm bảo một số yêu cầu: Nước biển có độ mặn từ 28 – 32‰, không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nguồn nước ngọt; Vùng nước yên tĩnh, ít chịu ảnh hưởng của sóng gió; Nước luôn được luân chuyển, với lưu tốc vừa phải, 20 – 40 m/phút.

Đối với các vùng bãi ngang cạn vùng triều, khi thủy triều xuống thấp nhất, mực nước phải còn lại ít nhất 0,5 m để đảm bảo rong không bị phơi ra ngoài không khí và biên độ thủy triều không > 2 m. Chất đáy thích hợp để trồng rong sụn tốt nhất là cát thô, san hô vụn. (Nền đáy là cát bùn hay bùn cát thì không thích hợp).

Giống và thời vụ

Để làm rong giống cần chọn đoạn rong bánh tẻ (không già không non), có nhiều nhánh nhỏ, trơn mướt, khỏe mạnh, mỗi đoạn dài 20 – 30 cm. Trọng lượng giống ban đầu bình quân 80 – 100 g/bụi, dùng dao sắc (không dùng tay bẻ) để cắt.

Rong giống sau khi cắt xong cần che đậy, tránh nắng gió trực tiếp, tránh nước ngọt ảnh hưởng. Không nên nén chặt rong với nhau. Cần đảm bảo cho rong luôn ẩm trong quá trình vận chuyển bằng cách tưới nước biển lên rong để giữ độ ẩm.

Mùa vụ

Căn cứ vào các yếu tố tự nhiên có thể nuôi rong sụn theo 2 mùa:

Mùa chính: Ở các tỉnh Trung và Nam Trung bộ, từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Thời điểm này nhiệt độ nước trung bình thường ổn định (< 300C), rong lớn nhanh và ít bị bệnh.

Mùa phụ: Ở các tỉnh Trung và Nam Trung bộ thường từ tháng 4 đến tháng 9; các tỉnh Nam bộ từ tháng 4 đến tháng 6. Các tháng mùa nắng – nóng của khu vực, nhiệt độ nước và không khí thường rất cao nên rong sụn phát triển chậm, dễ bị bệnh, năng suất thấp hơn. Vì vậy, cần phải chú ý đến kỹ thuật, quy mô diện tích, mật độ… để trồng rong hiệu quả nhất.

Hình thức nuôi trồng rong sụn

Dàn căng trên đáy

Hình thức này áp dụng cho việc trồng rong sụn ở các vùng bãi ngang vùng triều, ven các đầm phá, vũng vịnh, ven biển, ven đảo khi nước triều rút thấp nhất, mực nước còn khoảng  0,5 – 1,2 m.

Yêu cầu: Diện tích của một giàn tốt nhất có chiều ngang 20 – 25 m, chiều dài 50 – 100 m, tương đương diện tích 1.000 – 2.500 m2. Các giàn đặt cách nhau theo vị trí (phải, trái, trên, dưới) ít nhất 1 – 2 m, để đảm bảo nước lưu thông cho rong phát triển. Khoảng cách giữa các bụi rong giống ít nhất 20 cm, giữa các dây rong giống là 35 – 40 cm. Các dây rong giống đặt song song hướng gió.

Để hạn chế cá tạp ăn rong có thể dùng lưới (mắt lưới 1 – 1,5 cm) bao quanh giàn. Thường xuyên kiểm tra vệ sinh lưới để nước lưu thông tốt hơn.

Trồng rong sụn trong lồng lưới (mỗi lồng cao 1 m, đường kính 50 cm, cách nhau 1 m và đặt trồng cách bờ 20 – 30 m) có tác dụng ngăn cá vào ăn rong, đồng thời người trồng dễ kiểm tra, vệ sinh lồng lưới hằng ngày.

Trồng rong sụn luân canh trong ao nuôi tôm sú ven biển

Hình thức này áp dụng trong thời gian nghỉ của ao tôm (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau).

Yêu cầu: Chọn ao tôm có thể thay nước theo thủy triều (ít nhất 15 – 20 ngày/tháng), đáy ít bùn. Giàn trồng rong được làm bằng cách đóng cọc căng dây trên đáy hoặc giàn trên đáy có phao. Diện tích giàn thường chiếm 60% tổng diện tích mặt nước ao, đầm. Rong được đặt cách đáy 30 – 40 cm tùy khả năng mức nước lấy vào và giữ trong ao cao hay thấp hoặc dây rong được giữ bằng phao cách mặt nước khoảng 30 cm.

Hằng ngày thay nước trong thời kỳ triều cường. Khi thủy triều xuống thấp, hạn chế thay nước mà chỉ tiến hành giũ dây rong để tránh bị huyền phù bám vào.

Chăm sóc và phòng bệnh

Địch hại lớn nhất của rong là cá. Có thể hạn chế việc cá ăn rong bằng cách: đặt gần mặt nước; mật độ rong trồng không quá thưa; thường xuyên dùng lưới đánh cá quanh giàn trồng; chăm sóc rong thường xuyên trong giàn trồng; trồng với diện rộng và phổ biến.

Bệnh phổ biến nhất ở rong sụn là bệnh trắng nhũn thân. Nếu thấy thân rong, chỗ buộc bụi rong vào dây, chỗ bị cá ăn xuất hiện một số vùng bị mất màu (sắc tố) và trở nên trắng, mềm nhũn, cây rong bị đứt gãy, nghĩa là rong bị bệnh trắng nhũn thân. Bệnh này lây lan nhanh. Cách phòng ngừa hiệu quả là tuân thủ đúng kỹ thuật và mùa vụ trong khi trồng rong. Khi rong bị bệnh cần thu, cắt bỏ phần bị bệnh và buộc giống trở lại.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Các mô hình kỹ thuật trồng Rong Sụn

Rong sụn là loại rong biển có giá trị cao, thường được làm nguyên liệu chế biến Carrageenan dùng trong công nghiệp thực phẩm, y tế và nhiều ngành khác. Carrageenan là mặt hàng xuất khẩu quý, được nhiều thị trường ưa chuộng. Vì vậy, ngoài việc khai thác tự nhiên, rong sụn cần được phát triển trồng ở các thuỷ vực ven biển.

Rong sụn

Rong sụn phù hợp đặc biệt với môi trường ven biển miền Trung và Nam nước ta, chúng có thể trồng được ở các bãi ngang nông, ở các vùng triều cạn, vùng nước sâu ven các đầm phá (lagoon), ven biển và ven các đảo.

1. Mô hình trồng rong sụn ở vùng nước cạn (từ 0,6m đến 1,5m khi thuỷ triều thấp)

– Diện tích của một đơn vị dàn trồng từ 1.000m2 – đến 2.500m2, có chiều ngang khoảng 20 – 25m, chiều dài từ 50 – 100m. Diện tích này vừa tiết kiệm được vật tư vừa thích hợp cho việc chăm sóc cũng như xử lý khi có những hiện tượng nguy hại cho rong (dịch bệnh ).

– Các dàn rong đặt cách nhau (phải, trái, trên, dưới) ít nhất 2 – 5 m, để đảm bảo nước có thể lưu chuyển đều vào các dàn.

– Trọng lượng giống ban đầu bình quân 80g/bụi.

– Khoảng cách buột giữa các bụi rong giống bình quân 20 cm, giữa các dây rong 35 – 40cm.

– Các dây rong đặt song song với hướng sóng gió.

– Trong mô hình dàn căng, trên đáy có phao dây rong nên đặt gần mặt nước (khoảng 20 – 30cm) để tận dụng sự dao động của sóng bề mặt, đồng thời tránh nhiệt độ cao do nền đáy hấp thu nhiệt.

– Ðể hạn chế cá ăn rong có thể dùng lưới (mắt lưới 1 – 1,5cm) bao chung quanh dàn, nên thường xuyên giũ lưới để các chất huyền phù bám làm bịt kín lỗ lưới.

– Thời gian trồng : bình quân 60 ngày.

2. Mô hình trồng rong sụn ở vùng nước sâu (2-3m trở lên)

Các vùng nước sâu (từ 2m nước trở lên) ở trong các đầm phá lớn, ven biển hở và các đảo nhiều sóng gió thích hợp với mô hình này.

Kỹ thuật trồng cũng tương tự như trên nhưng phải làm dàn phao để rong bám vào. Có hai loại dàn phao là diện tích 1.000m2 và 2.500m2. Cách làm dàn phao như sau :

– Dây làm khung chính f = 12mm, dây ngang có phao nhỏ (dây đỡ) f = 3 – 4mm.

– Chiều ngang dàn 20 – 25m, chiều dài của dàn có thể dài ngắn tuỳ vào điều kiện vùng trồng bình quân 50 – 100m, diện tích thích hợp từ 1.000 – 3.000m2/dàn.

– Dùng neo hay cọc gỗ, cọc sắt, đá, bao cát để giữ dàn.

– Giữ dàn cách mặt nước 20 – 30cm (trong mùa mát hoặc trong mùa nóng nơi nước luân chuyển tốt, có gió, sóng), 60 – 80 cm (trong mùa nắng nóng, khi nước luân chuyển không tốt hoặc ít gió sóng).

– Khoảng cách giữa các buột giống bình quân 20cm, khoảng cách giữa các dây giống 25 – 30cm (vào mùa mát), 35 – 40 cm (vào mùa nóng).

– Thời gian trồng đến khi thu hoạch (kể từ ngày ra giống): bình quân 45 – 50 ngày.

Dàn trồng rong luân canh với nuôi tôm sú

3. Mô hình trồng rong sụn luân canh trong ao đầm nuôi tôm sú ven biển

Có thể trồng rong sụn luân canh trong ao đìa nuôi tôm sú ven biển trong thời gian nghỉ nuôi tôm (thường từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau). Một số kỹ thuật cơ bản như sau :

– Chọn các ao có thể thay nước (bằng nước thuỷ triều) ít nhất 15 – 20 ngày/tháng, đáy ao ít bùn.

– Dàn trồng được làm theo kiểu dàn căng trên đáy hoặc dàn trên đáy có phao, diện tích các dàn thực trồng chiếm 60% tổng diện tích mặt nước của ao, đìa.

– Mật độ giống bình quân 5 tấn rong/ha (khoảng cách các bụi rong giống 30cm, khoảng cách các dây rong 40cm).

– Rong đặt cách đáy 30 – 40cm tùy vào khả năng mức nước lấy vào và giữ trong ao cao hay thấp hoặc dây rong được giữ cách mặt nước 30cm bằng hệ thống phao.

– Thay nước hằng ngày trong thời kỳ nước triều cường.

– Có thể trồng 2 vụ (mỗi vụ 2,5 tháng).

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Trồng Rong Sụn chi phí thấp, ít tốn công và lãi cao

Những năm gần đây, cây rong sụn được trồng nhiều tại một số xã thuộc huyện Thuận Nam (Ninh Thuận). Đây là cây trồng cho năng suất cao, dao động từ 40 – 50 tấn tươi/ha, giá bán từ 20.000 – 23.000 đồng/kg loại tươi, bình quân mỗi ha cho lãi từ 40 – 70 triệu đồng.

Rong sụn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Thuận Nam, Ninh Thuận

Ninh Thuận là địa phương có nhiều vùng biển rất phù hợp với nghề nuôi trồng thủy sản, trong đó cây rong sụn là một điển hình. Theo các ngư dân, trồng cây rong sụn chi phí đầu tư thấp, ít tốn công, ít dịch bệnh, phát triển nhanh và hiệu quả kinh tế cao. Ngư dân xem cây rong sụn là cây xóa nghèo và thường trồng trong lòng lưới, lòng bè phao nổi hoặc trong ao nuôi tôm.

Ông Nguyễn Hải – Chủ tịch Hội nông dân xã Phước Diêm, huyện Thuận Nam cho biết, tại địa phương đã phát triển được 32 hộ trồng rong sụn, năng suất bình quân 50 tấn/ha, trừ chi phí lãi gần 50 triệu đồng/ha. Mỗi năm rong sụn trồng 1 vụ, bắt đầu từ tháng 9,10 dương lịch đến khoảng tháng 2,3 sẽ cho thu hoạch. Đầu ra của cây rong sụn rất ổn định.

Người dân đang thu hoạch rong sụn

Cũng theo ông Hải, hàng năm xã đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức các lớp tập huấn, dạy nghề ngắn hạn, phổ biến kỹ thuật trồng rong sụn, quy trình thu hoạch, kỹ thuật sơ chế cho các ngư dân. Ngoài ra còn hỗ trợ cho các ngư dân vay vốn để phát triển mô hình.

Nghề trồng rong sụn đã giải quyết khá tốt công ăn việc làm cho hàng trăm lao động vùng nông thôn.

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Rùa sinh trưởng thương phẩm

Trong giai đoạn sinh trưởng thương phẩm ta có thể nuôi rùa trong chậu nhựa hoặc tận dụng các bể nước có kích thước phù hợp.Đáy bể có thể lót một lượt cát thích hợp giúp rùa mát về mùa hè và ấm về mùa đông.

Rùa nuôi thương phẩm

Nguồn: Nongnghiepvui.com

Rùa nuôi thương phẩm chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1:

Từ lúc mới nở tới 5 tháng tuổi nuôi rùa ra chậu đường kính 60cm , mực nước 2-3cm , mật độ 30-40con/1chậu.Rùa mới nở 3 ngày đầu không cần ăn nhưng vẫn phát triển bình thường vì vẫn còn chất dinh dưỡng trong cơ thể đến ngày thứ 4 bắt đầu cho rùa ăn.

Thức ăn là tôm cá say nhỏ ngày cho ăn 1 lần thức ăn tăng theo độ lớn của rùa.cho rùa ăn xong khoảng 30 phút thay nước vệ sinh sạch sẽ chậu nuôi để rùa con không bị nhớt rêu … Nếu bị bám rêu rùa sẽ chậm phát triển . Trong giai đoạn này rùa con cũng ngủ đông, để rùa nên cát ẩm rồi phủ rơm 7 ngày cho ăn uống một lần xong lại ủ rơm tránh rét ( Chú ý che đậy rùa con cẩn thận vì rùa con hay bị chuột ăn ).

Giai đoan 2:

Từ 5 tháng tới 1 năm tuổi,trọng lượng của rùa đạt 50-200g. chuyển từ chậu sang bể nuôi , kích thước bể nuôI 1-1,5m2 chiều cao từ 50-60cm, lớp cát đáy bể dày 5cm mật độ 100c/1 bể thức ăn tôm cá nhỏ…Ngày cho ăn 1 lần, vệ sinh bể nuôi trước và sau khi cho ăn.

Giai đoạn 3:

Rùa từ 1-3 năm tuổi trọng lượng đạt từ 200g-500g bể nuôi rùa 4-6m2, mực nước 5-10cm, mật độ 15-20 con /m2,thức ăn tôm ,cá, ốc ngày cho ăn 1 lần , khối lượng thức ăn từ 5-7% trọng lượng cơ thể ngày thay nươc 2 lần trước và sau khi ăn.

Khi rùa 3-4 năm tuổi trọng lượng từ 500g-1000g thức ăn và chế độ chăm sóc như trên, mật độ 10-15 con /1m2.Rùa 4-5 năm tuổi trọng lượng 1-1,3kg đủ tiêu chuẩn xuất thương phẩm hoặc làm rùa sinh sản.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Một số kinh nghiệm nuôi Rùa sinh sản

Rùa là động vật quý hiếm, đang có nguy cơ tuyệt chủng, vì thế việc nuôi để bảo tồn và nhân giống rùa là việc làm cần thiết.

Rùa cần được bảo tồn và nhân giống

 

Chủ trang trại Ba Huệ, tên đầy đủ là Nguyễn Văn Huệ hiện ở ấp 1, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, TPHCM, chuyên sản xuất giống rùa cung cấp cho các công viên, khu du lịch, thảo cầm viên, để nuôi làm cảnh.

Anh Nguyễn Văn Huệ kể: Trước đây gia đình chủ yếu làm nông nghiệp ở khu vực thường có nước triều cường, nước bị nhiễm phèn, lúa kém năng suất. Cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, quanh năm túng thiếu. Năm 1997 tôi mạnh dạn xây dựng trang trại, chuyển qua chăn nuôi, thời gian đầu cũng nuôi heo, nuôi gà. Năm 1999 tôi được cử đi tập huấn lớp nuôi và chăm sóc động vật hoang dã tại công viên Đầm Sen TPHCM. Cũng chính năm ấy hạt kiểm lâm nhờ tôi nuôi cho một số rùa thanh lý. Nhận một mớ rùa từ tay kiểm lâm mà lòng cứ lo canh cánh, không biết mình có nuôi nổi không?

Lúc đầu do thiếu kiến thức, chưa có kỹ thuật, chưa biết cho rùa ăn cho nên rùa chậm lớn, đặc biệt rùa không đẻ. Để giải bài toán này anh Huệ đã phải mày mò tìm hiểu thông tin trên sách báo, tham quan trại nuôi ba ba để tìm ra điểm tương đồng, áp dụng về để nuôi rùa của mình. Nhờ chịu khó cần cù, học hỏi kinh nghiệm, áp dụng KHKT vào chăn nuôi, từ 20 con rùa giống ban đầu tới nay đã có cả ngàn con rùa bố mẹ, ấp nở hàng vạn rùa con cung cấp cho thị trường.

Anh Huệ cho hay: Nuôi rùa cũng rất đơn giản, còn dễ hơn cả nuôi ba ba, tỷ lệ con sống cao, ít hao hụt. Trước tiên cần phân biệt rùa đực và rùa cái: rùa đực khấu đuôi to hơn, phần bụng lõm vào; rùa cái khấu đuôi nhỏ hơn, phần bụng phẳng.

Anh chia sẻ một số kinh nghiệm như sau:

Chọn giống bố mẹ

Nên mua giống ở những trại có uy tín, chọn những con to khoẻ, đồng đều, không bị bệnh, không bị dị tật…, tỷ lệ 1 đực, 5 cái.

Thức ăn

Rất phong phú, có thể tận dụng phế phẩm ở các chợ như: rau cải bắp dập nát, khoai lang, bí đỏ, đầu ruột cá, thậm chí tận dụng thức ăn thừa của con nhím…

Chuẩn bị ao

Thiết kế ao 2/3 nước,1/3 cạn, ở giữa trồng cây tạo bóng mát. Làm máng đổ cát vào để cho rùa đẻ, giống ao nuôi ba ba. Ao rộng 200m2 trở lên, tháo cạn nước, phơi đáy ao cho bùn thật khô (đứng không lún), đổ đất cát pha xuống dày khoảng 30-40cm. Xung quanh bờ xây gạch, ở trên rào lưới B40.

Tháo nước vào ngâm 2-3 ngày sau là thả rùa con xuống. Mực nước luôn để ở mức 1- 1,2m.

Chăm sóc

Rùa là loài động vật tiêu tốn thức ăn rất ít, có thể hai ngày cho ăn một lần. Rau lấy ở chợ về vứt xuống rùa ăn hết, nếu cho ăn thêm cá biển cần xay nhỏ.

Phòng trị bệnh

Rùa có sức chống chịu tốt hầu như không có bệnh. Tuy nhiên cần tháo nước ra vào thường xuyên, không nên để nước quá bẩn, rùa dễ bị bệnh ghẻ.

Mùa sinh sản

Rùa thường bắt đầu đẻ trứng từ tháng 2 (âm lịch) tới tháng 7. Tối rùa bò lên các máng cát để đẻ, sáng hôm sau ta nhặt trứng, mang ấp.

Cách ấp trứng

Xây phòng ấp trứng, diện tích tuỳ theo số lượng trứng. Có thể rộng 1,2m, dài 2m, xung quanh xây kín, ở trong đóng kệ để gác những khay cát và thắp bóng điện, nhiệt độ thích hợp để cho rùa nở 32 – 33 độ. Ở đáy tráng xi măng và đổ nước vào, mực nước sâu khoảng 5-10cm để khi rùa nở, rùa xuống nước ngay, không bị chết khô. Thứ tự cho cát vào khay dày khoảng 3cm, xếp trứng vào (phôi trứng hướng lên trên), phủ một lớp cát dày 2cm. Ngày tưới phun sương 1 lần để giữ độ ẩm. Thời gian ấp 60 ngày, rùa cắn vỏ và bò ra ngoài.

Chăm sóc rùa mới nở

Khi rùa mới nở ta cho vào bể kính, ương thêm 2 tháng, thời gian này cho rùa ăn trùn chỉ, hoặc con bo bo, rùa cứng cáp mới đưa ra ao nuôi.

Qua việc nuôi và sản xuất giống rùa, trang trại của anh Nguyễn Văn Huệ đã cung cấp rất nhiều con giống cho thị trường. Ngoài ra anh còn sản xuất, tư vấn kỹ thuật nuôi, tạo công ăn việc làm cho nhiều hộ nông dân nuôi kỳ đà, nhím, ba ba, don, trăn… chỉ tính riêng nhím hiện trang trại có 200 con vừa nhím bố mẹ và nhím con, giá bán nhím con 9 triệu đồng/cặp và nhím bố mẹ giá 20 triệu/cặp (đang có bầu); kỳ đà có 100 con bố mẹ, 50 con kỳ đà con, giá bán thịt khoảng 300.000đ/kg.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Thu hàng trăm triệu nhờ nuôi Rùa giống

Nuôi rùa giống đang mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng cho người dân Cà Mau.

Người dân thu hàng trăm triệu đồng từ nuôi rùa giống

Mô hình nuôi rùa giống của gia đình ông Trần Việt Bắc, ấp Bến Gỗ, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nhiều năm qua được người dân địa phương biết đến, không chỉ bởi tính độc đáo mà vì hiệu quả kinh tế cao. Đây có thể coi là hướng đi mới giúp người dân địa phương vươn lên làm giàu.

Ông Bắc tâm sự, khoảng năm 2012, qua thông tin trên mạng nhận thấy đây là mô hình hiệu quả và biết xuất phát từ tỉnh An Giang nên đã chịu khó học hỏi kinh nghiệm.

Khởi điểm, ông Bắc chỉ nuôi 40 con rùa giống, sau nhiều năm tích lũy kinh nghiệm, đến nay, trại rùa của ông đã nuôi trên 200 con rùa giống với 6 loại khác nhau như: rùa đất lớn, rùa răng, rùa cá sấu, rùa nắp, càng đước (rùa răng)…

Nói về kỹ thuật nuôi, ông Bắc chia sẻ, nuôi rùa nặng nhất chủ yếu ở vốn đầu tư mua con giống còn kỹ thuật chăm sóc thì khá đơn giản.

Thức ăn của rùa phần lớn là rau cải, hoa màu có sẵn của địa phương; trong đó, chủ yếu là rau muống. Chuồng trại xây dựng cần thiết phải đảm bảo được lượng ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm…

Bên cạnh đó, hồ dành cho rùa phải sâu khoảng 60cm; trong khi nuôi cần chú ý đến việc thay nước trong hồ, không để nước quá bẩn.

Sau khi rùa đẻ trứng, người nuôi phải lấy trứng rùa về một tổ khác đã chuẩn bị sẵn trước đó để tiến hành ấp trứng. Theo đó, cần chú ý đến nhiệt độ của tổ ở mức 27 độ C, trung bình sau hơn 4 tháng thì trứng nở. Tổ ấp trứng được làm từ hỗn hợp cát, đất, trấu để cho rùa con sau khi nở có thể chui lên được dễ dàng.

Theo đánh giá của ông Bắc, hiện đầu ra của rùa khá thuận lợi và thường được bán cho các thương lái ở ngoài tỉnh. Mỗi con rùa giống bán với giá từ 500.000 – khoảng 1,2 triệu đồng, tùy theo loại rùa.

Ngoài ra, gia đình ông Bắc kết hợp nuôi nhiều vật nuôi khác…Năm vừa qua, sau khi trừ chi phí, gia đình ông thu nhập không dưới 400 triệu đồng.

Chủ tịch Hội Nông dân xã Hồ Thị Kỷ Trương Văn Mẫn đánh giá, mô hình nuôi rùa giống của gia đình ông Bắc mang lại hiệu quả tích cực.

Đây được xem là hướng đi mới giúp nông dân trong xã có thêm thu nhập, vươn lên khá giả. Ngoài ra, Hội Nông dân có kế hoạch nhân rộng mô hình đến các hội viên khác trong xã.

Nguồn: baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Phòng và trị bệnh cho Rùa

Trong quá trình nuôi phải thực hiện nghiêm ngặt các khâu xây ao, tẩy ao nuôi, chọn giống, cho đẻ, quản lí chăm sóc. Đặc biệt là phòng trị một số bệnh sau:

1. Bệnh sưng cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra.

Triệu chứng:

Cổ sưng to, bụng có các nốt mụn đỏ, mắt trắng đục khi bị nặng chải máu mũi, hai mắt sưng đỏ có khi bị mù.

Cách phòng trị:

– Đảm bảo nước ao nuôi sạch sẽ.

– Trộn thuốc Tetracycline hay Chlorocid hoặc Sulfamid.. vào thức ăn, cho ăn trong 3 ngày liền, lượng thuốc ngày đầu 0,2g/kg thức ăn, các ngày sau giảm đi một nửa.

2. Bệnh thủy mi

Do nấm thủy mi gây ra thường vào mùa xuân, nhiệt độ lạnh (18-20oC).

Triệu chứng:

Trên vùng da bị thương có các bông nấm trắng thường kí sinh ở cổ, chân, mai, bụng. Lúc mới phát bệnh rùa thường kém ăn, lờ đờ. Bệnh nặng lưng mềm và mỏng, hoạt động yếu ớt rồi chết.

Cách phòng trị:

Cho rùa bò lên cạn phơi nắng để diệt nấm, đảm bảo nước ao sạch sẽ. Ngâm rùa trong dung dịch xanh malachit 1,5-2g/m3 nước.

3. Bệnh loét da

Bệnh do nhiễm trùng vết thương gây ra, chất độc do các vi khuẩn tiết ra làm loét da chân, cổ, nách.. khi nặng còn lòi cả xương.

Cách phòng trị:

– Đảm bảo nước ao luôn sạch sẽ.
– Cách li con bệnh với con khỏe.
– Ngâm con bệnh vào dung dịch thuốc kháng sinh 10ppm Sulfamid trong 48 giờ.
– Hạn chế rùa cắn nhau dễ bị thương.

4. Bệnh nấm lông (Bệnh đốm trắng)

Là bệnh truyền nhiễm do nấm gây ra. Bốn chân và viền mép có đốm, lúc đầu xuất hiện ở viền áo sau đó lan rộng thành đóm trắng làm cho da bị thối rữa, rùa kém ăn, hoạt động không bình thường. Nếu bệnh phát sinh ở hầu làm rùa khó thở mà chết.
Bệnh xảy ra thường vào tháng 5- đến tháng 7.

Bệnh nấm lông ở rùa có thể gây ra hoại tử chi

Cách chữa:

Khi có bệnh dùng vôi tẩy ao, đảm bảo nước luôn sạch. Rùa bị bệnh dùng thuốc mỡ xanh methylen hay thuốc mỡ Tetracyline 1% bôi vào chỗ có nấm. Dùng Refamicine cộng với Chlorocide mỡ bôi lên vết loét, bôi trực tiếp vào vết loét khi bóp kén ra.

5. Bệnh lở cổ

Là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn nấm gây ra, cho bị benẹh sinh vật bám như miếng bông. Cổ hoạt động khó khăn, kém ăn, có con không cử động, nếu không chữa, sau vài ngày là chết.

Cách chữa:

– Dùng nước muối 5% tắm cho rùa 1 giờ, hoặc dùng 5 phần vạn xanh methylen tắm trong 15 phút, hoặc dùng các loại thuốc mỡ Penicilin bôi vào chổ bệnh.

6. Bệnh cổ đỏ

Là loại bệnh truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh có thẻ là vi rút, cũng có thể là vi khuẩn đơn bào.

Bệnh hay phát sinh vào mùa mưa phùn. Con bị bệnh bụng có đốm đỏ, hầu và cổ sưng, đầu thò ra nhưng không rụt lại được, hoạt động chậm chạp, kém ăn. Bệnh nặng thì mồm và mũi chảy máu, ruột viêm tấy, toàn thân sưng đỏ, mắt đục trắng, bị mù, không bao lâu thì chết.

Cách chữa:

Khi phát hiện bệnh lập tức cách li con bệnh, dùng vôi tẩy ao và thay nước mới. Dùng các loại kháng sinh Biomyxine, Tetracyline, Penniciliene. Mỗi kilogam trọng lượng tiêm 15 vạn đơn vị (tiêm vào chân). Nếu thấy không giảm thì dùng tiếp một liều nữa hoặc thay kháng sinh khác. Hoặc trộn thuốc vào thức ăn. Mỗi kilôgam rùa cho ăn 0,2g Sulfamid, qua ngày thứ 2 giảm một nửa, cho ăn liên tục 6 ngày.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Rùa Thịt

Bể nuôi rùa giống

Cũng giống như nuôi rùa mới nở, nhưng nước sâu hơn 0,3-0,4m, tường bể có gờ nhô về phía trong để phòng rùa bò đi.

Bể nuôi rùa giống

Ao(bể) nuôi rùa thịt

Có thể xây trong nhà hoặc ngoài trời. Diện tích 3-20m2, hình chữ nật. Ao sâu 0,8-1,5m, từ mép nước đến bờ tường xây gạch có độ dốc 25oC để rùa bò lên nghỉ ngơi, ăn uống… Nếu là bể ngoài trời thì nên có dàn che, diện tích khoảng một nửa diện tích ao. Xung quanh có tường rào để rùa không trốn đi, lúc cần cũng có thể dùng bể để nuôi rùa mới nở, rùa giống.

Bể nuôi rùa thịt

Nuôi rùa giống, rùa thịt

Sau 1 tháng đạt 15-20g chuyển sang ao nuôi giống, mật độ 50 con/m2.

Sau 2 tháng có thể nặng 50g chuyển sang nuôi rùa thịt. Mật độ 30con/m2. Nếu ao nuôi có nước chảy, mật độ có thể 45con/m2.

Mỗi khi san ao phải phân loại rùa riêng để phòng chúng chèn ép, thậm chí ăn thịt lẫn nhau.

Thức ăn chủ yếu của rùa là động vật giàu đạm. Tỷ lệ thức ăn động vật và thực vật là 3:1. Có thể: động vật 80%, thực vật 16-18%, men tiêu hóa, 0,2%, vitamin 0,4%, nguyên tố vi lượng khác 2%. Mỗi ngày cho ăn 1-2 lần, mỗi lần số lượng thức ăn dọn sạch sàn ăn. Có điều chỉnh lượng thức ăn theo thời tiết để tránh lãng phí ảnh hưởng đến chất nước.

Rùa thích sống ỏ vùng nước sạch, nếu không có nước chảy phải thường xuyên thay nước. Ao giống nên đảm bảo nước xanh nhạt, độ trong 30cm. Nước trong nhìn thấy đáy làm cho rùa không an tâm sinh sống. Nước quá béo, màu xanh lục thẫm hay xanh nâu sinh vật phù du quá nhiều làm cho rùa không thấy đường tìm mối sẽ ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát dục, cần phải thay nước và thêm nước mới vào.

Về mùa đông rùa có thể tự đào hang trú đông, đáy ao nên có lớp bùn cát dày 20-30cm.

Miệng cống ao có lưới bịt kín, nếu bể ở trong nhà có thể sưởi ấm bằng cách gia nhiệt. Ao trú đông có thể thả mật độ dày gấp 3-4 lần ao bình thương. Trước khi trú đông cho rùa ăn thức ăn giàu dinh dưỡng để chúng tích lũy mỡ dùng trong mùa đông.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.