Kinh nghiệm nuôi ốc hương thuần túy

Ốc hương (Babylomia qreslata) là loài ốc biển rất quý, có giá trị xuất khẩu cao, phân bố dọc theo ven biển từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Ốc hương sống rải rác ở đáy biển, khi gặp mồi thì hợp thành đàn dày đặc, bu quanh miếng mồi để ăn. Vì vậy, ngư dân dùng bủa rập (một hình thức bẫy) có cài mồi để đánh bắt.

Ốc hương

Ở vùng biển Bình Thuận, ốc hương sống ở độ sâu 5 – 20m, đáy cát bùn hay bùn cát vùng bãi triều, thềm lục địa, cách bờ 2 -3km. Chúng ăn xác bã hữu cơ là chính nên cũng dễ nuôi; thích hợp với độ mặn 27 – 35%0, nhiệt độ nước 21 – 29°C, hàm lượng oxy hoà tan trên 4,5 mg/lít, độ PH 7,5 – 8,5.

Một số kinh nghiệm nuôi ốc hương thuần túy để đạt năng suất cao:

– Ngư dân Thái Lan làm rập 3 tầng, đường kính rộng 25cm, với lưới có mắt 25mm cố định trên khung bằng sắt để trống phía trên. Một giàn rập thường có 100 cái liên kết nhau trên một dây dài, mỗi rập cách nhau 1m. Buộc mồi vào giữa rập, thả chìm xuống đáy ở các bãi có ốc phân bố để nhử bắt.

– Ngư dân Bình Thuận dùng mồi là cá chai muối sau 12 – 24 giờ tạo mùi hấp dẫn cho ốc vào rập ăn.

– Ngư dân ở Thanh Hoá, Nghệ An lại dùng mồi bằng rắn biển để làm mồi cho ốc đem lại năng suất đánh bắt cao.

Tuy nhiên, những hiểu biết về loài ốc hương của chúng ta, nhất là ngư dân còn quá ít, trong khi lại tiến hành khai thác một cách thiếu khoa học nên nguồn lợi đang cạn dần, năng suất và sản lượng khai thác ngày càng giảm.

Ở Bình Thuận, 3- 4 năm về trước, ngư dân khai thác đạt từ 20 đến 100 kg/giàn rập 100 cái (loại 1 tầng), đến nay chỉ đạt 2 – 3kg/giàn rập (còng 100 cái). Nhưng do giá ốc hương rất cao, 40 – 50 ngàn đồng/kg (cả vỏ) nên ngư dân vẫn khai thác quanh năm, bắt hết ốc nhỏ, kể cả ốc đang trong mùa sinh sản của chúng.

Để khắc phục tình trạng trên, trước mắt ngư dân nên dùng mắt lưới làm rập cỡ 30 – 35m để hạn chế bắt ốc nhỏ và không bắt ốc vào mùa chúng sinh sản (tháng 3 – 5 âm lịch). Về lâu dài, Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu sâu để nắm được các đặc điểm sinh học, từ đó cho sinh sản nhân tạo thành con giống và nuôi thương phẩm, nhằm tái tạo nguồn lợi, gia tăng sản lượng khai thác và nuôi để tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngư dân, bảo đảm có nguồn hải sản quý xuất khẩu lâu dài và ngày càng tăng.

Nuôi ốc hương thương phẩm

Tùy từng điều kiện tự nhiên mà chọn loại hình nuôi ốc hương thương phẩm: nuôi đăng hoặc lồng, nuôi ao đất, nuôi bể xi-măng.

Nuôi trong đăng, lồng

Phải chọn vị trí đặt đăng, lồng ở vùng nước trong sạch, đáy cát hoặc san hô, độ mặn 25- 35‰, ổn định. Lồng, đăng được làm chắc chắn, có lưới bảo vệ. Độ sâu đặt lồng, cắm đăng từ 1,5m nước trở lên.

Nuôi ốc hương trong đăng, lồng

Thả giống: Cỡ giống tối thiểu đạt 8.000 – 10.000 con/kg trở lên. Mật độ thả: 500-1.000 con/m2.

Thời gian nuôi: Nuôi từ 5 – 6 tháng tùy theo điều kiện môi trường nuôi và quá trình quản lý chăm sóc.

Chăm sóc: Thức ăn cho ốc hương là cá, cua, ghẹ, don, dắt… đập vỏ, thái nhỏ. Lượng thức ăn mỗi ngày bằng 5 – 10% trọng lượng ốc hương, ngày cho ăn một lần vào chiều tối. Theo dõi lượng thức ăn thừa hằng ngày để điều chỉnh, vớt thức ăn thừa tránh ô nhiễm. Nếu lồng, đăng quá bẩn cần chuyển vị trí, làm vệ sinh lồng sạch sẽ.

Thu hoạch: Khi ốc nuôi đạt 90 – 150 con/kg tiến hành thu hoạch.

Nuôi trong ao

Ao nuôi phải gần biển, nước sạch, đáy cát, ít bùn. Độ mặn 25 – 35‰. Độ sâu ao từ 0,8 – 1,5m nước, độ pH 7,5 – 8,5. Ao tẩy sạch sẽ, diệt trừ dịch hại, dùng lưới ngăn cá dữ, cua ghẹ vào ăn ốc con.

Nuôi ốc hương trong ao

Thả giống: Cỡ giống thả 5.000 – 6.000 con/kg. Mật độ thả: 50 – 100 con/m2.

Thời gian nuôi: Từ 5 – 6 tháng tùy điều kiện chăm sóc và môi trường ao nuôi.

Chăm sóc: Thức ăn gồm cá, trai nước ngọt, don, cua, ghẹ… băm nhỏ. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 5 – 10% trọng lượng ốc nuôi. Cho ăn mỗi ngày một lần vào chiều tối. Thức ăn được thả vào sàn hoặc vó, đặt đều khắp ao.

Theo dõi lượng thức ăn thừa hằng ngày để điều chỉnh. Vớt thức ăn thừa khỏi ao để tránh ô nhiễm. Thay nước ao thường xuyên để ốc lớn nhanh. Cải tạo lại ao cũ trước khi nuôi lại.

Thu hoạch: Khi ốc nuôi đạt kích thước 90 – 150 con/kg có thể thu hoạch. Tháo cạn nước trong ao, nhặt bắt ốc bằng tay, hoặc dùng cào sắt để gom ốc. Ốc thu hoạch xong nhốt trong giai hoặc bể 1 – 2 ngày để làm sạch bùn đất và trắng vỏ.

Nuôi trong bể xi măng

Bể xi-măng có che bớt ánh sáng bằng lưới chắn nắng. Nhiệt độ trong bể nuôi không quá 320C vào mùa hè. Đáy bể phủ cát mịn dày 2 – 3cm. Độ mặn 30 – 35‰, giữ độ mặn không giảm xuống dưới 20‰. Nuôi ở mức nước từ 0,5 – 1,2m.

Thả giống:  Con giống phải có kích cỡ đồng đều, không bị biến dạng, có màu sắc đặc trưng. Khi đem về trại nuôi ốc vẫn còn hoạt động. Ốc không bị bể vỏ mà đặc biệt là phần cuối của vỏ. Cần đến nơi sản xuất để tìm hiểu về con giống, cần chọn trai giống có uy tín, có thương hiệu.

Căn cứ vào số lượng ốc của từng bể, sau đó cân để định số lượng rồi thả vào bể. Khi vận chuyển cơ sở sản xuất chỉ vận chuyển 10kg ốc giống/thùng. Chỉ thả ốc vào bể khi ốc đã hồi phục và thích ứng với điều kiện môi trường. Cần thả đều ở tất cả các vị trí của bể nuôi.

Tùy theo tháng tuổi của ốc hương mà mật độ nuôi khác nhau:
– Tháng thứ nhất: 800 – 1.000 con/m2 ( ốc hương mới sinh sản thành giống).

– Tháng thứ hai: 500 – 800 con/m2.

– Tháng thứ ba: 200 – 300 con/m2.- Tháng thứ tư về sau: 100 – 200 con/m2.

Ốc hương cũng như các loại động vật thuỷ sản khác đều có khả năng thích ứng cũng như chịu đựng các điều kiện môi trường có giới hạn.

Thời gian nuôi: Thời gian nuôi từ 5 – 7 tháng tùy theo điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và tùy thuộc vào giá cả thị trường.

Chăm sócCho ốc hương ăn tôm, cá, thịt nghêu băm nhỏ (đã bỏ xương, vỏ). Thức ăn được băm ra (đối với loại thức ăn có kích thước lớn) và rửa sạch trước khi cho vào bể nuôi để hạn chế ô nhiễm. Thức ăn được rãi đều khắp bể nuôi vì ốc hương giai đoạn nhỏ chỉ vận động được trong một bán kính nhất định.

Mỗi ngày cho ốc hương ăn 2 lần ở 3 tháng đầu và 1 lần ở tháng thứ 4 trở đi, cho ốc ăn vào buổi chiều tối.

Lượng thức ăn tùy theo tháng tuổi:
– Tháng thứ nhất: 15 – 20% trọng lượng ốc nuôi.
–  Tháng thứ hai: 10 – 15% trọng lượng ốc nuôi.
– Tháng thứ ba: 8 – 10% trọng lượng ốc nuôi.
– Tháng thứ tư về sau: 5 – 7% trọng lượng thân ốc nuôi.

So sánh sự sinh trưởng của ốc hương với các loại thức ăn tươi khác nhau.

Thu hoạchKhi ốc đạt kích thước 90 – 150 con/kg có thể thu hoạch bán thương phẩm.

Cách thu:
– Tháo cạn nước trong bể.
–  Dùng tay bắt toàn bộ ốc trong bể.
– Có thể dùng miếng nhựa xúc cả ốc và cát sàng qua cỡ mắt lưới phù hợp vừa có thể chọn ốc đạt tiêu chuẩn vừa sàn, loại lại được những con ốc nhỏ.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật sản xuất ốc hương giống

Một số phương pháp sản xuất giống ốc hương thành công:

1. Lựa chọn ốc hương bố mẹ và nuôi vỗ thành thục

  • Chọn những ốc được khai thác tự nhiên có kích thước hơn 50 mm, khỏe mạnh. Nuôi vỗ trong bể xi-măng có dung tích 15-20 m³, mật độ 10-15 con/m², đáy cát dày 5-10 cm; thức ăn là cá, ghẹ, mực, sò, trai với lượng thức ăn bằng khoảng 5-7% trọng lượng ốc nuôi.

Ương giống ốc hương

  • Nuôi ốc trong bể xi măng với mật độ từ 20-40 con?/m² (tương đương 1,5-2,0kg/m²), duy trì mực nước trong bể từ 0,4-0.5m, sục khí mạnh trong bể nuôi, sử dụng luân phiên các loại thức ăn là tôm, cua, cá,ghẹ, hầu.
  • Định kỳ cho ăn 1 lần/ngày vào buổi tối định kỳ thay nước vệ sinh hằng ngày, lớp cát thì thường 5-6 ngày thay 1 lần, sử dụng một số loại hóa chất để phòng trừ dịch hại.
  • Ốc sau khi mua về nuôi vỗ 7-10 ngày thì tự giao phối và sinh sản.Trước khi đẻ cần giảm lượng thức ăn, thời tiết mát mẻ đẻ tốt hơn, nhiệt độ lớn hơn 310C ốc ngưng đẻ, sức sinh sản phụ thuộc yếu tố nhiệt độ.
  • Ốc hương sinh sản tự nhiên chưa có kỹ thuật sinh sản nhân tạo.
  • Hoạt động đẻ trứng của ốc thường diễn ra vào ban đêm. Để tránh nhiễm khuẩn cho trứng, các bọc trứng ốc hương được đẻ vào ban đêm cần được thu ngay vào sáng sớm hôm sau.

Ốc hương bố mẹ

  • Rửa sạch bọc trứng và ngâm các bọc trứng trong dung dịch thuốc tím 5-10 ppm trong thời gian 1-2 phút, loại bỏ các bọc trứng bị vỡ hoặc có màu trắng đục, rửa sạch bằng nước mặn trước khi ấp.
  • Bọc trứng được xếp trên đáy của khay nhựa với mật độ 1.200-1.500 bọc/4-5 dm² diện tích khay. Trứng thường dễ bị ung nếu ấp ở mật độ quá dày. Các khay nhựa này được đặt trong bể ấp có thể tích 0,5-1 m3.
  • Trong quá trình ấp, sục khí đầy đủ, thay nước và loại bỏ các bọc trứng bị ung hàng ngày.

2. Ương ấu trùng

  • Sau khi thu trứng từ bể nuôi vỗ ốc bố mẹ, ấp trứng trong bể ương vì ấp trong bể ấp thì khả năng bị tác động bởi các yếu tố hóa học và bị ảnh hưởng cao. Trứng sau 4 – 5 ngày thì nở ra ấu trùng Verliger.
  • Mật độ ương 100-120 con/l. Cũng như các loài thuỷ sản khác, khi nuôi ốc hương ở mật độ quá cao ấu trùng dễ bị nhiễm bệnh do khó điều khiển sự cân bằng sinh thái trong môi trường bể ương. Tuy nhiên cũng không nên ương ở mật độ quá thấp sẽ gây lãng phí do không tận dụng hết công suất bể. Cũng có thể nuôi ở mật độ cao hơn ở tuần đầu sau đó san thưa đảm bảo mật độ thích hợp cho ấu trùng ở cuối giai đoạn bơi.

Ấu trùng ốc hương

  • Thay nước hằng ngày 40-60% thể tích bể. Thức ăn tươi là tảo đơn bào, thức ăn hỗn hợp cho tôm sú với mật độ sử dụng tăng dần, cho ăn hai lần/ngày cung ấp thức ăn vừa đủ :liều lượng 0,3-0,4 gam/lần, cho ăn 4 lần/ngày.
  • Nuôi ở độ mặn 34 – 35 ‰, nhiệt độ 25 – 29oC ở 25 oC là tốt nhất , pH = 7,5 – 8,0 và oxy hòa tan 6,2 – 8,5mg/l. Mật độ nuôi thích hợp 120-150 ấu trùng/lít.
  • Tốt nhất trong quá trình ương, mật độ thích hợp tại thời điểm ấu trùng đang xuống đáy là 100-120 ấu trùng/lít.
  • Không nên thay nước nhiều dễ gây chết khoảng ngày thứ 6-7 thay 80% lượng nước, còn sau đó nước hơi trong chỉ thay 50% tuy nhiên việc thay nước hàng ngày làm mất đi một lượng thức ăn trôi nổi trong nước, gây ra những tác động cơ học như ấu trùng bị ép vào thành lưới, có thể gây sốc cho ấu trùng tăng tỷ lệ tử vong, nên tốt nhất chỉ thay nước 2-3 ngày/lần. Bổ sung vitamin vào thức ăn và môi trường nước giúp ấu trùng sử dụng thức ăn tốt hơn và tăng sức đề kháng cho ốc.

3. Ương ốc giống

  • Bể ương cọ rửa, tẩy trùng bằng chlorin nồng độ 100ppm, rửa sạch bể bằng nước biển sạch, để khô. Cách đáy bể 50 cm dán ống nhựa xung quanh để ốc không bò ra, cấp nước thấp hơn ống 4-10 cm.
  • Ðáy bể rải cát mịn dày 2-3 cm, sục khí phân đều khắp bể. sục khí 5-10 giờ trước khi chuyển. Ngay trước khi chuyển cung cấp cát, thức ăn và các loại hóa chất cần thiết cho việc xử lý nước hoặc phòng bệnh nhằm tạo môi trường tương tự giữa bể cũ và bể mới. Dùng vợt chuyển ấu trùng nhẹ nhàng.
  • Mật độ ương tùy theo kích cỡ ốc giống: kích cỡ từ 1.000 – 4.000 con/kg thì mật độ ương 1.000 – 3.000 con/m2; kích cỡ từ 4.000-7.000 con/kg thì mật độ ương 3.000-5.000 con/m2; kích cỡ càng lớn thì mật độ ương càng thấp, chẳng hạn dưới 10.0000 con/kg nên ương với mật độ từ 10.000-15.000 con/m2.
  • Trong tháng đầu, thức ăn cho ốc là thịt tôm, ghẹ băm nhỏ. Lượng thức ăn vừa đủ, không dư, cho ăn 1-2 lần/ngày.
  • Sang tháng thứ 2, cho ốc ăn thịt cá, tôm, ghẹ, nhuyễn thể 2 vỏ cắt nhỏ, sử dụng artemia nuôi ấu trùng giai đoạn mới chuyển xuống đáy là một trong những điểm mấu chốt quan trọng làm tăng tỷ lệ sống của ốc giống.
  • Sục khí rửa cát hoặc thay cát, thay nước hàng ngày, sau 30 ngày sau thay sàn lần đầu tiên sau đó 6-7 sàn tiếp, khi cho vào bể mới thì phải có kháng sinh trước do khi sàn gay sây sát cho ốc.

Chú ý: giai đoạn ấu trùng nổi ốc dễ nhiễm bệnh nhất, ít thay nước, kháng sinh định kỳ Oxytetracylin, Steptomycine, Chloraphenicol. Ốc bị mòn vỏ, gãy đuôi, bạc đuôi, đóng rong và chết rải rác.

  • Sau khi chuyển sang giai đoạn bò khoảng 10 ngày hoặc đạt kích thước 7000-8000 con/kg, ốc bỏ ăn và chết hàng loạt. Trong một số trường hợp ốc ăn thịt lẫn nhau, vào mùa lạnh ốc chui ra khỏi vỏ, bắt mồi bình thường và chết sau thời gian ngắn. Bên cạnh việc quản lý môi trường tốt, sử dụng một số hóa chất như CuSO4 0,1 ppm.
  • Ốc hương giống thu hoạch khi đạt cỡ 10000-15000 con/kg, đăng hoặc lồng trên biển. Rút cạn nước bể ương, dùng miếng nhựa xúc cả ốc và cát sàng qua các cỡ mắt lưới khác nhau để phân loại ốc.

Thu giống ốc hương

  • Ốc giống vận chuyển bằng hai cách: dùng bao ni-lon bơm ô-xy, đóng kín vào thùng xốp, giữ nhiệt độ 24-25oC; đóng khô, giữ nhiệt độ 24-25oC trong suốt quá trình vận chuyển. Mỗi thùng xốp có thể vận chuyển được 10 kg ốc giống.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Quy trình nuôi ghép tu hài, ốc hương và rong câu

Việc nuôi ghép các đối tượng này trong ao đầm nước mặn vừa đa dạng hóa đối tượng nuôi vừa hạn chế rủi ro dịch bệnh và nâng cao thu nhập cho người dân. Quy trình này đang được nhân rộng tại các vùng ven biển miền Trung.

Chuẩn bị ao nuôi

Khu vực nuôi là ao, đầm nguồn nước có độ mặn từ 25‰ trở lên trong suốt thời gian nuôi (8 tháng). Diện tích tối thiểu từ 3.000 m2 trở lên, trong đó, diện tích nuôi tu hài và rong câu ở giữa phải chiếm 30 – 50% tổng diện tích ao nuôi. Ao có bờ bao chắc chắn và cống cấp, thoát nước đảm bảo gần nguồn nước để thuận tiện thay nước. Chất lượng nước có pH 7,5 – 8, đáy cát bùn (cát nhiều hơn bùn, không nhiễm phèn và ít mùn bã hữu cơ).

Tháo cạn nước ao, đầm dọn sạch các loại rong, rêu, san hô, cây cỏ… tu sửa bờ ao, cống, nếu bùn đáy dày thì có thể nạo vét bớt, san bằng đáy, tạo dốc về phía cống thoát.

Dùng vôi nông nghiệp (CaO) rải xuống đáy ao, liều lượng 500 – 700  kg/ha để vệ sinh, sát trùng đáy ao. Nếu đáy ao không bằng phẳng cần rải vôi tập trung ở những vùng trũng, nhiều bùn. Xung quanh bờ ao phải vây lưới cước quanh bờ, sát mép nước (cỡ mắt lưới a = 0,3 cm) để ngăn không cho ốc bò lên bờ.

Khu vực nuôi tu hài và rong câu ở giữa ao được vây chắn lưới xung quanh với diện tích 1.000 – 2.000 m2 (dài 40 – 50 m và rộng 25 – 40 m). Đào rãnh sâu 15 – 20 cm, rộng 20 cm, cắm cọc đỡ lưới (đường kính cọc 5 – 7 cm, cao 1 m, khoảng cách 2 m/cọc), sau đó, đưa lưới xuống rãnh phủ đất và lèn chặt chân.

Cấp nước sạch cho ao vào kỳ triều cường, nước được lọc qua hệ thống đăng lưới chắn để ngăn rác, cá tạp và các loại địch hại khác vào ao. Duy trì mực nước 0,8 – 1,2 m trong ao và lắp quạt khí để đảo nước và tăng cường ôxy hòa tan trong ao khi ốc lớn, mật độ nuôi cao (2 dàn quạt/3.000 m2).

Nuôi ghép Tu hài, Ốc hương và Rong câu cho hiệu quả cao

Thả giống và chăm sóc

Thả giống

Giống ốc hương: được mua về cỡ 15 – 20 mm (4.000 – 6.000 con/kg), vận chuyển bằng bao nilon bơm ôxy, đóng kín vào thùng xốp, giữ nhiệt độ 24 – 250C hoặc đóng khô, giữ nhiệt độ 24 – 250C trong suốt quá trình vận chuyển. Ốc khoẻ mạnh, màu sắc tươi sáng, bò lên nhanh khi cho ăn và vùi toàn bộ xuống cát khi ăn xong. Không có các biểu hiện nhiễm bệnh như trắng vỏ, gãy đỉnh vỏ, sưng vòi…

Giống tu hài: có thể mua từ trại giống sản xuất nhân tạo hoặc giống thu gom từ tự nhiên, giống thường có kích cỡ 1.500 – 3.000 con/kg, giống phải khỏe mạnh không bị sứt sát, màu sắc tươi sáng và vòi không bị sưng. Mật độ thả 7 – 8 con/m2 ghép với trồng rong câu (0,5 kg/m2). Rong và tu hài được trồng và nuôi trong đăng chắn ở giữa ao.

Ốc hương: nuôi làm 2 giai đoạn: Giai đoạn ương (1 tháng đầu), thả 800 – 1.000 con/m2, nuôi trong đăng chắn với diện tích 200 m2. Nuôi lớn: Sau 1 tháng nuôi, ốc đạt cỡ 700 – 900 con/kg, mở lưới đăng và san thưa ốc trong ao (khu vực nuôi ốc) để nuôi lớn, mật độ 30 – 40 con/m2.

Chăm sóc, quản lý

Thức ăn cho ốc hương bao gồm cá tạp, tôm, tép…; cho ăn 1 – 2 lần/ngày, lượng thức ăn chiếm 10% trọng lượng thân và được điều chỉnh hàng ngày theo sức ăn của ốc. Nên sử dụng thức ăn tươi, không cho ốc ăn thức ăn ôi thiu. Có thể căn cứ vào điều kiện môi trường nước ao nuôi cùng với tốc độ sinh trưởng và mật độ ốc thả mà có thể san thưa để đảm bảo ốc sinh trưởng tốt. Cùng đó, có thể kết hợp tháo cạn nước, vệ sinh ao để san thưa sang ao và đăng nuôi khác nếu môi trường đáy ao có nhiều bùn và rong.

Trong quá trình nuôi thường xuyên quan sát hoạt động ăn mồi của ốc, kiểm tra sự dò rỉ nước ao, kịp thời phát hiện địch hại để diệt trừ. Theo dõi lượng thức ăn thừa hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp. Thay nước định kỳ 3 – 5 ngày/lần, mỗi lần 20 – 30% lượng nước ao. Luôn phải giữ cho môi trường ao nuôi trong sạch, tránh ô nhiễm làm ốc bị nhiễm bệnh. Duy trì mực nước trong ao 0,8 – 1,2 m để ổn định nhiệt độ, hạn chế rong đáy phát triển. Ốc hương thường vùi mình trong bùn và sống chủ yếu dưới tầng đáy, do vậy để tránh ô nhiễm đáy cần vớt hết thức ăn thừa. Vận hành quạt khí liên tục từ tháng thứ 2 trở đi nhằm cung cấp ôxy hòa tan và gom tụ chất thải vào giữa ao làm thức ăn cho tu hài. Cùng đó, nguồn dinh dưỡng sinh ra trong quá trình phân hủy mùn bã hữu cơ, bài tiết của ốc sẽ được rong câu hấp thụ, vừa làm trong nước ao vừa hạn chế được tảo và vi khuẩn gây bệnh phát triển. Trong vụ nuôi, cần hạn chế sự biến động lớn của độ mặn (không quá 5‰), để tu hài, rong câu, ốc hương phát triển tốt cần định kỳ thay nước ao đầm (15 – 20‰) vào kỳ con nước có độ mặn cao để cung cấp thêm nguồn thức ăn cho tu hài và làm trong nước, giúp ốc hương và rong câu phát triển tốt.

Ổn định các yếu tố môi trường trong suốt vụ nuôi như nhiệt độ nước: 27 – 300C; độ trong 30 – 35 cm, pH 7,5 – 8,5, độ kiềm 100 – 120 mg/l kiềm, ôxy hòa tan trên 4 mg/l, độ mặn 25 – 30‰; H2S < 0,01 mg/l; NO2 và NO3 < 0,1 mg/l. Cần kiểm tra chất đáy định kỳ (tháng/lần), nếu chất đáy có mùi hôi thối, chuyển sang màu đen thì tiến hành cào đáy, quạt và thay nước. Ngoài ra có thể bổ sung thêm cát sạch dày khoảng 2 cm.

Thu hoạch

Sau 5 – 6 tháng nuôi, khi ốc hương đạt kích cỡ lớn 25 – 30 con/kg con thì thu hoạch bằng cách dùng bẫy, lồng nhử mồi hoặc vợt để thu tỉa những con to, con nhỏ để lại nuôi tiếp. Sau 8 tháng nuôi trở lên có thể thu hoạch tu hài bán nếu đạt kích thước thương phẩm 30 – 40 con/kg.

Rong câu sau 2 tháng nuôi có thể tiến hành thu tỉa (tháng/lần) và luôn đảm bảo mật độ rong 0,5 – 1 kg/m2.

Nguồn : thuysanvietnam, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Một số lưu ý khi nuôi ốc Hương thương phẩm

Những năm gần đây, nghề nuôi ốc Hương đang gặp phải nhiều khó khăn như tình hình dịch bệnh tràn lan, môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm, giá cả thị trường không ổn định. Để hạn chế những tình trạng trên, người nuôi cần chú ý những vấn đề sau:

Đầu tiên:

Khâu cải tạo ao là quan trọng nhất, đặc biệt là cải tạo nền đáy cho sạch sẽ. Vì phần lớn thời gian ốc Hương vùi mình trong cát, chỉ ngoi lên khi được cho ăn, nếu đáy cát không được làm sạch ngay từ đầu thì với lượng lớn thức ăn tươi hàng ngày sử dụng cùng với thời gian nuôi dài từ 5 đến 6 tháng sẽ làm đáy ao ô nhiễm, từ đó các mầm bệnh sẵn có trong ao sẽ bùng phát thành dịch. Rút cạn nước, phơi đáy ao giữa các vụ nuôi kết hợp bón vôi sát trùng ao là việc làm cần thiết, thời gian phơi ao ngắt vụ từ 1 tháng trở lên, kết hợp dọn dẹp sạch rong và ốc tạp từ vụ trước để lại, lượng vôi bón từ 7 đến 10 kg/100 m2. Phủ lên đáy ao lớp cát biển sạch, dày khoảng 5 – 10 cm để ốc vùi mình.

Thứ hai:

Chọn con giống có chất lượng tốt, đã qua kiểm dịch. Ốc có kích cỡ đồng đều, vỏ mỏng màu sáng, có lớp da vỏ phát triển bên ngoài, có các vân màu nâu đậm. Vỏ hoàn chỉnh, không bị mục hoặc bị gãy đỉnh vỏ, hình thành các vòng xoắn. Không có dấu hiệu cho thấy ốc bị sưng vòi. Kích cỡ giống 0,5 cm/con, mật độ thả 50 con/m2 .

Thứ ba:

Thức ăn sử dụng là tôm, cá tạp, phải đảm bảo độ tươi, không có mùi ôi thối, không bị dập nát, được vệ sinh sạch sẽ. Không có hóa chất bảo quản. Không mang mầm bệnh đối với ốc Hương. Lượng thức ăn hàng ngày bằng 5 – 10% khối lượng ốc trong ao. Thức ăn được thả vào các sàn hoặc vó, đặt đều khắp trong ao. Sau khi cho ăn 3 – 4 giờ, vớt toàn bộ thức ăn thừa, xương, đầu cá ra khỏi ao để tránh ô nhiễm.

Thứ tư:

Ao nuôi phải được thiết kế hợp lý, trong ao phải có đăng lưới để ngăn không cho ốc bò đi. Tùy vào hình thức nuôi đơn hay nuôi ghép ốc Hương với các đối tượng khác mà bố trí đăng chắn cho phù hợp. Thời gian đầu ốc còn nhỏ nên chắn lưới khoanh vùng diện tích nhỏ để ương nuôi, vừa dễ dàng chăm sóc, thu gom thức ăn thừa, vừa tiết kiệm lượng cát sạch làm nền đáy ao. Sau khi ốc đạt kích cỡ lớn hơn mới thêm cát sạch và mở rộng đăng chắn.

Cuối cùng, nên nuôi ghép với một số đối tượng khác, vừa tận dụng diện tích mặt nước, tăng thêm thu nhập, vừa để xử lý, cải thiện môi trường nước ao nuôi. Các đối tượng có thể nuôi ghép với ốc hương như rong Câu, Tu hài, Hải sâm, cá Dìa.

Nguồn: Trungtamkhuyennong được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi ốc hương thương phẩm trong đăng, lồng

Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, vị trí của từng vùng mà chọn loại hình nuôi cho thích hợp. Hiện nay có 4 loại hình nuôi ốc hương thương phẩm: nuôi trong đăng, nuôi lồng, nuôi trong ao đất, nuôi trong bể xi măng.

Ốc hương

Dưới đây là một số kỹ thuật cơ bản nuôi ốc hương thương phẩm chia sẻ đến bà con:

1. Điều kiện nuôi

Chọn nơi có vùng nước trong sạch, không bị ô nhiễm để đặt lồng hoặc cắm đăng nuôi ốc. Chú ý các điều kiện:

-Chất đáy: phải là cát hoặc san hô, ít bùn.

-Độ mặn: độ mặn của nước ổn định trong khoảng 25-35‰.

-Nguồn nước: nước phải trong sạch và không bị ảnh hưởng của nước ngọt do tác động của nước sông vào mùa mưa.

-Độ sâu: độ sâu đặt lồng hoặc cắm đăng từ 1,5m nước trở lên.

2. Cấu tạo của đăng, lồng

-Diện tích lồng: tùy theo điều kiện nuôi mà có thể làm lồng có diện tích khác nhau, thông thường là từ 1-4 m².

-Khung lồng làm bằng sắt, có lưới bảo vệ bên ngoài nhằm ngăn không cho cá dữ, cua, ghẹ lọt vào ăn ốc. Lồng nuôi phải được chôn sâu dưới lớp cát đáy khoảng 5cm để có nền cát cho ốc vùi mình.

Lồng nuôi ốc hương

-Đăng làm bằng tre, có bao lưới xung quanh nhằm ngăn không cho cá dữ, cua ghẹ lọt vào ăn ốc. Độ cao lưới cắm đăng phải vượt trên mức nước thủy triều cao nhất là 1m để ốc không bị sóng đánh ra ngoài. Đăng nuôi phải chôn sâu xuống dưới cát ít nhất 10cm để tránh ốc chui ra ngoài.

3. Thả giống

-Chọn giống: ốc giống có kích cỡ tối thiểu từ 8.000 – 10.000 con/kg trở lên.

Ốc hương giống

-Mật độ thả giống khoảng 500 – 1000 con/m².

-Cách thả giống: Trước khi thả ốc hương giống cần phải để ốc giống thích nghi dần với nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước, không được thả ngay để tránh hiện tượng gây sốc nhiệt cho ốc.

4. Nhu cầu thức ăn

– Thức ăn của ốc hương bao gồm cá, cua, ghẹ, trai nước ngọt…

– Cho ăn: mỗi ngày ốc hương ăn một lần vào buổi chiều tối, lượng thức ăn tùy theo tháng tuổi.

+ Tháng thứ nhất: lượng thức ăn chiếm 15-20% trọng lượng ốc nuôi.

+ Tháng thứ hai: lượng thức ăn chiếm 10-15% trọng lượng ốc nuôi.

+ Tháng thứ ba: lượng thức ăn chiếm 8-10% trọng lượng ốc nuôi.

+ Tháng thứ tư về sau: lượng thức ăn chiếm 5-7% trọng lượng thân ốc nuôi.

Chú ý:

+ Đối với cá nhỏ thì có thể để nguyên con thả vào cho ốc ăn.

+ Đối với trai, sò, hầu… thì cần đập vỡ rồi thả vào cho ốc ăn.

+ Đối với cua, ghẹ phải lột mai, đập bể càng trước khi cho ăn.

5. Quản lý và chăm sóc

– Hàng ngày theo dõi lượng thức ăn để điều chỉnh cho phù hợp. Vớt toàn bộ thức ăn thừa, xương, đầu, cá, vỏ sò… ra khỏi lồng để tránh ô nhiễm nước.

– Thường xuyên kiểm tra lưới, phát hiện kịp thời địch hại để diệt trừ, thường xuyên làm vệ sinh lồng lưới, thu lượm rác rưởi mắc trên lưới để nước lưu thông.

– Trường hợp đáy lồng quá bẩn và có mùi hôi thì sẽ làm cho ốc hương không ăn và yếu dần. Gặp trường hợp này cần chuyển lồng sang vị trí mới. Đối với nuôi trong đăng cắm cố định thì cần ngăn thành nhiều ngăn, chuyển ốc hương sang ngăn mới khi đáy ngăn cũ nuôi lâu ngày bị bẩn.

6. Thời gian nuôi

Thời gian nuôi ốc hương khoảng từ 5 – 6 tháng, tùy theo điều kiện môi trường nuôi và quá trình quản lý, chăm sóc.

7. Thu hoạch

– Khi ốc nuôi đạt kích thước khoảng từ 90-150 con/kg thì có thể thu hoạch để bán thương phẩm.

Thu hoạch ốc hương

– Cách thu hoạch: Ốc hương nuôi trong đăng thu hoạch bằng cách đặt bẫy hoặc lặn bắt. Nuôi trong lồng thu hoạch bằng cách nhấc lồng lên rồi nhặt ốc.

– Ốc hương sau khi thu hoạch cần nhốt trong giai hoặc trong bể từ 1-2 ngày để làm sạch bùn đất và làm trắng vỏ trước khi xuất bán.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

 

Hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che

Anh Nguyễn Văn Châu sinh trưởng ở làng biển Sơn Hải là nông dân đầu tiên ở địa phương đầu tư nuôi ốc hương thương phẩm trong hồ xi măng có mái che. Ốc hương được nuôi dưỡng trong môi trường thoáng mát, cách ly dịch bệnh, sinh trưởng tốt. Mô hình này bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cần được nghiên cứu áp dụng trên địa bàn tỉnh.

Trao đổi với người nông dân nuôi ốc hương vào diện “đầu bảng” ở xã Phước Dinh, chúng tôi được biết anh Châu đã có nhiều năm gắn bó với nghề nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Nghề nuôi tôm thương phẩm trong những năm gần đây kém hiệu quả do nguồn nước bị ô nhiễm. Từ năm 2014, anh Châu quyết định chuyển sang nuôi ốc hương trong hồ xi măng có mái che. Cơ sở này do anh sang nhượng lại của một doanh nhân từ TP. Hồ Chí Minh ra Sơn Hải đầu tư nuôi ốc hương bị “thất bại” do chưa nắm vững kỹ thuật nuôi. Trong đó có 4 ha ao nuôi ốc hương lộ thiên và 1 ha xây dựng 110 hồ xi măng nuôi ốc hương thương phẩm. Sau khi sang nhượng, anh Châu thay mái lá dừa nước bằng mái tole và lợp lưới chống nóng; nền hồ lót cát biển dày 6 cm. Đồng thời khoan giếng bơm nước biển lên lắng lọc cung cấp nguồn nước sạch cho hồ nuôi. Đối với ao nuôi lộ thiên, anh đầu tư lợp lưới đen thử nghiệm trên diện tích 2 ha nhằm giảm ánh nắng tác động lên ao nuôi.

Anh Nguyễn Văn Châu nuôi ốc hương đạt hiệu quả kinh tế cao ở thôn Sơn Hải 2, xã Phước Dinh.

Vụ đầu tiên vào giữa năm 2014, anh Châu thả giống nuôi ốc hương mật độ 10 ngàn con/hồ/32 m2. Anh cung cấp thức ăn cho ốc hương bằng nguồn tôm, ghẹ tươi. Sau mỗi lần cho ăn nguồn nước cũ được tháo xả và bơm nước mới vào hồ tạo môi trường nước sạch kết hợp sục khí tăng khả năng trao đổi oxy. Nhờ biện pháp nuôi dưỡng trong môi trường nước sạch, đầy đủ dinh dưỡng, không sử dụng kháng sinh, ốc hương của gia đình anh Châu sống khỏe, nhanh lớn. Sau 5-6 tháng nuôi, anh xuất ốc hương bán nội địa cở 80- 100 con/kg được thương lái thu mua với giá 200- 250 ngàn đồng/kg. Đối với ao nuôi lộ thiên sử dụng lưới che nắng tạo môi trường thuận lợi cho ốc hương sinh trưởng tốt. Nhờ ứng dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật phù hợp chu kỳ sinh trưởng của ốc hương giúp anh Châu có những “mùa vàng” bội thu từ vật nuôi mới trên địa bàn xã Phước Dinh. Trung bình mỗi năm, anh xuất ao 70- 80 tấn ốc hương thương phẩm thu doanh thu vài chục tỉ đồng. Anh nghiên cứu nuôi thành công ốc hương bố mẹ cho sinh sản chủ động nguồn con giống sạch tại trang trại. Anh Châu tạo việc làm thường xuyên cho 30- 40 lao động địa phương có thu nhập trên 5 triệu đồng/tháng. Đối với lao động gắn bó với chủ trại được anh thưởng lương tháng 13 vào dịp cuối năm và ứng trước tiền công cho lao động mượn cải thiện nhà ở.

Khi được hỏi về bí quyết thành công trong nghề nuôi ốc hương thương phẩm có mái che, anh Châu cười hồn hậu, chia sẻ:” Tui thay lá dừa nước bằng mái lole có lưới chống nóng vừa mát về mùa hè vừa ấm về mùa đông kết hợp thay nước sạch thường xuyên và cung cấp đầy đủ thức ăn nên con ốc hương “sống khỏe”. Đối với ao nuôi ngoài trời, tui giăng lưới để ngăn ánh nắng tạo môi trường cho tảo phát triển làm “mái che” cho ốc hương sinh trưởng. Hiện nay, khi cải tạo ao nuôi tui rải mật đường tạo môi trường cho tảo phát triển nên không phải dùng lưới che. Tui sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm nuôi ốc hương cho bà con thôn xóm vươn lên làm giàu chính đáng từ tiềm năng và lợi thế địa phương, góp phần xây dựng nông thôn mới”.

Mô hình nuôi ốc hương trong hồ xi măng có mái che của gia đình anh Nguyễn Văn Châu.

Đồng chí Nguyễn Thái Đạo, Phó Chủ tịch UBBD xã Phước Dinh nhận xét:”Anh Nguyễn Văn Châu là nông dân đầu tiên áp dụng hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che đem lại thu nhập cao, tạo việc làm thường xuyên cho 30- 40 lao động. Ốc hương là loài nuôi mới phù hợp với điều kiện tự nhiên địa phương cho thu nhập cao đang được bà con mở rộng diện tích. Tính riêng năm 2016, nông dân Phước Dinh thả nuôi 52 ha ốc hương, sản lượng ước đạt trên 1.350 tấn. Chính quyền địa phương đề nghị Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiến hành khảo sát hiệu quả mô hình nuôi ốc hương có mái che của gia đình anh Châu để phổ biến nhân rộng trên địa bàn tỉnh. Đồng thời quy hoạch vùng nuôi tâp trung, đánh giá tác động môi trường, hướng dẫn kỹ thuật giúp nông dân phát triển nghề nuôi ốc hương theo hướng an toàn, bền vững”.

Nguồn: NTO được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi ốc hương trong ao đất

Lần đầu tiên ở Việt Nam đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống ốc hương và nuôi thành con thương phẩm. Công trình đã tạo ra qui trình công nghệ sản xuất giống nhân tạo tương đối ổn định và qui trình công nghệ nuôi ốc hương thương phẩm đạt hiệu quả kinh tế.

Công nghệ trên đã đưa ốc hương từ đối tượng hoang dã tự nhiên trở thành đối tượng nuôi thuỷ sản xuất khẩu và mở ra triển vọng phát triển một nghề nuôi mới cho nhân dân các tỉnh ven biển miền Trung.

Ốc hương

Hiện nay, ốc hương đang được nuôi ở các tỉnh miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Bình Thuận và Thừa Thiên Huế. Nuôi ốc hương đã mang lại hiệu quả kinh tế cho các hộ ngư dân, đã tạo được niềm tin vào lợi ích của việc đầu tư nuôi ốc hương và đó chính là cơ sở để phát triển nghề nuôi ốc hương trong nhân dân.

Có 4 loại hình nuôi ốc hương thương phẩm : nuôi đăng, nuôi lồng, nuôi ao đất, nuôi bể xi măng. Tuỳ thuộc điều kiện tự nhiên, vị trí nuôi từng vùng mà chọn loại hình nuôi cho thích hợp.

Dưới đây là một số kiến thức cơ bản cung cấp cho bà con trong quá trình nuôi ốc hương trong ao đất

1. Điều kiện, chuẩn bị ao nuôi

  • Nguồn nước biển nuôi ốc hương cần trong sạch, không bị ảnh hưởng bởi nguồn nước sinh hoạt và nước ngọt vào mùa mưa.
  • Độ mặn của nước biển ổn định từ 25-35‰, pH từ 7,5-8,5, nhiệt độ từ 26-300C.
  • Chất đáy là cát hoặc cát pha san hô, ít bùn. Độ sâu ao từ 0,8-1,5m nước, có lưới chắn xung quanh mép nước để tránh ốc bò ra.

Ao nuôi ốc hương

  • Ao nuôi cần được tẩy dọn thật kỹ, bờ ao được gia cố chắc chắn, không rò rỉ, có hệ thống cấp và thoát nước dễ dàng. Nước lấy vào cần được lọc kỹ nhằm tránh giáp xác, cá dữ và địch hại vào ao.

2. Kích cỡ và thả giống

  • Chọn con giống có kích cỡ đồng đều, khoảng 5.000-6.000 con/kg, không thả giống quá nhỏ tỷ lệ hao hụt sẽ lớn.
  • Mật độ thả 50-100 con/m2, trước khi thả cần để ốc giống thích nghi dần với nhiệt độ nước ao, tránh thả ngay sẽ gây hiện tượng sốc nhiệt.

3. Chăm sóc và quản lý

  • Thức ăn cho ốc là cá, trai, ốc, giáp xác.

Nhu cầu thức ăn cho ốc hương

Nguồn: Internet

Chú ýĐối với cá tạp băm nhỏ cho ốc ăn ở giai đoạn đầu, với những loại có vỏ cần đập vỡ vỏ trước khi cho ăn.

  • Hàng ngày kiểm tra lượng thức ăn để điều chỉnh cho phù hợp, tránh làm ô nhiễm nước.
  • Kiểm tra đáy ao, nếu cát có màu đen, mùi hôi cần chuyển ốc sang ao khác và tiến hành vệ sinh ao rồi tiếp tục nuôi.
  • Thay nước thường xuyên sẽ tạo môi trường sạch sẽ, giúp ốc lớn nhanh, hạn chế bệnh gây ra cho ốc hương.

4. Thu hoạch

Sau thời gian nuôi từ 5-6 tháng có thể tiến hành thu hoạch, kích cỡ thương phẩm từ 90-150 con/kg. Thu hoạch bằng cách tháo cạn nước trong ao sau đó nhặt bắt bằng tay hoặc dùng cào. Ốc có tập tính chui sâu xuống đáy vì vậy cần thu hoạch kỹ, tránh để sót. Sau khi thu hoạch chuyển ốc vào giai hoặc trong bể từ 1-2 ngày cho sạch bùn đất và làm trắng vỏ.

Thu hoạch ốc hương

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho : hiệu quả cao và bền vững

Ốc hương là thực phẩm cao cấp, có giá trị dinh dưỡng, thương mại cao, nghề nuôi ốc hương đã được nhiều người phát triển rộng rãi. Tuy nhiên hiện nay đa số người dân nuôi ốc hương với hình thức nuôi đơn, thả mật độ dày. Vài vụ nuôi đầu cho năng suất cao, càng về sau nguồn nước càng ô nhiễm bởi hóa chất và thức ăn thừa nên dẫn đến dịch bệnh trên ốc, làm năng suất hạ thấp thậm chí mất trắng cả vụ nuôi.

Trước tình hình đó, Trung tâm khuyến ngư quốc gia đưa ra cho bà con mô hình nuôi mới : nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho. Hải sâm cát đã nhân giống thành công và được nuôi phổ biến tại Khánh Hòa. Trong khi đó, rong biển cũng là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhiều người ưa chuộng. Khi nuôi kết hợp 3 loài này mới nhau, hải sâm có tác dụng lọc tầng đáy, ăn thức ăn thừa, vụn hữu cơ của ốc hương, còn rong nho hấp thu các chất hữu cơ lơ lửng trong nước, giúp nước sạch và mát hơn. Sau đó là hải sâm, rong biển sẽ chuyển dạng năng lượng thấp (chất thải) sang năng lượng cao và hữu ích; đồng thời giúp người nuôi tăng thu nhập trên cùng đơn vị diện tích.

Nuôi ghép 3 đối tượng này cho hiểu quả kinh tế cao

Mô hình áp dụng biện pháp kỹ thuật như sau :

Mô hình diện tích ao từ 2.500 – 5.000 m², độ mặn từ 20‰ trở lên, độ sâu mực nước từ 1,2-1,5 m. Đáy ao là đáy cát bằng phẳng dốc về phía cốc tiêu nước, được cắm lưới xung quanh (mắt lưới 2a = 2 mm) đáy cách bờ 5m, để ngăn không cho ốc bò lên bờ ao, có phần lưu không 1-2 m xung quanh ao. Sau 1 tháng nuôi thì lắp các cánh quạt.

Mật độ thả nuôi ốc hương 40 – 50 con/m² (cỡ trung bình 10.000 con/kg). Sau 1 tháng tiến hành thả hải sâm 0,5 con/m² (cỡ trung bình 50 g/con) và rong nho 500 kg/ha. Rong nho được đặt trong lồng, kích cỡ 1 m²/lồng. Mỗi lồng trồng 500 g rong nho giống

Sau thời gian thả nuôi từ 5 – 6 tháng thì tiến hành thu hoạch.  Lúc này ốc hương đạt kích thước 120 – 140 con/kg và hải sâm đạt 250 – 400 g/con. Thu hoạch ốc hương trước bằng máy. Sau khi bắt ốc hương xong, tháo cạn nước và dùng vợt hoặc tay để bắt hải sâm.

Kết quả thực hiện mô hình nuôi kết hợp ốc hương với hải sâm và rong biển năm 2015 tại hai điểm như sau:

– Năng suất rong nho đạt trung bình 17,6 tấn/ha; ốc hương đạt 2,5 tấn/ha; hải sâm đạt 1,3 tấn/ha.

– Lợi nhuận từ mô hình dao động từ 82,6 – 344 triệu đồng/hộ (trung bình đạt 224,7 triệu đồng/0,5 ha/vụ hay 449,4 triệu đồng/ha/vụ).

Khi so sánh với mô hình nuôi đơn cùng diện tích thì lợi nhuận nuôi đơn chỉ đạt 129,5 triệu/0,5 ha. Như vậy so với mô hình nuôi đơn, mô hình nuôi kết hợp lợi nhuận tăng 42,4%. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi kết hợp cao gấp 1,7 lần so với mô hình nuôi đơn. Tỷ suất lợi nhuận đạt trung bình 59,4%/9 tháng (hay 6,6%/tháng), cao gấp 11 lần so với lãi suất ngân hàng.

Mô hình đã và dang được nhân rộng

Dự án tại Khánh Hòa đã góp phần tạo phương thức nuôi hải sản mới, giúp cho người dân chuyển từ hình thức nuôi đơn thiếu bền vững sang nuôi kết hợp cải thiện môi trường, tăng hiệu quả kinh tế và bền vững. Tuy vậy, do đây là mô hình mới nên người dân còn ngại chuyển đổi, nên cần được phổ biến, nhân rộng nhiều hơn nữa.

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi

Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nghề nuôi tôm nước lợ hiện nay, việc thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường là hết sức quan trọng. Việc kiểm tra này giúp người nuôi nhận biết, có đánh giá thực tế về môi trường ao nuôi với các thông số pH, độ kiềm, độ mặn, oxy hòa tan v.v.. từ đó có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Tuy nhiên theo ghi nhận của chúng tôi, ngoại trừ các trại sản xuất con giống là có quan tâm đến vấn đề này, còn lại phần lớn các hộ nuôi tôm chưa biết đến lợi ích của việc kiểm tra này.
Nhằm giúp bà con đo các yếu tố môi trường ao nuôi chính xác, bài viết xin đề cập một số vấn đề cần lưu ý như sau:

Nguyên tắc chung:

Các điểm thu mẫu để đo phải đại diện và phản ánh đúng chất lượng nước trong từng ao nuôi và toàn khu nuôi.
Các điểm thu mẫu trong khu nuôi bao gồm: Nước nguồn, ao lắng, ao nuôi, ao xử lý chất thải, mương thải. Đảm bảo sau khi đo xong, người nuôi sẽ có cái nhìn toàn diện về tình hình môi trường trong cả khu vực nuôi.
Đối với công tác thu mẫu ở từng ao nuôi, có 2 cách đo như sau:
Cách 1: Trong mỗi ao, chọn ra 3 điểm theo đường chéo, đưa máy xuống đo sau đó lấy trung bình

Các vị trí lấy mẫu nước trong 1 ao nuôi

Cách 2: Thu mẫu ở 3 điểm theo đường chéo vào lọ, trộn đều sau đó đưa máy vào đo 1 lần. Cách này có thể sẽ tiết kiệm hóa chất (nếu sử dụng hóa chất để phân tích).

Chọn thông số và xác định chu kỳ theo dõi:

Để đánh giá chất lượng nước người nuôi có thể quan sát bằng các giác quan, trên cơ sở màu sắc, mùi vị kết hợp với đo các thông số chất lượng nước bằng các máy móc, thiết bị.
Các chỉ tiêu môi trường cần theo dõi trong ao nuôi: Nhiệt độ, pH, độ kiềm, oxy hòa tan, độ mặn, độ trong, màu nước, NH3, H2S. Đây là các chỉ tiêu có liên quan chặt chẽ đến sức khỏe của tôm, nếu các chỉ số môi trường đều ở trong ngưỡng cho phép tôm sẽ bắt mồi mạnh, mau lớn, tỷ lệ sống cao, ít bị bệnh tật.

Các thông số như nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ trong, độ sâu, màu nước: theo dõi và đo 2 lần/ngày vào lúc 5-6 giờ sáng và 2-3 giờ chiều. Các thông số khác như NH3, H2S, độ kiềm, độ mặn: định kỳ đo 2 lần/tháng, đồng thời kiểm tra đột xuất khi tôm có dấu hiệu bất thường, giá trị pH trong ngày biến động mạnh.

Quy chuẩn quốc gia về thông số môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ (QCVN 02 – 19 :2014/BNNPTNT)

Phương pháp đo một số chỉ tiêu môi trường:

Nhiệt độ
Dụng cụ phổ biến nhất để đo nhiệt độ trong ao nuôi là nhiệt kế thủy ngân, bên cạnh đó một vài máy đo oxy hòa tan cũng có tích hợp chức năng đo nhiệt độ.
Đối với nhiệt kế thủy ngân: Nhúng ngập nhiệt kế xuống nước, để khoảng 3 phút, sau đó nghiêng nhiệt kế và đọc kết quả. Chú ý không nên rút nhiệt kế lên khỏi mặt nước trong quá trình đọc kết quả vì như vậy sẽ không chính xác.
Đối với máy đo: Đầu tiên cần phải khởi động máy và hiệu chỉnh theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sau đó nhúng điện cực xuống vị trí cần đo, lắc hoặc rê đầu điện cực trong nước cho tới khi các số trên màn hình ổn định (không nhảy) thì dừng lại. Đọc kết quả và ghi vào sổ nhật ký, sau đó rửa đầu đo bằng nước sạch, đậy nắp.
pH
Để đo pH ao nuôi có thể sử dụng máy đo pH hoặc bộ test kit pH.
Cách sử dụng test pH và máy đo pH theo hướng dẫn nhà sản xuất. Thao tác sử dụng máy đo pH tương tự thao tác đã hướng dẫn ở phần đo nhiệt độ.
Yếu tố pH trong ao nuôi phụ thuộc vào thổ nhưỡng của đất, lượng vôi bón, mật độ tảo và chế độ thay nước.
Độ mặn
Người nuôi có thể sử dụng khúc xạ kế để đo độ mặn trong ao nuôi. Khi dùng khúc xạ kế, đầu tiên cần phải kiểm tra máy bằng nước cất, hiệu chỉnh độ mặn về 0. Lấy 1 giọt nước nhỏ lên đầu đọc, đậy nắp sao cho giọt nước lan đều khắp mặt kính. Đưa máy về phía có nguồn sáng, đọc kết quả và ghi vào sổ nhật ký, sau đó lau đầu đọc bằng khăn sạch, đậy nắp.
Oxy hòa tan
Để đo oxy hòa tan trong ao nuôi bà con có thể dùng máy đo oxy hoặc bộ test kid oxy. Muốn quản lý tốt oxy hòa tan cần phải duy trì được màu nước tốt và sử dụng linh hoạt máy sục khí. Cần tăng cường quạt nước vào ban đêm, khi trời âm u hoặc khi nhiệt độ nước ao nuôi tăng cao.
Độ trong
Thiết bị đo độ trong thường sử dụng là đĩa secchi.

Thả đĩa theo phương thẳng đứng, hạ từ từ xuống nước cho tới khi không phân biệt được 2 màu đen/trắng trên mặt đĩa. Đọc kết quả trên dây hoặc thước, đó chính là độ trong của nước ao (đơn vị là cm).
NH3, H2S
NH3 và H2S là các khí độc, tác động đến hô hấp của tôm, nếu xuất hiện dài ngày sẽ làm giảm sinh trưởng, tôm còi cọc chậm lớn, nồng độ cao sẽ gây chết tôm. NH3 sẽ độc hơn khi pH cao, còn khi pH thấp thì H2S sẽ độc hơn. Trên thị trường có bán các bộ test kit để đo nồng độ NH3, H2S trong ao nuôi, với ưu điểm nhỏ gọn, giá thành rẻ bà con có thể mua về sử dụng.
Để phòng ngừa tác hại của NH3 và H2S: cần phải có nguồn nước cấp sạch và chủ động, có hệ thống máy quạt nước đầy đủ. Trong quá trình nuôi cần tăng cường sử dụng zeolite và các chế phẩm vi sinh xử lý môi trường.
Độ kiềm
Độ kiềm có vai trò quan trọng trong việc tạo vỏ, lột xác của tôm. Độ kiềm liên hệ mật thiết tới sự biến động của giá trị pH và sự ổn định màu nước (tảo). Trong khoảng độ kiềm thích hợp pH rất ít khi dao động. Nuôi tôm ở độ mặn thấp, độ kiềm thường xuyên thay đổi. Cần hết sức chú ý bón vôi định kỳ để tăng độ kiềm của ao. Dụng cụ thường dùng để đo độ kiềm trong ao nuôi là các bộ test kit có bán trên thị trường.

Ngoài cách đo thông thường, có thể sử dụng thiết bị công nghệ cao, tích hợp nhiều chức năng để nhiều thông số môi trường cùng một lúc. Điển hình như các sản phẩm của công ty Farmtech Vietnam :

Hệ thống mạng cảm biến môi trường không dây (Environment Wireless Sensor Network).

Ứng dụng rộng rãi trong việc giám sát môi trường theo thời gian thực hiện tại đã có thể giám sát 54 chỉ tiêu về không khí và nước (Bao gồm việc đo các Ion trong nước), các chỉ số khác. Hệ thống sử dụng các công nghệ kết nối mạng để có thể tổng hợp số liệu từ nhiều điểm tổng hợp số liệu môi trường tốt nhất trước khi gửi kết quả cho người sử dụng.
Tại thời điểm hiện tại hệ thống ứng dụng công nghệ mạng không dây mới nhất, tiết kiệm điện năng và sử dụng các công nghệ cảm biến nhạy nhất xuất xứ từ Châu Âu.

Hệ thống mạng cảm biến môi trường không dây (Environment Sensor Network) là hệ thống gồm những thiết bị thu thập dữ liệu có thế kế nhỏ, cơ động, sử dụng điện năm thấp và các công nghệ không dây như : Bluetooth, Wifi, 802.15.4, Zig bee, Lora để kết nối truyền, tổng hợp dữ liệu, tính toán dữ liệu tại chỗ trước khi truyền về hệ thống trung tâm.

Trọn bộ AE Sensor, giúp quản lý môi trường ao nuôi toàn diện

Phao giám sát môi trường (Floating Wireless Environment System)

Phao giám sát môi trường ao nuôi cho phép giám sát các thông số môi trường trong ao nuôi như oxy trong nước, nhiệt độ. Pin năng lượng mặt trời giúp phao có thể tự hành mà không cần nguồn điện, bình dự phòng đủ thời gian cho phao hoạt động 3 ngày trong điều kiện không có ánh sáng mặt trời. Thiết bị có khả năng truyền dữ liệu về bộ thu thập dữ liệu với khoảng cách tối đa 15 km.

Hệ thống phao giám sát môi trường

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Hiệu quả mô hình nuôi hàu bám đơn

Từ năm 2003 – 2004, TS Lê Minh Viễn – Giám đốc công ty Nuôi trồng thủy sản và thương mại Viễn Thành – đã nghiên cứu thành công đề tài “sản xuất Hàu giống bám đơn bằng sinh sản nhân tạo và nuôi hàu thương phẩm” . Đề tài đã được Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM nghiệm thu trong năm 2004. Đây là công nghệ tiên tiến được một vài quốc gia trên thế giới ứng dụng thành công chỉ trong vài thập niên gần đây. Điểm mấu chốt của phương pháp này là dựa vào đặc tính sinh học sinh sản độc đáo của loài Hàu khi biến thái từ cuộc sống ấu trùng bơi lội sang hạ đáy bám giá thể, loài Hàu chỉ bám một lần và sống tại giá thể đó đến suốt đời (tức là không thay đổi giá thể). Lợi dụng đặc tính này, thay vì cho bám lên các vật bám có kích thước lớn như ngoài môi trường tự nhiên, tác giả đã cho ấu trùng bám lên các loại hạt chuyên dùng được chế tạo đặc biệt có kích thước từ 300 – 600 micron, tạo ra những con Hàu giống bám rời, khác với tập quán Hàu bám chùm ngoài thiên nhiên thường gặp, nhằm chủ động đáp ứng nguồn giống phục vụ nghề nuôi hàu khu vực phía nam.

Hàu bám đơn

Phương pháp này cho ra những con hàu có thân hình gọn, đẹp, dễ coi, sâu lòng, đồng kích cỡ, vỏ mỏng, tỷ lệ thịt/ vỏ cao (25%) và mức hao hụt khi khai thác Hàu thương phẩm thấp (3 -5%). Hàu bám đơn ra đời nhằm giải quyết những yêu cầu thực tế sau:

  • Đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng: Hàu chủ yếu được sử dụng dưới dạng ăn uống cùng với Wasabi hoặc đút lò chín tái nửa mảnh vỏ nên cần dạng Hàu có tên gọi làHàu sữa, tức khi con Hàu được nuôi khoảng 12 tháng tuổi, tuyến sinh dục căng phồng có màu trắng sữa, chuẩn bị đẻ, thịt hàu lúc bấy giờ có vị béo, mùi thơm, thịt nhiều, màu sắc đẹp, kích thước vừa phải, đồng cỡ, hình dạng bên ngoài gọn, đẹp, hấp dẫn và bắt mắt khi bày lên bàn tiệc. Do đó, để có nguồn Hàu sữa sử dụng quanh năng nhằm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng chỉ có thể bằng cách người nuôi Hàu chủ động được nguồn giống nuôi gối đầu qua từng tháng theo tiến độ mỗi tháng xuống giống một lần.
  • Yêu cầu về vệ sinh thực phẩm:  Ở các nước tiên tiến, đối với những loại thực phẩm có liên quan đến việc sử dụng dạng sống hoặc tái chín, bắt buộc nhà sản xuất phải đưa toàn bộ sản phẩm qua hệ thống xử lý sạch, có quy trình khử trùng nghiêm ngặt trước khi xuất bán cho người tiêu dùng. Song theo tập quán nuôi Hàu ở nước ta cho đến nay, chưa có nơi nào thực hiện công đoạn này trước khi đưa Hàu ra thị trường. Hơn nữa, đại bộ phận giá thể dùng cho ấu trùng Hàu thiên nhiên bám hiện nay đều được người dân tận dụng từ những  tấm lợp Fibro phế thải – một vật liệu đáng lẽ không được dùng do có thành phần Amiant độc hại, nguy cơ gây bệnh ung thư cao, đã cấm sử dụng trên thế giới  – nên khi tách Hàu thương phẩm thường còn dính theo các mảnh vỡ Fibro hoặc vỏ nhuyễn thể gây trở ngại cho quá trình vệ sinh xử lý sạch qua khe.
  • Tiết kiệm chi phí vận chuyển: Nhờ vỏ mỏng nên việc vận chuyển hàu đơn ít tốn kém hơn, tiết kiệm được từ 15 – 20% chi phí so với hàu bám chùm. Lợi ích này càng rõ nét khi thực hiện vận chuyển bằng đường hàng không.
  • Giảm tỷ lệ hao hụt trong khai thác chỉ còn từ 3 – 5%: Hàu đơn thương phẩm khắc phục được tình trạng ghè tách trong khai thác, theo số liệu thống kê đối với Hàu bám, tỷ lệ hao hụt qua ghè tách vào khoảng 40 – 50%.

Hàu bám đơn

Hiện nay, công ty TNHH NTTS và TM Viễn Thành đang xây dựng một trung tâm sản xuất giống theo ông nghệ sinh sản nhân tạo với đầy đủ trang thiết bị trên một khuôn viên rộng 2,3 h tại vùng nước Long Sơn thuộc tỉnh bà Rịa – Vũng Tàu. Giá bán con giống dao động từ 150 – 450 đồng/ con tùy thuộc kích cỡ con giống. Công ty cũng dự kiến triển khai cung cấp con giống và thu mua lại với giá từ 1.000 – 1.200 đồng/ con tương phẩm. Hy vọng trong tương lai, nơi đây có thể là địa điểm tin cậy để cung cấp giống Hàu nuôi đơn chất lượng cao phục vụ cho khu vực phía nam.

Nguồn : Sở nông nghiệp TPHCM, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam