Kỹ thuật nuôi ốc hương trong ao đất

Lần đầu tiên ở Việt Nam đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống ốc hương và nuôi thành con thương phẩm. Công trình đã tạo ra qui trình công nghệ sản xuất giống nhân tạo tương đối ổn định và qui trình công nghệ nuôi ốc hương thương phẩm đạt hiệu quả kinh tế.

Công nghệ trên đã đưa ốc hương từ đối tượng hoang dã tự nhiên trở thành đối tượng nuôi thuỷ sản xuất khẩu và mở ra triển vọng phát triển một nghề nuôi mới cho nhân dân các tỉnh ven biển miền Trung.

Ốc hương

Hiện nay, ốc hương đang được nuôi ở các tỉnh miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Bình Thuận và Thừa Thiên Huế. Nuôi ốc hương đã mang lại hiệu quả kinh tế cho các hộ ngư dân, đã tạo được niềm tin vào lợi ích của việc đầu tư nuôi ốc hương và đó chính là cơ sở để phát triển nghề nuôi ốc hương trong nhân dân.

Có 4 loại hình nuôi ốc hương thương phẩm : nuôi đăng, nuôi lồng, nuôi ao đất, nuôi bể xi măng. Tuỳ thuộc điều kiện tự nhiên, vị trí nuôi từng vùng mà chọn loại hình nuôi cho thích hợp.

Dưới đây là một số kiến thức cơ bản cung cấp cho bà con trong quá trình nuôi ốc hương trong ao đất

1. Điều kiện, chuẩn bị ao nuôi

  • Nguồn nước biển nuôi ốc hương cần trong sạch, không bị ảnh hưởng bởi nguồn nước sinh hoạt và nước ngọt vào mùa mưa.
  • Độ mặn của nước biển ổn định từ 25-35‰, pH từ 7,5-8,5, nhiệt độ từ 26-300C.
  • Chất đáy là cát hoặc cát pha san hô, ít bùn. Độ sâu ao từ 0,8-1,5m nước, có lưới chắn xung quanh mép nước để tránh ốc bò ra.

Ao nuôi ốc hương

  • Ao nuôi cần được tẩy dọn thật kỹ, bờ ao được gia cố chắc chắn, không rò rỉ, có hệ thống cấp và thoát nước dễ dàng. Nước lấy vào cần được lọc kỹ nhằm tránh giáp xác, cá dữ và địch hại vào ao.

2. Kích cỡ và thả giống

  • Chọn con giống có kích cỡ đồng đều, khoảng 5.000-6.000 con/kg, không thả giống quá nhỏ tỷ lệ hao hụt sẽ lớn.
  • Mật độ thả 50-100 con/m2, trước khi thả cần để ốc giống thích nghi dần với nhiệt độ nước ao, tránh thả ngay sẽ gây hiện tượng sốc nhiệt.

3. Chăm sóc và quản lý

  • Thức ăn cho ốc là cá, trai, ốc, giáp xác.

Nhu cầu thức ăn cho ốc hương

Nguồn: Internet

Chú ýĐối với cá tạp băm nhỏ cho ốc ăn ở giai đoạn đầu, với những loại có vỏ cần đập vỡ vỏ trước khi cho ăn.

  • Hàng ngày kiểm tra lượng thức ăn để điều chỉnh cho phù hợp, tránh làm ô nhiễm nước.
  • Kiểm tra đáy ao, nếu cát có màu đen, mùi hôi cần chuyển ốc sang ao khác và tiến hành vệ sinh ao rồi tiếp tục nuôi.
  • Thay nước thường xuyên sẽ tạo môi trường sạch sẽ, giúp ốc lớn nhanh, hạn chế bệnh gây ra cho ốc hương.

4. Thu hoạch

Sau thời gian nuôi từ 5-6 tháng có thể tiến hành thu hoạch, kích cỡ thương phẩm từ 90-150 con/kg. Thu hoạch bằng cách tháo cạn nước trong ao sau đó nhặt bắt bằng tay hoặc dùng cào. Ốc có tập tính chui sâu xuống đáy vì vậy cần thu hoạch kỹ, tránh để sót. Sau khi thu hoạch chuyển ốc vào giai hoặc trong bể từ 1-2 ngày cho sạch bùn đất và làm trắng vỏ.

Thu hoạch ốc hương

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Rong nho Khánh Hòa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật Bản

Nhờ nuôi trồng trong môi trường sạch, an toàn, rong nho Khánh Hòa cho năng suất cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Rong nho có màu xanh tươi với những quả nhỏ tròn căng bóng mịn kết lại thành chùm dài, vị mặn kết hợp vị chua thanh nhẹ mà giòn mát. Theo phân tích của Viện hóa hữu cơ và Viện sinh biển Viễn Đông năm 2006, rong nho có chứa nhiều dưỡng chất, vitamin (A, C) và có khả năng giúp phòng chống xương khớp, cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường… Hương vị cùng giá trị dinh dưỡng giúp rong nho được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.

Loại rong này thích hợp với môi trường sống ở vùng biển ấm và có độ mặn cao như vùng biển Thái Bình Dương, đặc biệt phân bố nhiều ở Philippines. Tại Nhật Bản, rong nho được nuôi trồng tại vùng biển Okinawa theo phương pháp trồng tiếp đáy, treo lơ lửng trong nước biển hoặc các bể, hồ xi măng chứa nước biển. Tuy nhiên, các phương pháp này cho năng suất rong nho thấp, chỉ khoảng 10 tấn một ha mỗi năm và chiều dài cọng rong chỉ đạt 6-7cm.

Tại Việt Nam, năm 2004, từ 200gram rong nho giống mang về Nhật, anh Lê Bền ở xã Ninh Hải, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa – Phó giám đốc Công ty TNHH Trí Tín đã tiến hành nuôi trồng rong thử nghiệm trong các đìa tôm sú bỏ hoang. Qua thời gian nghiên cứu, rút kinh nghiệm, năm 2007, anh Bền đã tìm ra cách nuôi mới cải tiến từ phương pháp của người Nhật. Cách làm này không chỉ cho năng suất cao hơn mà chất lượng tốt nên sản phẩm xuất khẩu trở lại Nhật Bản.

Cụ thể, anh Bền nuôi rong trong những khay nhựa, đáy có lót ni lông để chứa mùn cát và chất dinh dưỡng, rồi chúng được đặt trên kệ hoặc sạp đóng bằng tre, gỗ, gạch, đá nằm chìm dưới đáy ao nuôi.

Nước trồng rong nho phải được xử lý và lọc sạch để loại bỏ các kim loại nặng, vi sinh vật có hại, vi khuẩn gây bệnh… Bên trên ao nuôi sử dụng lưới tạo mái che nhằm chủ động điều tiết ánh sáng và nhiệt độ của nước biển.

Phương pháp này giúp rong nho có thể hấp thu chất dinh dưỡng một cách tốt nhất, ít lẫn có tạp chất và năng suất thu hoạch đạt tới 20 tấn một ha mỗi năm và chiều dài có thể đạt 9-10cm. Đồng thời, thời gian thu hoạch rong ngắn chỉ trong vòng 15-20 ngày một vụ.

Theo anh Bền, để rong nho đủ tiêu chuẩn đi Nhật, không chỉ khâu nuôi trồng, quy trình chế biến rong nho cũng phải đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm HACCP với 4 công đoạn công phu. Ngay sau khi thu hoạch, rong được làm sạch cơ học trong các bể nước biển đã qua lọc và khử trùng bằng Ozone. Công đoạn này giúp rong sạch tạp chất và loại bỏ được hết các sinh vật lạ bám dính trên cọng rong, đồng thời, rong được phân loại luôn theo độ dài.

Tiếp theo, rong nho sẽ được nuôi lại trong các bể nhựa ở điều kiện lý tưởng. Trong giai đoạn này, rong vẫn sống, hấp thụ thêm các dưỡng chất, các nguyên tố đa lượng, vi lượng đồng thời giải phóng các kim loại nặng độc hại nếu có. Theo anh Bền, đây cũng là giai đoạn để các vết cắt tự “làm lành”, nhờ đó quá trình bảo quản sản phẩm đảm bảo hơn. Sau đó, rong được đưa vào làm ráo nước bằng máy ly tâm và đóng gói sản phẩm cung cấp ra thị trường.

Phương pháp trồng cải tiến này được áp dụng rộng rãi và diện tích trồng rong nho tiếp tục mở rộng hơn 300 ha tại các huyện Cam Lâm, Cam Ranh và Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu sang Nhật Bản.

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng rong nho biển trong ao

Rong nho biển (tên khoa học Caulerpa lentillifera), thuộc ngành tảo lục (Chlophyta). Do rong nho có hình dạng hạt giống quả nho nên gọi là rong nho. Từ lâu, rong nho được sử dụng như là một loại thực phẩm tươi sống (salad) ở các nước Nhật Bản, Philippines…

Rong nho biển – Món quà ý nghĩa từ thiên nhiên

Ở Việt Nam, từ năm 2004, phòng Thực vật biển – Viện Hải Dương học đã có những nghiên cứu đầu tiên về các đặc tính sinh học và kỹ thuật trồng rong nho biển trong điều kiện thí nghiệm với đề tài “Nghiên cứu các đặc trưng sinh lý, sinh thái của loài rong nho biển Caulerpa lentillifera (J.Agardh, 1873) có nguồn gốc nhập nội từ Nhật Bản làm cơ sở kỹ thuật cho nuôi trồng”. Tiếp theo đó viện Hải Dương học cũng đã thực hiện đề tài “Trồng rong nho biển Caulerpa lentillifera (J.Agardh, 1873) làm thực phẩm”. Kết quả của đề tài đã cho thấy rong nho biển có thể sống quanh năm ở nhiều vùng biển Việt Nam trong các điều kiện nuôi trồng trong bể xi măng hoặc composite, trong ao, đìa, vùng triều, ven triều nơi có độ mặn cao và ổn định.

Dưới đây là một số kinh nghiệm về kỹ thuật trồng rong nho để bà con biết và tham khảo:

1. Lựa chọn địa điểm trồng rong nho

Nơi trồng rong nho phải có nguồn nước không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và tránh xa nguồn nước ngọt từ các sông suối đổ vào, thuận tiện trong việc cấp thoát nước. Chất đáy cát bùn là tốt nhất. Nhiệt độ môi trường nước ổn định, pH 7,9 – 8,5; độ mặn 30-33‰.

2. Lựa chọn rong nho

Chọn rong nho giống có màu xanh sáng bóng, mềm và mọng nước, nhánh thân đứng dài trên 5cm, các quả trên thân đứng mọc dầy, sắp xếp đều đặn và không lẫn tạp chất và các sinh vật sống bám trên rong.

Rong nho giống

3. Chuẩn bị ao, vật tư và tiến hành trồng rong nho

Với ao mới đào cần cải tạo kỹ. Cho nước vào ao ngâm 2-3 ngày sau đó tháo rửa xả hết nước ao từ 2-3 lần. Rải vôi khắp đáy ao và bờ để khử chua, vôi sử dụng là CaO, lượng vôi trung bình từ 300 – 1.000kg/ha tùy thuộc pH đất. Sau khi rải vôi, kiểm tra pH đất. Phơi đáy ao 7-10 ngày rồi lấy nước vào ao chuẩn bị thả giống nho.

Với ao cũ đã trồng rong; sau khi thu hoạch, tháo kiệt nước, nạo vét lớp bùn đáy, dọn sạch cỏ rác và các sinh vật đáy nếu có.

Chuẩn bị ao trồng rong nho

Đóng cọc tre xung quanh vùng nuôi trong ao, giăng dây nilon, che lưới lan đen để hạn chế bớt ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp xuống cây rong.

Chuẩn bị khung trồng rong: Dùng ống nhựa (ống nước) ф 27mm, 4 góc kết nối bằng co nhựa loại 3 góc, thanh giữa kết nối bằng chữ T để chịu lực khi di chuyển. Dùng lưới nhựa đen lỗ lớn hình lục giác che phần trên khung, để rong phát triển trái; phần dưới khung che bằng lưới xanh, mắt lưới khoảng 0,8 cm, để rong phát triển rễ bám xuống mặt đất.

Rong giống được xếp nhẹ nhàng vào khung nhựa phần gốc được đặt phía lưới xanh, phần ngọn lên trên lưới đen. Mật độ rong 4kg/khung.

Sau khi cấy rong nho vào khung, các khung rong nho được chuyển xuống ao và được xếp thành hàng cách nhau 1m.

4. Chăm sóc rong nho

Hàng ngày tiến hành chăm sóc ao trồng rong, dọn sạch rác, vệ sinh ao, thường xuyên kiểm tra các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, độ mặn pH, cường độ ánh sáng để có biện pháp xử lý, đặc biệt trong lúc trời mưa nhiều, nắng gắt.

Định kỳ thay nước mới vào ao khoảng 2 – 3 ngày một lần, nếu thấy rong kém phát triển vì thiếu dinh dưỡng thì có thể bón thêm phân vô cơ hoặc hữu cơ làm từ bột cá.

5. Phòng ngừa dịch hại

Rong nho có thể bị gây hại bởi các đối tượng:

Động vật ăn rong nho biển: Nhiều loài cá rất thích ăn rong nho biển như cá đối, cá dìa, thỏ biển… Cần có lưới chặn ở cống cấp nước để phòng tránh, nếu thấy chúng xuất hiện trong ao phải vớt bỏ.

Động vật sống bám: Một số động vật thường theo nguồn nước vào ao và sống bám trên rong nho như hải quỳ, trùng vôi nên phải thường xuyên ngắt bỏ những đoạn rong nho có hải quỳ hoặc trùng vôi bám.

Rong phụ sinh: Rong nho biển có kích thước khá lớn nên là giá thể tốt cho nhiều loại rong phụ sinh sống bám lên trên. Cần chăm sóc tốt để rong nho phát triển mạnh khỏe và thường xuyên thay nước sẽ hạn chế được các loại rong phụ sinh này. Nếu ít thay nước hoặc rong nho già yếu, rong phụ sinh sẽ phát triển nhiều và bám trên rong nho.

6. Thu hoạch rong nho

Sau thời gian trồng khoảng 1,5 đến 2 tháng, tiến hành thu hoạch lứa rong nho lần đầu. Thu những cọng rong dài trên 5cm, thao tác cần nhẹ nhàng, tránh dập nát.

Thu hoạch rong nho

Rong được thu hoạch phải luôn để trong môi trường nước biển, tránh để rong bị xẹp do mất nước.

Rong nho chỉ cần trồng một lần rồi thu hoạch liên tục trong mấy tháng hoặc quanh năm, khoảng cách giữa các lần thu hoạch khoảng 15 ngày.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

 

Tối ưu hóa sơ chế rong nho (Caulerpa lentillifera) sau thu hoạch

Rong nho (Caulerpa lentillifera) là loài rong có giá trị dinh dưỡng cao được nhiều nước ưa chuộng nên có tiềm năng xuất khẩu cao. Rong nho sau khi thu hoạch được sơ chế để bảo quản tươi hoặc làm thành rong nho khô để bảo quản nhằm tăng thời gian sử dụng.

Tuy nhiên, ở Việt Nam qua khảo sát thực tế cho thấy, thời gian bảo quản rong nho tươi khá ngắn. Nếu rong nho bảo quản trong môi trường không khí bình thường, sau 01 ngày nhanh chóng bị hư hỏng. Nếu rong nho được bảo quản trong hộp xốp, bao màng polyvinyl chloride theo cách thông thường của các loại rau quả khác, sau 3 ngày cũng nhanh chóng bị hư hỏng. Nếu bảo quản rong nho trong bao bì polypropylen như các cơ sở kinh doanh rong nho tươi hiện nay trên địa bàn Khánh Hòa thì có thời gian bảo quản cũng chỉ từ 5 đến 7 ngày. Nguyên nhân của sự nhanh chóng hư hỏng này một phần do đặc điểm của rong nho khá mọng nước, cấu trúc rong nho mềm, lỏng lẻo, dễ tổn thương, gây hư hỏng bởi các tác nhân bên ngoài, một phần do quá trình sơ chế rong nho sau thu hoạch chưa phù hợp, ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu rong nho ban đầu nên rong nho nhanh chóng bị hư hỏng khi bảo quản.

Nghiên cứu “tối ưu hóa sơ chế rong nho (Caulerpa lentillifera) sau thu hoạch” của Lê Thị Tưởng và Nguyễn Thị Mỹ Trang được thực hiện nhằm ổn định chất lượng nguyên liệu ban đầu, giúp kéo dài thời gian bảo quản, góp phần làm tăng giá trị kinh tế cho rong nho.

 

Rong nho sau thu hoạch có nhiều tạp chất vô cơ và hữu cơ cũng như vi sinh vật bám trên rong, vì vậy rong nho sau thu hoạch cần phải rửa nhằm loại bỏ các tạp chất và vi sinh vật bám trên bề mặt của rong, giảm nguy cơ gây hư hỏng rong khi bảo quản.

Sau đó rong nho được chuyển sang bể nước sạch có sục khí để nuôi lại. Mục đích của quá trình nuôi lại rong nho nhằm tạo điều kiện cho rong lành các vết thương và phục hồi sức khỏe sau thu hoạch, vận chuyển và rửa rong nho. Vì vậy, điều kiện môi trường phù hợp cho rong sinh trưởng, phát triển cũng là điều kiện phù hợp cho rong lành các vết thương và phục hồi sức khỏe.

 

Rong nho bị tiết nhớt sau thu hoạch       Rong lành vết thương sau khi sơ chế

Kết quả nghiên cứu cho thấy điều kiện tối ưu công đoạn rửa rong nho là lượng nước rửa: 15 lít/kg; thời gian rửa: 7 phút/lần, số lần rửa: 3 lần. Điều kiện tối ưu công đoạn nuôi lại rong nho là mật độ rong: 1 kg/40lít; thời gian nuôi: 3 ngày và lượng oxy hòa tan: 7ppm. Với điều kiện tối ưu này, thu được chất lượng cảm quan và độ sáng của rong nho cao nhất với lượng vi sinh vật còn bám trên rong không đáng kể.

Màu sắc rong nho trước khi sơ chế              Màu sắc rong nho sau khi sơ chế

Nguồn: TapchikhoahocvacongnghetruongdaihocCanTho được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Vài nét về rong nho

Rong nho là gì?

Rong nho là một loại tảo biển, được phân bố tự nhiên tại khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới. Do hình dạng hạt rong và cảm quan lạ có hình dáng giống quả nho nên được gọi là Rong nho.

Đây là loại Rong có sự phân bố tự nhiên tại vùng Đông và Đông Nam Á. Từ lâu, Rong nho được khai thác ngoài tự nhiên và sử dụng như là một loại thực phẩm tươi sống. Trong Rong nho có hoạt chất Caulerpin và Caulerpicin tạo mùi vị kích thích ngon miệng và có tác dụng chữa bệnh.

Rong nho

Theo nhu cầu của con người và sự khan hiếm của Rong nho tự nhiên, hiện tại người ta phải trồng rong nho để có thể thu hoạch và sử dụng. Rong nho có thể trồng như trong môi trường tự nhiên của chúng đó là các vùng biển cạn và yên tĩnh, hoặc trong các ao đầm và cả trong lồng, trên dây treo ngoài biển.

Rong nho có đặc điểm cấu tạo là phần “thân, nhánh” được gắn vào đá, cát hay nền đáy khác bằng các sợi “rễ” nhỏ màu trắng. Từ phần “thân,  nhánh” mọc ra các fronds (thường quen gọi là lá) có hình tròn, đường kính khoảng 2 mm. Bên trong các “lá” này chứa đầy chất dịch, dạng gel. Chính vì hình dạng của các “lá” này, nên nó được gọi là Rong nho (Grape Seaweed hay Umibudo).

Hình dạng của rong nho

Rong nho hấp thu chất dinh dưỡng từ môi trường nước xuyên qua các “nhánh” và “lá” để phát triển.

Điều kiện trồng rong nho

Trong điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn và chất dinh dưỡng thích hợp, rong nho phát triển rất nhanh, thời gian thu hoạch ngắn.
Rong nho được nuôi trong mô hình khép kín. Cấu trúc một trại nuôi cụ thể gồm 4 thành phần:
             Hệ thống cấp nước
             Hệ thống bể nuôi
             Hệ thống giữ giống
             Hệ thống bảo quản sản phẩm sau thu hoạch
Nguồn nước từ tất cả các hệ thống này đều được xử lý kỹ và đặc biệt là hệ thống xử lý nước trước khi thải ra môi trường là hệ thống kín, lọc qua cát. Rong nho phát triển nhanh trong điều kiện nuôi theo quy trình khép kín. Một đợt nuôi kéo dài từ 20 đến 30 ngày là có thể thu hoạch.

Giá trị dinh dưỡng từ rong nho

Rong nho là thực phẩm tự nhiên, có hàm lượng dinh dưỡng cao và nhiệt lượng thấp, nó có hàm lượng chất khoáng nhiều nhất là sinh tố, canxi, sắt…
Hàm lượng dinh dưỡng cao từ rong nho
Rong nho được chọn là 1 trong 5 hàng hóa được ưa thích nhất, khi khách tham quan Okinawa (Nhật Bản).
Rong nho tươi được sử dụng phổ biến trong các món ăn gia đình Việt Nam như là các món ăn kiểu Nhật khác như Wasabi, ăn hải sản sống…rất hữu ích cho sức khỏe và hỗ trợ nhiều cho việc chữa bệnh cho người như:
– Rất tốt cho nhuận trường và giải độc gan
 – Bình thường hóa lượng đường trong cơ thể
Làm đẹp từ rong nho
 – Giảm cholesterol
 – Ổn định huyết áp
 – Ngoài ra Rong nho còn là sản phẩm làm đẹp da cho phụ nữ
– Rong nho được dùng thường ngày chung với các loại thực phẩm khác.
Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Trồng rong nho: Cần đầu tư nhân rộng

Một số người dân ở TX Sông Cầu (Phú Yên) đang nuôi trồng rong nho. Đây là đối tượng nuôi trồng mới nên nhiều bà con chưa mạnh dạn đầu tư.

Đối tượng trồng mới

Tại TX Sông Cầu, người đầu tiên trồng rong nho là anh Lương Khắc Lâm. Anh Lâm cho biết: “Cách đây 2 năm, tôi từ TP Tuy Hòa ra xã Xuân Phương (TX Sông Cầu) trồng rong nho. Ban đầu, tôi mua khoảng 500kg giống (25.000 đồng/kg) ở Khánh Hòa về trồng trên diện tích ao hơn 1.500m2. Sau 1 tháng, rong nho phát triển tốt và bắt đầu cho thu hoạch đến nay. Hiện Phú Yên chưa có địa điểm thu mua, nên sau khi thu hoạch rong nho, tôi chở vào TP Nha Trang (Khánh Hòa) bán xô với giá từ 23.000 đến 25.000 đồng/kg. Tôi cũng đang học cách sơ chế rong nho thành phẩm, bán với giá 100.000 đồng/kg. Nghề này rất nhọc, đòi hỏi nhiều công lao động để chăm sóc và thu hoạch, nhưng bù lại cho thu nhập cũng khá. Hiện gia đình tôi mỗi tháng thu khoảng 15-20 triệu đồng từ tiền bán rong nho”.

Rong nho mang lại thu nhập bình quân mỗi tháng 15 – 20 triệu đồng

Theo tiến sĩ Thái Ngọc Chiến, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III (Khánh Hòa), ở Việt Nam, việc nghiên cứu rong nho được thực hiện từ năm 2004 đến nay. Rong nho biển là loại thức ăn ngon, bổ dưỡng, chất caulerparine trong rong nho kích thích ăn ngon miệng, có tác dụng diệt khuẩn. Rong nho biển không nhiều đường, đạm nhưng chứa nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng cần thiết. Những năm gần đây, rong nho được trồng khá phổ biến ở TP Cam Ranh và TX Ninh Hòa (Khánh Hòa), bằng hình thức trồng tiếp đáy trực tiếp hay trồng bằng vỉ cho tiếp đáy ở ao. Các mô hình trồng rong nho đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các hộ dân đồng thời tận dụng được các ao nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả.

Cần đầu tư nhân rộng

Hiện nhiều người dân ở TX Sông Cầu có ao đìa nuôi tôm không hiệu quả đang muốn chuyển sang trồng rong nho. Tuy nhiên, đây là một đối tượng nuôi trồng mới nên bà con chưa mạnh dạn đầu tư. Ông Đoàn Mỡ ở thôn Phú Mỹ, xã Xuân Phương, cho biết: “Ao đìa có sẵn, kỹ thuật trồng rong nho đã được tập huấn nên tôi cũng am hiểu phần nào. Điều lo lắng nhất hiện nay là đầu ra của sản phẩm, vì tại Phú Yên chưa có cơ sở chế biến và điểm thu mua”. Theo ông Nguyễn Minh Chỉ ở xã Xuân Phương, các cơ quan chuyên môn nên hướng dẫn kỹ thuật trồng rong nho cho người dân theo hướng cầm tay chỉ việc. Nghĩa là, cán bộ kỹ thuật phải ứng trực tại địa phương có trồng rong nho, khi đó bà con cần hỏi điều gì thì hướng dẫn trực tiếp. Nhà nước cũng cần đầu tư mô hình trồng rong nho thí điểm để sau đó nhân rộng… Ông Trần Ngọc Hà, Phó chủ tịch UBND xã Xuân Phương, cho biết: “Hiện nay, tình hình dịch bệnh trên các đối tượng thủy sản nuôi rất phức tạp; một số diện tích ao, đìa nuôi tôm hiệu quả bấp bênh. Trồng rong nho đầu tư ít nhưng đem lại giá trị kinh tế ổn định nên Nhà nước cần có chính sách đầu tư để bà con ven biển cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo”.

Theo tiến sĩ Thái Ngọc Chiến, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đang thực hiện mô hình thí điểm trồng rong nho tại TX Sông Cầu; bà con nào có nhu cầu thì đăng ký để Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III xem xét và sẽ triển khai trồng trong năm 2015. Đối với kỹ thuật trồng rong nho, tiến sĩ Chiến cho biết: Ao, đìa dùng để triển khai trồng rong nho có chất đáy là cát pha bùn, đáy ao có độ dốc nghiêng về cống và độ cao trình đáy thấp hơn khi thủy triều lên. Người nuôi cần chọn vùng ven biển có nguồn nước sạch, không bị nhiễm bẩn do chất thải các ngành sản xuất và chất thải sinh hoạt của dân cư, vùng có độ mặn ổn định từ 28 đến 35‰ (thích hợp nhất từ 30 đến 35‰), độ pH từ 7,5 đến 8,5. Rong nho phát triển rất nhanh với tốc độ tăng trưởng đạt gần 2,6%/ngày, đặc biệt là trong môi trường nhiều chất hữu cơ. Sau 30-35 ngày trồng, rong nho có thể cho thu hoạch, năng suất trung bình 20 tấn/ha/năm. Tùy thuộc vào mùa vụ, người trồng có thể điều chỉnh ánh sáng ở khu vực trồng rong thích hợp trong khoảng 15.000 Lux (15% ánh sáng tự nhiên vào buổi trưa mùa hè) bằng lưới lan đen. Mùa hè ánh sáng mạnh cần phải che 2 lớp lưới, mùa đông ánh sáng yếu chỉ cần che 1 lớp lưới hoặc che 1 tấm lưới cách 1 tấm lưới không che.

Thu hoạch rong nho

Trung tâm Chất lượng thủy sản Vùng 3 đã cấp chứng nhận sản phẩm rong nho đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cho 3 công ty tại Khánh Hòa. Sản phẩm xuất khẩu gồm rong nho tươi, rong nho khô (chế biến qua muối bão hòa) và bột rong nho biển; chủ yếu xuất sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Nga… Trong nước, người dân cũng đang chú ý đến các sản phẩm từ rong nho bởi giá trị dinh dưỡng và tính an toàn cho sức khỏe.

Nguồn : Tepbac, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Dạng rong giống và nền đáy phù hợp cho rong nho phát triển tốt nhất

Rong nho (Caulerpa lentillifera) được ưa chuộng và sử dụng như một loại rau xanh bởi có giá trị dinh dưỡng cao  (giàu acid amin thiết yếu, vitamin A, C và các nguyên tố vi lượng như phospho, sắt, iốt, canxi) rất tốt cho sức khoẻ con người như phòng chống các bệnh bướu cổ, thiếu máu, suy dinh dưỡng, thấp khớp, cao huyết áp, chống lão hoá, béo phì…

Tại Việt Nam, rong nho đã được nhập từ Nhật Bản về Việt Nam và trồng thử nghiệm từ năm 2014. Đây là một loại rong dễ trồng, tuy nhiên, để đạt được sự sinh trưởng tốt và chất lượng tốt nhất phụ thuộc vào nhiều yếu tố kỹ thuật.

Khoa thủy sản, trường đại học Cần Thơ đã thử nghiệm trồng rong nho (Caulerpa lentillifera) trong bể với các dạng rong giống và nền đáy khác nhau.

Hai nguồn rong nho giống được sử dụng gồm rong nho nguyên tản (thân đứng và thân bò) và rong nho được loại bỏ phần thân đứng (phần chùm nho) được trồng trên nền đáy cát và các loại nền đáy gồm: không nền đáy, đáy cát, đáy bùn, đáy cát-bùn (tỉ lệ cát:bùn = 2:1), đáy bùn-cát (tỉ lệ bùn:cát = 2:1).

Cấu tạo rong nho(Caulerpa lentillifera)

Kết quả chỉ ra rằng rong nho giống được loại bỏ toàn bộ các thân đứng (chùm nho) có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn có ý nghĩa so với giống rong nho nguyên tản ở điều kiện nuôi trong bể.

Kết quả thí nghiệm rong trồng trên các nên đáy khác nhau

A: Không nền, B: Đáy cát, C: Đáy bùn, D: Cát-bùn, E: Bùn-cát

Nền đáy cát là nền đáy thích hợp cho việc trồng rong nho trong bể cho tăng trưởng và chất lượng rong nho tốt nhất.

Nguồn: TapchikhoahocdaihocCanTho được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho : hiệu quả cao và bền vững

Ốc hương là thực phẩm cao cấp, có giá trị dinh dưỡng, thương mại cao, nghề nuôi ốc hương đã được nhiều người phát triển rộng rãi. Tuy nhiên hiện nay đa số người dân nuôi ốc hương với hình thức nuôi đơn, thả mật độ dày. Vài vụ nuôi đầu cho năng suất cao, càng về sau nguồn nước càng ô nhiễm bởi hóa chất và thức ăn thừa nên dẫn đến dịch bệnh trên ốc, làm năng suất hạ thấp thậm chí mất trắng cả vụ nuôi.

Trước tình hình đó, Trung tâm khuyến ngư quốc gia đưa ra cho bà con mô hình nuôi mới : nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho. Hải sâm cát đã nhân giống thành công và được nuôi phổ biến tại Khánh Hòa. Trong khi đó, rong biển cũng là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhiều người ưa chuộng. Khi nuôi kết hợp 3 loài này mới nhau, hải sâm có tác dụng lọc tầng đáy, ăn thức ăn thừa, vụn hữu cơ của ốc hương, còn rong nho hấp thu các chất hữu cơ lơ lửng trong nước, giúp nước sạch và mát hơn. Sau đó là hải sâm, rong biển sẽ chuyển dạng năng lượng thấp (chất thải) sang năng lượng cao và hữu ích; đồng thời giúp người nuôi tăng thu nhập trên cùng đơn vị diện tích.

Nuôi ghép 3 đối tượng này cho hiểu quả kinh tế cao

Mô hình áp dụng biện pháp kỹ thuật như sau :

Mô hình diện tích ao từ 2.500 – 5.000 m², độ mặn từ 20‰ trở lên, độ sâu mực nước từ 1,2-1,5 m. Đáy ao là đáy cát bằng phẳng dốc về phía cốc tiêu nước, được cắm lưới xung quanh (mắt lưới 2a = 2 mm) đáy cách bờ 5m, để ngăn không cho ốc bò lên bờ ao, có phần lưu không 1-2 m xung quanh ao. Sau 1 tháng nuôi thì lắp các cánh quạt.

Mật độ thả nuôi ốc hương 40 – 50 con/m² (cỡ trung bình 10.000 con/kg). Sau 1 tháng tiến hành thả hải sâm 0,5 con/m² (cỡ trung bình 50 g/con) và rong nho 500 kg/ha. Rong nho được đặt trong lồng, kích cỡ 1 m²/lồng. Mỗi lồng trồng 500 g rong nho giống

Sau thời gian thả nuôi từ 5 – 6 tháng thì tiến hành thu hoạch.  Lúc này ốc hương đạt kích thước 120 – 140 con/kg và hải sâm đạt 250 – 400 g/con. Thu hoạch ốc hương trước bằng máy. Sau khi bắt ốc hương xong, tháo cạn nước và dùng vợt hoặc tay để bắt hải sâm.

Kết quả thực hiện mô hình nuôi kết hợp ốc hương với hải sâm và rong biển năm 2015 tại hai điểm như sau:

– Năng suất rong nho đạt trung bình 17,6 tấn/ha; ốc hương đạt 2,5 tấn/ha; hải sâm đạt 1,3 tấn/ha.

– Lợi nhuận từ mô hình dao động từ 82,6 – 344 triệu đồng/hộ (trung bình đạt 224,7 triệu đồng/0,5 ha/vụ hay 449,4 triệu đồng/ha/vụ).

Khi so sánh với mô hình nuôi đơn cùng diện tích thì lợi nhuận nuôi đơn chỉ đạt 129,5 triệu/0,5 ha. Như vậy so với mô hình nuôi đơn, mô hình nuôi kết hợp lợi nhuận tăng 42,4%. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi kết hợp cao gấp 1,7 lần so với mô hình nuôi đơn. Tỷ suất lợi nhuận đạt trung bình 59,4%/9 tháng (hay 6,6%/tháng), cao gấp 11 lần so với lãi suất ngân hàng.

Mô hình đã và dang được nhân rộng

Dự án tại Khánh Hòa đã góp phần tạo phương thức nuôi hải sản mới, giúp cho người dân chuyển từ hình thức nuôi đơn thiếu bền vững sang nuôi kết hợp cải thiện môi trường, tăng hiệu quả kinh tế và bền vững. Tuy vậy, do đây là mô hình mới nên người dân còn ngại chuyển đổi, nên cần được phổ biến, nhân rộng nhiều hơn nữa.

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Chuyển giao công nghệ trồng rong nho trong bể Composite

Rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh. 1837) còn gọi là trứng cá Hồi xanh (green caviar) được sử dụng làm thức ăn truyền thống ở các nước Nhật Bản, Philippines… dưới dạng rau xanh hoặc salad. Do có giá trị kinh tế cao (giá bán ở thị trường Nhật Bản khoảng 60 USD/kg rong tươi) và nhu cầu tăng nhanh trong những năm gần đây nên rong nho biển đã được nuôi trồng tại Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.

Từ tháng 5/2012 đến tháng 7/2013 được sự phê duyệt, cấp kinh phí của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Khánh Hòa, Viện Hải dương học đã phối hợp với UBND huyện Trường Sa, Vùng 4 Hải Quân thực hiện đề tài “Chuyển giao kỹ thuật trồng, chế biến và bảo quản rong nho biển (Caulerpa lentillifera J. Agardh. 1837) cho quân và dân huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa” nhằm hoàn thiện mô hình trồng, tập huấn chuyển giao cho quân và dân huyện Trường Sa kỹ thuật trồng rong nho biển trong bể composite, cách chế biến và bảo quản rong nho biển phù hợp với điều kiện tại Trường Sa, góp phần bổ sung nguồn rau xanh cho quân và dân sống trên đảo.

Rong nho trồng thử nghiệm ở vùng 4 hải quân

Đề tài đã xây dựng trại trồng rong nho biển tại Vùng 4 Hải Quân để triển khai thực hiện 2 mô hình trồng đáy và trồng treo rong nho biển trong bể composite. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rong nho biển sinh trưởng và phát triển tốt nhất ở điều kiện độ mặn khoảng 33- 33,5‰, nhiệt độ khoảng 25 – 30ºC, cường độ ánh sáng khoảng 15.000 Lux, chất đáy (thể nền) thích hợp cho rong nho phát triển là bùn cát hoặc cát bùn.

Rong nho biển (Caulerpa lentillifera) Trại và bể trồng rong nho biển
Nguồn giống rong nho biển có thể được cung cấp bởi Viện Hải dương học, yêu cầu của rong nho biển làm giống là phải khỏe mạnh, sạch rong tạp và không có sinh vật sống bám trên rong. Cắt các đoạn rong dài từ 10 – 15 cm (gồm thân đứng và thân bò) hoặc các thân đứng để cấy trồng trong bể.

Mô hình trồng đáy

Đáy bể trồng rong nho biển được phủ một lớp cát bùn dày khoảng 10 cm để cấy trồng trực tiếp rong nho lên trên. Các bể trồng rong được bơm đầy nước biển và thay nước vài lần trước khi cấy trồng rong nho. Trọng lượng ban đầu của rong nho giống cấy trồng trong bể có thể dao động từ 200 – 400 g tươi/m2.

Sau 2 tháng trồng trong bể, rong nho biển phát triển tốt, năng suất rong toàn tản đạt khoảng 4,64 kg rong tươi/m2, tốc độ sinh trưởng đạt 1,77%/ngày. Tỷ lệ khối lượng thân đứng so với toàn tản đạt 62,64%, trong đó tỷ lệ khối lượng thân đứng > 5cm (phần sử dụng làm thực phẩm) so với toàn tản đạt 28,74%.

Mô hình trồng treo

Rong nho biển có thể được trồng treo trên các vỉ lưới nhựa cứng có kích thước khoảng 25 cm x 50 cm (S= 0,13 m2/vỉ) hoặc lớn hơn. Mật độ trồng ban đầu là 50 g tươi/vỉ (400 g tươi/m2). Các vỉ nhựa được treo trong bể chứa đầy nước biển, cách đáy khoàng 20 – 30 cm.

Sau 2 tháng trồng, rong nho biển phát triển phủ đầy trên bề mặt và xung quanh vỉ lưới, năng suất đạt 2,67 kg rong tươi/m2, tốc độ sinh trưởng đạt 1,25%/ngày. Tỷ lệ khối lượng thân đứng so với toàn tản chiếm 51,51%, trong đó, tỷ lệ khối lượng thân đứng > 5 cm so với toàn tản đạt 20,98%.

Mô hình trồng treo và trồng đáy rong nho biển trong bể ít choán diện tích, phù hợp điều kiện ngoài đảo. Rong nho phát triển nhanh, cho năng suất cao, là thực phẩm giàu dinh dưỡng.

   Rong nho biển trồng treo trong bể        Rong nho biển trồng đáy trong bể

Để tăng năng suất và trọng lượng thân đứng > 5 cm (phần thu hoạch để sử dụng) của rong nho biển trồng trong bể, có thể bón bổ sung phân hữu cơ làm từ bột cá (fertiplus 4-3-3) cho các bể trồng rong với hàm lượng khoảng 27g/m3, khoảng cách các lần bón phân khoảng 15 ngày/lần. Rong nho có bón phân hữu cơ làm từ bột cá có thể đạt năng suất hơn 10 kg rong tươi/m2/vụ (2 tháng) và có thể duy trì năng suất cao trong bể quanh năm.

Sản phẩm rong nho biển trồng trong bể bón phân hữu cơ làm từ bột cá đã được kiểm nghiệm, dư lượng Nitrat và vi sinh vật luôn thấp hơn giới hạn cho phép của Bộ Y Tế (quyết định 867/1998/QĐ – BYT) nên đạt chỉ tiêu về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Rong nho biển trồng trong bể được thu hoạch bằng phương pháp thu tỉa (chỉ ngắt, hái những thân đứng dài hơn 5 cm để ăn) với khoảng cách 7-10 ngày/lần. Phần rong còn lại trong bể tiếp tục được chăm sóc, rong sẽ tiếp tục phát triển và duy trì sinh lượng cao quanh năm. Phần thân đứng sau khi thu hoạch được sục khí mạnh trong khoảng 16-24 giờ để rong được sạch và bảo quản lâu hơn (khoảng 7-10 ngày). Rong nho biển thường được sử dụng ở dạng tươi, ăn như rau xanh, ăn kèm với các món ăn khác (thịt, cá, đồ hộp…) hoặc nấu canh.

Đề tài cũng đã tập huấn cho 40 cán bộ, chiến sĩ các kỹ thuật trồng, chế biến và bảo quản rong nho biển, đồng thời cung cấp hơn 100 kg sản phẩm rong nho biển cho các bếp ăn của một số đơn vị tại Vùng 4 Hải Quân và một số đảo nhằm quảng bá sử dụng rong nho biển làm thực phẩm bổ sung rau xanh cho quân và dân sống trên các đảo ở Trường Sa.

Nguồn: Khoahocvacongnghe được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi trồng thương phẩm rong nho biển

Trong số các loài thực vật thủy sinh nước mặn, rong nho biển là loại thực vật thuỷ sinh dinh dưỡng tự dưỡng, là một giống loài mới, rất dễ nuôi trồng trong điều kiện công nghiệp do không tốn nhiều nhân công, tốn ít chi phí đầu tư ban đầu, là món rau sạch không có dư lượng thuốc, hóa chất và kháng sinh, trong bữa ăn gia đình rong biển thường được sử dụng làm rau xanh và được dùng phổ biến trong các món salad tại một số nước châu Á như Nhật Bản, Philipphin…

Rong nho biển là một loại rau cao cấp, có hàm lượng dinh dưỡng rất cao. Các kết quả phân tích cho thấy rong nho biển rất giàu các nguyên tố vi lượng như iốt, kẽm, kali, canxi… đặc biệt là chứa nhiều các vitamin quan trọng như vitamin A, vitamin C.

1. Lựa chọn vị trí trồng rong nho biển.

Điều tiên quyết trong việc trồng rong nho biển là phải lựa chọn các vùng nước biển sạch, không ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và tránh xa nguồn nước ngọt từ các sông suối đổ vào, thuận tiện trong việc cấp thoát nước, vùng ít bị ảnh hưởng bởi sóng, gió và ít bị ảnh hưởng, tác động từ các phương tiện giao thông đường thủy, chọn vùng nuôi nơi có đáy cát hoặc cát pha bùn… Trong đó có việc tận dụng các ao, đùng nuôi tại các vùng ven biển, ven các vùng cửa sông, vịnh nơi có điều kiện thuận lợi, ít bị tác động, phù hợp cho rong nho biển phát triển gần với điệu kiện tự nhiên.

Tại một số địa phương các tỉnh như tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh Thuận… đã rất thành công trong việc tiên phong nuôi trồng thương phẩm cây rong nho biển, trong đó có việc chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng cho người dân, ký hợp đồng với các đối tác Nhật Bản, các đại lý, siêu thị và hệ thống phân phối bán lẻ trong nước trong việc bao tiêu, lo đầu ra cho sản phẩm rong nho biển thương phẩm của người dân.

2. Kỹ thuật nuôi trồng rong nho biển.

Trong nuôi thương phẩm rong nho biển, bà con nên chọn những cây rong giống có màu sắc xanh tươi tự nhiên, thân rong giống không có rong tạp bám, thân cọng rong mập mạp, các quả (trái nho) xếp đều đặn dọc hai bên thân và không có dị tật. Theo kinh nghiệm của các tỉnh thành đi trước, thì mật độ nuôi trồng thích hợp ở vào khoảng 200kg giống/sào đối với trồng đáy, tương ứng với khoảng 0,2kg giống/vỉ, mỗi sào bố trí rải đều khoảng từ 1.000 – 1.200 vỉ. Có ba phương pháp nuôi trồng rong nho biển, đó là phương pháp trồng đáy, phương pháp trồng kê sàn và phương pháp trồng trong vỉ lưới.

– Phương pháp trồng đáy: Dùng các nẹp bằng tre hoặc gỗ gim cố định các nhánh rong xuống đáy ao, khoảng cách trồng 40 x 40cm, mật độ nuôi trồng khoảng 200kg giống/sào. Phương pháp này khá đơn giản, có chi phí đầu tư thấp, tuy nhiên khi thu hoạch và triển khai vụ mới tốn khá nhiều nhân công hơn so với các phương pháp khác.

– Phương pháp trồng kê sàn: Phương pháp này dùng gỗ tạp hoặc tre đóng hoặc xếp thành hàng cách mặt đáy ao khoảng 5cm, dùng các khay, rổ có kích thước 50cm x 30cm, bỏ cát, bùn vào rồi cấy rong nho giống, tiến hành giữ cố định rong trong khay rổ. Phương pháp này khá tốn công, rong chậm phát triển do ít hấp thụ được nguồn dinh dưỡng từ đáy ao.

– Phương pháp trồng trong vỉ lưới: Phương pháp này sử dụng các khung gỗ, tre hoặc ống nhựa làm thành hình vuông hoặc chữ nhật, kích thước khoảng 0,3 x 0,6m, bao 2 lớp lưới, lớp dưới bố trí loại dày, mắt lưới nhỏ là giá đỡ giống rong, lớp trên phủ lên trên có mắt lưới thưa, may bốn mép để cố định rong giống trong vỉ, sau đó thả theo thứ tự thành hàng trong ao, có bố trí đường đi để kiểm tra, chăm sóc các vỉ rong. Phương pháp này giúp cho rong nho hấp thu tối đa chất dinh dưỡng, đồng thời cũng dễ dàng hơn trong quản lý, chăm sóc, thu hoạch và quan trọng là mang lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp khác.

Hiện nguồn giống rong nho biển có rất nhiều tại các tỉnh thành như tỉnh Khánh Hoà, tỉnh Ninh Thuận và tại các viện, trường chuyên ngành thủy hải sản. Trong quá trình nuôi thương phẩm, có thể chọn và lưu giữ giống cho các mùa vụ tiếp theo của mình mà không cần phải mua giống nữa.

3. Mùa vụ nuôi trồng rong nho biển.

Được đánh giá là loài khá dễ tính, rong nho biển có thể trồng quanh năm, các tháng mùa mưa thì năng xuất không cao bằng các tháng mùa nắng, do môi trường nước thường xuyên biến đổi. Trong tự nhiên, mùa vụ chính của rong nho biển diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm, chúng phát triển tốt ở các vùng nước ấm, nhiệt độ dưới 200C, chúng sẽ chậm hoặc ngừng tăng trưởng, độ mặn phù hợp để rong nho biển phát triển tốt ở ngưỡng 28 – 35 %o.

Rong nho biển thu hái từ mọc tự nhiên trên sông Chà Và, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu.

4. Công tác quản lý, chăm sóc rong nho biển.

Mặc dù được đánh giá là loài dễ nuôi trồng, tuy nhiên vẫn cần phải tuân thủ nghiêm quy trình nhằm đạt hiệu quả cao trong nuôi trồng sản xuất, một số lưu ý khi nuôi trồng rong nho biển cụ thể:

– Định kỳ 2-3 ngày theo dõi sự phát triển của rong, tiến hành vệ sinh nhặt bỏ rong tạp, tiêu diệt cá, cua còng vào ăn rong và phá rong nuôi trong ao đầm, dùng tay rung, gạt nhẹ khay rong nhằm loại bỏ các chất bẩn bám trên khay, thân rong.

– Cần chú ý theo dõi lịch thủy triều để có chế độ thay nước hợp lý nhằm cung cấp một lượng nước mới giúp kích thích rong phát triển, thông thường khoảng 3-5 ngày thay nước mới một lần, lượng nước thay khoảng 50-70%.

– Là loài nuôi trồng ngắn ngày, tăng trưởng nhanh đặc biệt là trong môi trường nhiều chất dinh dưỡng. Sau 30 – 35 ngày trồng rong nho biển có thể thu hoạch, năng suất trung bình 8 tấn/sào/năm.

5. Thu hoạch, bảo quản và vận chuyển rong nho biển..

Là loài nuôi trồng ngắn ngày, chỉ sau từ 2 – 3 tháng sẽ cho thu hoạch. Thu hoạch rong nho khá tốn công, khi thu hoạch, chỉ lấy phần thân đứng, chọn lấy các cọng rong đứng dài trên 5cm có các hàng quả xếp đều đặn xung quanh thân cây rong, sau đó rửa sạch rong bằng nước biển, xếp nhẹ nhàng và đều trong thùng nước có sục khí, bước tiếp theo làm ráo nước và bảo quản ở điều kiện nhiệt độ bình thường trong các thùng xốp đậy kín hoặc xếp bảo quản trong các túi nylon khô ráo.

Rong nho sau khi thu hoạch được đưa vào bể nước sạch sục khí

Theo kinh nghiệm của các hộ dân đang nuôi trồng rong tại các tỉnh Nam trung bộ, thì việc bảo quản như trên có thể giữ rong tươi trong vòng khoảng từ 10-15 ngày mà không làm giảm giá trị dinh dưỡng của rong nho, vì thế chúng rất được ưa chuộng sử dụng trong các món ăn sống, thuận lợi trong việc bảo vận chuyển và đưa đi phân phối tiêu thụ, nếu ở dạng rong muối thì thời gian bảo quản sẽ lâu hơn, tuy nhiên rong nho biển thường tiêu thụ ở dạng tươi sống.

6. Khả năng nuôi trồng ở các vùng biển Đông Nam bộ.

So sánh điều kiện tự nhiên tại các vùng ven biển, các vùng cửa sông, vịnh, vùng cửa biển của các tỉnh thành Đông Nam bộ nói chung thì hoàn toàn phù hợp cho việc phát triển nuôi trồng rong nho biển thương phẩm phục vụ xuất khẩu, việc nuôi trồng rong nho biển ngoài góp phần đa dạng hóa các loài nuôi trồng thủy sản của các địa phương, còn giúp ích to lớn cho người dân nuôi trồng thủy sản trong việc cải tao môi trường ao nuôi một cách tự nhiên, nhờ đặc tính hấp thu chất dinh dưỡng mạnh, ngoài ra, còn có thể nuôi ghép, nuôi xen canh giữa chúng với một số loài động vật thủy sản khác cũng rất cần được các địa phương nghiên cứu thử nghiệm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.