Trồng rong nho – nhàn như… đi tắm biển

Trồng rong nho vừa nhàn, đầu tư thấp lại cho năng suất cao. Nhờ rong nho, nhiều hộ dân tại phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa đang có thu nhập khá ổn định, từ 5 – 10 triệu đồng/tháng.

Rong nho là một loại rong biển, do hình dạng hạt rong giống quả nho nên được gọi là rong nho. Trong tự nhiên, chúng thường được phân bố tại các vùng biển ấm. Tại Việt Nam, các nhà khoa học cho rằng vùng biển Khánh Hòa có tiềm năng phát triển rong nho đạt năng suất cao nhất thế giới.

Rong nho có đặc điểm mềm, giòn, ngon, được thị trường ưa chuộng như một loại rau xanh cao cấp. Đây là một sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường.

Để trồng rong nho, ông Đặng Ngọc Minh (phường Ninh Hải, TX Ninh Hòa, Khánh Hòa) chỉ phải bỏ chi phí 150 triệu đồng cho việc mua vật liệu, giống và đầu tư trang thiết bị. Số tiền này sẽ được ông thu hồi sau một năm nuôi trồng và bắt đầu từ năm thứ 2 trở đi sẽ có nguồn lợi nhuận ổn định từ mô hình này.

Theo ông Minh, rong nho phát triển rất nhanh, từ khi trồng đến thu hoạch chỉ khoảng 1 tháng. Trong khoảng thời gian này, người trồng hầu như không phải đầu tư chi phí chăm sóc mà vẫn có thu nhập ổn định.

“Cái này ai làm cũng được. Không phải làm gì nặng nhọc cả, khi thu hoạch chỉ xuống nước nhặt như mình đi tập thể thao, đi tắm biển vậy…”, ông Minh chia sẻ.

Theo Trung tâm khuyến nông khuyến ngư tỉnh Khánh Hòa, nghề nuôi trồng rong nho được phổ biến tại địa phương từ năm 2004. Qua thời gian nuôi trồng thử nghiệm, ngành nuôi trồng địa phương nhận thấy, Khánh Hòa có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mô hình này. Chính vì vậy, từ 1-2 ha ban đầu, đến nay diện tích trồng rong nho tại địa phương đạt gần 100 ha.

Nguồn : báo Dân Việt, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Mô hình nuôi tôm sú sạch kết hợp rong nho và hải sâm

Mô hình nuôi tôm sú kết hợp với hải sâm và rong nho do Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Ninh Thuận thực hiện thí điểm thành công trên diện tích 2 ha tại xã Phương Hải, huyện Ninh Hải.

Ông Nguyễn Tin, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông -Khuyến ngư Ninh Thuận, cho biết mật độ thả nuôi tôm sú 20 con/m2; hải sâm 1 con/m2; rong nho 0,05 kg/m2. Mô hình này được thực hiện theo tiêu chuẩn VietGAP, không sử dụng kháng sinh, chủ yếu dùng chế phẩm vi sinh để bảo vệ môi trường. Theo đó, các hộ tham gia dự án được cán bộ của trung tâm tập huấn kỹ thuật nuôi, cách thiết lập hồ sơ, ghi chép nhật ký để theo dõi quá trình sinh trưởng của tôm, hải sâm và rong nho.


Mô hình nuôi kết hợp tôm sú – hải sâm – rong nho ở tỉnh Ninh Thuận đã thành công bước đầu và chuẩn bị được nhân rộng

Sau gần 9 tháng, kể từ ngày thả nuôi các giống thủy sản nói trên, tỉ lệ sống của tôm và hải sâm đạt trên 70% (cao hơn 15% so với nuôi thuần chủng). Sản lượng thu hoạch tôm trên 3,6 tấn/ha, hải sâm gần 2,6 tấn/ha, rong nho 3 tấn/ha, kích cỡ rong nho thu hoạch 3 kg/bụi rong. Sau khi trừ chi phí, 3 hộ nông dân tham gia lãi hơn 600 triệu đồng, cao trên 30% so với nuôi tôm sú thuần chủng.

Ông Nguyễn Văn Long, một trong 3 hộ nói trên, cho biết lúc mô hình mới triển khai, ông rất bỡ ngỡ nhưng ngay vụ đầu đã thấy hiệu quả vì môi trường nước sạch hơn, tôm và hải sâm không dịch bệnh. Nhờ sản phẩm sạch, các cơ sở thu mua giá cao hơn, từ 3.000 đến 7.000 đồng/kg (tôm, hải sâm, rong nho).

Theo đánh giá của các chuyên viên thủy sản, lợi ích lớn nhất của mô hình này là giảm tối đa lượng thuốc, hóa chất trong quá trình nuôi, đồng thời thức ăn được kiểm soát tốt, không để dư thừa nên môi trường nước rất sạch, không gây bệnh cho vật nuôi.

Hiện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận đang lập kế hoạch để nhân rộng mô hình nuôi thủy sản này trên địa bàn.

Theo báo Người lao động, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Vì sao rong nho không được nuôi trồng đại trà như các loại rau khác?

Rong nho ở Việt Nam vốn được biết như một món rau sống ăn kèm rất ngon và bổ dưỡng, trồng phổ biến tại Khánh Hòa và một vài tỉnh khác. Tuy nhiên người ta không dễ dàng thấy rong nho được bày bán đại trả như các loại rau phổ thông khác, vì sao lại có sự khác biệt như vậy?

Môi trường sống của rong nho

Rong nho là một loại rong sống ở vùng biển ấm Thái Bình Dương như Philippin, Indonexia, Việt Nam,… Trong những vũng, vịnh kín sóng, nước trong sạch, nền đáy bằng phẳng, nhiệt độ tốt nhất cho sự phát triển của rong nho là khoảng 25 – 30 độ C. Nếu thấp hơn nhiệt độ này rong nho sẽ lớn chậm hoặc ít tăng trưởng. Rong nho màu xanh đậm, sinh sản chủ yếu là sinh sản sinh dưỡng, thường phân bố từ vùng triều thấp đến sâu 8m, có nơi nước trong rong nho có thể phân bố sâu đến 40m.

Môi trường càng giàu dinh dưỡng rong càng phát triển mạnh. Vì vậy hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước là yếu tố quan trọng để rong nho phát triển tốt. Các yếu tố môi trường khác tác động lên rong nho như độ mặn thay đổi từ 30 – 35%, nhiệt độ nước biển hạ thấp quá hoặc cao quá cũng làm chúng tăng trưởng chậm hoặc ngừng tăng trưởng.

Một số hình thức nuôi trồng rong nho

Trên thế giới và ở Việt Nam, rong nho được trồng theo nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện địa lý và môi trường như trồng đáy, trồng treo hoặc nuôi lồng nhưng cũng đều phải đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật chăm sóc và duy trì, thu hoạch và bảo quản.

Sơ chế và bảo quản rong nho biển tươi

Rong nho biển được thu hoạch hằng ngày theo nhu cầu và theo tuổi của chúng, nếu không khai thác kịp rong nho sẽ già và kém chất lượng, phải nhổ bỏ. Sau khi thu hoạch, rong nho được rửa thật sạch bằng nước biển để loại bỏ bùn và tạp chất bám trên thân. Rong được cắt khỏi thân thường phải sục khí trong 24h và có ánh sáng tự nhiên rọi vào làm lành vết cắt, sau đó rong nho được vớt lên để ráo và bảo quản ở nhiệt độ thường trong các thùng xốp đậy kín hoặc túi nylon. Tuy nhiên để rong nho có thể bảo quản và sử dụng được lâu hơn người ta cần áp dụng nhiều những kỹ thuật tiên tiến khác.

Với những điều kiện đòi hỏi kén chọn về địa lý, địa hình, nhiệt độ và môi trường sống, phương pháp nuôi trồng và bảo quản cần áp dụng đúng kỹ thuật, nên rong nho ở Việt Nam hiện tại chỉ được nuôi ở các tỉnh như Ninh Thuận, Nha Trang, Khánh Hòa … với mật độ ít.

Nguồn: Ijpou được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Rong nho Khánh Hòa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật Bản

Nhờ nuôi trồng trong môi trường sạch, an toàn, rong nho Khánh Hòa cho năng suất cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Rong nho có màu xanh tươi với những quả nhỏ tròn căng bóng mịn kết lại thành chùm dài, vị mặn kết hợp vị chua thanh nhẹ mà giòn mát. Theo phân tích của Viện hóa hữu cơ và Viện sinh biển Viễn Đông năm 2006, rong nho có chứa nhiều dưỡng chất, vitamin (A, C) và có khả năng giúp phòng chống xương khớp, cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường… Hương vị cùng giá trị dinh dưỡng giúp rong nho được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.

Loại rong này thích hợp với môi trường sống ở vùng biển ấm và có độ mặn cao như vùng biển Thái Bình Dương, đặc biệt phân bố nhiều ở Philippines. Tại Nhật Bản, rong nho được nuôi trồng tại vùng biển Okinawa theo phương pháp trồng tiếp đáy, treo lơ lửng trong nước biển hoặc các bể, hồ xi măng chứa nước biển. Tuy nhiên, các phương pháp này cho năng suất rong nho thấp, chỉ khoảng 10 tấn một ha mỗi năm và chiều dài cọng rong chỉ đạt 6-7cm.

Tại Việt Nam, năm 2004, từ 200gram rong nho giống mang về Nhật, anh Lê Bền ở xã Ninh Hải, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa – Phó giám đốc Công ty TNHH Trí Tín đã tiến hành nuôi trồng rong thử nghiệm trong các đìa tôm sú bỏ hoang. Qua thời gian nghiên cứu, rút kinh nghiệm, năm 2007, anh Bền đã tìm ra cách nuôi mới cải tiến từ phương pháp của người Nhật. Cách làm này không chỉ cho năng suất cao hơn mà chất lượng tốt nên sản phẩm xuất khẩu trở lại Nhật Bản.

Cụ thể, anh Bền nuôi rong trong những khay nhựa, đáy có lót ni lông để chứa mùn cát và chất dinh dưỡng, rồi chúng được đặt trên kệ hoặc sạp đóng bằng tre, gỗ, gạch, đá nằm chìm dưới đáy ao nuôi.

Nước trồng rong nho phải được xử lý và lọc sạch để loại bỏ các kim loại nặng, vi sinh vật có hại, vi khuẩn gây bệnh… Bên trên ao nuôi sử dụng lưới tạo mái che nhằm chủ động điều tiết ánh sáng và nhiệt độ của nước biển.

Phương pháp này giúp rong nho có thể hấp thu chất dinh dưỡng một cách tốt nhất, ít lẫn có tạp chất và năng suất thu hoạch đạt tới 20 tấn một ha mỗi năm và chiều dài có thể đạt 9-10cm. Đồng thời, thời gian thu hoạch rong ngắn chỉ trong vòng 15-20 ngày một vụ.

Theo anh Bền, để rong nho đủ tiêu chuẩn đi Nhật, không chỉ khâu nuôi trồng, quy trình chế biến rong nho cũng phải đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm HACCP với 4 công đoạn công phu. Ngay sau khi thu hoạch, rong được làm sạch cơ học trong các bể nước biển đã qua lọc và khử trùng bằng Ozone. Công đoạn này giúp rong sạch tạp chất và loại bỏ được hết các sinh vật lạ bám dính trên cọng rong, đồng thời, rong được phân loại luôn theo độ dài.

Tiếp theo, rong nho sẽ được nuôi lại trong các bể nhựa ở điều kiện lý tưởng. Trong giai đoạn này, rong vẫn sống, hấp thụ thêm các dưỡng chất, các nguyên tố đa lượng, vi lượng đồng thời giải phóng các kim loại nặng độc hại nếu có. Theo anh Bền, đây cũng là giai đoạn để các vết cắt tự “làm lành”, nhờ đó quá trình bảo quản sản phẩm đảm bảo hơn. Sau đó, rong được đưa vào làm ráo nước bằng máy ly tâm và đóng gói sản phẩm cung cấp ra thị trường.

Phương pháp trồng cải tiến này được áp dụng rộng rãi và diện tích trồng rong nho tiếp tục mở rộng hơn 300 ha tại các huyện Cam Lâm, Cam Ranh và Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu sang Nhật Bản.

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng rong nho biển trong ao

Rong nho biển (tên khoa học Caulerpa lentillifera), thuộc ngành tảo lục (Chlophyta). Do rong nho có hình dạng hạt giống quả nho nên gọi là rong nho. Từ lâu, rong nho được sử dụng như là một loại thực phẩm tươi sống (salad) ở các nước Nhật Bản, Philippines…

Rong nho biển – Món quà ý nghĩa từ thiên nhiên

Ở Việt Nam, từ năm 2004, phòng Thực vật biển – Viện Hải Dương học đã có những nghiên cứu đầu tiên về các đặc tính sinh học và kỹ thuật trồng rong nho biển trong điều kiện thí nghiệm với đề tài “Nghiên cứu các đặc trưng sinh lý, sinh thái của loài rong nho biển Caulerpa lentillifera (J.Agardh, 1873) có nguồn gốc nhập nội từ Nhật Bản làm cơ sở kỹ thuật cho nuôi trồng”. Tiếp theo đó viện Hải Dương học cũng đã thực hiện đề tài “Trồng rong nho biển Caulerpa lentillifera (J.Agardh, 1873) làm thực phẩm”. Kết quả của đề tài đã cho thấy rong nho biển có thể sống quanh năm ở nhiều vùng biển Việt Nam trong các điều kiện nuôi trồng trong bể xi măng hoặc composite, trong ao, đìa, vùng triều, ven triều nơi có độ mặn cao và ổn định.

Dưới đây là một số kinh nghiệm về kỹ thuật trồng rong nho để bà con biết và tham khảo:

1. Lựa chọn địa điểm trồng rong nho

Nơi trồng rong nho phải có nguồn nước không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và tránh xa nguồn nước ngọt từ các sông suối đổ vào, thuận tiện trong việc cấp thoát nước. Chất đáy cát bùn là tốt nhất. Nhiệt độ môi trường nước ổn định, pH 7,9 – 8,5; độ mặn 30-33‰.

2. Lựa chọn rong nho

Chọn rong nho giống có màu xanh sáng bóng, mềm và mọng nước, nhánh thân đứng dài trên 5cm, các quả trên thân đứng mọc dầy, sắp xếp đều đặn và không lẫn tạp chất và các sinh vật sống bám trên rong.

Rong nho giống

3. Chuẩn bị ao, vật tư và tiến hành trồng rong nho

Với ao mới đào cần cải tạo kỹ. Cho nước vào ao ngâm 2-3 ngày sau đó tháo rửa xả hết nước ao từ 2-3 lần. Rải vôi khắp đáy ao và bờ để khử chua, vôi sử dụng là CaO, lượng vôi trung bình từ 300 – 1.000kg/ha tùy thuộc pH đất. Sau khi rải vôi, kiểm tra pH đất. Phơi đáy ao 7-10 ngày rồi lấy nước vào ao chuẩn bị thả giống nho.

Với ao cũ đã trồng rong; sau khi thu hoạch, tháo kiệt nước, nạo vét lớp bùn đáy, dọn sạch cỏ rác và các sinh vật đáy nếu có.

Chuẩn bị ao trồng rong nho

Đóng cọc tre xung quanh vùng nuôi trong ao, giăng dây nilon, che lưới lan đen để hạn chế bớt ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp xuống cây rong.

Chuẩn bị khung trồng rong: Dùng ống nhựa (ống nước) ф 27mm, 4 góc kết nối bằng co nhựa loại 3 góc, thanh giữa kết nối bằng chữ T để chịu lực khi di chuyển. Dùng lưới nhựa đen lỗ lớn hình lục giác che phần trên khung, để rong phát triển trái; phần dưới khung che bằng lưới xanh, mắt lưới khoảng 0,8 cm, để rong phát triển rễ bám xuống mặt đất.

Rong giống được xếp nhẹ nhàng vào khung nhựa phần gốc được đặt phía lưới xanh, phần ngọn lên trên lưới đen. Mật độ rong 4kg/khung.

Sau khi cấy rong nho vào khung, các khung rong nho được chuyển xuống ao và được xếp thành hàng cách nhau 1m.

4. Chăm sóc rong nho

Hàng ngày tiến hành chăm sóc ao trồng rong, dọn sạch rác, vệ sinh ao, thường xuyên kiểm tra các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, độ mặn pH, cường độ ánh sáng để có biện pháp xử lý, đặc biệt trong lúc trời mưa nhiều, nắng gắt.

Định kỳ thay nước mới vào ao khoảng 2 – 3 ngày một lần, nếu thấy rong kém phát triển vì thiếu dinh dưỡng thì có thể bón thêm phân vô cơ hoặc hữu cơ làm từ bột cá.

5. Phòng ngừa dịch hại

Rong nho có thể bị gây hại bởi các đối tượng:

Động vật ăn rong nho biển: Nhiều loài cá rất thích ăn rong nho biển như cá đối, cá dìa, thỏ biển… Cần có lưới chặn ở cống cấp nước để phòng tránh, nếu thấy chúng xuất hiện trong ao phải vớt bỏ.

Động vật sống bám: Một số động vật thường theo nguồn nước vào ao và sống bám trên rong nho như hải quỳ, trùng vôi nên phải thường xuyên ngắt bỏ những đoạn rong nho có hải quỳ hoặc trùng vôi bám.

Rong phụ sinh: Rong nho biển có kích thước khá lớn nên là giá thể tốt cho nhiều loại rong phụ sinh sống bám lên trên. Cần chăm sóc tốt để rong nho phát triển mạnh khỏe và thường xuyên thay nước sẽ hạn chế được các loại rong phụ sinh này. Nếu ít thay nước hoặc rong nho già yếu, rong phụ sinh sẽ phát triển nhiều và bám trên rong nho.

6. Thu hoạch rong nho

Sau thời gian trồng khoảng 1,5 đến 2 tháng, tiến hành thu hoạch lứa rong nho lần đầu. Thu những cọng rong dài trên 5cm, thao tác cần nhẹ nhàng, tránh dập nát.

Thu hoạch rong nho

Rong được thu hoạch phải luôn để trong môi trường nước biển, tránh để rong bị xẹp do mất nước.

Rong nho chỉ cần trồng một lần rồi thu hoạch liên tục trong mấy tháng hoặc quanh năm, khoảng cách giữa các lần thu hoạch khoảng 15 ngày.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

 

Tối ưu hóa sơ chế rong nho (Caulerpa lentillifera) sau thu hoạch

Rong nho (Caulerpa lentillifera) là loài rong có giá trị dinh dưỡng cao được nhiều nước ưa chuộng nên có tiềm năng xuất khẩu cao. Rong nho sau khi thu hoạch được sơ chế để bảo quản tươi hoặc làm thành rong nho khô để bảo quản nhằm tăng thời gian sử dụng.

Tuy nhiên, ở Việt Nam qua khảo sát thực tế cho thấy, thời gian bảo quản rong nho tươi khá ngắn. Nếu rong nho bảo quản trong môi trường không khí bình thường, sau 01 ngày nhanh chóng bị hư hỏng. Nếu rong nho được bảo quản trong hộp xốp, bao màng polyvinyl chloride theo cách thông thường của các loại rau quả khác, sau 3 ngày cũng nhanh chóng bị hư hỏng. Nếu bảo quản rong nho trong bao bì polypropylen như các cơ sở kinh doanh rong nho tươi hiện nay trên địa bàn Khánh Hòa thì có thời gian bảo quản cũng chỉ từ 5 đến 7 ngày. Nguyên nhân của sự nhanh chóng hư hỏng này một phần do đặc điểm của rong nho khá mọng nước, cấu trúc rong nho mềm, lỏng lẻo, dễ tổn thương, gây hư hỏng bởi các tác nhân bên ngoài, một phần do quá trình sơ chế rong nho sau thu hoạch chưa phù hợp, ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguyên liệu rong nho ban đầu nên rong nho nhanh chóng bị hư hỏng khi bảo quản.

Nghiên cứu “tối ưu hóa sơ chế rong nho (Caulerpa lentillifera) sau thu hoạch” của Lê Thị Tưởng và Nguyễn Thị Mỹ Trang được thực hiện nhằm ổn định chất lượng nguyên liệu ban đầu, giúp kéo dài thời gian bảo quản, góp phần làm tăng giá trị kinh tế cho rong nho.

 

Rong nho sau thu hoạch có nhiều tạp chất vô cơ và hữu cơ cũng như vi sinh vật bám trên rong, vì vậy rong nho sau thu hoạch cần phải rửa nhằm loại bỏ các tạp chất và vi sinh vật bám trên bề mặt của rong, giảm nguy cơ gây hư hỏng rong khi bảo quản.

Sau đó rong nho được chuyển sang bể nước sạch có sục khí để nuôi lại. Mục đích của quá trình nuôi lại rong nho nhằm tạo điều kiện cho rong lành các vết thương và phục hồi sức khỏe sau thu hoạch, vận chuyển và rửa rong nho. Vì vậy, điều kiện môi trường phù hợp cho rong sinh trưởng, phát triển cũng là điều kiện phù hợp cho rong lành các vết thương và phục hồi sức khỏe.

 

Rong nho bị tiết nhớt sau thu hoạch       Rong lành vết thương sau khi sơ chế

Kết quả nghiên cứu cho thấy điều kiện tối ưu công đoạn rửa rong nho là lượng nước rửa: 15 lít/kg; thời gian rửa: 7 phút/lần, số lần rửa: 3 lần. Điều kiện tối ưu công đoạn nuôi lại rong nho là mật độ rong: 1 kg/40lít; thời gian nuôi: 3 ngày và lượng oxy hòa tan: 7ppm. Với điều kiện tối ưu này, thu được chất lượng cảm quan và độ sáng của rong nho cao nhất với lượng vi sinh vật còn bám trên rong không đáng kể.

Màu sắc rong nho trước khi sơ chế              Màu sắc rong nho sau khi sơ chế

Nguồn: TapchikhoahocvacongnghetruongdaihocCanTho được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Vài nét về rong nho

Rong nho là gì?

Rong nho là một loại tảo biển, được phân bố tự nhiên tại khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới. Do hình dạng hạt rong và cảm quan lạ có hình dáng giống quả nho nên được gọi là Rong nho.

Đây là loại Rong có sự phân bố tự nhiên tại vùng Đông và Đông Nam Á. Từ lâu, Rong nho được khai thác ngoài tự nhiên và sử dụng như là một loại thực phẩm tươi sống. Trong Rong nho có hoạt chất Caulerpin và Caulerpicin tạo mùi vị kích thích ngon miệng và có tác dụng chữa bệnh.

Rong nho

Theo nhu cầu của con người và sự khan hiếm của Rong nho tự nhiên, hiện tại người ta phải trồng rong nho để có thể thu hoạch và sử dụng. Rong nho có thể trồng như trong môi trường tự nhiên của chúng đó là các vùng biển cạn và yên tĩnh, hoặc trong các ao đầm và cả trong lồng, trên dây treo ngoài biển.

Rong nho có đặc điểm cấu tạo là phần “thân, nhánh” được gắn vào đá, cát hay nền đáy khác bằng các sợi “rễ” nhỏ màu trắng. Từ phần “thân,  nhánh” mọc ra các fronds (thường quen gọi là lá) có hình tròn, đường kính khoảng 2 mm. Bên trong các “lá” này chứa đầy chất dịch, dạng gel. Chính vì hình dạng của các “lá” này, nên nó được gọi là Rong nho (Grape Seaweed hay Umibudo).

Hình dạng của rong nho

Rong nho hấp thu chất dinh dưỡng từ môi trường nước xuyên qua các “nhánh” và “lá” để phát triển.

Điều kiện trồng rong nho

Trong điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn và chất dinh dưỡng thích hợp, rong nho phát triển rất nhanh, thời gian thu hoạch ngắn.
Rong nho được nuôi trong mô hình khép kín. Cấu trúc một trại nuôi cụ thể gồm 4 thành phần:
             Hệ thống cấp nước
             Hệ thống bể nuôi
             Hệ thống giữ giống
             Hệ thống bảo quản sản phẩm sau thu hoạch
Nguồn nước từ tất cả các hệ thống này đều được xử lý kỹ và đặc biệt là hệ thống xử lý nước trước khi thải ra môi trường là hệ thống kín, lọc qua cát. Rong nho phát triển nhanh trong điều kiện nuôi theo quy trình khép kín. Một đợt nuôi kéo dài từ 20 đến 30 ngày là có thể thu hoạch.

Giá trị dinh dưỡng từ rong nho

Rong nho là thực phẩm tự nhiên, có hàm lượng dinh dưỡng cao và nhiệt lượng thấp, nó có hàm lượng chất khoáng nhiều nhất là sinh tố, canxi, sắt…
Hàm lượng dinh dưỡng cao từ rong nho
Rong nho được chọn là 1 trong 5 hàng hóa được ưa thích nhất, khi khách tham quan Okinawa (Nhật Bản).
Rong nho tươi được sử dụng phổ biến trong các món ăn gia đình Việt Nam như là các món ăn kiểu Nhật khác như Wasabi, ăn hải sản sống…rất hữu ích cho sức khỏe và hỗ trợ nhiều cho việc chữa bệnh cho người như:
– Rất tốt cho nhuận trường và giải độc gan
 – Bình thường hóa lượng đường trong cơ thể
Làm đẹp từ rong nho
 – Giảm cholesterol
 – Ổn định huyết áp
 – Ngoài ra Rong nho còn là sản phẩm làm đẹp da cho phụ nữ
– Rong nho được dùng thường ngày chung với các loại thực phẩm khác.
Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Trồng rong nho: Cần đầu tư nhân rộng

Một số người dân ở TX Sông Cầu (Phú Yên) đang nuôi trồng rong nho. Đây là đối tượng nuôi trồng mới nên nhiều bà con chưa mạnh dạn đầu tư.

Đối tượng trồng mới

Tại TX Sông Cầu, người đầu tiên trồng rong nho là anh Lương Khắc Lâm. Anh Lâm cho biết: “Cách đây 2 năm, tôi từ TP Tuy Hòa ra xã Xuân Phương (TX Sông Cầu) trồng rong nho. Ban đầu, tôi mua khoảng 500kg giống (25.000 đồng/kg) ở Khánh Hòa về trồng trên diện tích ao hơn 1.500m2. Sau 1 tháng, rong nho phát triển tốt và bắt đầu cho thu hoạch đến nay. Hiện Phú Yên chưa có địa điểm thu mua, nên sau khi thu hoạch rong nho, tôi chở vào TP Nha Trang (Khánh Hòa) bán xô với giá từ 23.000 đến 25.000 đồng/kg. Tôi cũng đang học cách sơ chế rong nho thành phẩm, bán với giá 100.000 đồng/kg. Nghề này rất nhọc, đòi hỏi nhiều công lao động để chăm sóc và thu hoạch, nhưng bù lại cho thu nhập cũng khá. Hiện gia đình tôi mỗi tháng thu khoảng 15-20 triệu đồng từ tiền bán rong nho”.

Rong nho mang lại thu nhập bình quân mỗi tháng 15 – 20 triệu đồng

Theo tiến sĩ Thái Ngọc Chiến, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III (Khánh Hòa), ở Việt Nam, việc nghiên cứu rong nho được thực hiện từ năm 2004 đến nay. Rong nho biển là loại thức ăn ngon, bổ dưỡng, chất caulerparine trong rong nho kích thích ăn ngon miệng, có tác dụng diệt khuẩn. Rong nho biển không nhiều đường, đạm nhưng chứa nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng cần thiết. Những năm gần đây, rong nho được trồng khá phổ biến ở TP Cam Ranh và TX Ninh Hòa (Khánh Hòa), bằng hình thức trồng tiếp đáy trực tiếp hay trồng bằng vỉ cho tiếp đáy ở ao. Các mô hình trồng rong nho đã góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các hộ dân đồng thời tận dụng được các ao nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả.

Cần đầu tư nhân rộng

Hiện nhiều người dân ở TX Sông Cầu có ao đìa nuôi tôm không hiệu quả đang muốn chuyển sang trồng rong nho. Tuy nhiên, đây là một đối tượng nuôi trồng mới nên bà con chưa mạnh dạn đầu tư. Ông Đoàn Mỡ ở thôn Phú Mỹ, xã Xuân Phương, cho biết: “Ao đìa có sẵn, kỹ thuật trồng rong nho đã được tập huấn nên tôi cũng am hiểu phần nào. Điều lo lắng nhất hiện nay là đầu ra của sản phẩm, vì tại Phú Yên chưa có cơ sở chế biến và điểm thu mua”. Theo ông Nguyễn Minh Chỉ ở xã Xuân Phương, các cơ quan chuyên môn nên hướng dẫn kỹ thuật trồng rong nho cho người dân theo hướng cầm tay chỉ việc. Nghĩa là, cán bộ kỹ thuật phải ứng trực tại địa phương có trồng rong nho, khi đó bà con cần hỏi điều gì thì hướng dẫn trực tiếp. Nhà nước cũng cần đầu tư mô hình trồng rong nho thí điểm để sau đó nhân rộng… Ông Trần Ngọc Hà, Phó chủ tịch UBND xã Xuân Phương, cho biết: “Hiện nay, tình hình dịch bệnh trên các đối tượng thủy sản nuôi rất phức tạp; một số diện tích ao, đìa nuôi tôm hiệu quả bấp bênh. Trồng rong nho đầu tư ít nhưng đem lại giá trị kinh tế ổn định nên Nhà nước cần có chính sách đầu tư để bà con ven biển cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm nghèo”.

Theo tiến sĩ Thái Ngọc Chiến, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III đang thực hiện mô hình thí điểm trồng rong nho tại TX Sông Cầu; bà con nào có nhu cầu thì đăng ký để Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III xem xét và sẽ triển khai trồng trong năm 2015. Đối với kỹ thuật trồng rong nho, tiến sĩ Chiến cho biết: Ao, đìa dùng để triển khai trồng rong nho có chất đáy là cát pha bùn, đáy ao có độ dốc nghiêng về cống và độ cao trình đáy thấp hơn khi thủy triều lên. Người nuôi cần chọn vùng ven biển có nguồn nước sạch, không bị nhiễm bẩn do chất thải các ngành sản xuất và chất thải sinh hoạt của dân cư, vùng có độ mặn ổn định từ 28 đến 35‰ (thích hợp nhất từ 30 đến 35‰), độ pH từ 7,5 đến 8,5. Rong nho phát triển rất nhanh với tốc độ tăng trưởng đạt gần 2,6%/ngày, đặc biệt là trong môi trường nhiều chất hữu cơ. Sau 30-35 ngày trồng, rong nho có thể cho thu hoạch, năng suất trung bình 20 tấn/ha/năm. Tùy thuộc vào mùa vụ, người trồng có thể điều chỉnh ánh sáng ở khu vực trồng rong thích hợp trong khoảng 15.000 Lux (15% ánh sáng tự nhiên vào buổi trưa mùa hè) bằng lưới lan đen. Mùa hè ánh sáng mạnh cần phải che 2 lớp lưới, mùa đông ánh sáng yếu chỉ cần che 1 lớp lưới hoặc che 1 tấm lưới cách 1 tấm lưới không che.

Thu hoạch rong nho

Trung tâm Chất lượng thủy sản Vùng 3 đã cấp chứng nhận sản phẩm rong nho đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cho 3 công ty tại Khánh Hòa. Sản phẩm xuất khẩu gồm rong nho tươi, rong nho khô (chế biến qua muối bão hòa) và bột rong nho biển; chủ yếu xuất sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Nga… Trong nước, người dân cũng đang chú ý đến các sản phẩm từ rong nho bởi giá trị dinh dưỡng và tính an toàn cho sức khỏe.

Nguồn : Tepbac, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Dạng rong giống và nền đáy phù hợp cho rong nho phát triển tốt nhất

Rong nho (Caulerpa lentillifera) được ưa chuộng và sử dụng như một loại rau xanh bởi có giá trị dinh dưỡng cao  (giàu acid amin thiết yếu, vitamin A, C và các nguyên tố vi lượng như phospho, sắt, iốt, canxi) rất tốt cho sức khoẻ con người như phòng chống các bệnh bướu cổ, thiếu máu, suy dinh dưỡng, thấp khớp, cao huyết áp, chống lão hoá, béo phì…

Tại Việt Nam, rong nho đã được nhập từ Nhật Bản về Việt Nam và trồng thử nghiệm từ năm 2014. Đây là một loại rong dễ trồng, tuy nhiên, để đạt được sự sinh trưởng tốt và chất lượng tốt nhất phụ thuộc vào nhiều yếu tố kỹ thuật.

Khoa thủy sản, trường đại học Cần Thơ đã thử nghiệm trồng rong nho (Caulerpa lentillifera) trong bể với các dạng rong giống và nền đáy khác nhau.

Hai nguồn rong nho giống được sử dụng gồm rong nho nguyên tản (thân đứng và thân bò) và rong nho được loại bỏ phần thân đứng (phần chùm nho) được trồng trên nền đáy cát và các loại nền đáy gồm: không nền đáy, đáy cát, đáy bùn, đáy cát-bùn (tỉ lệ cát:bùn = 2:1), đáy bùn-cát (tỉ lệ bùn:cát = 2:1).

Cấu tạo rong nho(Caulerpa lentillifera)

Kết quả chỉ ra rằng rong nho giống được loại bỏ toàn bộ các thân đứng (chùm nho) có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn có ý nghĩa so với giống rong nho nguyên tản ở điều kiện nuôi trong bể.

Kết quả thí nghiệm rong trồng trên các nên đáy khác nhau

A: Không nền, B: Đáy cát, C: Đáy bùn, D: Cát-bùn, E: Bùn-cát

Nền đáy cát là nền đáy thích hợp cho việc trồng rong nho trong bể cho tăng trưởng và chất lượng rong nho tốt nhất.

Nguồn: TapchikhoahocdaihocCanTho được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho : hiệu quả cao và bền vững

Ốc hương là thực phẩm cao cấp, có giá trị dinh dưỡng, thương mại cao, nghề nuôi ốc hương đã được nhiều người phát triển rộng rãi. Tuy nhiên hiện nay đa số người dân nuôi ốc hương với hình thức nuôi đơn, thả mật độ dày. Vài vụ nuôi đầu cho năng suất cao, càng về sau nguồn nước càng ô nhiễm bởi hóa chất và thức ăn thừa nên dẫn đến dịch bệnh trên ốc, làm năng suất hạ thấp thậm chí mất trắng cả vụ nuôi.

Trước tình hình đó, Trung tâm khuyến ngư quốc gia đưa ra cho bà con mô hình nuôi mới : nuôi kết hợp ốc hương, hải sâm và rong nho. Hải sâm cát đã nhân giống thành công và được nuôi phổ biến tại Khánh Hòa. Trong khi đó, rong biển cũng là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhiều người ưa chuộng. Khi nuôi kết hợp 3 loài này mới nhau, hải sâm có tác dụng lọc tầng đáy, ăn thức ăn thừa, vụn hữu cơ của ốc hương, còn rong nho hấp thu các chất hữu cơ lơ lửng trong nước, giúp nước sạch và mát hơn. Sau đó là hải sâm, rong biển sẽ chuyển dạng năng lượng thấp (chất thải) sang năng lượng cao và hữu ích; đồng thời giúp người nuôi tăng thu nhập trên cùng đơn vị diện tích.

Nuôi ghép 3 đối tượng này cho hiểu quả kinh tế cao

Mô hình áp dụng biện pháp kỹ thuật như sau :

Mô hình diện tích ao từ 2.500 – 5.000 m², độ mặn từ 20‰ trở lên, độ sâu mực nước từ 1,2-1,5 m. Đáy ao là đáy cát bằng phẳng dốc về phía cốc tiêu nước, được cắm lưới xung quanh (mắt lưới 2a = 2 mm) đáy cách bờ 5m, để ngăn không cho ốc bò lên bờ ao, có phần lưu không 1-2 m xung quanh ao. Sau 1 tháng nuôi thì lắp các cánh quạt.

Mật độ thả nuôi ốc hương 40 – 50 con/m² (cỡ trung bình 10.000 con/kg). Sau 1 tháng tiến hành thả hải sâm 0,5 con/m² (cỡ trung bình 50 g/con) và rong nho 500 kg/ha. Rong nho được đặt trong lồng, kích cỡ 1 m²/lồng. Mỗi lồng trồng 500 g rong nho giống

Sau thời gian thả nuôi từ 5 – 6 tháng thì tiến hành thu hoạch.  Lúc này ốc hương đạt kích thước 120 – 140 con/kg và hải sâm đạt 250 – 400 g/con. Thu hoạch ốc hương trước bằng máy. Sau khi bắt ốc hương xong, tháo cạn nước và dùng vợt hoặc tay để bắt hải sâm.

Kết quả thực hiện mô hình nuôi kết hợp ốc hương với hải sâm và rong biển năm 2015 tại hai điểm như sau:

– Năng suất rong nho đạt trung bình 17,6 tấn/ha; ốc hương đạt 2,5 tấn/ha; hải sâm đạt 1,3 tấn/ha.

– Lợi nhuận từ mô hình dao động từ 82,6 – 344 triệu đồng/hộ (trung bình đạt 224,7 triệu đồng/0,5 ha/vụ hay 449,4 triệu đồng/ha/vụ).

Khi so sánh với mô hình nuôi đơn cùng diện tích thì lợi nhuận nuôi đơn chỉ đạt 129,5 triệu/0,5 ha. Như vậy so với mô hình nuôi đơn, mô hình nuôi kết hợp lợi nhuận tăng 42,4%. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi kết hợp cao gấp 1,7 lần so với mô hình nuôi đơn. Tỷ suất lợi nhuận đạt trung bình 59,4%/9 tháng (hay 6,6%/tháng), cao gấp 11 lần so với lãi suất ngân hàng.

Mô hình đã và dang được nhân rộng

Dự án tại Khánh Hòa đã góp phần tạo phương thức nuôi hải sản mới, giúp cho người dân chuyển từ hình thức nuôi đơn thiếu bền vững sang nuôi kết hợp cải thiện môi trường, tăng hiệu quả kinh tế và bền vững. Tuy vậy, do đây là mô hình mới nên người dân còn ngại chuyển đổi, nên cần được phổ biến, nhân rộng nhiều hơn nữa.

 Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam