Công nghệ chế biến nông sản Việt Nam ở mức trung bình của thế giới

Hội thảo “Phát triển công nghiệp chế biến nông sản và Cơ giới hóa nông nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4” diễn ra tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam chiều 26/9 cho biết, từ 2018 đến nay có 30 dự án lớn đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư 20.000 tỷ đồng.

 

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đặc biệt nhấn mạnh vài trò của công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch với nền nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập

 

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam nhấn mạnh, nhờ công nghiệp chế biến tăng trưởng, phát tiển mạnh nên trong những năm vừa qua Việt Nam tiếp tục duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt trên 40 tỷ USD, tăng 9,6% so với 2017.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam khẳng định, tương lai nông sản Việt Nam có thắng trên thị trường thế giới hay không phụ thuộc rất lớn vào công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch.

Theo ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN-PTNT) cho biết, thời gian qua công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản của cả nước có nhiều kết quả to lớn, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định kinh tế, xã hội.

Cụ thể, giai đoạn từ 2013 – 2018 công nghiệp chế biến nông sản cả nước đã có bước phát triển mạnh mẽ trên cả quy mô và mức độ hiện đại so với 5 năm trước (giai đoạn 2007 – 2012), tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm đạt khoảng 5 – 7%. Nhờ công nghiệp chế biến nông sản tăng trưởng mạnh mà các mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng bình quân khoảng 8 – 10%/năm trong hai năm qua.

Theo số liệu thống kê của Bộ NN-PTNT, hiện Việt Nam đã bước đầu hình thành được hệ thống công nghiệp chế biến nông sản với trên 7.500 cơ sở quy mô công nghiệp gắn xuất khẩu. Ngoài ra, còn có hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình rải khắp các địa bàn làm nhiệm vụ sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa.

Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chú trọng đầu tư vào chế biến sản phẩm nông nghiệp, thống kê từ 2018 đến nay có 30 dự án đầu tư lớn vào chế biến sản phẩm nông nghiệp đã hoạt động, triển khai trên cả nước với tổng vốn đầu tư 20.000 tỷ đồng. Điển hình như các doanh nghiệp Masan, Doveco, Dabaco, TH Group, Vinamilk, Minh Phú, Ba Huân, Nafood, Lenger Seafood, Angfish… hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm để xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ.

Tuy nhiên, về mặt công nghệ chế biến và chất lượng sản phẩm, nhìn chung trình độ công nghệ chế biến nông sản Việt Nam so với thế giới mới đạt mức độ trung bình đến trung bình khá, chỉ có một số ngành hàng hoặc một số sản phẩm có công nghệ và thiết bị chế biến tương đối hiện đại mang tầm khu vực, thế giới như: chế biến hạt điều, chế biến lúa gạo, chế biến tôm và cá tra…

 

Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản trong GDP của ngành nông nghiệp đạt trên 30%.

Từ thực trạng, lợi thế, khó khăn, thách thức, nhất là thách thức từ biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp chế biến nông sản có đủ năng lực chế biến đảm bảo đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.

Trong đó, công nghệ chế biến đạt trình độ công nghệ từ trung bình tiên tiến trở lên, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN, một số ngành hàng dẫn đầu thế giới. Các sản phẩm sau chế biến phải đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm, góp phần tăng nhanh giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu.

Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng công nghiệp chế biến nông sản trong GDP của ngành nông nghiệp đạt trên 30%. Tốc độ giá trị hàng hóa nông sản qua chế biến đạt 7 – 8%/năm. Trên 50% số cơ sở chế biến mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đạt trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến. Tốc độ năng suất lao động đạt trên 7%/năm. Mức độ cơ giới hóa các khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt từ 90 – 100%. Công suất máy trang bị bình quân cả nước đạt 4-5,5HP/ha (hiện nay 2,2HP/ha).

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

GS Võ Tòng Xuân: Nông nghiệp 4.0 cần bắt đầu từ bớt phân thuốc

Khi nông nghiệp 4.0 bắt đầu được bàn luận nhiều thì theo giáo sư Võ Tòng Xuân, nên nghĩ đến nó từ việc rất căn bản là giảm phân thuốc.

Sau thời gian “công nghiệp 4.0” được bàn luận sôi nổi, “khí thế” này cũng đã lan sang ngành nông nghiệp. Trong một hội thảo mới diễn ra, Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, nông nghiệp 4.0 hay còn gọi là nông nghiệp thông minh đã giúp nền nông nghiệp nhiều quốc gia “phát triển rực rỡ”, mang lại bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng canh tác.

Tại Việt Nam, đã có các dự án nông nghiệp công nghệ cao lớn như mô hình sản xuất nấm của Kinoko Thanh Cao, trồng rau của VinEco, nuôi bò sữa của Vinamilk, nuôi gà của Hùng Nhơn… Tuy nhiên, số lượng chưa nhiều.

Mô hình thủy canh giá thể nhiều tầng Sky Green của VinEco.

“Việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến dựa trên số hóa và kết nối tạo ra các mô hình nông nghiệp thông minh đã xuất hiện nhưng còn rất ít”, cơ quan này nhận định.

Là chuyên gia làm việc lâu năm trong ngành nông nghiệp, giáo sư Võ Tòng Xuân bình luận, chính bởi đa số người làm nông chưa có điều kiện áp dụng công nghệ cao nên nếu suy nghĩ đến 4.0 thì việc đầu tiên cần làm đơn giản là bớt dùng phân bón, thuốc hóa học.

“Ngoài những cá nhân có điều kiện áp dụng nông nghiệp 4.0, đại bộ phận nông dân sẽ áp dụng nó trong chuỗi phát triển nông nghiệp theo mục tiêu tối hậu của nó, tức là ứng dụng các chế phẩm mới nhất trong quy trình sản xuất, giảm mạnh phân bón hóa học, nhất là phân đạm, tăng cường phân hữu cơ kết hợp với phân sinh học chứa nhiều nguyên tố vi lượng và vi sinh vật kháng sâu bệnh”, ông khuyến nghị.

Vị giáo sư cho rằng, triển khai nông nghiệp 4.0 ở Việt Nam sẽ không đơn giản vì còn hàng loạt thách thức, cả khách quan lẫn chủ quan. Biến đổi khí hậu, điều kiện đất đai, tập quán canh tác là các điển hình.

“Trước khi quyết định làm 4.0 thì cũng phải thấy bây giờ khí hậu thất thường, mưa nắng không đều, nước lũ về thấp hơn. Kênh mương chằng chịt làm đất đai manh mún, khó ứng dụng cơ giới hóa trên cánh đồng lớn”, ông nói.

Dẫn con số 68% người dân khu vực nông thôn dùng smartphone, ông Võ Tòng Xuân nhận định nhiều nông dân hứng thú tiếp cận công nghệ nhưng tư duy sản xuất vẫn giữ thói kinh nghiệm lão nông.

“Ông nông dân mình rất sang, chi mấy triệu mua smartphone không sao nhưng dùng hiệu quả chưa là chuyện khác. Mình cần nhiều thanh nông hơn chứ lực lượng lão nông rất khó sửa và cập nhật tiến bộ mới.

Nông dân cũng quá tự do, muốn trồng gì thì trồng, chặt gì thì chặt, không thích hợp tác một cách tự nguyện nên mỗi lần có chương trình, dự án phải vận động rất nhiều”, ông nhận định.

Theo vị giáo sư, qua 40 năm, ngành trồng lúa đã được cơ giới hóa hoàn toàn. Sản lượng lúa tăng tốt nhưng chất lượng chưa cao. Chăn nuôi và cây ăn quả phát triển nhưng chưa bền vì sâu bệnh tăng. Xuất khẩu cũng tăng nhưng không ổn định, dễ “dội chợ”. Do đó, suy nghĩ về nông nghiệp 4.0 cũng hợp lý nhưng còn rất nhiều việc phải làm.

Theo khái niệm của Hiệp hội Máy Nông nghiệp châu Âu, nông nghiệp 1.0 xuất hiện ở đầu thế kỷ 20 vận hành với hệ thống tiêu tốn sức lao động, năng suất thấp. Nông nghiệp 2.0 là cuộc cách mạng xanh vào những năm 1950.

Nông nghiệp 3.0 diễn ra từ những năm 1990 với ứng dụng GPS, cảm biến, cơ giới hóa cao. Và gần đây, nông nghiệp 4.0 được nhắc đến từ khái niệm công nghiệp 4.0 do người Đức định nghĩa.

Với một số chuyên gia và nhà quản lý tại Việt Nam, việc hướng đến nông nghiệp 4.0 đang cần thiết để thay đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp vẫn trong tình trạng khối lượng nhiều – giá trị thấp, hiệu suất dùng đất đai và tài nguyên chưa cao. Ngoài ra, thị trường thế giới đang là thời cơ cần nắm bắt.

“Việt Nam có vị trí chiến lược tại Đông Nam Á để cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho khu vực. Ngoài ra, chúng ta đang nằm cạnh một thị trường hết sức lớn và dễ tính”, Tiến sĩ Đoàn Duy Khương – Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nêu ví dụ.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Thủy sản thời 4.0

Nhờ bắt kịp xu thế và áp dụng những công nghệ thông minh trong thời đại nông nghiệp 4.0 mà ngành nuôi trồng thủy sản đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Dưới đây là một số ứng dụng thông minh đang mang lại những hiệu quả thiết thực, mở ra nhiều triển vọng cho ngành thủy sản.

Công nghệ điện hóa – siêu âm

Tác giả của công nghệ này là TS Lê Quang Tiến Dũng và cộng sự thuộc bộ môn Vật lý chất rắn – Khoa Vật lý, Trường ĐH Khoa học Huế. Với ưu điểm không phải sử dụng bất cứ hóa chất nào khác trong quá trình nuôi, đây là giải pháp được trao giải Ba Giải thưởng Khoa học công nghệ Việt Nam năm 2016. Công nghệ đã được ứng dụng thành công ở các tỉnh ĐBSCL như Đồng Tháp, Kiên Giang, Cà Mau… giúp giải được bài toán lớn về xử lý các chất dư thừa đọng lại dưới đáy ao nuôi. Thiết bị xử lý nước trong hồ tôm dựa trên nguyên lý chuyển hóa mật độ bọt khí của dung dịch điện hóa thành vi bọt khí. Dung dịch vi bọt khí được điều chế bằng phương pháp điện hóa – siêu âm đã tăng hiệu suất diệt khuẩn mà không cần đến bất kỳ một loại hóa chất diệt khuẩn, kháng sinh nào và cũng không cần thay nước trong suốt vụ nuôi. Bằng cách cho nổ tung bọt khí sau điện hóa sử dụng siêu âm công suất, dung dịch vi bọt khí đã đem lại chìa khóa thành công cho nuôi tôm thâm canh vì đã cùng lúc xử lý đạm hóa tan trong suốt vụ nuôi, xử lý khuẩn, xử lý tảo và làm giàu ôxy cho nước ao nuôi. Cụ thể, khi sử dụng dung dịch vi bọt khí được điều chế từ siêu âm – điện hóa kết hợp khảo sát theo nồng độ muối NaCl với điện áp cố định 4V, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 77,7% nồng độ NaCl 5 g/l. Với nồng độ NaCl 20 g/l, hiệu suất xử lý khuẩn Vibrio spp. đạt 100% với tỷ lệ dung dịch vi bọt khí: khuẩn (1:1). Dung dịch vi bọt khí có khả năng phân hủy xanh methylene và xử lý khuẩn Vibrio spp. tốt hơn so với khi sử dụng dung dịch anolyte được điều chế từ bộ điện hóa.

Công nghệ giúp giảm chi phí rất lớn về xử lý nước trong quá trình nuôi, chỉ tiêu tốn khoảng 700 đồng/m3 so với 2.000 đồng/m3 khi sử dụng các hóa chất để xử lý. Nâng tỷ lệ thành công các vụ nuôi trồng thủy sản rất lớn cho các hộ nuôi so với trước đây. Đến nay, công nghệ đã được Trường ĐH Khoa học Huế kết hợp với Công ty Huetronics tiến hành triển khai chế tạo và thương mại hóa thiết bị xử lý nước sử dụng điện hóa – siêu âm với công suất lớn, cấp nước vào ao hoặc tuần hoàn trong suốt vụ nuôi mà không dùng bất kỳ sản phẩm diệt khuẩn truyền thống nào.

Thiết bị XpertCount2

Thiết bị được sản xuất bởi XpertSea Solutions, một nhà sản xuất hàng đầu các sản phẩm công nghệ tin học phần cứng và phần mềm của ngành thủy sản có trụ sở tại Canada. Hiện, thiết bị đang được phân phối tại Việt Nam bởi Công ty Vinhthinh Biostadt. Đây là một thiết bị di động thông minh dùng để kiểm tra và đánh giá nhanh chất lượng các loài thủy sinh về: số lượng, kích cỡ (chiều dài) và độ phân đàn (CV). Sử dụng công nghệ quang học tiên tiến an toàn cho tất cả sinh vật, XperCount2 giúp người sử dụng đếm hàng nghìn sinh vật, từ các tế bào vi tảo, ấu trùng đến các hậu ấu trùng chỉ trong vài phút. Mọi dữ liệu từ thiết bị XperCount2 đều được tổng hợp vào một báo cáo kiểm soát chất lượng dựa trên công nghệ đám mây dễ sử dụng, có thể được tải về và chia sẻ giữa ban quản lý cơ sở tôm giống và khách hàng. XperCount2 hoạt động như một chiếc máy tính được hỗ trợ thêm bởi 2 camera và bộ cảm biến nên có độ chính xác vượt trội lên đến 95% đối với tất cả ứng dụng cập nhật mỗi 2 tuần. Có khoảng cách kích thước hoàn thiện từ 1 micromet đối với vi tảo cho đến lớn hơn như ấu trùng tôm hay tôm post. Máy vận hành bằng pin, sử dụng liên tục 6 – 8 giờ, gọn nhẹ (khoảng 4 kg), dễ thao tác, sử dụng màn hình cảm ứng và hệ thống wifi nên vừa có tính cơ động cao, nhưng cũng dễ dàng sử dụng trong mọi lúc, mọi nơi. Máy có khả năng báo cáo và phân tích chuyên sâu cho 100% hoạt động truy xuất và mở rộng sản xuất. Kết quả các mẫu kiểm tra sẽ được tự động gửi về cho khách hàng và khách hàng có thể truy cập từ bất kỳ trình duyệt nào để xem dữ liệu.

Hệ thống RAS

Mặc dù đã được nhắc đến nhiều, nhưng không thể phủ nhận rằng hệ thống lọc tuần hoàn (RAS) cho đến nay vẫn được xem là hệ thống nuôi trồng thủy sản thông minh và mang lại hiệu quả đối với người nuôi nhất tại nhiều nước trên thế giới. Với ưu điểm là tiết kiệm nước, tỷ lệ sống cao, năng suất cao gấp nhiều lần nuôi bình thường (trên 100 kg/m3), chất lượng cá nuôi được đảm bảo và không gây ô nhiễm môi trường. RAS bao gồm một dây chuyền các quá trình bổ sung, cho phép lượng nước thải được tái sử dụng cho các bể nuôi. Trong suốt quá trình nuôi, nước sẽ tuần hoàn trong một hệ thống kín và hoàn toàn không thay nước, chỉ một lượng nhỏ nước mới được cấp thêm vào hệ thống để bù đắp cho lượng nước hao hụt do bốc hơi. Sau khi hệ thống được vận hành, kiểm tra thông số môi trường (DO, pH, NH3, NO2…) và nhiệt độ, sau đó có thể thả cá vào bể nuôi. Thông thường cá được thả vào bể phải có mật độ cao (100 – 200 con/m3), hàng tuần định kỳ kiểm tra thông số môi trường để điều chỉnh thích hợp. Hệ thống lọc phải được vận hành liên tục suốt vụ nuôi (3 – 5 tháng), hệ thống sục khí phải được duy trì hằng ngày. Sau khi vận hành hệ thống lọc tuần hoàn 3 ngày trở lên thì thả cá giống vào bể và cho ăn bằng thức ăn công nghiệp, lượng thức ăn được điều chỉnh theo sức ăn của cá.

Hiện, RAS được cải tiến, áp dụng chủ yếu trong các trại sản xuất tôm giống ở các tỉnh ĐSBCL.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trung Quốc, Ấn Độ “bắt chước” mô hình nông nghiệp 4.0 từ châu Âu

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tham vọng với những tiến bộ của các công nghiệp khác sẽ hỗ trợ liên minh công nông, áp dụng khái niệm nông nghiệp 4.0 từ châu Âu…

Ấn Độ

Theo Rishi Nair (Công ty Khoa học Nông nghiệp Zuari, 2015), Nông nghiệp 4.0 vẫn còn xa đối với toàn Ấn Độ, vì những lý do:

1. Tiếp cận nguồn dữ liệu: Nguồn dữ liệu tuy đã mạnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập như các dữ liệu về các hóa chất nông học, hạt giống, và những vật tư đầu vào khác không hoàn toàn được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật, nên công tác thống kê về thương mại gặp nhiều khó khăn. Ngay cả số liệu chính xác về số doanh nghiệp ở từng địa phương cũng khó chính xác.

2. Việc giải mã dữ liệu và tối ưu hóa vật tư đầu vào cũng đang gặp khó khăn.

3. Các hoạt động ngoài đồng ruộng: Vẫn còn rất nhiều thách thức trong công tác khuyến nông tới nông dân. 2015 mới có 30% (350 triệu người) chủ đăng ký sử dụng internet. Có tất cả 750 loại ngôn ngữ được sử dụng ở Ấn Độ nên rất khó thống nhất ngôn ngữ cho tất cả mọi người (Nair, 2015).

Trung Quốc

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tham vọng với những tiến bộ của các công nghiệp khác sẽ hỗ trợ liên minh công nông, áp dụng khái niệm nông nghiệp 4.0 từ châu Âu, nông dân Trung Quốc thế kỷ 21 sẽ thực hiện nông nghiệp 4.0. Tầm nhìn của liên minh tại kế hoạch 5 năm lần thứ 13, đã định hướng tương lai nông thôn Trung Quốc sẽ phải đạt: 1) Nền nông nghiệp mới kết nối 6 ngành công nghiệp vào sản xuất, chế biến và phân phối lương thực, thực phẩm; 2) Nông dân mới tức là nông dân chuyên nghiệp, thay thế nông dân nông hộ nhỏ, làm việc bán thời gian, hoặc nông dân nghèo đói; 3) Ruộng vườn nông thôn mới hài hòa với thành thị (Dimsumsat, 2015).

Hiện nay ở Trung Quốc, theo hướng nông nghiệp 4.0, nhiều ngành công nghiệp đang được đẩy mạnh như các ngành công nghiệp chế tạo máy kéo công suất cao, máy gặt đập thông minh; ứng dụng thiết bị bay không người lái (Drone); công nghiệp phục vụ chăn nuôi thông minh 4.0; trồng cây trong nhà…

Khả năng của một số nước Đông Nam Á

Theo ADB: Việt Nam có hơn 24 triệu lao động nông nghiệp (46% tổng lao động). Myanmar có 20 triệu lao động (hơn 70%), Indonesia có gần 40 triệu lao động (35%), Campuchia có gần 5 triệu lao động (64%), Philippines có 12 triệu lao động (31%), Thái Lan có gần 16 triệu lao động (41%), Lào có 2 triệu lao động (70%). Malaysia và Singapore có tỷ lệ thấp hơn rất nhiều. Toàn vùng ước khoảng 100 triệu lao động trực tiếp trong nông nghiệp (không kể lao động gia đình giúp đỡ khi cần thiết).

Theo BBC, 70 triệu người, thuộc lực lượng này dễ bị tổn thương. Do lực lượng này có các đặc điểm canh tác rất khác nhau trong khối ASEAN và mức độ tiếp thu công nghệ, khả năng tiếp cận công nghệ cũng rất khác nhau và dễ mẫn cảm với tự động hóa. Nghĩa là còn nhiều việc cần thiết để thiết lập hệ thống tự động hóa kết nối vạn vật (IoT). Tuy nhiên một số đối tác thuộc các nước công nghiệp liên quan đến khối ASEAN như Úc, Mỹ, Nhật đang cạnh tranh gay gắt về IoT và canh tác tự động hóa ở đây. Như vậy, với nhiều nước ASEAN, nông nghiệp 4.0 đang trên đường tiến triển, tuy còn khó khăn nhất định. Trong 15 năm tới, sẽ có nhiều doanh nghiệp canh tác thông minh ở vùng nông thôn, tùy thuộc vào chính phủ và sự đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối vạn vật.

Lào và Campuchia trong 10 năm tới khó đề cập đến nông nghiệp thông minh. Tuy nhiên tại Thái Lan hay Đài Loan có sự khác biệt. Thái Lan, đang có định hướng theo nông nghiệp 4.0 và đất nước Thái 4.0 như trình bày dưới đây. Hay tại Đài Loan, tự hào là một trong những nơi cung cấp các thiết bị cho nông nghiệp 4.0 trên thế giới.

Thái Lan sẵn sàng

Bộ Nông nghiệp và HTX Thái Lan công bố rằng, mọi điều kiện đã sẵn sàng tạo đà cho nông dân Thái tiến theo hướng “Nông dân thông minh – Smart farmers”. Thứ trưởng Bộ NN và HTX Thái Lan Anekwit, cho rằng Chính phủ có chính sách đối với nông nghiệp cùng đổi mới công nghệ để sao cho thế hệ trẻ trở thành “nông dân thông minh” cùng với chính sách của Chính phủ Thái về Thái 4.0.

Chính phủ Thái định hướng nông nghiệp và thực phẩm của Thái theo Nông nghiệp 4.0 đó là thực phẩm và thành phần thực phẩm thông minh để SX những sản phẩm nâng cao giá trị trong chuỗi giá trị, nông nghiệp thông minh để có chất lượng hảo hạng trong điều kiện biến đổi khí hậu và xã hội già hóa. Chương trình hành động của Bộ NN và HTX Thái Lan là sẽ hình thành các trung tâm nông nghiệp và thực phẩm theo hướng 4.0, đó là:

1) Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm phía Bắc Thái Lan gồm các trang trại thông minh nhằm sản xuất sữa bò đạt tiêu chuẩn quốc tế và thực phẩm chức năng

2) Vùng Đông Bắc có Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm gồm các trang trại trồng trọt thông minh, chăn nuôi gia súc thông minh

3) Khu Đại học ở miền Trung Thái Lan gồm các thực phẩm chức năng và thực phẩm cho người già

4) Trung tâm Nông nghiệp Thực phẩm phía Nam Thái Lan gồm các hải sản, thực phẩm ăn chay, cao su tự nhiên

Để đạt được, Bộ NN và HTX Thái cho rằng, phải tập trung vào con người là nhân tố chủ yếu thông qua hình thành 883 trung tâm đào tạo huấn luyện ở tất cả các tỉnh để tăng cường hiệu quả SX nông nghiệp thông qua đổi mới công nghệ. Hơn nữa, Bộ sẽ giới thiệu “Bản đồ Nông nghiệp”, phân định ranh giới giữa các vùng nông nghiệp ở tất cả các tỉnh. Bản đồ nông nghiệp đáp ứng cho từng cây trồng theo đất canh tác. Từng tổ chức thuộc Bộ phải thống nhất trong chương trình đào tạo và hỗ trợ công nghiệp nông nghiệp.

Đài Loan sẽ là xứ sở của chuỗi cung ứng thiết bị Nông nghiệp 4.0

Theo Matthew Ryan (2017), Đài Loan nổi tiếng về công nghệ chế tạo và có nhiều sản phẩm cơ điện trên đầu người hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, đó là:

1) Các bộ cảm biến kết nối vạn vật (IoT): Đài Loan tự hào là nơi tập trung các thiết bị công nghệ kết nối vạn vật do có lượng lớn các nhà máy sản xuất bán dẫn, chủ yếu ở Công viên Hsinchu. 25% sản lượng bán dẫn của thế giới được chế tạo, sản xuất tại Đài Loan.

2) Đài Loan có nền công nghiệp đèn LED đứng thứ 2 trên thế giới. Vì nông nghiệp trong nhà thúc đẩy công nghệ đèn LED, nó đòi hỏi sự chính xác cao của đèn LED để tạo điều kiện sinh trưởng và năng suất tối ưu nhất.

3) Robot. Đài Loan là một trong những nơi đi đầu về công nghệ robot, đang đặt mục tiêu trở thành một trong những nơi khả năng nhất về công nghệ robot vào 20 năm tới.

4) Tế bào năng lượng mặt trời: Là nơi lớn nhất thế giới sản xuất tế bào năng lượng mặt trời. Đài Loan có thể cung ứng nguồn năng lượng cho các dự án lớn về nông nghiệp trên quy mô lớn.

5) Thiết bị bay không người lái: 10% lượng thiết bị bay không người lái được chế tạo SX tại Đài Loan. Dự kiến hàng năm sẽ tăng 10% đến 2025.

6) Canh tác trong nhà, thủy sản kết hợp thủy canh: Đài Loan có nhiều kinh nghiệm về đèn LED, nên nhiều công ty có thể cung ứng đầy đủ các giải pháp cho canh tác trong nhà, thủy sản kết hợp thủy canh, thủy canh.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Mô hình nông nghiệp 4.0 và khả năng áp dụng ở Việt Nam: Nông nghiệp 4.0 là gì?

Nông nghiệp 4.0 còn được coi là hàm số của Nông nghiệp thông minh x Công nghệ thông minh x Thiết kế thông minh x Doanh nghiệp thông minh. Ở châu Á, Ấn Độ khó áp dụng cách mạng nông nghiệp 4.0 đầy đủ

Cà chua ứng dụng công nghệ điện toán đám mây “Akisai” có độ ngọt tự nhiên và hàm lượng dinh dưỡng cao gấp 3 lần so với sản phẩm thông thường, Viện nghiên cứu rau quả.

Tuy nhiên Thái Lan đang phấn đấu còn Đài Loan tự hào là nơi cung cấp thiết bị cho nông nghiệp 4.0 chỉ sau một vài nước phát triển.

Việt Nam chưa có mô hình hoàn chỉnh về nông nghiệp 4.0, mới có một số mô hình thông minh thông qua hợp tác quốc tế về canh tác lúa, rau. Chính phủ cần kịp thời định hướng cho nghiên cứu, triển khai mô hình nông nghiệp 4.0 đầy đủ.

Khái niệm và xuất xứ của nông nghiệp 4.0

Theo khái niệm của Hiệp hội Máy Nông nghiệp Châu Âu (European Agricultural Machinery, 2017):

1) Nông nghiệp 1.0 xuất hiện ở đầu thế kỷ 20, vận hành với hệ thống tiêu tốn sức lao động, năng suất thấp. Nền nông nghiệp đó có khả năng nuôi sống dân số nhưng đòi hỏi số lượng lớn các nông hộ nhỏ và một phần ba dân số tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu thô.

2) Nông nghiệp 2.0, đó là cách mạng xanh, bắt đầu vào những năm 1950, khởi đầu là giống lúa mì lùn cải tiến, nhưng phải dựa nhiều vào bón thêm đạm, sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học tổng hợp, cùng với máy móc chuyên dùng, cho phép hạ giá thành và tăng năng suất, đem lại lợi nhuận cho tất các các bên tham gia.

3) Nông nghiệp 3.0, từ chỗ nâng cao hiệu quả đến nâng cao lợi nhuận nhờ chủ động và sáng tạo hạ giá thành, nâng cao chất lượng, đưa ra sản phẩm khác biệt. Bắt đầu khi định vị toàn cầu (GPS) được ứng dụng đầu tiên để định vị và định hướng. Thứ hai là điều khiển tự động và cảm biến (sensor) đối với nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, dinh dưỡng, từ những năm 1990, máy gặt đập liên hợp được gắn thêm màn hình hiển thị năng suất dựa vào định vị GPS. Thứ ba là tiến bộ công nghệ sử dụng các thiết bị không dây (Telematics).

4) Nông nghiệp 4.0, thuật ngữ được sử dụng đầu tiên tại Đức.

Tương tự với “Công nghiệp 4.0”, “Nông nghiệp 4.0” ở châu Âu được hiểu là các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi được kết nối mạng bên trong và bên ngoài đơn vị (có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp). Nghĩa là thông tin ở dạng số hóa dành cho tất cả các đối tác và các quá trình SX, giao dịch với các đối tác bên ngoài đơn vị như các nhà cung cấp và khách hàng tiêu thụ được truyền dữ liệu, xử lý, phân tích dữ liệu phần lớn tự động qua mạng internet. Sử dụng các thiết bị internet có thể tạo điều kiện quản lý lượng lớn dữ liệu và kết nối nội bộ với các đối tác bên ngoài đơn vị. Một số thuật ngữ khác thường được sử dụng như “Nông nghiệp thông minh” và “Canh tác số hóa”, dựa trên sự ra đời của các thiết bị thông minh trong nông nghiệp. Các thiết bị thông minh bao gồm các cảm biến, các bộ điều tiết tự động, công nghệ có thể tính toán như bộ não và giao tiếp kỹ thuật số. Nông nghiệp 4.0 mở đường cho sự tiến hóa tiếp theo, bao gồm những hoạt động không cần có mặt con người trực tiếp và dựa vào hệ thống thiết bị có thể đưa ra những quyết định một cách tự động.

Theo tổng kết ở Mỹ đến nay các thành phần chủ yếu của nông nghiệp 4.0 thường được hiểu như sau:

1). Cảm biến kết nối vạn vật (IoT Sensors): Từ dinh dưỡng đất kết nối với máy chủ và các máy kết nối khác là thành phần chủ yếu của nông nghiệp hiện đại.

2). Công nghệ đèn LED đang trở thành tiến bộ không thể thiếu để canh tác trong nhà vì sự đáp ứng sinh trưởng và năng suất tối ưu.

3). Người máy (Robot) đang thay việc cho nông dân thường làm. Người máy cũng có cả các bộ phân tích nhờ các phần mềm trợ giúp phân tích và đưa ra xu hướng trong các trang trại.

4). Tế bào quang điện (Solar cells). Phần lớn các thiết bị trong trang trại được cấp điện mặt trời và các bộ pin điện mặt trời trở nên quan trọng.

5). Thiết bị bay không người lái (Drones) và các vệ tinh (satellites) được sử dụng để thu thập dữ liệu của các trang trại.

6). Canh tác trong nhà/hệ thống trồng cây – nuôi cá tích hợp/Thủy canh (khí canh): Hiện nhiều giải pháp đã được hoàn thiện.

7). Công nghệ tài chính phục vụ trang trại (Farm Fintech): Fintech nghĩa là kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ. Fintech được sử dụng chung cho tất cả các công ty tài chính sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần mềm mã nguồn mở nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu tư. Farm Fintech bao gồm dịch vụ cho vay, thanh toán, bảo hiểm.

Bên cạnh đó, nhiều sự kiện khác đang diễn ra như: Các sản phẩm vật chất được nâng cao giá trị gia tăng nhờ các dịch vụ với những thuật toán dùng để biến đổi dữ liệu thành thông tin gia tăng giá trị, tối ưu hóa sản phẩm, các quá trình nông học, giảm thiểu rủi ro và hạn chế những nguy hiểm do tác động của máy móc cơ giới hư hỏng, thời tiết hoặc dịch bệnh gây ra. Hay nông nghiệp sinh thái (tương tự mô hình VAC ở Việt Nam), với những hệ điều hành kết hợp được nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, từ các bộ cảm biến (có thể cảm nhận nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, dinh dưỡng đất để phát tín hiệu cho người sản xuất), thiết bị, từ nguồn dữ liệu thu thập từ đồng ruộng hay trang trại. Nông dân/chủ trang trại điều hành thông qua bảng điều khiển có thông tin thời gian thực và gần thực, và đưa ra các quyết định dựa trên các giả thiết định lượng để tăng hiệu quả tài chính.

Nội hàm của nông nghiệp 4.0

Nông nghiệp 4.0 bao hàm nghĩa rộng của cả trồng trọt, chăn nuôi (có thể hiểu rộng hơn sang cả thủy sản và lâm nghiệp) về nghiên cứu, chuyển giao và sản xuất. Nông nghiệp hiện đại quan tâm đến độ bền vững và các giải pháp an toàn. Canh tác (Farming) là thực hiện những kỹ thuật như làm đất, gieo cấy, tỉa cành, luân canh, chăm sóc, thu hoạch, với mục tiêu đạt năng suất cao hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn, dựa vào tiến bộ công nghệ kỹ thuật số. Thuật ngữ Canh tác 4.0 (Farming 4.0) xuất hiện vào những năm 2010. Đó là các canh tác năng động và hiệu quả.

Theo khái niệm của Mạng lưới Chuyên đề Canh tác Thông minh Châu Âu, canh tác thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ICT) vào nông nghiệp (Cách mạng Xanh lần thứ ba). Cuộc cách mạng này phối hợp ICT như các thiết bị chính xác, kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu, quản lý dữ liệu lớn (Big data), thiết bị bay không người lái (Drone), người máy (robot)…, tạo điều kiện cho nông dân tăng thêm giá trị dưới dạng đưa ra được những quyết định khai thác, quản lý hiệu quả hơn, đó là: 1). Hệ thống thông tin quản lý, đáp ứng nhu cầu thu thập, xử lý và lưu giữ, cung cấp dữ liệu cần thiết để thực hiện những chức năng của trang trại. 2). Nông nghiệp chính xác, thông qua các hệ thống có thể quản lý độ biến động theo không gian và thời gian để cải thiện hiệu quả kinh tế đầu tư và giảm thiểu tác hại của môi trường.

Nông nghiệp chính xác còn được hiểu là nền nông nghiệp có thể nuôi sống cả dân số thế giới dự báo 10 tỉ người vào năm 2050. Nông nghiệp chính xác, tức ngành nông nghiệp sử dụng cảm biến và các thuật toán thông minh để phân phối nước, phân bón và thuốc trừ sâu, đáp ứng cho cây khi cây thực sự cần, nhằm đảm bảo tính sinh lời, tính bền vững và bảo vệ môi trường. Nông dân có thể quyết định tưới tiêu khi thực sự cần thiết và tránh việc lạm dụng thuốc trừ sâu, họ sẽ có thể tiết kiệm được chi phí và nâng cao sản lượng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Nông nghiệp 4.0: Đưa máy bay không người lái, robot vào … trồng rau

“Công nghiệp 4.0” và “Nông nghiệp 4.0” đã và đang tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến lĩnh vực nông nghiệp trên quy mô toàn cầu. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam đổi mới công nghệ và tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp, tuy nhiên cần có cách tiếp cận hợp lý và giải pháp tổng thể để phát huy những lợi thế…

Cơ hội và thách thức nhìn lại lịch sử, khoa học và công nghệ (KHCN) đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam. Từ thập niên 50 của thế kỷ XX, những tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng, bảo vệ thực vật và công nghệ sinh học đã tạo nền tảng cho nông nghiệp công nghệ cao. Giai đoạn từ năm 1969 tới nay, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục được phát triển nhờ ứng dụng công nghệ số, công nghệ sinh học, và các công nghệ tiên tiến khác.

Dây chuyền tự động phân loại củ, quả trị giá 3,5 triệu USD của Công ty TNHH Sản xuất thương mại nông sản Phong Thúy (huyện Đức Trọng, Lâm Đồng).

Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khoảng 70 – 75% lao động sẽ mất việc làm bởi ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0. Với Việt Nam, khoảng 20 – 30 triệu lao động ngành dệt may, lắp ráp, nông nghiệp sẽ thất nghiệp. Vì vậy, cần sớm có những giải pháp để giải quyết vấn đề này.

Kết quả, từ một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp, đến nay Việt Nam đã trở thành 1 trong 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu ổn định ở mức 30 tỷ USD/năm. Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt mức cao kỷ lục 32,1 tỷ USD. Nội hàm của cách mạng công nghiệp 4.0 trong nông nghiệp là sự kết nối mạng lưới bên trong và bên ngoài của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Theo đó, các thông tin số hóa được sử dụng trong toàn bộ quá trình sản xuất, kết nối với các đối tác và người tiêu dùng. Quá trình phân tích, xử lý thông tin chủ yếu được thực hiện tự động.

Để xây dựng một nền nông nghiệp thông minh, phải số hóa dữ liệu và tự động hóa quy trình sản xuất sản phẩm.Thực tế, Việt Nam đã có thể ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT) với hàng loạt hệ thống cảm biến (sensor), giúp phân tích, kết nối dữ liệu đất đai, dinh dưỡng, sinh lý, sinh trưởng cây trồng… Đồng thời ứng dụng các công nghệ nông nghiệp chính xác để tự động hóa và tưới cây, bón phân đúng thời điểm với lượng cần thiết vừa đủ cho cây.

Chúng ta cũng đã ứng dụng công nghệ đèn Led canh tác trong nhà, công nghệ thông tin, thiết bị bay không người lái (drones), thủy canh, người máy (robot) tích hợp các bộ phân tích hoặc các phần mềm hỗ trợ phân tích có thể thay thế con người.

Một số doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ mới và thu được những kết quả đáng ghi nhận, có thể kể đến các trang trại bò sữa ứng dụng công nghệ cao của Tập đoàn TH True Milk và Công ty Vinamilk; các vùng sản xuất rau an toàn của VinEco; hay Trung tâm Hợp tác nông nghiệp thông minh FPT-Fujitsu tại Hà Nội.

Tuy nhiên, hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhỏ lẻ, việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp chưa thuận lợi. Hạ tầng cơ sở để ứng dụng IoT của nước ta cũng chưa đồng bộ…

Thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng công nghệ

Anh Nguyễn Tiến Thắng (xã Bình Kiều, huyện Khoái Châu, Hưng Yên) nuôi gà trong phòng lạnh và áp dụng thụ tinh nhân tạo.

Về mặt pháp lý, hiện Việt Nam đã có Luật KHCN, Luật Chuyển giao công nghệ. Trong Luật Chuyển giao công nghệ, có riêng một điều về chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp. Ngoài ra, các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp cũng được Chính phủ tập trung chỉ đạo tại các Nghị quyết 35, 63 và 64 năm 2016 và các Nghị quyết 01, 19 và 27 năm 2017.

Nhà nước cũng đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ cho các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển và hoàn thiện công nghệ. Trong đó, có lĩnh vực nông nghiệp như: Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2025; Chương trình KHCN phục vụ xây dựng nông thôn mới; Chương trình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia; Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia… Ngoài ra, còn có các quỹ phát triển KHCN như Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển KHCN quốc gia và một số quỹ khác của địa phương.

Các chương trình, hoạt động trên đã mang lại hiệu quả và tạo tác động tích cực đối với sự phát triển của lĩnh vực nông nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế – xã hội nói chung. Các doanh nghiệp, cá nhân đã có điều kiện tiếp cận các thông tin về công nghệ, thiết bị trong và ngoài nước. Nhiều dự án nghiên cứu phát triển đã được triển khai, nhiều kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng và thương mại hóa thành công, đáp ứng phần nào nhu cầu của sản xuất.

Chuẩn bị gì cho nông nghiệp 4.0?

Về mặt chính sách, cần hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, xây dựng mạng lưới và nâng cao năng lực các tổ chức trung gian về KHCN. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong và ngoài nước.

Với các chính quyền địa phương, đây là giai đoạn phải cụ thể hóa các chính sách, quy định của T.Ư thông qua các cơ chế, chương trình hành động chi tiết, phù hợp với địa phương mình. Cụ thể, các địa phương nên tổ chức các diễn đàn công nghệ, chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật để kết nối nhà nông với doanh nghiệp và nhà khoa học trong hoạt động sản xuất và quản lý.

Với doanh nghiệp và người nông dân, cần khẳng định mình chính là chủ thể quyết định của quá trình sản xuất. Người nông dân và doanh nghiệp cần chủ động kết nối với các cá nhân, tổ chức KHCN, các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước và quốc tế để có thêm cơ hội tiếp cận và cập nhật công nghệ.

Với các tổ chức trung gian và tổ chức hỗ trợ như vườn ươm, trung tâm hỗ trợ công nghệ, các tổ chức tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm cần tăng cường phối hợp trong việc tạo ra hệ sinh thái hoàn thiện để các sáng chế, ý tưởng có điều kiện phát triển, ứng dụng vào thực tế sản xuất hoặc trở thành các sản phẩm có khả năng thương mại hóa.

6 kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, cần sớm quan tâm tới vấn đề đào tạo và chuyển dịch cơ cấu lao động. Về đổi mới chương trình đào tạo từ bậc đại học, bậc phổ thông. Thậm chí, ngay từ cấp tiểu học. Ngoài ra, phải lấy KHCN làm nền tảng, trụ cột trong chương trình đào tạo, tập trung truyền đạt tri thức, khuyến khích tính sáng tạo, phát triển trí tuệ, trang bị kiến thức và các kỹ năng khoa học.

Thứ hai, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước liên kết nhiều hơn, tốt hơn với các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức KHCN trong nước và nước ngoài. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập, chuyển giao, phát triển công nghệ… phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, Nhà nước cần một hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng phát triển. Sự bình đẳng, tính minh bạch sẽ thúc đẩy sức sáng tạo, hỗ trợ đúng mức cho các doanh nghiệp đang ứng dụng, đổi mới, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ.

Thứ tư, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường các hoạt động kết nối cung – cầu công nghệ, thông tin KHCN cũng như tổ chức các diễn đàn KHCN khác.

Thứ năm, cần đầu tư hạ tầng KHCN. Đặc biệt, xây dựng trung tâm nghiên cứu, hỗ trợ hoàn thiện và phát triển công nghệ.

Thứ sáu, hoàn thiện và thực thi tốt chính sách về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.Với các giải pháp tổng thể từ trung ương tới địa phương, cùng hệ thống chính sách thân thiện và phát huy tốt các nguồn lực xã hội, KHCN sẽ là đòn bẩy để nông nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế trong kỷ nguyên công nghệ 4.0.

Nguồn: Dân Việt được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.