Một nông dân lai tạo được giống nếp thơm

Ở miền Tây, nói đến xứ nếp người ta nghĩ ngay đến Phú Tân (An Giang). Không chỉ SX lúa nếp bán đi khắp nơi, vùng đất lúa Láng Linh thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú còn có 1 nông dân tên Từ Bá Đạt đã lai tạo ra giống nếp thơm.

Giống nếp mới phát triển tốt

Dù là vùng đất có thể trồng các giống lúa nếp ngon nhưng người dân vẫn ưa chuộng nếp Thái, đó là vấn đề trăn trở để ông Đạt dốc tâm nghiên cứu và lai tạo thành công 10 giống nếp mang đặc trưng riêng của vùng đất Thạnh Mỹ Tây, trong đó chủ lực là giống nếp TMT1, TMT2, TMT3.

Ông Từ Bá Đạt, nông dân Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú cho biết: “Ở An Giang có SX ra nhiều giống nếp nhưng không thơm, trong khi đó Thái Lan có nếp thơm, vì lòng đam mê và trăn trở đó, tôi quyết học hỏi và lai tạo được giống nếp như nếp Thái Lan. Ban đầu, Viện lúa Ô Môn tập huấn cho tôi làm những giống lúa thơm, từ những dòng đó tôi rút ra lai tạo được giống nếp thơm mới”.

Sau 10 năm nghiên cứu, đến nay công trình của ông Từ Bá Đạt đã làm nhiều nhà nông miền Tây bất ngờ bởi hạt nếp TMT1, TMT2, TMT3 có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng riêng, năng suất vượt trội so với các giống nếp ngoại nhập từ 1 tấn/ha.

Chất lượng cao, nếp thơm TMT1 có thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 100 ngày, TMT2 95 ngày, TMT3 từ 95-105 ngày. Tất cả đều kháng được sâu bệnh, được dân trồng nếp ở miền Tây ưa chuộng và tôn vinh ông là “Vua giống nếp”. “Giống nếp này vừa thơm vừa dẻo, rất đặc trưng cho vùng nếp Thạnh Mỹ Tây. Nếp trồng dễ, bông nút hạt bự, vô gạo cũng đẹp, còn xay ra nấu thì dẻo thơm, ngon”, ông Trần Văn Ba, nông dân trồng nếp ở xã Thạnh Mỹ Tây, chia sẻ.

Ưu điểm của giống nếp thơm là cứng cây, đẻ nhánh mạnh, thích hợp trồng trên diện tích rộng, vùng đất SX 3 vụ lúa/năm ở đồng bằng sông Cửu Long, năng suất thu hoạch ước đạt từ 9 – 10 tấn/ha.

“Hiện nay tôi có rất nhiều dòng nếp, tùy theo nhu cầu để cung ứng. Địa phương nào cần giống dài ngày thì mình sẽ cung cấp giống dài ngày phù hợp với tình hình SX nơi đó, còn những nơi thích nếp ngắn ngày thì tôi đưa ra những giống ngắn ngày”, ông Từ Bá Đạt cho biết thêm.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Bí quyết vươn lên làm giàu từ sầu riêng

Những vụ sầu riêng gần đây, nhiều nông hộ được mùa, trúng giá, tiêu thụ nhanh gấp nhiều lần so với trước.

Nhân viên của Syngenta hướng dẫn kỹ thuật canh tác và cách quản lý sâu bệnh hại sầu riêng

Thời tiết khá thuận lợi cộng với việc bà con đầu tư chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, bón phân cân đối kèm theo một số bí quyết trị sâu bệnh nên cây sầu riêng phát triển, cho năng suất cao. Đã có khá nhiều hộ khá lên nhờ loại cây trồng đặc sản này.

Niềm vui chung từ… sầu riêng

Gia đình ông Trần Hữu Phong ở Mỹ Vĩnh, Cai Lậy, Tiền Giang trước đây trồng màu trên đất vườn tạp, thu nhập rất bấp bênh. Gần 20 năm trước, ông Phong chuyển sang trồng sầu riêng và đến giờ, ông vẫn thấy đây là sự thay đổi cây trồng hợp lý. Nhờ được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật nên diện tích sầu riêng Ri6, Monthong của gia đình ông Phong cho năng suất bình quân 2,5-3 tấn/công (1.000m2). Đặc biệt, quả sầu riêng có gai đều, đầy hộc rất được thương lái ưa chuộng.

Với giá bán như hiện nay, sau khi trừ các khoản chi phí, gia đình ông Phong thu lãi hàng trăm triệu đồng. Từ một hộ khó khăn, gia đình ông Phong đã vươn lên có thu nhập khá, có điều kiện cho con cái ăn học đàng hoàng.

Niềm vui của ông Phong cũng là niềm vui chung của nhiều bà con nông dân trồng sầu riêng ở Tiền Giang, đặc biệt là nông dân vùng chuyên canh, khi loại trái cây đặc sản này mang lại cho bà con nguồn lợi kinh tế rất lớn.

Không chỉ ở Tiền Giang, đến thăm gia đình ông Phạm Văn Hoán ở xã Hòa Trung, huyện Di Linh, Lâm Đồng, ông Hoán dẫn chúng tôi đi thăm vườn cà phê trồng xen với sầu riêng gần 10 năm tuổi của mình.

Ông Hoán cho biết cà phê là cây ưa bóng, sầu riêng lại là cây có tán rộng, khi trồng xen canh với mật độ thích hợp sẽ có tác dụng hỗ trợ cho nhau. Sầu riêng không chỉ giúp che nắng mà còn tận dụng được lượng nước và phân dư thừa bón cho cây cà phê. Những vườn cà phê trồng dưới tán sầu riêng vẫn cho năng suất ổn định từ 5 – 5,5 tấn/ha.

Bắt đầu trồng sầu riêng từ năm 2012, đến nay ông Hoán đã có 300 cây sầu riêng, trong đó có 30 cây đang cho thu hoạch với năng suất trung bình 200kg/1 cây, tương đương 18-20 tấn/ha. Hằng năm, lợi nhuận thu được từ sầu riêng của gia đình ông Hoán khoảng 300 triệu đồng.

Ông Hoán nhận thấy việc trồng xen sầu riêng với cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trước đây. Tuy nhiên, ông vẫn không trồng độc canh mà chỉ xen canh, mùa nào quả đấy.

Ông Hoán phấn khởi cho biết, không chỉ được mùa, được giá mà nông dân phấn khởi vì hiện thương lái đến tận vườn đặt cọc thu mua sầu riêng nên người ông hoàn toàn yên tâm về đầu ra cho sản phẩm.

Giống như những cây trồng khác, những nông hộ canh tác cây sầu riêng đều canh cánh nỗi lo sâu bệnh. Tuy tốc độ gây hại của bệnh không tức thời như đối với các cây trồng khác như cây tiêu hay cây cà phê, nhưng nếu không chú ý, thiệt hại do bệnh trên cây sầu riêng sẽ lớn hơn do loại cây này có thời gian phục hồi lâu hơn, tốn thời gian và công sức hơn.

Bí quyết trị bệnh nằm ở đâu?

Theo ông Phong, lúc mới chuyển sang trồng sầu riêng, ông cũng phải đi học hỏi nhiều nơi, nhất là tại các hội thảo dành cho nông dân. Tại đây, ông được các kỹ sư nông nghiệp hướng dẫn khá tỉ mỉ về quy trình, cách chăm sóc cây. Ông được biết trong số các bệnh trên cây sầu riêng, mối quan tâm của các nhà vườn là bệnh do nấm Phytophthora gây ra. Bệnh này gây ra tình trạng thối nứt thân xì mủ và đặc biệt là thối rễ. Nấm phát triển và lây lan mạnh trong đất làm cho bộ rễ bị hư hại, làm giảm khả năng hấp thu nước và chất dinh dưỡng dẫn đến hiện tượng nứt thân xì mủ, có thể gây chết cây hàng loạt.

Cũng nhờ có các chuyên gia nông nghiệp, ông mới biết một trong những tác nhân làm trung gian lây lan bệnh trên cây sầu riêng chính là tuyến trùng. Triệu chứng khi bị tuyến trùng gây hại là rễ cây có nhiều vết sưng hoặc vết thương, khi đó, nấm Phytophthora sẽ “lần theo” nhưng vết thương này để tấn công làm thối rễ, dẫn đến giảm hay mất khả năng hấp thu, khiến cây vàng lá, thiếu dinh dưỡng và chết dần, đặc biệt là bệnh có thể gây hại cả cây con.

Trên thực tế, tuyến trùng luôn hiện diện trên đất trồng, khó lòng diệt trừ triệt để. Nếu muốn tránh nấm Phytophthora lây lan qua con đường tuyến trùng, nhà vườn cần đồng thời áp dụng nhiều biện pháp.

Ông Phong cho biết: Đầu tiên, phải chú ý khâu chọn giống sạch nấm bệnh, làm đất kỹ, thiết kế hệ thống cấp và thoát nước hợp lý, tránh ngập úng, tăng cường bón phân hữu cơ và vôi bột hàng năm, quản lý cỏ dại… Nếu đã làm tốt những khâu này thì nguy cơ bệnh hại là rất thấp. Tuy nhiên, một khi bệnh xuất hiện thì lúc đó phải dùng đến các loại thuốc bảo vệ thực vật để diệt trừ nấm và tuyến trùng.

Ông Phong kể: “Lúc đầu tôi cũng không biết bí quyết gì đâu. Một lần tham dự khóa tập huấn cho nông dân trong hợp tác xã, tôi may mắn được một chuyên gia của Syngenta bày cho sử dụng Tervigo 020 SC tưới gốc để trị tuyến trùng trên cây sầu riêng. Tôi đã từng nghe là Tervigo 020SC có hiệu quả đối với cà phê, hồ tiêu, thanh long… nhưng không ngờ, với cây sầu riêng, hiệu quả cũng rõ rệt luôn. Tôi được biết là tuyến trùng thường chỉ xâm nhập ở tầng đất mặt từ 0-20cm và cũng là nơi mà rễ tơ của cây sầu riêng phát triển mạnh, gặp Tervigo, tuyến trùng đúng là gặp khắc tinh luôn đó”.

Tervigo là sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, với hoạt chất Abamectin, đặc trị tuyến trùng, khi tưới gốc sầu riêng kèm theo loại thuốc trừ nấm đặc hiệu sẽ giúp ngăn ngừa thối sưng rễ và vàng lá. Do được sản xuất bằng công nghệ huyền phù đậm đặc nên khi tưới vào đất Tervigo sẽ được duy trì quanh vùng rễ, nhờ đó hiệu lực trừ tuyến trùng kéo dài, giúp tiết kiệm chi phí, tối ưu hiệu quả đầu tư.

“Nhiều người cứ hỏi tôi bí quyết khiến cây sầu riêng khỏe, xanh mướt. Thực ra do Tervigo được sản xuất theo công nghệ Chelate sắt, nên ngoài khả năng diệt tuyến trùng hiệu quả sản phẩm còn cung cấp thêm vi lượng sắt cho cây, đây là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp nên diệp lục tố, gián tiếp kích thích cây trồng ra rễ mạnh hơn sau khi được tưới vào vùng rễ. Đây là lý do vì sao mà sau khi tưới Tervigo, cây sầu riêng khỏe, xanh lá, ra nhiều rễ non,cuối cùng là vườn sầu riêng cho năng suất cao”, ông Phong nói.

“Qua kinh nghiệm sử dụng thực tế, tôi nhận thấy Tervigo ít ảnh hưởng đến giun và các vi sinh vật đất, do vậy rất yên tâm sử dụng. Thực ra bí quyết của tôi chỉ có vậy thôi, rất đơn giản và ai cũng có thể áp dụng được”, ông Phong cười.

Còn theo ông Hoán, khi thực hiện mô hình trồng xen cây cà phê và sầu riêng, ông được tư vấn kỹ thuật và cách quản lý sâu bệnh hại trên cà phê và sầu riêng rất tỉ mỉ.

“Lúc mới trồng, một số cây cứ vàng lá, rồi cây con cứ phát triển được một thời gian là chết yểu, tôi cũng lo lắm. Sau mới biết thủ phạm là nấm, mà tác nhân trung gian là tuyến trùng nên tôi đã sử dụng ngay sản phẩm Tervigo kết hợp với thuốc trừ nấm. Các kỹ sư của Syngenta đã hướng dẫn tỉ mỉ cho tôi quy trình canh tác, đặc biệt là hướng dẫn cách sử dụng thuốc BVTV tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng, đảm bảo an toàn cho sức khỏe nông dân cũng như cây trồng, tránh dư lượng trên sản phẩm,” ông Hoán nói.

Ông Nguyễn Huy Cường – đại diện Công ty Syngenta cho biết hiện đang bước vào đầu mùa mưa, ẩm, thời điểm dễ phát sinh các dịch bệnh trên cây trồng. Nếu không chăm sóc sầu riêng hợp lý, dịch bệnh có thể bùng phát làm ảnh hưởng lớn đến năng suất.

Để cây sầu riêng cho năng suất, chất lượng cao bà con cần áp dụng đồng thời nhiều biện pháp trồng và chăm sóc khác nhau, cải tạo đất canh tác tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho cây sầu riêng phát triển.

Để hạn chế nấm Phytophthora palmivora lây lan, bà con cần thăm vườn thường xuyên để phát hiện nấm bệnh, chú ý vệ sinh vườn thường xuyên, sử dụng thuốc BVTV đúng liều lượng.

“Không riêng gì với cây sầu riêng, Syngenta mong muốn hỗ trợ bà con chăm sóc tất cả các loại cây trồng thông qua các sản phẩm hiệu quả, chi phí hợp lý, cho năng suất cao. Sự tin tưởng của bà con khi lựa chọn sản phẩm của Syngenta Việt Nam chính là thước đo cho những thành quả mà chúng tôi đạt được trong suốt thời gian qua. Chúng tôi mong bà con trồng sầu ai cũng giàu, mà không ai rầu cả”, ông Cường nhấn mạnh.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Đau đáu cây cam ở Nghệ An

Trồng cam vốn là thế mạnh của tỉnh Nghệ An suốt nhiều năm qua nhưng hiện đang đối diện với không ít thách thức, nếu không sớm án tháo gỡ những nút thắt e rằng người nông dân khó sống tốt với nghề.

Xin được nêu lên thực trạng tại huyện miền núi Con Cuông, nơi được xem có nhiều điều kiện thuận lợi…

Người trồng cam tại huyện Con Cuông đang lo ngay ngáy

Con Cuông có quỹ đất lâm nghiệp lên đến hơn 162.000ha, lại thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm rất thuận lợi để phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả.

Đến thời điểm này, tổng diện tích trồng cam toàn huyện đạt 387,19ha, trong đó cam kinh doanh là 105ha, số còn lại đang trong thời kỳ kiến thiết. Sau khoảng thời gian đầu sinh lợi, hiện cây cam đang là gánh nặng lớn đối với nhà nông, “góp phần” không khỏ đẩy nhiều gia đình vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, bỏ không được mà giữ cũng chẳng xong.

Chính những người trong cuộc khẳng định, giai đoạn 2013 – 2016 là thời kỳ hoàng kim, mười nhà như một trên mỗi ha đều đặn thu về không dưới nửa tỷ đồng/năm. Đồng tiền kiếm được dễ dàng nhanh chóng tạo nên hiệu ứng dây chuyền thúc đẩy, cứ thế phong trào trồng cam tăng nhanh với tốc độ phi mã. “Xuống tay ăn tiền” nông dân chắc mẩm sẽ sớm đổi đời nhờ cây cam mà không biết rằng hàng loạt nguy cơ tiềm ẩn đang chờ đón phía trước, đến lúc này đây mối lo đã thành hiện thực.

Tại Con Cuông, quy mô diện tích nhận rộng đến đâu thì bấp cập lộ rõ đến đó, khó khăn chất chồng nhưng không có hướng tháo gỡ khiến nghề trồng cam đối diện với tình cảnh hết sức gian nan: Cơ quan quản lý chưa kiểm soát tốt chất lượng đầu vào? Nông dân đa phần chưa tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật? Tình trạng sử dụng thuốc BVTV vô tội vạ làm gia tăng nguy cơ dịch bệnh? Sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ? Phụ thuộc vào thị trường, thương lái?

Hàng loạt câu hỏi đặt ra nhưng giải quyết ra sao, triển khai như thế nào thì các cấp, ngành chức năng, chính quyền địa phương đều lúng túng như nhau (?!).

Qua rà soát thực tế, hiện chỉ một vài giống cam trên thị trường có chỉ dẫn địa lý (Xã Đoài 1, Xã Đoài 2, Vân Du, Sông Con), còn lại được du nhập một cách trôi nổi, công tác kiểm soát chẳng đến đầu đến đũa. Thành thử việc trồng cam chẳng khác gì đánh bạc, hộ nào may mắn chọn lựa được giống tốt thì nỗi lo tạm vơi đi, bằng không càng gắng gượng càng lỗ chổng vó.

Về quy trình sản xuất, mặc dù các đơn vị, các hộ gia đình đều thuộc dạng thâm niên trong nghề nhưng thay vì triển khai đúng quy trình theo khuyến cáo của đơn vị chuyên ngành thì đều có xu hướng lạm dụng thuốc BVTV như thể là biện pháp tối ưu nhất. Tại nhiều vùng, mỗi năm chủ vườn tiến hành phun trừ 10 – 15 lần, thoáng thấy dấu hiệu là phun lấy phun để, sự việc kéo dài đã dẫn đến tình trạng “nhờn thuốc”, hệ quả là dịch bệnh không được xử lý triệt để mà cây giống ngày càng quay quắt, quá trình thoái hóa vì thế diễn ra nhanh hơn.

Quá nhiều yếu tố bất thuận khiến người trồng cam chẳng biết đường nào mà lần, càng loay hoay xoay sở càng thấy vướng víu khiến tâm lý của họ tuột dốc không phanh. Đáng lo ngại thực sự nếu nhìn vào thực trạng chung lúc này, rộng khắp địa bàn tình hình chẳng mấy sáng sủa, số cơ sở có lãi (thậm chí hòa vốn) chỉ chiếm một phần rất nhỏ, trong khi nhiều vùng nông dân thi nhau nhận về “trái đắng” khi cây cam đồng loạt đổ bệnh vào đúng giai đoạn then chốt nhất (đã qua 4 – 5 năm chăm sóc).

Nếu không sớm có phương án tháo gỡ núi thắt, nghề trồng cam ở Nghệ An sẽ đối diện với muôn vàn khó khăn

Nhiều vườn cam bị sâu bệnh tàn phá nặng nề, tỷ lệ quả bị chua, sần (cam ngơ) chiếm mức cao. Đổ mồ hôi sôi nước mắt, huy động tiền trăm bạc tỷ dồn hết vào vườn tược hòng thu về nguồn lợi tương xứng, nay tình hình rẽ theo chiều hướng khác khiến người trồng ngao ngán đến cùng cực.

“Chi phí triển khai rất đắt đỏ, mỗi ha tiêu tốn hàng trăm triệu đồng. Thú thực không nhiều hộ tự mình cáng đáng được, để duy trì mô hình phải đứng ra huy động, vay mượn khắp nơi. Nghề trồng cam rất vất vả, thông thường quy trình phải kéo dài vài ba năm mới có sản phẩm. Bối cảnh thuận lợi thì chẳng nói làm gì, đằng nay hai năm qua điều kiện thời tiết diễn biến khó lường, thiên tai chồng lấn thi nhau đọa đầy nông dân chúng tôi, chán nản nhiều gia đình chẳng màng ngó đến nữa”, chị Vi Thị H. một hộ trồng cam trên địa bàn huyện Con Cuông thốt lên chua chát.

Theo kế hoạch, đến năm 2020 huyện Con Cuông phấn đấu nâng diện tích trồng cam lên 500 ha, theo lời Trưởng phòng NN-PTNT Lô Văn Lý với đà này mục tiêu trên khó khả thi.

Tháng 1/2019 huyện Con Cuông đã phối hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Nghệ An đã triển khai dự án “Cải tạo, phục hồi giống cam thoái hóa” trên quy mô diện tích gần 6.000 m2 nhằm đánh giá chi tiết thực trạng, qua đó rút ra phương án tối ưu nhất.

Dự kiến dự án này kéo dài trong 2 năm, xem ra nông dân trồng cam trên địa bàn còn ngóng chờ dài dài.

 Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Làm giàu ở nông thôn: Sung túc nhờ trồng dừa xiêm chuỗi

Ông Thái Văn Đầy, xã Thạnh Nhựt, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang đã chuyển đất lúa kém hiệu quả sang trồng dừa xiêm chuỗi, cho năng suất cao. Từ ngày vườn dừa xiêm chuỗi cho trái, thu nhập của gia đình ông Đầy sung túc hẳn lên bởi tháng nào cũng có tiền từ bán dừa. Mọi người đều cho rằng, trồng dừa xiêm chuỗi như ông Đầy là một trong những cách làm giàu ở nông thôn.

Tham quan vườn dừa xiêm chuỗi 2.500 m2 với 115 cây dừa sai trái, đang trong giai đoạn thu hoạch, ông Đầy cho biết: Trước đây khu vực này trồng lúa nhưng thấy hiệu quả kinh tế không cao, mỗi vụ thu hoạch lúa huề vốn hoặc có lãi rất ít.

Ông Đầy liền bàn với gia đình, cải tạo đất, lên liếp và mua dừa xiêm chuỗi về trồng. Dừa phát triển tốt, chỉ sau 3 năm chăm sóc đã bắt đầu cho trái chiến và đến nay vườn dừa đã 6 năm tuổi và đang cho trái ổn định.

Ông Thái Văn Đầy đã chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dừa xiêm chuỗi cho thu nhập cao.

Nhìn sang cây dừa sai trái, đang chuẩn bị thu hoạch, ông Đầy phấn khởi chia sẻ kinh nghiệm trồng dừa xiêm: “Dừa xiêm trồng khá dễ, cho trái quanh năm, nước ngọt với vị đặc trưng, công chăm sóc ít, chủ yếu phòng trừ đuông dừa. Nếu cây dừa bị đuông ăn ngọn thì cây dừa đó sẽ bị chết. Ngoài ra, người trồng dừa cần phòng trừ bọ cánh cứng. Bọ cánh cứng tấn công làm ảnh hưởng đến năng suất của cây dừa hoặc hút nhựa làm cho trái dừa không phát triển được. Vì thế, mình phải dọn rửa cây dừa và phun thuốc định kì để bảo vệ cây dừa”.

Hiện tại, với 115 cây dừa, mỗi đợt (khoảng 25 đến 30 ngày) ông Đầy thu hoạch một lần với gần 1.000 trái. Giá bán hiện tại 6.000 đồng/trái, gia đình ông thu về khoảng 6 triệu đồng, trừ các chi phí, ông Đầy còn lãi hơn 5 triệu đồng. Những lúc cao điểm mùa khô dừa tăng giá, thương lái đến tận vườn thu mua với giá 9.000 – 10.000 đồng/trái, mang lại cho gia đình ông Đầy nguồn thu đáng kể. Đây là một trong những mô hình làm giàu ở nông thôn.

Gắn bó và thành công với cây dừa xiêm chuỗi, ông Đầy đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc và bảo vệ vườn dừa. Ông Đầy cho rằng khâu bón phân là khá quan trọng, quyết định đến chất lượng nước của trái dừa. Vì vậy, mỗi năm ông bón phân từ 3 đến 4 lần gồm hỗn hợp N-P-K, mỗi lần bón liều lượng vừa phải và tăng cường hốt bùn dưới ao lên bón cho cây giữ ẩm, cung cấp nước đầy đủ vào mùa nắng, tránh để gốc bị khô, ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng của trái.

Theo ông Thái Văn Đầy, để vườn dừa xiêm đạt năng suất cao thì ngoài việc bón phân cân đối thì người trồng phải thường xuyên dọn vệ sinh cây dừa để hạn chế sâu đuông dừa, bọ cánh cứng.

Tiếng lành đồn xa, trước hiệu quả kinh tế cao của dừa xiêm chuỗi, cùng thị trường tiêu thụ rộng lớn, nhiều nhà vườn đã tìm đến và đặt dừa giống của gia đình ông về trồng. Ông Đầy cho biết: “Bà con đến đặt dừa giống không bán thì không được, nhưng để dừa giống thì cây bị tổn sức. Riêng năm 2018 gia đình tôi bán được hơn 1.000 cây dừa giống (ươm 3 tháng) với giá 40.000 đồng/cây…”.

Năm 2019 này, người dân đặt khoảng 2.000 cây, gia đình ông Đầy đang tuyển chọn những trái dừa đẹp, chất lượng nhất chuẩn bị ươm giống để cung cấp cho bà nông dân trồng, cải thiện kinh tế gia đình”. Hàng năm, sau khi trừ các chi phí từ việc bán dừa tươi và dừa giống mang lại cho gia đình ông Đầy khoảng 100 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với cây lúa và nhiều loại cây trồng khác.

Với những thành công từ cây dừa xiêm chuỗi mang lại, ông Đầy mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm trồng dừa, hỗ trợ bà con nhân dân về kỹ thuật để cùng phát triển vườn dừa trên địa bàn xã Thạnh Nhựt nói riêng, huyện Gò Công Tây nói chung.

Ông Đầy còn tiếp tục phát triển, mở rộng diện tích vườn dừa của gia đình . Ông Đầy cho biết: “Hiện tại, gia đình đã lên liếp và trồng dừa thêm trên diện tích 10.000 m2 , dừa phát triển khá tốt, hứa hẹn những thắng lợi cho gia đình ở hiện tại và tương lai”.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Lâm Đồng: Trồng hoa hồng môn cho lợi nhuận cao

“Nếu đầu tư bài bản và cây không bị nhiễm bệnh thì 1 sào hồng môn có giá trị kinh tế bằng 1 ha cà phê”, anh Đoàn Mạnh Hùng (33 tuổi, ngụ xã Hòa Ninh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) nói về lý do anh chọn cây hồng môn để phát triển kinh tế gia đình.

Theo anh Hùng, kinh nghiệm thực tế từ những người trồng hoa hồng môn ở Di Linh cho thấy, điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu ở Di Linh rất thích hợp để trồng loại hoa này. Quan trọng hơn trồng hoa hồng môn đem lại thu nhập cao hơn rất nhiều so với cà phê nên anh Hùng quyết định chuyển từ cà phê sang trồng hoa hồng môn.

Mô hình trồng hoa hồng môn cho thu nhập cao của anh Hùng.

“Năm 2016, tôi bắt đầu chuyển sang trồng hồng môn. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu rất cao, mỗi sào khoảng 500 triệu đồng, nhưng thời gian thu hồi vốn khá nhanh. Nếu cùng một chi phí đầu tư, trồng cà phê phải mất 10 năm mới hoàn vốn, thì trồng hoa hồng môn chỉ mất khoảng 3 năm là đã hoàn vốn, vì giá trị kinh tế mà hoa hồng môn mang lại trên cùng một đơn vị diện tích cao hơn hẳn cây cà phê”, anh Hùng cho biết.

Từ 1 sào hồng môn ban đầu đến nay anh Hùng đã phát triển lên 2,5 sào hồng môn, với 11.000 cây. Trang trại trồng hoa hồng môn của anh Hùng được đầu tư khá bài bản: nhà lưới, dàn bằng ống thép chống gỉ, hệ thống tưới bán tự động, luống trồng hoa kết bằng tấm bê tông và tấm ván ép…

Anh Hùng chia sẻ: “Với 11.000 cây hoa hồng môn, 1 tháng tôi thu hoạch được khoảng 5.000 bông, mỗi bông hiện có giá từ 5.000 – 7.000 đồng. Như vậy, sau khi trừ chi phí, 1 sào hoa hồng môn cho thu nhập khoảng 100 triệu đồng”.

Cũng theo anh Hùng, ở trang trại hoa hồng môn của anh, bông được thu hoạch thành nhiều đợt khác nhau. Trung bình cứ 1 tuần anh Hùng thu hoạch bông một lần. Bông thu hoạch đến đâu thì thương lái thu mua tới đó. Hiện tại, trang trại hoa hồng môn của anh Hùng có các màu: trắng, hồng, đỏ, xanh…

Chị Phạm Thị Thúy Ngọc – vợ anh Hùng tâm sự: “Trồng hoa hồng môn cũng không đòi hỏi nhiều kỹ thuật. Chỉ cần chịu khó mày mò tìm hiểu qua kinh nghiệm của những người đi trước là cách trồng, cách chăm sóc, cũng như phát hiện và xử lý kịp thời các loại nấm bệnh”.

Theo chị Ngọc, ở xã Hòa Ninh, ngoài vợ chồng chị trồng hoa hồng môn, còn có 3 – 4 hộ nữa. Tổng diện tích đất trồng hồng môn trên địa bàn xã Hòa Ninh hiện vào khoảng 3 ha.

Nhận xét về mô hình trồng hoa hồng môn mang lại hiệu quả kinh tế cao của gia đình anh Hùng và chị Ngọc, anh Nguyễn Đình Tiện, Bí thư Đoàn xã Hòa Ninh cho hay: “Những kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của mô hình trang trại hoa hồng môn của Hùng là thực tiễn sinh động để tham khảo và vận dụng, nhằm mục đích phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. Chúng tôi cũng đã đề nghị anh Hùng hỗ trợ, tư vấn kỹ thuật cho những thanh niên trên địa bàn xã Hòa Ninh và thanh niên của 5 xã phía Nam huyện Di Linh có nhu cầu trồng hoa hồng môn và Hùng rất sẵn lòng”.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nhà nông Thanh Đa trồng rau an toàn, thu 600 triệu đồng/ha

Tham gia mô hình trồng rau an toàn (RAT) theo tiêu chuẩn VietGAP, hàng trăm hộ nông dân trên địa bàn xã Thanh Đa, huyện Phúc Thọ (TP.Hà Nội) không chỉ nâng cao thu nhập mà góp phần đưa xã nhà thành địa chỉ sản xuất, cung ứng RAT uy tín trên địa bàn thành phố.

Thu nhập tăng, sức khỏe đảm bảo

Là 1 trong những chủ vựa rau lớn ở thôn Phú An, xã Thanh Đa, ông Nguyễn Đình Thân cho biết: “Trước kia, người dân chủ yếu canh tác rau theo phương thức truyền thống, tự phát, cơ cấu cây trồng, mùa vụ không rõ ràng, thiếu định hướng nên hiệu quả kinh tế không cao. Từ khi chuyển sang làm RAT, mỗi sào rau đem lại cho nông dân 15 – 20 triệu đồng/năm, nhờ đó cuộc sống khấm khá hơn nhiều. Từ nguồn thu nhập được coi là phụ, hiện nay, rau đã trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ trong xã”.

Thời gian tới, TP.Hà Nội tập trung phát triển chuỗi RAT gắn sản xuất với sơ chế, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm

Sở NNPTNT Hà Nội sẽ tham mưu thành phố có thêm cơ chế, chính sách về sản xuất, tiêu thụ RAT, theo hướng hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp phát triển hệ thống cửa hàng, điểm bán lẻ RAT; chuyển giao, tập huấn kỹ thuật cho nông dân sản xuất tốt hơn.

Cũng ở thôn Phú An, bà Nguyễn Thị Thủy trồng 2 sào RAT các loại. Bà Thủy cho biết, để phòng trừ sâu bệnh, bà sử dụng các loại bẫy bả sinh học, dẫn dụ bướm và các loại côn trùng vào bẫy. Mỗi sào ruộng, bà đặt 7 miếng bẫy (giá 10.000 đồng/miếng), nhiều bướm sâu tơ, ruồi đục quả, bọ phấn… bị thu hút và dính bẫy. Diệt bướm là biện pháp tốt nhất để không phát sinh sâu hại cây trồng và giảm sử dụng thuốc trừ sâu.

Không chỉ có hộ gia đình ông Thân, bà Thủy, hàng trăm hộ dân ở Thanh Đa đều có cuộc sống khấm khá hơn hẳn khi chuyển từ canh tác truyền thống sang trồng RAT. Chủ tịch UBND xã Thanh Đa Nguyễn Văn Mạnh cho hay: Nằm ven sông Hồng, khu đất Bãi Nổi tại thôn Phú An thường xuyên được phù sa bồi đắp màu mỡ nên rất thuận lợi cho trồng RAT. Năm 2009, xã tiến hành quy hoạch 30ha tại khu đồng Bãi Nổi để trồng rau.

Bắt tay vào thực hiện, xã được thành phố quan tâm hỗ trợ vật tư nông nghiệp, hạt giống rau, tập huấn kỹ thuật thông qua các lớp IPM (phòng trừ dịch hại tổng hợp) cho các hộ sản xuất. Đặc biệt, thành phố còn đầu tư hơn 19 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng tại vùng quy hoạch sản xuất RAT, gồm: 7km bêtông nội vùng, xây dựng nhà sơ chế, trạm bơm, bể chứa, trạm điện và hệ thống đường dây, lắp đặt hệ thống tưới đến từng ruộng. Đến nay, sau hơn 9 năm triển khai, vùng RAT thôn Phú An đã tăng lên 50ha với 330 hộ tham gia sản xuất. Hiệu quả kinh tế đạt trung bình trên 600 triệu đồng/ha/năm, cao gấp nhiều lần so với cấy lúa và trồng rau truyền thống.

Theo ông Mạnh, để duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất vùng RAT, xã thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, giám sát quá trình sản xuất của nông dân; hướng dẫn bà con cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng chủng loại, cách ly đúng thời gian, bỏ bao bì vào thùng chứa đúng nơi quy định… Điều đáng mừng là RAT thôn Phú An đã được Chi cục Bảo vệ thực vật Hà Nội cấp chứng nhận chất lượng RAT, được đăng ký mã số, mã vạch để quản lý, bước đầu tạo được uy tín, thương hiệu tại thị trường Thủ đô.

Trước nhu cầu sử dụng rau sạch tăng cao, nhiều hộ dân Phú An đã mạnh dạn xây dựng hệ thống nhà lưới để nâng cao năng suất, chất lượng rau. Xã Thanh Đa chỉ đạo HTX Nông nghiệp Phú An, các hội, đoàn thể tăng cường tuyên truyền, vận động nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa cây, con giống mới vào sản xuất. UBND xã cũng đang liên kết với các công ty, doanh nghiệp triển khai hệ thống nhà kính sản xuất RAT.

Thêm cơ chế hỗ trợ phát triển RAT

Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn TP.Hà Nội đã có hơn 5.000ha diện tích rau được chứng nhận an toàn, hơn 300ha rau đạt tiêu chuẩn VietGAP và hàng trăm ha trồng rau hữu cơ.

Tuy nhiên, một trong những vấn đề khó khăn đối với sản xuất, kinh doanh RAT nói riêng và các sản phẩm nông sản an toàn theo chuỗi nói chung là cần phải có nguồn vốn lớn. Trong khi đó, hệ thống hỗ trợ, phân phối sản phẩm nông sản chưa đủ mạnh, giá thành sản phẩm còn cao… gây khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực này.

Để RAT phát triển mạnh trong thời gian tới, ông Chu Phú Mỹ – Giám đốc Sở NNPTNT Hà Nội cho biết, Sở sẽ phối hợp với các địa phương tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng mô hình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về phòng trừ sâu bệnh theo hướng giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng thảo dược để phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng.

Bên cạnh đó, tập trung phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ RAT truy xuất nguồn gốc đến hộ gia đình gắn với hệ thống bảo đảm có sự tham gia của người sản xuất, người kinh doanh, người tiêu dùng; siết chặt công tác quản lý vật tư nông nghiệp ở tất cả các khâu.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nuôi vịt trời – một vốn bốn lời.

Suốt 30 năm làm nghề nuôi vịt thịt, ông vua “vịt” Nguyễn Thanh Tuyền (xã Lộc Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh) thấy nếu cứ mãi “cắm đầu” vào con vịt thịt, thì hệ số lãi suất không cao, nên đã ném cả chục tỷ đồng để lập trang trại vịt trời.

Vịt trời vào trang trại

Tiếp tôi tại bộ bàn đá đặt cạnh ao thả vịt trời, ông Tuyền thở phào: “Tôi vừa lên xã xin lập dự án nuôi vịt trời. Cán bộ xã bảo phải lập dự án mới vay tiền ngân hàng được. Ngày trước làm theo kiểu nông dân, thấy gì làm nấy, đâu cần làm dự án. Bây giờ thiếu tiền mới làm dự án để vay ngân hàng”. Ý định của ông Tuyền là sẽ vay ngân hàng vài ba tỷ đồng để mở rộng quy mô nuôi vịt trời.

Ông Nguyễn Thanh Tuyền cho đàn vịt trời 5 ngày tuổi ăn. Đây là số vịt trời giống ông triển khai cho siêu dự án vịt trời.

Nói về cái nghiệp nuôi vịt của mình, ông Tuyền nhớ lại: “Thuở thiếu thời tôi sống ở miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long nên không lạ gì con vịt trời. Thậm chí, tôi còn cùng chúng bạn rủ nhau đi săn vịt trời ngoài đồng ruộng, nên đã sớm ấp ủ tham vọng sẽ phải thuần hóa và nuôi bằng được loài vịt này”. Nhìn đàn vịt trời bố mẹ tới 1.500 con ông Tuyền đang thả trong ao, thi thoảng từng tốp bỗng đập cánh bay vù vù, tôi hỏi ông Tuyền: Nếu cả đàn vịt kia “sổ lồng” bay đi mất thì sao? Ông Tuyền cười lớn rồi nói: “Chúng đã được tôi thuần hóa hết rồi, thi thoảng mới có 5-10 con bay lạc mất thôi, chứ đã nuôi giống này mà lúc nào cũng lo nó bay đi mất thì hơi sức đâu mà lo”.

Để có chỗ nuôi giữ đàn vịt trời “khủng” trên, ông Tuyền đã “đổ” vào đây cả chục tỷ đồng để biến đầm lầy rộng 5ha thành trang trại.

Thấy tôi thắc mắc, thuần hóa được vịt trời đã đành, nhưng quan trọng lấy giống đâu để mà nuôi nhiều thế, ông Tuyền cười nói: “Đúng là thời gian đầu phải nói nôm na là đi nhặt nhạnh về nuôi. Tôi lần mò vô những xã vùng sâu, vùng xa của Long An, Đồng Tháp… mua mỗi lúc vài con vịt trời trong dân về làm giống. Họ bắt vịt trời Hoang dã từ đồng về cắt ngắn lông cánh để vịt không bay rồi nuôi như vịt nhà”.

Thấy cách tìm giống như thế “phiêu” quá, ông đã bắt xe ra ngoài Bắc, tìm về Bắc Giang rồi “tậu” một lúc hàng trăm con vịt trời giống. Theo ông Tuyền, nếu bình quân mỗi con bố mẹ có giá 1 triệu đồng như hiện nay, chỉ riêng đàn vịt trời giống của ông đã phải bỏ ra gần 2 tỷ đồng. Ngoài đàn vịt giống này, ông còn có hơn 15.000 vịt trời đang nuôi bán thịt. Hiện trong trang trại vịt trời của ông Tuyền luôn có 20 công nhân lo chăm sóc, ăn uống, xử lý nước cho đàn vịt trời với mức lương 3 triệu đồng/tháng.

Một vốn, bốn lời

Gần 30 năm nuôi vịt thịt, cuối cùng ông Tuyền cũng gác lại để chuyển sang đầu tư nuôi vịt trời. Đâu là nguyên nhân để vua “vịt” bám đuôi con vịt trời? Lý do, theo ông Tuyền là do giá cả vịt thịt thất thường lại hay bị dịch Bệnh nên nghề nuôi vịt khó phát triển, mà đầu tư nuôi vịt trời lại siêu lợi nhuận, dễ nuôi, nên ông đã chuyển đổi mô hình chăn nuôi để có hiệu quả hơn.

Để minh chứng cho tôi thấy lợi nhuận của nghề nuôi vịt trời, ông Tuyền đã phác thảo cho tôi vài con số. Theo ông Tuyền, nuôi một con vịt siêu thịt cùng một thời gian nuôi ăn thức ăn bằng 4 – 5 con vịt trời. Trong khi đó, khi bán một con vịt trời giá gấp 2 – 3 lần con vịt siêu thịt. “Vịt trời khá dễ nuôi. Thịt thơm, ngon, ngọt, xương nhuyễn hơn vịt thịt nên hiện thị trường rất ưa thích” – ông Tuyền chia sẻ.

Bình thường, để nuôi vịt trời, ông Tuyền thường chọn mua những con giống vài ba tuần tuổi, sau khi nuôi khoảng 3 -4 tháng, trọng lượng vịt trời có thể đạt hơn 1,3kg. Lúc này vịt có thể xuất chuồng với giá hiện thời là 250.000 – 300.000 đồng/con tại các nhà hàng, tiệm ăn. Trung bình, cứ 5 ngày trang trại của ông Tuyền có thể bán ra 3.000 con vịt trời, tương đương với số tiền thu về từ 750 – 900 triệu đồng. Như vậy mỗi tháng trang trại nhà ông Tuyền thu về trên dưới 4 tỷ đồng. Mặc dù bán được số lượng vịt lớn như vậy, nhưng ông Tuyền vẫn chưa hài lòng, vì theo ông, lượng vịt bán ra phải cao hơn nữa mới đạt yêu cầu về quy mô của trang trại. Được biết, với mỗi con vịt trời bán ra, chỉ cần với giá 100.000 đồng là đã hòa vốn, bởi tuy giá giống đắt, nhưng bù lại tiền thức ăn lại ít hơn hẳn so với vịt thịt.

Sau một thời gian tiếp cận thị trường Tây Ninh, Đồng nai… đến nay, ông Tuyền đang tìm cách bán vịt trời cho thị trường trọng điểm TP.HCM. Bởi theo ông, đây là thị trường chủ lực để triển khai một “siêu” dự án nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam sắp tới.

Siêu dự án vịt trời

Đến thời điểm này, ông Tuyền đang có 3 trại nuôi vịt trời. Theo dự tính, ngay sau Tết Nguyên đán, ông sẽ tăng đàn vịt trời lên khoảng 50.000 con. Tuy nhiên, đó không phải là “siêu” dự án mà ông đang dự tính triển khai. Bằng chứng là ông đang cho ương đàn vịt giống lên cả 100.000 con với 200 chuồng ương giống.

Trong khu vực ương vịt trời giống, hàng ngàn con vịt con từ vài ngày cho đến chục ngày tuổi lúc nhúc trong những chuồng ương. Những đàn vịt trời này một phần giúp ông thực hiện một dự án “khủng” nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam ở đất phương Nam. “Trước khi cho đám vịt con này tiếp nước, tiếp đất tôi phải cho tiêm ngừa đầy đủ” – ông Tuyền nói.

Theo kế hoạch ông sẽ hợp tác với 3 nông dân triển khai một dự án nuôi vịt trời rộng 1.000ha. “Chúng tôi đã thống nhất kế hoạch triển khai dự án này rồi. Trang trại sẽ có diện tích 1.000ha tại khu vực cạnh hồ Dầu Tiếng. Trong khu đất này có khá nhiều hố bom, những thung lũng có thể chứa nước nuôi vịt trời, kết hợp thả nuôi cá” – ông Tuyền cho biết. Bên cạnh đó, cũng theo ông Tuyền, sắp tới sẽ triển khai nuôi vịt trời bằng thảo dược chứ không nuôi bằng thức ăn thường như hiện nay. “Nhu cầu ăn chơi của người dân ngày càng đòi hỏi không những ngon mà còn độc đáo, nên tôi cũng phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm vịt trời của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường” – ông nói.

Để manh nha thực hiện “siêu” dự án vịt trời, từ lâu trong trang trại vịt trời của ông Tuyền lúc nào cũng có một chuyên gia người Đài Loan chuyên xử lý nước và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật với mức lương “khủng”. Tham vọng của ông Tuyền là sẽ chinh phục thị trường vịt trời cho toàn bộ các tỉnh miền Nam.

Nguồn: kythuatnuoitrong.edu.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Hướng dẫn chi tiết nhất cách trồng măng tây trong thùng xốp ngay tại nhà.

Cây măng tây có hàm lượng dinh dưỡng cao và có nhiều công dụng trong chữa bệnh và làm đẹp. Vậy tại sao chúng ta không thử trồng cây măng tây trong thùng xốp ngay tại nhà mình nhỉ? Mời bạn xem hướng dẫn dưới đây để có món măng tây sạch ngon tuyệt nhé !

1. Giá trị dinh dướng của cây măng tây

Trong măng tây có chứa rất nhiều lượng vitamin, axit amin, các loại khoáng chất, sắt giúp bổ máu, canxi giúp chắc xương, kẽm, chất xơ, chất đạm,… Bên cạnh đó, măng tây cũng có thể chữa rất nhiều bệnh như ung thư, tiểu đường, tim mạch, đường ruột,…

Măng tây có tác dụng chữa bệnh viêm bàng quang, ngừa sỏi thận, mật…có hợp chất chống oxy hóa, măng tím có chứa nhiều hợp chất chống oxy hóa hơn màu khác…

Ngăn ngừa lão hóa: Măng tây có chứa một chất chống oxy hóa gọi là glutathione, có tác dụng bảo vệ da trước tác hại gây ra từ ánh nắng mặt trời.

Ngăn ngừa loãng xương: Măng tây là nguồn dồi dào vitamin K, giúp cho quá trình đông máu nhanh hơn, đồng thời giúp tăng cường sức khỏe của xương.

Giảm cân: Măng tây là một loại thực phẩm thấp calories nên măng tây rất hữu dụng trong “công cuộc”giảm cân

Tốt cho thai nhi: Do có chứa nhiều folate nên măng tây rất có lợi cho thai phụ, vì folate là loại vitamin cần thiết cần thiết cho việc hình thành ống thần kinh thai nhi, ngăn ngừa dị tật ở thai nhi.

Đẹp da: Măng tây chứa rất nhiều vitamin C và vitamin A. Đây là 2 chất kháng oxy hóa hàng đầu bảo vệ da vững vàng trước sự xâm lăng của những gốc tự do. Vitamin C còn giúp cho sự tổng hợp collagen. Collagen là một loại protein có tác dụng nâng đỡ da và ngăn ngừa sự lão hóa da.

Ngăn ngừa ung thư: Ung thư và các chứng bệnh có liên quan sẽ được giảm thiểu nếu bạn ăn nhiều măng tây. Chất glutathione – một chất chống oxy hóa có khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh ung thư – có rất nhiều trong măng tây.

Vì là loại thực phẩm có giá trị kinh tế rất cao nên măng tây được rất nhiều người trồng tại nhà. Tuy nhiên muốn trồng măng tây cho hiệu quả cao cần hết sức kiên trì với thời gian thu hoạch tận 9 tháng. Măng tây là loại cây ưa khí hậu mát, ưa sáng và cần cung cấp nhiều nước. Ở nhiệt độ 25 – 30 độ C là điều kiện thích hợp nhất để trồng loại cây này.

Thường thì người ta gieo trồng măng tây vào 2 vụ thu đông từ tháng 8 – tháng 3 và vụ xuân hè từ tháng 2 – tháng 6 dương lịch.

2. Cách trồng măng tây trong thùng xốp ngay tại nhà

Măng Tây.

Chuẩn bị:

Trồng măng tây trong loại đất phù sa, đất thịt nhẹ hoặc đất cát. Để cây phát triển nhanh và cho chất lượng tốt cần bón lót trước khi trồng. Tỉ lệ bón phân 2 phần đất, 1 phần phân hữu cơ, 1 phần tro trấu hoặc rơm khô…

Chuẩn bị một thùng xốp to để tiến hành trồng cây.

Ươm hạt: Hạt giống măng tây lớn và có vỏ rất dày vì thế trước khi ươm cần phơi nắng to cho khô để tăng độ hút ẩm của hạt. Sau đó xả bằng nước lạnh, rửa sạch bụi bẩn ở hạt, loại bỏ những hạt lép, hỏng.

Khi ủ, ủ trong khăn tối màu ở nhiệt độ 30 – 40 độ C trong 1 tuần, để nơi kín gió và ánh sáng. Cứ khoảng 12 tiếng lại tưới nước ấm 1 lần cho hạt. Khi ủ trong vòng từ 9 đến 12 ngày thì hạt sẽ nút nanh và có thể đem trồng.

Khi trồng măng tây trong thùng xốp ta gieo hạt sâu từ 1 – 2,5 cm. Phủ lên hạt một lớp đất mỏng rồi tưới nước. Cây măng tây khá ưa ẩm nên cần tưới nước thường xuyên hàng ngày khi thấy đất khô.

Chăm sóc: Bón phân chuồng, phân lân, phân NPK theo cho kỳ 10 – 15 ngày để cây phát triển tốt, cho cây mập và giàu chất dinh dưỡng.

Thu hoạch: Khi thấy măng tây chồi lên cao khỏi mặt đất từ 20 – 30 cm thì tiến hành thu hoạch măng để sử dụng.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc Mít Thái ra trái quanh năm.

Mít Thái là giống cây dễ trồng, ít công chăm sóc, không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sinh trưởng ngắn, cho thu hoạch nhanh, năng suất cao, đậu trái quanh năm, múi mọng và giòn ngọt, đặc biệt cây trồng phù hợp với vùng đất đồi.

Mít Thái.

1, Tiêu Chuẩn Chọn Giống:

Dùng hạt cây Mít mật, Mít rừng gieo làm gốc ghép cho mít dai. Tiến hành ghép khi cây gốc ghép được 5-6 tháng, cao 30-40cm, lá đã ổn định. Có thể ghép mắt kiểu cửa sổ hoặc ghép áp, trong đó tỷ lệ thành công của ghép áp cao hơn. Thời vụ cho chiết, giâm hom, ghép cây tốt nhất là tháng 3-4 (vụ xuân) và tháng 8-9 (vụ thu) khi nhựa trong cây ổn định. Bí quyết thành công của các phương pháp nhân giống mít là giâm, ghép phải làm nhanh ngay sau khi cắt; với chiết cần để nhựa khô 2-3 ngày mới bó bầu nếu không sẽ bị nhiễm khuẩn mà chết khô cành.

2, Thời Vụ và Mật Độ Trồng:

Đầu mùa mưa tháng 5 đến tháng 7 dương lịch. Nếu chủ động nguồn nước tưới có thể trồng sớm hơn, thậm chí trồng quanh năm.

– Trồng dầy: Cây cách cây 5m, hàng cách hàng 6m. Một ha trồng khoảng 300 cây (vì phải chừa đường đi nội bộ).

– Trồng thưa: Cây cách cây 6m hàng cách hàng 7m. Một ha trồng khoảng 210 cây. – Đất cằn cỗi nên trồng dầy, đất tốt nên trồng thưa. Hiện nay, người ta có xu hướng trồng dầy để tăng sản lượng và rút ngắn thời gian hoàn vốn, sau đó áp dụng phương pháp tỉa cành hay đốn tỉa bớt.

3, Làm Đất Và Đào Hố Trồng:

– Đất bằng phẳng phải xẻ mương rãnh sâu ít nhất 30 – 40cm (tùy nước thủy cấp ở từng nơi) để chống úng vào mùa mưa. Làm hốc sâu 40 x 40 x 40cm và đắp mô cao 40 – 70cm.
– Đất có độ dốc khoảng 5%, không cần đắp mô, chỉ cần làm hốc có kích thước 40 x 40 x 40cm.
– Độ dốc cao hơn 7%, làm hốc có kích thước 40 x 40cm và sâu 60cm.
– Mỗi hốc có thể trộn: 0,5kg vôi bột, 1-3kg phân hữu cơ Better HG01 3-2-2. Hố trồng đào 50 cm x 50 cm x 50 cm, khi đào hố nên để riêng lớp đất trên mặt ra một bên và đất ở lớp phía dưới ra một bên, bón lót mỗi hố 10-12 kg phân chuồng đã ủ hoai, hoặc phân hữu cơ Komix 1 kg, 150-250 g Super lân, trộn đều với lớp đất mặt xung quanh, trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi để phòng trừ mối kiến và nâng cao độ pH đất. Ngoài vật liệu bón lót trên không nên dùng phân hữu cơ chưa hoai hay tro bếp bón lót dễ gây thối rễ và làm mặn đất.

4, Phân Bón Lót:

Bón lót mỗi hố 10-12 kg phân chuồng đã ủ hoai, hoặc phân hữu cơ Komix 1 kg, 150-250 g Super lân, trộn đều với lớp đất mặt xung quanh, trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi để phòng trừ mối kiến và nâng cao độ pH đất. Ngoài vật liệu bón lót trên không nên dùng phân hữu cơ chưa hoai hay tro bếp bón lót dễ gây thối rễ và làm mặn đất.

5, Kỹ Thuật Trồng Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

Dùng tay móc một lỗ nhỏ giữa hố trồng sâu hơn chiều cao túi đựng thanh trà khoảng 2-3 cm, kích thước to hơn bầu cây đôi chút, để túi cây trên mặt đất, dùng dao sắc rạch một đường xung quanh túi nilon, cách đáy 2-3 cm, bóc lấy đáy túi ra. Xem xét bộ rễ, cắt bỏ tất cả các phần rễ cái, rễ con ăn ra khỏi bầu đất, sau đó đặt vào hố trồng, lấp đất và rút bọc nilon ra. Dùng tay lấp và ém chặc lớp đất xung quanh để cố định gốc cây con không bị gió lay, chú ý đặt cây vào hố trồng sao cho sau khi trồng cổ rể ngang bằng với nền đất xung quanh, không trồng âm hay lấp phần thân cây. Sau khi trồng cần làm bồn đường kính khoảng 1 m để nước tưới không chảy ra ngoài. Trồng xong lấy cọc cắm, buộc thân cây vào cọc tránh gió lay gốc, nên buộc lỏng bằng dây nilon. Nếu trồng vào mùa mưa không cần che mát như sầu riêng hay măng cụt.

6, Kỹ Thuật Chăm Sóc Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:
Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:
Chú ý chỉ tỉa cành tạo tán khi cây mít đạt chiều cao khoảng 1m trở lên, khi cây chưa cho trái tỉa cành 2-3 lần/năm. Cây đã cho trái tỉa cành 1 năm/lần vào thời điểm thu hoạch trái xong. Khi tỉa cắt bỏ các cành gần sát mặt đất, cành tược, cành nhỏ mọc không đúng hướng, cành sâu bệnh. Giữ lại cành cấp 1 cách gốc khoảng 40cm trở lên, chọn các cành mọc theo các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40 – 50cm, tạo thành tầng không quá 5 cành cấp 1. Tỉa bỏ bớt cành cấp 2, cấp 3… cho cây thoáng nhằm chống sâu bệnh và tăng năng suất.

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Mít Thái (Siêu Sớm):
+ Năm thứ 1: Sau khi trồng cứ 1-1,5 tháng bón phân 1 lần, bón cho mỗi gốc 100-150 g NPK(15:15:15), xịt bổ sung phân bón lá vi lượng như: number one hay Fetrilon-combi theo liều hướng dẫn, mục đích giúp cây có đủ dưỡng chất và chất vi lượng cần thiết khi bộ dễ chưa bén đất.
+ Năm thứ 2: lượng bón cho một cây là: 1,5-2,0 phân NPK theo tỷ lệ 2:1:2.
+ Năm thứ 3: Cây bắt đầu cho trái kinh doanh, lượng phân tăng so với năm trước 0,5-1,0 kg/cây. Chia làm hai lần bón đầu và cuối mùa mưa. Trong thời gian quả đạt trọng lượng tối đa sử dụng phân bón gốc Kali sulphate (K2SO4), bón mỗi gốc 400-500 g, kết hợp với phân bón lá 0-52-34 hoặc 10-52-17 phun cho cây 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần như vậy trái sẽ chính tập trung, màu thịt quả vàng hơn vàng mùi vị thơm ngon hơn.

7, Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Mít Thái (Siêu Sớm):

SÂU ĐỤC THÂN, ĐỤC CÀNH: Có tên Margronia, thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu vào giai đoạn ra lá non, trái non như Cyperan 5 EC, 10 EC, Decis 2,5EC, Bian 40-50 EC, Basudin 50 EC.

RUỒI ĐỤC TRÁI: Do loài dacus sp, đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Dùng chất dẫn dụ sinh học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái hay xịt thuốc diệt ruồi như trebon 10 Nd, decis 25 ec…

SÂU ĐỤC TRÁI: Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất.Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm. Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.

NGÀI ĐỤC TRÁI: Có nhiều loài gây hại khác nhau, chúng chích hút vào ban đêm ở giai đoạn trái chín. Cách phòng trị giống như sâu đục trái.

RẦY, RỆP: Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá quăn queo, cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là Nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng các loại thuốc hóa học sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Bassan 50 EC, Supracide 40 EC, Basudin 50 ec…

8, Thu Hoạch và Bảo Quản:

Cây mít cho trái rải vụ quanh năm, song vụ chính ở Đồng nai vào tháng 6, 7. Thời gian từ lúc ra hoa đến lúc trái già khoảng 5 tháng, do đó có thể căn cứ vào màu sắc trái để thu hoạch. Trái mít già, các gai nở căng, chuyển từ màu xanh sang màu xanh vàng hoặc nâu nhạt, mủ lỏng và trong, vỗ kêu bồm bộp, để vận chuyển đi xa nên thu hoạch lúc trái già. Hiện ở Đồng Nai có nhiều giống mít cho năng suất cao như: mít Viên Linh, mít Thái, mít nghệ, mít tố nữ… Song, nông dân nên trồng giống mít nghệ trong nước được tuyển chọn qua các cuộc thi trái ngon, giống tốt hoặc những giống mít trong nước có phẩm chất ngon được nhiều người ưa chuộng, đồng thời thích hợp để chế biến, sấy khô đóng gói xuất khẩu.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật nuôi ngao.

Bài viết này áp dụng trong điều kiện nuôi ngao bãi triều các vùng ven biển.

Bãi nuôi ngao.

I. CHUẨN BỊ BÃI NUÔI:

1. Điều kiện bãi nuôi

– Bãi triều phải nằm trong vùng quy hoạch đã được UBND tỉnh phê duyệt; bãi nuôi thuộc vùng trung và hạ triều, bằng phẳng, ít dốc, nền đáy cát chiếm tỷ lệ khoảng 70-80%.
– Diện tích: 1-2 ha/bãi.
– Độ mặn ổn định, dao động từ 10-30‰.
– Không ảnh hưởng của nguồn nước thải từ các khu công nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, nước thải trong sinh hoạt và nước ngọt từ các cửa sông đổ ra.

2. Chuẩn bị bãi nuôi

2.1. Cải tạo bãi nuôi

– Đối với bãi cũ: Sau khi kết thúc một chu kỳ nuôi, người nuôi ngao cần tính toán lịch con nước thủy triều để tiến hành vệ sinh mặt bãi, đồng thời sử dụng máy, cày lật bãi nuôi, kết hợp bón vôi với lượng 10 kg/100 m2, rồi san bằng mặt bãi trước khi thủy triều lên.
– Đối với bãi mới: Người nuôi ngao tính toán lịch con nước thủy triều, tiến hành vệ sinh mặt bãi. Những bãi nuôi nền đáy chưa ổn định, tiến hành phun cát bổ sung đến mức hợp lý (nền đáy cát chiếm tỷ lệ 70-80%), rồi san bằng mặt bãi trước khi thả giống.

2.2. Chuẩn bị vây lưới và chòi canh bảo vệ ngao nuôi

* Vây lưới

– Chuẩn bị xăm lưới Politylen, cọc tre hoặc gỗ để vây xung quanh bãi nuôi, tránh ngao di chuyển tự do hoặc thất thoát khi gặp các điều kiện bất lợi của thời tiết như sóng gió, mưa bão …
– Vây lưới có thể được làm 1 hoặc 2 lớp, lớp trong có tác dụng ngăn không cho ngao di chuyển ra ngoài, lớp ngoài ngăn ngừa địch hại xâm nhập; chiều cao lưới 0,8-1,2 m, cỡ mắt lưới nhỏ hơn cỡ giống thả.
Cách cắm vây lưới: Vùi xuống đất khoảng 1/3 đến 2/5 chiều cao của xăm lưới, phần còn lại dùng các cọc bằng tre hoặc gỗ dài 1,5-2,5 m để nâng lưới lên cao hơn so với mặt bãi từ 50-70 cm. Cách 1,5-2,0 m cắm một cọc nhỏ (Φ = 8-10) để nâng lưới, cách 3-5 m cắm một cọc cỡ lớn (Φ = 10-15) để căng lưới.

* Chòi canh

Để thuận tiện cho việc quan sát, kiểm tra bãi nuôi hàng ngày, phải tiến hành dựng chòi canh bảo vệ ngao nuôi. Chòi được thiết kế kiên cố bằng các vật liệu như phi lao, bạch đàn, tre, nứa … , cao hơn mực nước cao nhất trong năm từ 5-7 m.

II. CHỌN VÀ THẢ GIỐNG:

1. Chọn giống

– Người nuôi nên chọn mua ngao giống tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh có uy tín, đảm bảo chất lượng; tốt nhất nên chọn ngao giống đã được ương dưỡng tại các vùng nuôi có điều kiện môi trường tương ứng.
– Chọn ngao giống có kích cỡ đồng đều, màu sắc sáng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, không bị nhiễm bệnh, có mùi tanh tự nhiên.

2. Thả giống

– Thời vụ thả nuôi: Có thể thả nuôi quanh năm, nhưng thời gian thả giống tập trung từ tháng 4-5 và tháng 9-10 dương lịch hàng năm.
– Cỡ giống thả và mật độ nuôi
Tùy theo điều kiện bãi nuôi, khả năng đầu tư để lựa chọn cỡ giống và mật độ nuôi hợp lý.
+ Cỡ từ 600-2.000 con/kg, mật độ 250-350 con/m2;
+ Cỡ từ 400-600 con/kg, mật độ 180-250 con/m2.
– Cách thả giống: Ngao giống sau khi vận chuyển từ nơi khác về nên để vào nơi râm mát để cân bằng nhiệt độ. Thời gian thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát, khi nước thủy triều đang lên. Lưu ý: Không thả giống khi độ mặn ở cơ sở cung cấp giống và địa điểm thả giống chênh lệch quá 5‰, cắm tiêu để tránh thả chồng lên nhau.

III. QUẢN LÝ BÃI NUÔI

1. Sau khi thả giống, chờ nước thủy triều xuống tiến hành kiểm tra tỷ lệ vùi cát của ngao, trên cơ sở đó xác định tỷ lệ sống để có kế hoạch thả giống bổ sung cho phù hợp.

2. Hàng ngày, sau khi thủy triều xuống tiến hành thăm bãi, kiểm tra các mối nguy có thể ảnh hưởng đến ngao nuôi như: Nhiệt độ (tăng cao vào tháng 6-7 hàng năm), độ mặn, ảnh hưởng của sóng gió …; bắt các đối tượng địch hại như Cua, ốc … và san lấp các chỗ trũng đọng nước trên mặt bãi để tránh hiện tượng nhiệt độ tăng cao cục bộ có thể gây chết ngao nuôi.

3. Sau mỗi con nước hoặc bão gió, phải tiến hành ngay việc san thưa mật độ ngao dồn vào chân vây phía cuối hướng gió hoặc dòng chảy; tránh để hiện tượng ngao dồn mật độ cao vào chân vây kéo dài, gặp điều kiện thời tiết bất lợi, dẫn đến gây chết ngao cục bộ.

4. Thường xuyên vệ sinh, tu sửa chân vây lưới, tạo sự thông thoáng cho nước triều lên xuống, làm phong phú nguồn thức ăn cho ngao.

5. Hạn chế người và gia súc đi lại trên bãi nuôi. Định kỳ kiểm tra chiều dài, trọng lượng và tỷ lệ sống của ngao để đánh giá tốc độ sinh trưởng, chủ động các giải pháp (san thưa, thu hoạch …) khi cần thiết.

IV. THU HOẠCH

Căn cứ vào nhu cầu tiêu thụ để lựa chọn thời gian và phương pháp thu hoạch cho hợp lý.
1. Thời gian thu hoạch

– Sau thời gian nuôi khoảng 18-20 tháng, ngao đạt kích cỡ 50-60 con/kg nên tiến hành thu hoạch.
– Thời gian thu hoạch tốt nhất là vào mùa xuân và mùa thu dễ bảo quản.

2. Phương pháp thu hoạch

2.1. Thu thủ công: Dùng cào thu ngao khi nước triều kiệt
– Ưu điểm: Không làm dập vỏ; tỷ lệ tạp chất trong ruột ngao thấp.
– Hạn chế: Thời gian thu kéo dài, tốn nhân công, chi phí cao.

2.2. Thu bằng lưới kéo trên thuyền máy
– Ưu điểm: Thời gian thu hoạch ngắn, tốn ít nhân công, chi phí thấp.
– Hạn chế: Có thể làm dập vỏ một lượng ngao nhất định trong khi thu hoạch, tạp chất trong ruột ngao nhiều, mất chi phí và thời gian sơ chế, ảnh hưởng đến uy tín chất lượng ngao xuất khẩu.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.