Công dụng ít biết của củ ấu

Củ ấu không chỉ là món ăn dân dã mà còn có tác dụng chữa bệnh hiệu quả.

Củ ấu

Vào những ngày tiết trời se lạnh, thứ đồ ăn vặt dân dã như củ ấu lại được bán dọc các tuyến đường hay ở một số chợ. Nhìn bề ngoài xấu xí nhưng ruột củ ấu lại trắng, thơm và bùi.

Củ ấu có tên khoa học Trapa cochinchinensis Lour. thuộc họ Ấu – Trapaceae hay còn gọi là ấu trụi, ấu nước, hạt dẻ nước.

Nhiều người còn quen gọi ấu là quả sừng trâu. Đây là loại thực vật thủy sinh, mọc trong ao đầm, thân ngắn có lông.

Các chuyên gia dinh dưỡng đánh giá, trong củ ấu có nhiều giá trị dinh dưỡng cho sức khỏe như nhiều gluxit, đường glucô, protein… Trong 100g củ ấu có khoảng 48,2g nước, 3,4g protein, 32,1g chất bột đường, 3,3g đường, 17,6mg can-xi, 0,4mg kẽm, 0,7mg sắt, 0,8mg natri, 468mg kali và khoảng 730 calorie.

Trong Đông Y, củ ấu vị ngọt, tính mát; vào tỳ, vị. Các thành phần của cây củ ấu đều được coi như một vị thuốc. Thân cây vị ngọt chát, tính bình, có tác dụng tiêu viêm giải độc. Củ ấu có tác dụng ích khí kiện tỳ, thanh thử giải nhiệt lương huyết, trừ phiền chỉ khát.

Củ ấu non ăn sống có tác dụng chống nóng chống nắng, giải độc say rượu, trừ rôm sảy. Loại củ ấy già rất tốt cho trường hợp tỳ hư tiết tả, kinh nguyệt quá nhiều, trĩ xuất huyết, chống suy nhược.

Nhiều bài thuốc đã sử dụng nguyên liệu từ củ ấu để chữa trị bệnh một cách hiệu quả. Chẳng hạn:

Trị bệnh trĩ: Vỏ củ ấu sấy khô, đốt tồn tính, tán thành bột, trộn đều với dầu mè, bôi hoặc đắp.

Trị mụn nhọt: Trẻ nóng lực hay bị nổi ghẻ nhọt. Trong dân gian thường lấy nguyên củ ấu đốt thành than, thêm ít chu sa, băng phiến nghiền thành bột rồi trộn với nước sôi để nguội cho sền sệt. Hàng ngày lấy hỗ hợp đó bôi lên chỗ ghẻ nhọt sẽ hết sưng, đau ngứa. Cùng với đó lấy ruột ấu nấu cháo cho trẻ ăn, ghẻ nhọt sẽ càng mau hết.

Trị viêm loét dạ dày: Thịt ấu 30g, hoài sơn 16g, táo đỏ 16g, bạch cập10g, gạo nếp 100g. Cho tất cả vào nồi, thêm lượng nước vừa đủ để nấu cháo nhừ. Khi ăn cho 20g mật ong trộn đều. Đây cũng là món ăn tốt cho những người bị ung thư dạ dày.

Môi khô, ngủ không ngon giấc…: Thịt củ ấu tươi 50g, địa cốt bì 20g, câu kỷ tử 10g, hoàng cầm, cam thảo sắc lên uống. Ngày 2 lần uống khoảng 1 tuần.

Các chuyên gia lưu ý rằng dù củ ấu là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao với nhiều công dụng tốt song để tận dụng được công dụng của củ ấu, bạn cần lưu ý:

Không nên ăn quá nhiều một thời điểm vì củ ấu có tính mát dễ gây ra tình trạng đầy hơi, trướng bụng và đau bụng. Có thể dùng 50 – 200g/ngày dưới dạng ăn sống hoặc nấu canh, cháo… Ăn nhiều sẽ gây trệ khí, do đó những người có u cục ở ngực bụng cần thận trọng khi ăn. Người tỳ vị hư nhược, đại tiện tiêu lỏng không nên dùng dạng sống. Sau khi ăn củ ấu không nên uống nước liền vì sẽ có cảm giác khó chịu.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi dúi – dễ kỹ thuật, khó đầu ra

Những năm gần đây, người dân ở các huyện Phú Hòa, Sông Hinh, Đồng Xuân bắt đầu thực hiện mô hình nuôi dúi. Sau một thời gian nuôi thử nghiệm, vật nuôi này tỏ ra dễ thích nghi, phát triển tốt nhưng người nuôi lại gặp khó khăn trong việc tìm được thị trường đầu ra ổn định.

Kỹ thuật đơn giản

“Nếu muốn tiêu thụ dúi một cách chủ động, quan trọng nhất là người nuôi dúi tìm được đầu ra cho sản phẩm. Muốn vậy, người dân phải tự mình đi giới thiệu sản phẩm, chủ động sử dụng nhiều kênh thông tin để tìm đến những người có nhu cầu. Chỉ khi nào thị trường có nhu cầu ổn định mới thúc đẩy việc nuôi dúi phát triển lâu dài”, ông Trần Hưng Phú, chuyên viên Phòng Kinh tế – Hạ tầng huyện Đồng Xuân, nói.

Ông Nguyễn Văn Phương, Trưởng phòng Nông nghiệp (Sở NN-PTNT), cho biết, hiện nay dúi vẫn là vật nuôi mới và không nằm trong danh mục ưu tiên phát triển của tỉnh nên chưa được tỉnh đầu tư. Tuy nhiên, một số phòng Kinh tế – Hạ tầng, NN-PTNT các huyện đã có chủ trương cho người dân nuôi dúi thử nghiệm. Dúi là một vật nuôi hoang dã nên ban đầu, người dân gặp nhiều khó khăn nhưng qua một thời gian rút kinh nghiệm, một số mô hình nuôi dúi đã cho kết quả đáng khích lệ. Người dân qua quá trình nắm bắt kỹ thuật chẳng những có thể nuôi dúi đẻ bán giống, nuôi dúi thịt thương phẩm mà còn rút ra được quy trình nuôi hiệu quả.

Tại huyện Đồng Xuân, bốn mô hình nuôi dúi đều tập trung tại xã Xuân Sơn Bắc để cán bộ thú y xã dễ quản lý và chăm sóc. Ông Trần Hưng Phú, chuyên viên Phòng Kinh tế – Hạ tầng huyện Đồng Xuân, cho biết: “Huyện Đồng Xuân là nơi con dúi sống trong tự nhiên, sinh trưởng và phát triển rất tốt. Tuy nhiên, qua thời gian, loài vật này bị con người săn lùng ráo riết nên cạn kiệt dần. Nhận thấy con dúi có thể phát triển trên vùng đất này nên chúng tôi đã cung cấp con giống cho các hộ dân ở xã Xuân Sơn Bắc nuôi thử nghiệm và có những hướng dẫn ban đầu về việc làm chuồng trại, cho ăn uống. Tuy nhiên, để hoàn thiện quy trình, những người nuôi dúi trong quá trình nuôi thực tế phải tự mình rút ra kinh nghiệm”.

Ông Nguyễn Văn Minh, một trong bốn hộ tham gia mô hình nuôi dúi ở xã Xuân Sơn Bắc, cho biết: “Dúi trong tự nhiên thì tôi đã thấy nhiều nhưng khi mua về nuôi do không nắm bắt được thói quen sống của loài này nên tôi phải mất hai năm đầu chịu nhiều tổn thất. Đến năm thứ ba, nhờ nắm vững kỹ thuật, biết cách chăm sóc, điều trị bệnh nên dúi nuôi phát triển tốt, tăng cân đều và hao hụt rất thấp”.

Theo ông Nguyễn Văn Minh, dúi sinh sản mỗi năm bốn lứa và dúi con rất dễ thích nghi với mọi điều kiện chăn nuôi. Thức ăn của chúng phong phú, đa dạng, bao gồm tất cả các loại rau, củ, quả, bắp, mò o, lá tre… Để kiểm tra lượng thức ăn cung cấp cho dúi có đủ hay không, người nuôi dúi chỉ cần quan sát lượng thức ăn của dúi trong vòng 12 giờ. Sau thời gian này, nếu thấy dúi ăn hết thì bổ sung thêm, ngược lại nếu thức ăn còn thừa nhiều thì giảm bớt những lần cho ăn sau. Đặc biệt, khi cho dúi ăn đủ rau, củ, quả tươi thì không cần bổ sung nước.

Địa điểm nuôi dúi lý tưởng là một khu vực yên tĩnh, tránh ánh sáng trực tiếp. Chuồng nuôi dúi sinh sản mỗi ô rộng khoảng 50cm, dài từ 0,8 đến 1m, xây tường cao 70cm bên trong tô xi măng hoặc lát gạch. Mỗi ô chuồng dùng cho một con. Đối với chuồng nuôi thương phẩm, mỗi ô chuồng rộng khoảng 2,2m trở lên, xây tường cao 70cm trở lên. Trong chuồng đặt các ống cống nhỏ hoặc các gốc cây làm nơi trú ẩn cho dúi. Để phòng bệnh cho dúi, chuồng trại phải đảm bảo khô ráo, sạch sẽ và thoáng mát, tránh mưa tạt, gió lùa, nắng nóng và ánh sáng gắt.

Tìm thị thường cho con Dúi

Hiện nay, mô hình nuôi các loài động vật hoang dã như nai, nhím, rắn, dông, heo rừng… cung cấp cho các quán ăn đặc sản đang thu hút nhiều người dân tham gia. Tuy nhiên, dù địa phương đã có nhiều cách làm hay để mở rộng các mô hình nuôi nhưng người dân cũng không duy trì được lâu dài. Lý giải về điều này, ông Lê Trung Hiền, Trưởng phòng Kinh tế – Hạ tầng huyện Tây Hòa, cho biết: “Những vật nuôi mới muốn duy trì và phát triển thì quan trọng nhất là phải đảm bảo được đầu ra. Tuy nhiên, nhiều vật nuôi ban đầu đầu ra rất rộng mở nhưng chỉ sau một thời gian ngắn là bão hòa, không tìm được thị trường tiêu thụ”.

Theo ông Trần Hưng Phú, các mô hình nuôi dúi ở huyện Sông Hinh và Phú Hòa tuy đã được đầu tư để người dân nuôi thử nghiệm nhưng chưa mở rộng mô hình. Riêng ở huyện Đồng Xuân, kỹ thuật nuôi được người dân nắm vững, sản phẩm từ con dúi cũng được một người tham gia mô hình nhận thu mua để cung cấp con giống cho các bạn hàng trong và ngoài tỉnh; còn dúi thương phẩm là món ăn ngon nên thị trường tiêu thụ khá rộng mở. Nhận thấy hiệu quả kinh tế mà con dúi mang lại, nhiều hộ dân ở huyện Đồng Xuân cũng tự đầu tư xây chuồng nuôi dúi.

Hiện dúi giống có trọng lượng từ 300 đến 400g được bán với giá 600.000 đồng/cặp; còn dúi thương phẩm có giá 320.000 đến 350.000 đồng/kg. Với đàn dúi 30 con đang trong thời kỳ sinh sản, ông Nguyễn Văn Minh cho biết, ưu điểm của loài vật này là sinh sản rất tốt, mỗi năm 4 lứa, mỗi lứa 2 đến 3 con. Dúi con sau khi nuôi 5 tháng có trọng lượng 400 đến 500g. Sau khoảng 8 tháng, dúi đã thành thục và có thể đạt trọng lượng 1,5kg, đủ điều kiện để xuất bán. Dúi con thường dễ thích nghi với môi trường sống, thức ăn cho dúi đơn giản, dễ kiếm và nhu cầu thị trường về dúi lấy thịt vẫn đang khá cao. Tuy nhiên, hiện việc tiêu thụ sản phẩm của tất cả những người nuôi dúi ở huyện Đồng Xuân đều dựa vào một đầu nậu thu mua chính nên giá cả không chủ động được.

Nguồn: Báo Phú Yên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi dúi sinh sản. Cách nuôi dúi sinh sản năng suất cao

Dúi là vật nuôi còn khá mới mẻ với đa số vùng nông thôn hiện nay. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, mô hình nuôi dúi đang phát triển rất mạnh mẽ, trở thành hướng đi tiềm năng mới cho bà con nông dân.

Kiến thức quan trọng nhất khi phát triển số lượng đàn dúi là kỹ thuật nuôi dúi sinh sản, tuy không khó nhưng có nhiều điểm cần phải lưu ý. Bài viết này chúng tôi sẽ chia sẻ tới bà con cách chọn dúi giống, chế biến thức ăn và cách chăm sóc dúi sinh sản.

Chuồng nuôi dúi

Với tính thích đào bới và sống ở những chỗ hẹp, kín đáo thì làm nơi trú ẩn cho dúi không quá quy mô, chỉ cần 50-60 cm.

Vật liệu xây chuồng nên sử dụng gạch (để lát nền, hình vuông khoảng 50cm, 30cm và xây tường), cát, xi măng, lưới. Xây ô phối giống kích thước 50x60x24cm. Kích thước ô nhỏ 30x60x24cm, ngăn làm 2 ngăn để làm tổ đẻ, đối với dúi sinh sản làm 2 ô, ô bên trong để sinh sản, ô bên ngoài để thức ăn và là sân chơi thông qua một lỗ 16x11cm.

Dùng lưới để làm cửa, có thể làm 1 cánh cửa cho 6 ô, 4 ô hoặc 2 ô, cắt một đoạn ở phần dưới đáy ô để bỏ thức ăn vào và cũng là lối thoát phân cho dúi mỗi khi chúng đùn phân ra ngoài, yêu cầu ô lưới phải đạt 2 ly trở lên, không được nhỏ quá phân sẽ không thoát ra ngoài được.

Chuồng có thể làm nhiều tầng, mỗi tầng có nhiều ô, mỗi ô có thể thả từ 2-3 con dúi.

Xung quanh chuồng nên xây bờ bao, phòng khi con dúi xổng chuồng không thể thoát ra ngoài được, chiều cao bờ bao khoảng 50cm. Phải có mái che để dúi tránh bị nắng trực tiếp và nước mưa dính vào người. Nếu ở miền Bắc, mùa đông có thể dùng miếng vải hoặc rèm che chuồng để giữ ấm cho dúi.

Lựa chọn dúi giống

*Cách phân phân biệt dúi đực và dúi cái:

Dúi đực: quan sát bộ phận sinh dục của dúi, nếu là con đực dúi sẽ có 2 tinh hoàn tương tự như của chó, và không có vú.

Dúi cái: nhìn phần bụng sẽ thấy 2 hàng vú ở hai bên bê sườn như lợn.

Chọn con dúi đực khỏe mạnh, không dị tật, tương đương hoặc to hơn dúi cái. Một con dúi đực có thể cho phối giống với 4- con dúi cái. Dúi cái nếu có thể biết nguồn gốc bố mẹ thì tốt, lựa chọn nguồn theo bố mẹ khỏe mạnh, nuôi con mau lớn. Nếu không biết nguồn gốc thì ngoại hình phải to vừa, không quá nhỏ, có hàng vú đều hai bên, lông mượt, chạy khỏe. Chu kỳ sinh sản của dúi cái là khoảng 8 tháng, trọng lượng để sẵn sàng động dục là 0,5-0,6kg/con.

Thức ăn cho dúi

Dúi có nhiều đặc điểm giống chuột, nên cho chúng ăn những loại cứng, khô, có tinh bột như mía, ngô, tre bánh tẻ, khoai, sắn … Những loại thức ăn cứng sẽ giúp cho dúi mài răng vì chúng rất hay bị ngứa răng (do chúng dài ra mỗi ngày). Nên chú ý, không cho dúi ăn các loại cỏ, đặc biệt là cỏ voi vì có thể chết vì không đi ngoài được. Thức ăn có tinh bột nhưng mềm cũng nên cho chúng ăn ít vì không tốt cho tiêu hóa của dúi.

Cách chăm sóc dúi mẹ và dúi con

Đặc điểm sinh học của dúi: dúi có tuổi đời trung bình khoảng 6 năm. Số lần để trong năm khoảng 3-4 lần, 3-5con/lần đẻ.

Dấu hiệu nhận biết dúi cái đến thời kỳ động dục: Từ lúc sinh ra cho tới khi đến thời điểm động dục là khoảng 6 tháng (dúi cái thường mang thai trong vòng 45 ngày).

Biểu hiện muốn động dục: dúi cái thường bỏ ăn hoặc ăn ít, sục sạo tìm gì đó như tìm đực, bộ phận sinh dục chuyển sang màu đỏ hồng.

Thời điểm này, nếu cho dúi cái sang ô dúi đực, chúng sẽ phát ra tiếng kêu đặc trưng, và chủ động cho dúi cái phối giống.

Cách ghép đôi: Bắt dúi cái cho vào ô dúi đực, đừng thả gần dúi đực tránh trường hợp cắn nhau, nếu cho chúng ở chung một ô mà không cắn nhau là được.

Giao phối: Thời gian giao phối giữa dúi cái và dúi đực khoảng 1,5-2 phút. Sau khi phối xong, quan sát thấy cả dúi đực và dúi cái cùng liếm bộ phận sinh dục tức là dấu hiệu giao phối thành công, nếu dúi cái không thực hiện hành động này tức là giao phối không thành công. Chu kỳ giao phối của dúi đực là từ 7-10 ngày.

Dúi cái sau 2-3 ngày giao phối đưa đến tổ đẻ để chuẩn bị cho sinh sản. Cho rơm, hoặc rác mềm vào để dúi bện tổ nuôi con.

Dúi con mới đẻ ra không có lông, mắt chưa mở, chỉ mở mắt khi đã đủ 14 ngày tuổi, lúc này lông cũng bắt đầu mọc. Sau 20 ngày tuổi, dúi con có thể tập ăn các loại thức ăn như mía, tre. Cho dúi con lẻ mẹ khi được 1,5 tháng. Khi dúi được khoảng 2-3kg thì có thể xuất bán.

* Lưu ý: Dúi cái có đặc điểm, sau khi sinh con, nếu có người xem thường xuyên chúng sẽ tha con ra ngoài tổ, vì thế không nên thăm tổ đẻ nhiều, để dúi mẹ tự chăm sóc cho dúi con đến khi dúi con được 2 tuần tuổi.

Nguồn: Triệu phú nông dân được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tắm chó: Cách tắm cho chó đúng

Nghe qua, ai cũng nghĩ việc này rất đơn giản, nhưng thực ra việc tắm như thế nào mới là đúng và tốt cho con vật của bạn thì không phải ai cũng biết.

Đối với những thú cưng có bộ lông da khỏe mạnh bình thường thì việc tắm thường xuyên là không cần thiết vì việc tắm rửa thường xuyên có thể làm cho con vật mất đi độ bóng mượt của lông, khô da và thậm chí tổn thương da nếu ta tắm quá nhiều.

Đặc biệt đối với loài mèo, ta nên hạn chế tắm nếu như bộ lông da của mèo không có gì bất thường vì mèo rất ghét tắm. Bởi vậy, việc xác định thời điểm tắm cho thú cưng là rất quan trọng và nên được xác định 1 cách hợp lý. Ta thường tắm cho thú cưng khi:

  • Có quá nhiều bụi bẩn, dịch nhầy, hay các chất lạ khác bám trên da và lông.
  • Đến lúc cần loại bỏ bớt lớp lông chết đã đến thời điểm rụng trên bộ lông của con vật.
  • Sự tăng tiết bã nhờn làm cho con vật bốc mùi.
  • Lớp da chết tích lũy nhiều trên da tạo thành đám, vảy.
  • Da bị nhiễm trùng.

Ngoài ra, ta nên chọn những ngày thời tiết ấm áp để tắm cho vật và không nên tắm quá muộn vào cuối ngày làm cho bộ lông của vật khó khô hoàn toàn, có thể dẫn đến các trường hợp bệnh lý không đáng có về sau.

Lưu ý, không nên tắm cho thú cưng khi:

  • Sau khi ăn 2h.
  • Thời tiết quá lạnh (nhất là đổi gió mùa ở miền Bắc, khi nhiệt độ ngoài trời xuống tới dưới 18oC).
  • Những con non đang bú mẹ hoặc mới tách mẹ.
  • Con ốm hoặc có dấu hiệu nghi ốm.
  • Những con đực đang kỳ động dục chuẩn bị phối giống, nếu tắm sẽ giảm mùi “đặc trưng hấp dẫn ” làm giảm hưng phấn tính dục khi giao phối.
  • Thú cưng sau giao phối trong vòng 15 ngày.
  • Thú cưng mới sinh con.
  • Những con mới mua về nuôi.
  • Những con mới tiêm chích ngừa dịch bệnh.

Sau khi xác định được thời điểm tắm hợp lý, ta tiến hành chọn loại sữa tắm phù hợp với thú cưng của mình. Sữa tắm tốt thường không gây kích ứng da và có PH=7-7,14. Bạn có thể mua chúng ở bất cứ của hàng thú y nào. Chúng ta không nên dùng loại sữa tắm của người để tắm cho thú cưng vì đa phần sữa tắm của người có tính axit sẽ không tốt cho da của con vật.

Đối với những con bị viêm da, ta nên chọn loại sữa tắm đặc biệt theo chỉ định của bác sỹ thú y. Nếu chọn sai, rất có thể sẽ làm cho bệnh của con vật nghiêm trọng hơn.

Tiếp đến, ta tiến hành loại bỏ lớp da chết đã đóng thành vảy, thảm và các đám lông dính bết cứng lại với nhau. Việc làm này không chỉ giúp chúng ta tắm cho con vật dễ dàng và nhanh chóng hơn mà còn giúp ngăn chặn việc phát sinh các mầm bệnh về sau.

Ngoài ra, trước khi tắm chó ta cũng nên tiến hành các thao tác chuẩn bị cho quá trình tắm như:

  • Dùng 2 cục bông nhét vào 2 tai để tránh nước chảy vào tai con vật gây nhiễm trùng.
    Chuẩn bị 1 tấm thảm cao su trong phòng tắm để tránh cho con vật khỏi bị ngã (làm con vật có thể hoảng loạn và stress).
  • Nếu móng chân đã quá dài ta cũng nên cắt trước khi tắm.
  • Ngoài ra bạn nên chuẩn bị 1 lọ thuốc mỡ tra mắt chuyên dùng trong thú y phòng trường hợp sữa tắm dây vào mắt con vật.
  • Trừ trường hợp những ngày nắng ấm, còn lại ta nên tắm cho vật tại phòng tắm trong nhà. Thêm một ít nước ấm vào bồn tắm, sau đó đặt con vật vào trong bồn.
  • Bắt đầu từ việc lau rửa mặt cho con vật bằng một miếng vải ẩm, sau đó lau nhẹ qua vành tai cho sạch bụi bẩn và da chết.
  • Nhẹ nhàng thấm nước dần dần cho đều khắp cơ thể, vừa đổ vừa dùng tay xoa sữa tắm đã pha loãng lên cơ thể con vật bắt đầu từ phần cổ xuống phần thân. Tiếp tục dùng tay gãi nhẹ cho sữa tắm thấm đều khắp cơ thể và đi hết bụi bẩn, sau đó rửa sạch lại nhẹ nhàng bằng nước.
  • Nếu chưa sạch, ta tiếp tục lặp lại quá trình tắm một lần nữa. Tuy nhiên bạn cũng cần lưu ý là thời gian tắm cho con vật không nên quá lâu sẽ không tốt cho sức khỏe của vật.

Tắm chó giúp chó cưng thư giãn

Nếu bạn đang sử dụng sữa tắm dược liệu để điều trị cho con vật thì sau khi bôi đều sữa tắm lên cơ thể nên để yên 10 phút cho ngấm vào da.

Khi đã hoàn tất quá trình tắm, bạn dùng 1 chiếc khăn bông khô lau sạch nước cho con vật. Đối với những con có bộ lông không quá dài và dày, ta nên để nó khô tự nhiên.

Đối với những con có bộ lông lâu khô hơn, ta có thể dùng máy sấy để sấy cho con vật nhưng lưu ý, nên chọn chế độ quạt mát (cool) dù nó mất nhiều thời gian hơn vì như vậy sẽ tráng làm cho da của thú cưng bị khô, tổn thương.

Ngoài ra, nếu con vật không quen nghe tiếng kêu của máy sấy và có phản ứng dữ dội thì ta cũng không nên quá ép buộc.

Cuối cùng, sau khi tắm chó nếu con vật có bất kỳ biểu hiện bất thường nào như sốt cao, bỏ ăn, run rẩy…ta nên đưa ngay nó đến bác sỹ thú y để khám.

Như vậy, việc nắm rõ cách tắm cho thú cưng như thế nào là hợp lý sẽ giúp cho chúng ta vừa đảm bảo con vật luôn sạch sẽ mà lại vừa chăm sóc tốt cho sức khỏe của vật.

Từ đó, có thể phòng tránh được các nguy cơ về bệnh tật cũng như giúp nó kéo dài tuổi thọ để nó có thể sống cùng chúng ta lâu hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Chó con sau cai sữa

Căn cứ vào đặc điểm sinh lý tiết sữa của chó mẹ và sự phát triển của chó con, việc cai sữa chó con là cần thiết.

Chó mẹ sau khi sinh được 30 ngày trở lên lượng sữa cạn dần, không đủ cung cấp cho chó con, trong khi đó nhu cầu chất dinh dưỡng cho chó con ngày một tăng. Nếu chó mẹ sinh lần đầu lượng sữa càng ít, và tốc độ cạn sữa càng sớm, lúc này nên cho chó con ăn thêm cháo sữa từ lúc 5 ngày tuổi và từ 15 – 21 ngày tuổi. Việc cho ăn thêm cháo sữa có thịt băm là cần thiết và hợp lý.

Cai sữa chó con tiến hành dần dần trong khoảng 5 – 6 ngày, trong 2 ngày đầu tách mẹ khỏi chó con khoảng 2 giờ. Sau đó thời gian tách dài hơn khoảng 4 – 6 giờ, tiếp theo tách cả ngày, chỉ cho mẹ gặp con vào buổi tối.

Trong thời gian này giờ chó ăn phải ổn định, cho ăn thức ăn nó đã quen. Đặc biệt chăm sóc phải chu đáo, giúp chó tránh những bất lợi do ngoại cảnh đem lại. Chăm sóc nuôi dưỡng chó con phải thực hiện một cách nghiêm túc. Việc cho ăn, dạo chơi, chải lông cần đúng giờ qui định.

Nuôi chó con sau cai sữa, cần căn cứ vào mức độ tuổi của nó, để tăng khẩu phần ăn hợp lý và tập cho ăn một số loại thức ăn của chó lớn.

Vào những ngày thời tiết xấu (giá rét, mưa bão, hoặc u ám) buổi tối phải cho chó ngủ trong nhà ấm, khô ráo, sạch sẽ, đặc biệt tránh ẩm ướt lạnh đột ngột, ban ngày vẫn có thể nuôi chó bình thường. Ban đêm mùa đông cần sưởi cho chó con.

Trong thời gian này chó con rất thích hoạt động, tiếp xúc với ngoại cảnh, chó thường liếp láp các chất bẩn nên dễ mắc bệnh nhất là bệnh đường ruột như : giun sán, ỉa chảy…

Hàng ngày dọn chuồng chó con sạch sẽ, và mỗi tháng tắm ít nhất là 2 lần (chú ý mùa đông phải chọn ngày nắng ấm, tắm xong phải dùng khăn vải sạch lau khô lông).

Nhu cầu các chất dinh dưỡng đối với chó con sau cai sữa là rất lớn, phải tăng dần, chú ý bổ sung đầy đủ chất đạm, vitamin đặc biệt chất khoáng đa lượng và vi lượng.

Trong thời kỳ này, cần quan tâm kiểm tra chó hàng ngày, định kỳ tẩy giun sán, đề phòng bệnh giun móc và giun đũa ngay từ ngày thứ 21 trở đi. Chú ý diệt trừ ve, rận, bọ chó hút máu gây bệnh cho chó.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi chó con đang bú sữa

Chó con giai đoạn bú sữa có sức đề kháng rất thấp, nếu bạn không nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, cún rất dễ mắc bệnh hay rất khó tăng cân như bình thường.

Bởi vậy, đây là giai đoạn tiền đề để cún phát triển về sau. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giúp bạn nắm được các công việc, các kỹ thuật cơ bản để bạn có thể chăm sóc cún tốt nhất trong giai đoạn này

1. Bạn cần chuẩn bị cho cún những gì:

Chỗ ở:

– Thoáng mát vào mùa hè, ấm và kín gió vào mùa đông, đủ ánh sáng. Có chỗ ngủ, vệ sinh cố định .
– Tránh xa: dây điện và các đồ dùng điện, bếp lửa ga, vật dụng cháy nổ, hóa chất và cây cỏ độc.
– Tránh vị trí cao như cửa sổ, cầu thang… để đề phòng cún rơi từ trên cao xuống.
– Tránh xa điều hòa, quạt.

Một chiếc “giường” lý tưởng của cún

Dụng cụ: ngoài những đồ dùng cơ bản, bạn nên chuẩn bị thêm cho cún 1 số vật dụng cần thiết như bình sữa hay bát ăn, bát uống nước…

2. Chế độ ăn uống và chỉ tiêu cân nặng:

Cún đang bú sữa thì thức ăn chủ yếu là sữa mẹ, ngoài ra để cún không bị thiếu chất và chậm lớn chúng ta nên bổ sung thêm cho cún sữa bò tươi và cháo gạo bắt đầu từ khi cún khoảng 5 ngày tuổi trở lên.

Dưới đây là chế độ ăn điển hình cũng như các chỉ tiêu cân nặng của cún theo độ tuổi, nắm được chế độ ăn cũng như những chỉ tiêu này sẽ giúp bạn đánh giá chính xác hơn về việc cún nhà mình đã được chăm sóc tốt hay chưa?

Chế độ ăn cũng như các chỉ tiêu cân nặng của cún theo độ tuổi

Tuổi Thức ăn Số lần ăn/ngày Thuốc Chỉ tiêu cân nặng
12 tiếng sau sinh  Sữa đầu  Không giới hạn   Tùy giống
1-5 ngày tuổi  Sữa mẹ  Không giới hạn    
5-14 ngày tuổi  Sữa mẹ + 2 thìa sữa bò tươi/con/ngày  Sữa bò: 1 lần   8-9 ngày cân nặng tăng gấp đôi bạn đầu
14-21 ngày tuổi Sữa mẹ + 200-300g sữa bò tươi/con/ngày + cháo gạo thịt xay 20g/con Cháo gạo: 1-2 lần/con/ngày 2 ống canxi clorua/con/ngày từ 14-21 ngày tuổi. 18 ngày tăng gấp 3,5-4 lần ban đầu.
21-30 ngày tuổi Sữa mẹ + Cháo gạo thịt xay 2 lần/con/ngày 1-2 giọt kháng sinh tổng hợp (Tetracillin…) trong vòng 3-4 ngày liền Tăng 5-7 lần

Trên thực tế, tùy thuộc từng trường hợp cụ thể mà chúng ta có những chế độ chăm sóc cho cún khác nhau, tuy nhiên dù bạn chọn khẩu phần ăn gì thì cũng phải đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng cho cún.

Thức ăn chủ yếu của cún giai đoạn này là sữa mẹ

Trong giai đoạn này, bạn cũng đừng quên chăm sóc chó mẹ đầy đủ, chu đáo để nó có đủ sức khỏe, dinh dưỡng nuôi con. Lưu ý nhỏ nữa là đối với sữa bò, bạn nên hâm nóng đến nhiệt độ cơ thể cún rồi mới cho cún ăn để tránh gây tiêu chảy cho cún vì hệ tiêu hóa của nó vẫn chưa phát triển hoàn thiện.

3. Phòng bệnh

Bên cạnh việc chăm sóc vệ sinh, chỗ ở, ăn uống…thì việc phòng bệnh cho cún cũng vô cùng quan trọng.

Ngoài việc cho cún bú sữa đầu để tăng cao sức đề kháng, chúng ta cũng cần có những tác động để giúp cún phòng các bệnh nguy hiểm vì ở tuổi này, cơ thể cún còn rất yếu và dễ mắc bệnh. Nếu cún không được bú sữa đầu, ta nên bố trí tiêm phòng vaccine sớm cho cún 1 số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Việc phòng bệnh cho cún giai đoạn này là vô cùng quan trọng

Song song với các bệnh truyền nhiễm thì ta cần giúp cún phòng các bệnh ký sinh trùng như ve,ghẻ, giun, rận…Dưới đây là liệu trình tẩy giun cho cún các bạn có thể tham khảo thêm:

Lịch tẩy giun cho cún

Tuổi Lần tẩy giun
2 tuần tuổi Lần 1
4 tuần tuổi Lần 2
6 tuần tuổi Lần 3
8 tuần tuổi Lần 4

4. Chăm sóc khác

Bên cạnh các vấn đề chính như ăn uống, bệnh tật, vệ sinh thì bạn cũng nên để ý tới việc giúp cún hòa nhập với môi trường sống.

Cho cún làm quen với con người và các “bạn cún” khác trong nhà từ tiếng động, cách vuốt ve, ôm ấp chúng…cho đến việc cho chúng tiếp xúc với các vật nuôi khác trong nhà. Cho hòa nhập sớm, giúp chúng có cảm giác an toàn trong môi trường sống và giúp ngăn ngừa nhiều vấn đề phát sinh sau này. Như trên chúng tôi đã nói, dù việc cho cún làm quen môi trường mới, “bạn” mới là rất tốt nhưng không được quá đột ngột, sẽ làm cho cún dễ bị stress.

Hòa nhập sớm, giúp chúng có cảm giác an toàn trong môi trường sống

Như vậy, cún con giai đoạn bú sữa rất yếu nên rất cần được chăm sóc cẩn thận. Sự quan tâm đúng mực cùng với 1 chút kinh nghiệm, kỹ thuật sẽ giúp bạn tự tin hơn nhiều trong việc chăm sóc cún khỏe mạnh, tạo nền tảng cho sự phát triển khỏe mạnh của chúng sau này.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Chó Becgie sinh sản

Hiện nay chó becgie Đức (GSD) đang rất được ưa chuộng tại Việt Nam vì thế đây là một cơ hội tốt cho những ai yêu thú cưng và muốn phát triển kinh thế gia đình bởi vì chăn nuôi chó sinh sản mang lại lợi nhuận vô cùng to lớn.

Nhưng không hẳn ai cũng là người biết các kỹ thuật chăn nuôi chó sinh sản để có được một chó mẹ khỏe mạnh, sinh đẻ tốt và đàn chó con luôn luôn bụ bẫm. Sau đây Trại Chó Becgie Hoàng Minh giới thiệu đến bạn những điểm lưu ý cơ bản nhất mà bạn phải chú tâm khi nuôi chó becgie sinh sản. Ngoài ra nếu thắc mắc bất cứ một vấn đề gì về con giống, về kỹ thuật chăm sóc hãy gọi ngay cho chúng tôi bạn sẽ được giải đáp mọi câu hỏi một cách nhanh chóng nhất.

1.Chọn giống chó cái

Điều này rất là quan trọng vì bạn xác định chăn nuôi chó sinh sản là bạn đã xác định làm việc này trong nhiều năm liền chứ không phải làm 1-2 năm rồi bỏ. Vì thế lựa chọn chó cái làm giống làm sao để chú chó đó mang lại lợi nhuận trong nhiều năm liền, chúng đẻ cho bạn những lứa con chất lượng, khỏe mạnh, bụ bẫm… để bạn có thể dễ dàng bán con của chúng. Vậy làm sao để chọn được một chú chó giống tốt?

Chó becgie con 2 tháng tuổi

Trước tiên chú chó đó phải là giống thuần chủng tuyệt đối vì những chú chó thuần chủng có gien giống rất tốt, thần kinh tốt, sức khỏe tốt… Chọn chó giống theo bố mẹ, hãy chọn những con giống mà bố mẹ của nó đẹp, to cao, dữ tợn… Vì người Việt Nam rất thích những chú chó có thân hình cao to, dữ tợn… Chó cái có nhiều vú, các vú đối nhau qua trục bụng, các vú phải đều nhau, chó cái có từ 10-12 vú là rất tốt. Bạn có thể xem thêm chó becgie cái giống của Trại Chó Becgie Hoàng Minh

2.Chăm sóc chó cái sinh sản ngay từ khi còn bé

– Chó con sinh ra được một tuần ta chọn làm giống,để tập trung chăm sóc nuôi dưỡng tốt ngay từ những ngày đầu,phải cho bú lâu hơn chó thường,nhưng tránh nuôi chó cái béo quá hoặc quá gầy.

Chú ý cho ăn đầy đủ chất đạm,khoáng chất và các vitamin ngay từ đầu để khung xương phát triển đầy đủ, co to dễ đẻ.

– Thường xuyên cho chó cái dạo chơi vận động thoải mái trong bầu không khí trong lành và tắm nắng hợp lí. Khả năng sinh sản của chó cái xuất hiện vào khoảng 10-12 tháng tuổi,cá biệt có con sớm hơn (nếu nuôi tốt)nhưng cũng có con muộn hơn. Lúc này các tế bào sinh dục cái đã phân chia,tế bào trứng đã trưởng thành,mặc dù ở con cái đã xuất hiện khả năng sinh dục. Nhưng tầm vóc và sự phát triển cơ thể vẫn còn tiếp tục phát triển.

– Vì vậy, cho giao phối ở tuổi này là không hợp lý, vì những chó con này sinh ra khả năng sống và phát triển rất thấp. Tuổi giao phối thích hợp nhất cho chó cái là vào lúc được 18-20 tháng tuổi (nghĩa là bỏ qua 2 lần động dục) mà đến lần thứ 3 mới cho phối giống, ở thời điểm này sự phát triển cơ thể của chó cái đã hoàn thiện hơn. (Theo lý thuyết thì là như thế nhưng trên thực tế là đa số mọi người chỉ bỏ lần động dục đầu tiên và cho phối ngay ở lần động dục thứ 2)

– Tính ngày kết hợp theo dõi màu sắc chất thải ở cơ quan sinh dục chó cái. Nếu quyết định cho phối chính xác, khả năng thụ thai cao và số con sinh ra sẽ nhiều hơn.

3.Chăm sóc chó cái mang thai

– Sau khi chó cái giao phối xong, dự đoán chó có chửa, phải nuôi dưỡng đúng,ngoài khẩu phần ăn bình thường cần bồi dưỡng thêm có thể mỗi ngày cho ăn thêm từ 80-100 gam thịt nạc hoặc 2 quả trứng, có thể cho ăn thêm sữa tươi.

Trong 30 ngày đầu thai chưa rõ,chỉ từ tháng thứ 2 trở đi mới tháy rõ bụng và các hiện tượng ở con cái như: trọng lượng tăng lên nhanh, thân hình to ra, bầu vú căng dần .Việc nuôi chó cái đúng kỹ thuật cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng để bào thai phát triển bình thường trong thời kỳ đầu mang thai, cho ăn mỗi ngày 3 bữa, 4 bữa những bữa ăn giảm về khối lượng nhưng tăng về chất lượng.

Chú ý: Phải có đủ nước sạch cho chó uống tự do vì thời kỳ này chó rất cần nước để cho quá trình trao đổi chất phát triển bào thai. Chuồng trại nuôi cần khô ráo,thoáng mát mùa hè có đủ ánh sáng, có ổ để cho chó vào nằm đẻ, phải kín và ấm, khô sạch vào mùa đông.

4.Chuẩn bị cho chó đẻ

– Dựa vào sổ phối giống để chuẩn bị chỗ cho chó đẻ. Thường thì từ 58 ngày trở đi kể từ ngày giao phối chủ chó phải chuẩn bị ổ cho chó đẻ và theo dõi thường xuyên để giúp đỡ cho chó đẻ. Thường thì trước ngày đẻ chó thường bỏ ăn, đi lại quanh chuồng liên tục để tìm chỗ đẻ, thở nhanh hơn, rất khó nhọc, có rên rỉ nhất là lúc chuyển dạ sự đau đớn tăng dần lên, chất nhầy ở âm hộ chảy ra nhiều hơn, có con lọt ra ngoài theo cái bọc lúc đó chó mẹ cắn rách cái bọc cho chó con chui ra.

– Chó con mới sinh ra, còn dính với dây rốn và nhau, sau đó chó mẹ cắn dây rốn và liếm khô chó con, tiếp tục sự chuyển dạ để đẩy chó con còn trong ổ bụng ra ngoài. Thường thì mỗi con đẻ ra cách nhau từ 15 đến 20 phút nhưng cũng có thể lâu hơn.Trong lúc chó đẻ phải chú ý quan sát chó có đẻ khó không.chó con đẻ ra yếu và bị ngạt phải có sự can thiệp của BS thú y: Xé bỏ màng nhau, dùng giấy vệ sinh lau khô chó con. Đặc biệt lau màng nhầy ở lỗ mũi và miệng để chó con thở dễ dàng. Thời gian đẻ của chó nhanh hay chậm tùy thuộc vào số con, tùy thuộc vào sức khỏe của chó mẹ. Nhưng một ca đẻ từ 3-10 giờ chó mới đẻ xong.

– Khi chó đẻ kết thúc, cần cho chó mẹ uống sữa nóng(ấm), nước đường cho thêm vitamin b1 để nghỉ ngơi từ 6-8 giờ mới cho chó ăn cháo thịt nạc hoặc trúng (bỏ lòng trắng): Chế độ ăn này duy trì trong vòng 24 giờ đầu,những ngày tiếp theo cho ăn từ 3-5 bữa.Sau lần ăn đầu tiên cần thay ổ lót cho chó con. Sau đó hàng ngày phải thay ổ lót, như vậy mới đảm bảo ổ nuôi sạch, chó con khỏe mạnh, ít bị bệnh.

Nguồn: traichohoangminh.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trị bệnh “Dòi đục thân lá hành tỏi”

Dòi đục thân hành lá, tỏi, kiệu là bệnh nguy hiểm, dễ gây thiệt hại lớn. Dưới đây là đặc điểm tác nhân gây bệnh và biện pháp trị bệnh dòi đục thân

Đặc điểm hình thái dòi đục thân lá hành, tỏi, kiệu

Tên khoa học: Delia Antiqua

– Trứng có màu trắng và dài và được xếp thành từng nhóm trên thân, lá, củ của cây ký chủ và gần mặt đất, trong các kẽ đất.

Trứng ruồi đục lá, dòi đục lá hành, tỏi, kiệu

– Ấu trùng: sâu non được gọi là dòi, dòi dài khoảng 2mm, màu trắng trong, phần trước hơi vàng, trông rõ ruột bên trong màu đen. Thời gian sống của dòi khoảng 3-4 ngày.

– Nhộng màu nâu vàng, dài khoảng 1,5 mm, rộng 0,7 mm. Thời gian phát dục từ 6 – 8 ngày. Nhộng thường phân bố ở vị trí cuối cuống lá hoặc dưới mặt đất.

– Trưởng thành: Ruồi có kích thước từ 3-5mm, chân màu đen, đôi cánh trong suốt, mắt kép màu nâu

Đặc điểm sinh sống, phát sinh gây hại của dòi đục thân lá hành, tỏi, kiệu

Trứng ruồi đẻ gần gốc cây hành, tỏi, kiệu

Con cái đẻ trứng dài, trắng gần gốc cây, trong các kẽ đất. Trứng nở trong 2-7 ngày. Sâu non sau khi nở bò lên, bò vào vỏ bọc lá và đi tới phần ống hoặc bẹ lá. Sâu non ăn bẹ lá và phát triển đầy đủ trong 2-3 tuần, sâu non thường tập chung cắn phá củ và bẹ lá, 50 con dòi có thể ăn hết 1 bẹ hành lớn, ấu trùng có thể nở từ trứng của nhiều con ruồi cái.

Sâu non (dòi) đục thân hành, tỏi, kiệu

Những con sâu đẫy sức bò ra khỏi bẹ lá và hóa nhộng trong đất. Sau 2-3 tuần, hóa bướm và bắt đầu thế hệ mới. Trong thế hệ thứ ba, dịch hại thường tấn công phần củ hành, tỏi ngay trước khi thu hoạch.

Dòi tấn công trực tiếp vào phần củ hành, tỏi, kiệu

Sâu đục vào củ ăn các mô thịt trong lòng của hành tỏi, làm cho hành tỏi bị tổn thương, không dẫn được nước, chất dinh dưỡng, tạo cơ hội cho các vi khuẩn, nấm xâm nhập củ gây thối củ, thối rễ, úa lá, chết cây. Sâu hại cả sau khi thu hoạch và bảo quản trong kho.

Triệu chứng cây hành, tỏi bị dòi đục thân lá tấn công

Cây hành, tỏi trên ruộng chết do bị dòi đục thân lá cây hại

Biện pháp phòng trừ ruồi đục lá, dòi đục lá hành tỏi

+ Vệ sinh đồng ruộng, xới xáo, phơi đất dưới nắng, làm sạch cỏ đặc biệt là những loài cỏ lá rộng (ký chủ phụ của ruồi) trước khi xuống giống khoảng 1 tháng.

+ Luân canh với các loại cây trồng khác họ, đặc biệt là lúa nước.

+ Ngắt bớt những lá bị ruồi đục đem chôn để giảm bớt nguồn sâu, nhất là các lá già.

+ Dùng bẫy dính màu vàng để bẫy ruồi trưởng thành.

+ Biện pháp hóa học:

Sử dụng các thuốc có tính thấm sâu và nội hấp như Bulldock 0.25 EC; Trigard 75WP; Vertimec 1.8EC; Netoxin 18SL, Sairifos 585 EC để phun.

Chú ý:

+ Khi điều tra; nếu tỷ lệ thiên địch trên 50% không cần phun thuốc. Khi tỏi đã lớn, chỉ sử dụng thuốc khi mật độ ruồi trên 7 con/lá.

+ Sử dụng các thuốc trừ sâu sinh học hoặc các thuốc trừ sâu tự chế từ ớt, tỏi, hành…

Hướng dẫn phối trộn thuốc trừ sâu tự chế: Chuẩn bị 1kg ớt cay, 1kg tỏi, 0,5kg hành tây, 2,5 lít nước rửa chén, 1 lít nước. Xay toàn bộ lượng ớt, tỏi, hành tây trong máy xay sinh tố hoặc giã nhỏ trong cối, trộn đều với nước rửa chén và nước lọc, để lắng trong 24h, lọc lấy phần trong pha thêm nước cho đủ 1 bình phun (16 lít).

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Một số sâu bệnh hại Hành và biện pháp phòng trừ

Các phòng và trị sâu bệnh hại hành lá được chia sẻ từ Chi cục bảo vệ thực vật Lâm Đồng: “Một số sâu bệnh hại hành và biện pháp phòng trừ”

A/ Sâu hại

I. Sâu xanh da láng (Spodoptera exigua)

1/ Đặc điểm hình thái

Bướm nhỏ hơn, màu nâu và có 1 đốm vàng ờ giữa cánh rất đặc sắc.
– Sâu non có màu xanh lục với 2 sọc vàng nâu chạy dọc 2 bên thân mình, sâu tuổi lớn có mầu xanh lợt, dễ lẫn với mầu của cọng hành.
– Trứng đẻ thành từng ổ từ 20-30 trứng có phủ lông trắng.

2/ Tập quán sinh sống và gây hại:

– Bướm hoạt động mạnh vào ban đêm, trứng đẻ trên lá. Một bướm cái có thể đẻ 500-800 trứng.
– Sâu non đục lỗ nhỏ chui vào bên trong cọng hành ăn phần xanh của lá. Khi sâu còn nhỏ trong một cọng hành có thể có hàng chục con, khi lớn chúng phân tán dần sang các lá khác. Loài sâu này cắn phá mạnh làm cọng hành bị khô héo, chết, gẫy gập, xơ xác, cả bụi hành trở nên vàng úa, còi cọc cả ruộng hành bị trắng xoá, tàn lụi.
– Sâu thường phát sinh và gây hại nhiều trong điều kiện thời tiết nóng, ít mưa.
– Vòng đời trung bình 30-40 ngày.

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Vệ sinh đồng ruộng, phát hiện sớm khi sâu còn nhỏ để phòng trừ.
– Biện pháp hóa học: Sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trừ: Abamectin (Agromectin 1.8 EC, Catex 1.8 EC, 3.6 EC), Azadirachtin+Matrine (Lambada 5EC), Emamectin benzoate(Dylan 2EC, Proclaim 1.9 EC), Emamectin benzoate + Petroleum oil (Comda 250EC), Indoxacarb (DuPontTM Ammate®30WG).

II. Sâu keo (Onion armyworm)

1/ Đặc điểm hình thái:

– Con trưởng thành có màu xám đến nâu xám. Sải cánh rộng 24cm, cánh trước màu nâu vàng có các vân đen trắng.
– Trứng được đẻ thành ổ lớn ở mặt dưới, các lá của cây ký chủ. ổ trứng được phủ một lớp lông và vảy mỏng từ thân con cái. Mỗi con cái đẻ từ 500 – 2000 trứng trong vòng một vài ngày
– Trứng mới đẻ có màu xanh xám sau đó trở thành nâu đậm trước khi nở. Trứng sau khi đẻ 3 – 5 ngày thì nở.
– Sâu non mới nở màu xanh sáng dài khoảng 1mm và đầu tương đối lớn.
– Sâu hóa nhộng trong đất hóa, Nhộng màu đỏ sẫm kéo dài khoảng 12 ngày.
– Giai đoạn sâu non kéo dài khoảng 10 – 14 ngày.
– Vòng đời khoảng 26 – 32 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ.

2/ Tập quán sinh sống và gây hại:

– Sâu keo ăn toàn bộ thịt lá, chỉ để lại phần biểu bì lá, sau đó lá khô teo đi và bị héo toàn bộ. Đối với hành và hành củ sâu non tuổi nhỏ ăn bề mặt của lá sau, tạo thành cửa sổ và chỉ rời khỏi lá khi thức ăn hết.

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Phát quang các lùm cây và làm cỏ sẽ giảm được mật độ sâu. Sâu có thể sống sót trong các gốc cây và trong cỏ sau khi thu hoạch và chuyển sang cây trồng mới gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho cây trồng.
– Làm ngập nước ruộng có sâu hại để nhấn chìm nhộng và những dịch hại khác sống trong đất (nếu điều kiện thủy lợi cho phép).
– Lật đất để phơi nhộng lên mặt đất, làm mồi cho chim và các loại thiên địch khác.
– Biện pháp hóa học: Do chưa có thuốc BVTV đăng ký để phòng trừ, do đó có thể tham khảo sử dụng một số loại thuốc có hoạt chất sau:
Abamectin, Azadirachtin+Matrine, Indoxacarb.

III. Bọ trĩ hại hành (Thrips tabaci Lindeman)

1/ Đặc điểm hình thái:

– Bọ trĩ trưởng thành và bọ trĩ non thường rất nhỏ, có kích thước nhỏ hơn 1mm. Sâu non có màu vàng hoặc trắng. Con già có màu vàng nâu và di chuyển nhanh. Chúng dùng 2 răng cửa giũa cho rách biểu bì lá cây để hút nhựa.

2/ Tập quán sinh sống và gây hại:

– Con cái đẻ trứng vào trong mô lá (khoảng 80 trứng/con), sau 5 – 10 ngày trứng sẽ nở, vòng đời hơn 21 ngày tùy theo môi trường, nhiệt độ.
– Lá bị hại có màu sáng bạc và có vết hoặc đốm nhỏ màu nâu. Lá có thể héo hoặc biến dạng. Ngọn của các lá phía ngoài có màu nâu. Trong trường hợp bị hại nghiêm trọng lá rũ xuống, củ nhỏ và biến dạng.
– Khí hậu lạnh, con trưởng thành có thể ngừng hoạt động và ngủ đông trong đất, khi nhiệt độ ấm lên chúng thức dậy.
– Bọ trĩ phát triển thích hợp trong điều kiện thời tiết nóng và khô

3/ Biện pháp phòng trừ:

Chưa có thuốc BVTV đăng ký trong danh mục để phòng trừ bọ trĩ hại hành. Có thể sử dụng một số hoạt chất: Thiamethoxam; Imidacloprid, Matrine để phòng trừ .

B. Sâu hại

I. Bệnh cháy lá (Bostrytis sp)

1/Triệu chứng:

– Botrylis squamosa gây nên những đốm trắng nhỏ tròn trũng hay đốm nâu nhạt sáng phát triển chiều dài lá. Đốm này xấp xỉ 4 mm đường kính và xung quanh có vây sũng nước. Đốm luôn luôn phổ biến ở khu vực gân lá. Dưới những điều kiện đất ẩm Botrytis cirerea kết hợp với B.squamosa gây hại. Ngọn lá gục xuống một cách rõ rệt so với cây không bị bệnh ngọn lá đứng.
– Loài B.squamosa là loài hoạt động mạnh nhất trong thời tiết ẩm và nhiệt độ thấp 18oC. Ở những khu vực ít gió và độ ẩm cao hơn loại nấm này gây hại nặng hơn. Khi bị mưa đá hay mưa hạt nặng là điều kiện thuận lợi cho bệnh lây nhiễm.

2/ Nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của bệnh

– Bệnh do nấm Botrylis squamosa và Botrytis cirerea gây ra
– Botrylis squamosa phát sinh và gây hại thuận lợi trong điều kiện đất ẩm
– Loài B.squamosa gây hại mạnh nhất trong thời tiết ẩm và nhiệt độ thấp 18oC. Khi bị mưa đá hay mưa hạt nặng là điều kiện thuận lợi cho bệnh lây nhiễm.

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Cần dọn sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng sau khi thu hoạch.
– Không nên trồng quá dày và trên đất khó thoát nước.
– Biện pháp hóa học: có thể tham khảo sử dụng thuốc có hoạt chất: Chaetomium sp + Tricoderma sp để phòng trừ.

II. Bệnh đốm vòng (Alternaria porri)

1/ Triệu chứng:

– Vệt bệnh là những hình o van, đồng tâm. Lúc đầu là những đốm nhỏ trắng sau đó nếu thời tiết ẩm vết bệnh chuyển màu xám hay nâu. Nếu bị hại nặng lá sẽ bị khô, cây chết. Đôi khi ở phần dưới cây sát mặt đất có thể cũng bị hư hại do thối ướt sau đó khô lại và củ cũng bị khô theo.

2/ Nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của bệnh:

– Bệnh do nấm Alternaria porri gây ra.
– Nếu cây bị bệnh ở thời kỳ sớm có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất. Trong thời kỳ bảo quản nấm xâm nhập vào củ và gây thối.
– Bệnh phát triển và gây hại mạnh trong điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ từ 20 – 30oC.
– Nấm bệnh có thể tồn tại ở những tàn dư cây bệnh, bào tử sẽ phát tán theo gió và nước bắn lên lá.

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Chọn giống không bị nhiễm bệnh để trồng.
– Thu dọn tàn dư cây bệnh sau khi thu hoạch.
– Làm đất kỹ, trồng mật độ vừa phải.
– Sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trừ: Azoxystrobin+Difenoconazole (Amistar top 325SC), Chlorothalonil (Arygreen 75 WP, Chionil 750WP); Difenoconazole (Score 250EC); Iminoctadine (Bellkute 40 WP);

III. Bệnh sương mai (Peronospora schleidni)

1/ Triệu chứng:

– Lá già bị bệnh có màu xanh nhạt, có lớp tơ nấm màu trắng che phủ lên vết bệnh sau đó tơ nấm chuyển sang màu xanh hơi đỏ. Bệnh nặng làm lá bị gẫy và chết.
– Cuống lá, vết bệnh đầu tiên có hình elip sau đó kéo dài ra, lúc đầu có màu vàng sau đó có màu nâu.
– Trên cây còn nhỏ ít bị bệnh gây hại, ở cây lớn các lá già bị hại trước sau đó lan dần đến củ, cây còn ít lá, củ nhỏï và cây chết.

2/ Nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển:

-Do nấm Peronospora schleidni gây ra.
– Nấm tồn tại trong củ, trong thân cây bệnh.
– Bệnh phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Sử dụng giống tốt, chọn củ giống sạch bệnh vì một số loại nấm bệnh có khả năng lan truyền qua củ giống.
– Luân canh với cây trồng.
– Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư cây bệnh đem tiêu hủy sau khi thu hoạch.
– Không trồng hành những nơi kém thoát nước.
– Biện pháp hóa học: sử dụng một số loại thuốc sau để phòng trừ:
+ Azoxystrobin+ Difenoconazole (Amistar top 325SC);
+ Iprovalicarb + Propineb (Melody duo 66.75WP);
+ Chlorothalonil + Metalaxyl M (Folio Gold 440SC).

IV. Bệnh thối trắng (Sclerotinia allii)

1/ Triệu chứng:

– Vết bệnh mới xuất hiện là những khối u mịn màng. Cây bị bệnh xuất hiện lớp nấm trắng và có những hạt nhỏ màu đen. Bộ rễ bị phá hủy, rễ quăn queo và chuyển sang màu vàng hoặc nâu, củ bắt đầu ủng nước và thối.
– Trong bảo quản bệnh có thể tiếp tục gây hại phá hủy các mô bên trong khi vỏ ngoài còn nguyên.

2/ Nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của bệnh

– Bệnh thối trắng do nấm Sclerotium cepivonum gây ra
– Bệnh gây hại ở tất cả các giai đoạn phát triển của cây.
– Hạch nấm tồn tại rất lâu trong đất và là nguồn lây lan cho vụ sau.
– Khi trời mưa lớn hoặc đất ẩm ướt và nhiệt độ đất từ 10-24oC rất thích hợp cho nấm bệnh phát triển.
– Bệnh làm giảm năng suất và giá trị thương phẩm của hành.

3/ Biện pháp phòng trừ:

– Khi đất bị nhiễm nên luân canh với cây trồng khác họ.
– Thu dọn sạch tàn dư cây bệnh để tiêu hủy sau khi thu hoạch.
– Không trồng hành những nơi kém thoát nước.
– Biện pháp hóa học: Có thể tham khảo sử dụng thuốc BVTV có hoạt chất: Trichoderma viride.

Nguồn: Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Lâm Đồng

Kỹ thuật trồng Hành lá

Hành lá là loại gia vị, không thể thiếu trong các bữa ăn hàng ngày, mặc dù vốn đầu tư và công lao động cao hơn các loại rau gia vị khác, nhưng vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.

Hành thân thảo, cây sống lâu năm, có mùi đặc biệt. Có 5-6 lá, lá hình trụ rỗng, dài 30-50 cm, phía gốc lá phình to, trên đầu thuôn nhọn. Hoa tự mọc trên ống hình trụ, rỗng. Hoa tự dạng hình xim, có ngấn thành hình tán giả trông tựa hình cầu. Quả nang, tròn. Hành được trồng khắp nơi, chủ yếu là làm gia vị. Đồng thời hành cũng là một vị thuốc nam được dùng để chữa nhiều loại bệnh: thuốc ho, trừ đờm, lợi tiểu, sát trùng.

Tên khoa học: Allium fistulosum sp.

Họ hành tỏi: Liliaceae

1. Giới thiệu

Hành lá là loại gia vị không thể thiếu trong các bữa ăn hàng ngày, mặc dù vốn đầu tư và công lao động cao hơn các loại rau gia vị khác, nhưng vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.

Hành thân thảo, cây sống lâu năm, có mùi đặc biệt. Có 5-6 lá, lá hình trụ rỗng, dài 30-50 cm, phía gốc lá phình to, trên đầu thuôn nhọn. Hoa tự mọc trên ống hình trụ, rỗng. Hoa tự dạng hình xim, có ngấn thành hình tán giả trông tựa hình cầu. Quả nang, tròn. Hành được trồng khắp nơi, chủ yếu là làm gia vị. Đồng thời hành cũng là một vị thuốc nam được dùng để chữa nhiều loại bệnh: thuốc ho, trừ đờm, lợi tiểu, sát trùng…

2. Giống

– Sử dụng giống địa phương, có hai loại gốc thân trắng và gốc thân đỏ có đặc điểm sinh trưởng tương đương nhau, thời gian sinh trưởng 42-50 ngày.

+ Hành Hương: lá nhỏ, bụi nhỏ, có mùi thơm, năng suất 1 tấn/1.000 m2, dễ nhiễm bệnh vàng lá.

+ Hành Trâu: lá to, bụi lớn, năng suất 1-1,5 tấn/1.000 m2, thị trường rất ưa chuộng.

+ Hành Đá: lá, bụi thuộc dạng trung gian, năng suất 1-1,5 tấn/1.000 m2, trồng phổ biến, thị trường rất ưa chuộng, thích hợp trồng dày.

– Chọn những bụi hành tương đối đồng đều, đúng tuổi, sinh trưởng tốt, không bị nhiễm sâu bệnh.

– Lượng giống: tùy chất lượng cây giống, thường cần khoảng 180-240 kg hành giống/1000 m2

– Xử lý giống: để đảm bảo không còn sâu bệnh lây lan sang vụ tới, trước khi nhổ hành giống 1-2 ngày, tiến hành phun Regent 800WP hoặc Map-permethrins 50EC, nếu sâu nhiều có thể xử lý bằng Secure 10EC theo nồng độ khuyến cáo.

3. Kỹ thuật trồng

* Thời vụ: Hành lá có thể được trồng quang năm, tuy nhiên năng suất mùa nắng cao hơn vào mùa mưa. Thời gian sinh trưởng 45-50 ngày. Trồng hành trong mùa nắng chú ý sâu xanh da láng, mùa mưa thì bệnh khô đầu lá.

* Chuẩn bị đất

– Yêu cầu: Đất nhiều mùn, thoát nước, ít chua, pH thích hợp từ 6,0-6,5. Nếu pH thấp hơn 5,0 cần bón thêm vôi và tro bếp.

– Đất trồng hành cần được phơi ải. Kỹ thuật lên liếp hành thay đổi tùy chân đất và tập quán canh tác. Lên liếp vồng cao 35-45 cm, chân liếp rộng 1 m, khoảng cách giữa hai liếp là 30 cm để thoát nước và đi lại chăm sóc.

Lên liếp và ủ rơm trước khi trồng hành

Khoảng cách trồng hành 20 x10 cm

– Xử lý đất: tiến hành xử lý đất ở 3 ngày trước trồng, sử dụng 1 kg Mocap/1000 m2. Rải thuốc lên liếp rồi đảo đều lớp đất mặt.

– Phủ rơm kín mặt liếp ngay trước khi trồng

* Ngâm ủ hạt (riêng đối với mùa rét còn mùa hè gieo trực tiếp):

Cho hạt vào nước vo sạch (như vo gạo) rồi cho vào túi vải ngâm trong nước ấm (3 sôi 2 lạnh) trong vòng 6 giờ sau đó vớt lên để ráo và ủ trong thùng kín (âu nhựa, bát xô, chậu… đậy kín) trong vòng 24 đến 48 giờ khi hạt nứt nanh thì đem gieo (12 giờ kiểm tra và tưới ẩm một lần)

* Gieo hạt:

Gieo hạt xuống vùng đất đã làm tơi xốp kỹ, tưới ẩm cho hạt, phủ một lớp trấu hoặc mùn mỏng, tưới ẩm rồi phủ một lớp rơm rạ mỏng lên trên, tưới ẩm 2 lần mỗi ngày, khoảng 4 ngày sau khi cây đã bật lên thì bóc bỏ lớp rơm rạ và tưới ẩm hàng ngày. Sau 40 ngày thì nhổ cây đi trồng (Mùa đông cần phải phủ nilong kín vào ban đêm để tránh rét).

* Khoảng cách trồng:

Hàng cách hàng X cây cách cây: 20 x 10 cm

* Phân bón

Tổng lượng phân dùng cho 1.000 m2: Phân chuồng hoai 1-2 tấn + 30 kg tro + 12,5 kg urea, 28 kg super lân, 8 kg kali.

Dạng phân có thể sử dụng Urea, DAP, NPK, có thể tăng cường sử dụng thêm các chế phẩm vi lượng (muối borat), chất kích thích sinh trưởng, phân bón lá để tăng cường dinh dưỡng cho hành và giảm hiện tượng cháy đầu lá. Trong trường hợp hành sinh trưởng xấu có thể dùng Super hume để phun lên hành.

Bón lót: 1-2 tấn phân chuồng hoai + 30 kg tro + 28 kg super lân + 5 kg kali

Bón thúc:

– Nguyên tắc bón phân thúc: Hòa nước, tưới bằng thùng vòi hoa sen. Tưới phân đầu tiên khi hành hồi xanh (khoảng 7 ngày sau trồng), 7 ngày tưới phân 1 lần (khoảng 4-5 lần/vụ) tùy theo sinh trưởng của hành và tùy theo mùa vụ. Thời gian cách ly là 10 ngày trước khi thu hoạch.

Có thể sử dụng khuyến cáo sau (nếu sử dụng khuyến cáo này thì không bón lót phân lân):

+ Lần 1 (7 NST): 4,5 kg urea

+ Lần 2 (14 NST): 14 kg DAP + 1,5 kg KCl

+ Lần 3 (21 NST): 19 kg NPK 16-16-8 + 1,5 kg KCl

+ Lần 4 (28 NST): 17 kg DAP + 2,5 kg KCl

+ Lần 5 (nếu có, 35 NST): 4,5 kg urea

– Phân bón lá và vi lượng (nếu có) có thể phun kết hợp khi phun thuốc bảo vệ thực vật. Khuyến cáo không nên lạm dụng các chất điều hòa tăng trưởng (ProGib,..) dễ dẫn đến hiện tượng rã bẹ, cây cong, yếu. Có thể sử dụng chế phẩm EM hoặc Crop-master cho hành lá. Nếu dùng Super hume phun 3 lần (lần 2, 4, 5) thì có thể giảm 1/3 lượng đạm dùng cho hành và hạn chế hiện tượng vàng lá, tăng sức đề kháng cho hành.

* Chăm sóc

– Chú ý làm cỏ kịp thời, không để cỏ chụp hành

– Tưới đủ ẩm để cây sinh trưởng tốt.

Tưới phun cho hành lá; Giữ mực nước tưới thấm trong rãnh hành lá

– Để tận dụng và tăng hiệu quả sử dụng đất, có thể trồng xen ngò rí, cải xanh hoặc cải ngọt quanh mép liếp.

(Cải xanh được trồng xung mép liếp hành lá; Ngò Rí trồng xen với hành lá)

* Phòng trừ sâu bệnh:

– Các đối tượng sâu bệnh hại chính: Sâu xanh da láng Spodoptera exigua (xuất hiện rất sớm và gây hại đến cuối vụ), dòi đục lá (xuất hiện muộn), sâu ăn tạp (Spodoptera litura), bù lạch (Thrips tabaci), bệnh cháy đầu lá, hiện tượng rã bẹ, bệnh đốm tím Alternaria pori…

– Thường xuyên theo dõi đồng ruộng, bắt sâu trưởng thành, sâu non, ngắt bỏ ổ trứng, kết hợp làm cỏ bón phân, phun thuốc vào lúc trời mát.

– Nguyên tắc phòng trừ sâu hại bằng thuốc hóa học, sử dụng luân phiên các loại thuốc hóa học, lưu ý dùng đúng thuốc, đúng thời điểm, ưu tiên sử dụng các thuốc vi sinh, điều hòa sinh trưởng. Bắt đầu phun khi có sâu hại. Đảm bảo thời gian cách ly 7-10 ngày.

– Khi sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ sâu xanh da láng hại hành lá thì không thể dùng một loại thuốc cho mỗi lần phun mà phải dùng hỗn hợp theo khuyến cáo sau (thường phun kết hợp trừ sâu xanh da láng và các đối tượng khác).

+ Lần 1: Atabron 5EC

+ Lần 2: Cascade 5EC + Mimic 20F

+ Lần 3: Dipel 3.2WP + Cascade 5EC

+ Lần 4: Mimic 20F + SeNPV

+ Lần 5: Dipel 3.2 WP + SeNPV

– Không sử dụng Furadan 3H trên hành lá và hạn chế sử dụng Padan.

– Nếu có bệnh đốm tím, bệnh khô đầu lá thì dùng Antracol 50WP, Dithan M45.

* Thu hoạch

Tiến hành thu hoạch khi hành đủ tuổi (42-45 ngày sau trồng) tùy tình hình sinh trưởng và sâu bệnh. Trường hợp hành xấu có thể lưu thêm vài ngày, nhưng không nên kéo dài quá. Hành lá khi đưa ra thị trường phải đảm bảo an toàn cho người sử dụng.

Nguồn: vietrap.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.