Cách chọn dê làm giống

Chọn dê cái giống

Dê cái làm giống có đặc điểm:

– Đầu rộng, hơi dài, rắn chắc, vẻ mặt linh hoạt.

– Cổ dài, mềm mại, có cơ chắc, nổi, nhọn về phía đầu.

– Lưng thắng, sườn tròn và xiên về phía sau; có một hõm phía trước xương chậu, thể hiện khả nàng tiêu hoá tốt.

– Hông rộng và nghiêng đảm bảo cho dê có bầu vú gắn chặt vào phần bụng, những mạch máu lớn nổi rõ ở phía sau vú; khớp mắt cá thẳng tránh cho dê khi đi không làm ảnh hưởng tới các mạch máu trên bầu vú; những núm vú to dài từ 4-6cm nằm vững vàng trên bầu vú. Bầu vú gắn chặt vào phần bụng, gọn về phía trước, thấy rõ các tĩnh mạch (gân sữa) ở phía trước vú, gân sữa chạy từ bầu vú lên tới nách chân trước.

– Chân trước thẳng, cân đối; hàm khoẻ.

– Khả năng cho sữa trung bình hàng ngày cao, mức sụt thấp, khả năng cho sữa kéo dài.

– Dê cái phải hiền lành, dễ vắt sữa.

Chọn dê đực giống

Chọn dê đực giống dựa trên dòng giống, khả năng sinh trưởng và phát triển, ngoại hình, tính hăng và đặc biệt là khả năng phối giống thụ thai, phẩm chất đời con sinh ra tốt.

Dê đực giống có đầu ngắn, rộng, tai to dày, dài, cụp xuống. Thân hình cân đối, cổ to, ngực nở, tứ chi khoẻ mạnh, cứng cáp, chắc chắn, hai tinh hoàn đều đặn, to, có phẩm chất tinh dịch tốt.

Chọn con đực để giống từ dê mẹ là dê cao sản, đẻ từ lứa thứ 2 trở đi và đẻ từ 2 con trở lên.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Chăm sóc dê con trước khi cai sữa

1. Ðối với giống dê Bách thảo của Việt Nam

– Trong 10 ngày đầu cho dê con ở với mẹ và bú tự do.

– Từ 11 đến 21 ngày chỉ cho dê con bú sữa mẹ ngày 3 lần thường thì vắt sữa xong mới cho bú ngoài ra chúng ta cần cho chúng bú bình thêm 2 lần /ngày với lượng từ 0,4 đến 0,5 lít/ngày.

Dê Bách thảo Việt Nam

– Từ 4 đến 5 tuần tuổi chỉ cho bú trực tiếp sữa mẹ 2 lần sau khi vắt sữa và cho bú bình thêm khoảng 0,3 lít / ngày.

– Từ 5 đến 8 tuần tuổi chỉ cho bú trực tiếp với mẹ một lần sau khi vắt sữa và cho bú bình tương đương 0.2 lít /ngày và chuẩn bị cai sữa hoặc trong giai đoạn này có thể sử dụng thức ăn thay thế cho dê con sử dụng (0,2 đến 0,4 kg/con/ngày).

2. Ðối với các giống dê ngoại

– Tuần 1: Cho dê con ở chung với dê mẹ và bú tự do.

– Tuần 2: Có thể cho dê con bú bình (giới thiệu các kiểu bú bình). Cho 1/2 lít sữa 3 lần trong ngày, lúc này đặt thức ăn và nước uống cũng như cỏ khô để dê con có thể tập ăn

– Tuần 3 đến tuần thứ 6: 2 lít sữa chia làm 3 lần trong ngày và đặt thức ăn và nước uống cũng như cỏ khô để dê con ăn.

– Tuần thứ 7 và 8: Giảm số lượng sữa 2 lần trong ngày.

– Tuần thứ 9 đến tuần thứ 12: Giảm lượng sữa 1 lần trong ngày và cai sữa: Nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt dê con giống ngoại cai sữa 3 tháng đạt 15 kg.

3. Khẩu phần ăn

– Bột bắp: 35%

– Cám gạo: 35%

– Bánh dầu dừa: 20%

– Ðậu nành: 10%

Dê con thường được tách khỏi dê mẹ sau khi sinh và nuôi bằng sữa 1lít/ ngày trong ba tuần đầu. Bắt đầu tập ăn cho dê con lúc 2 tuần tuổi bằng cách trét thức ăn khởi đầu lên miệng chúng và để sẵn thức ăn này trước mặt chúng thường xuyên. Thay thức ăn khởi đầu mỗi ngày và dùng để nuôi các dê lớn hơn.

Sau đó 2- 3 ngày để sẵn cỏ phơi héo để chúng tập ăn. Tập cho dê con ăn sớm sẽ kích thích dạ cỏ phát triển sớm, giúp chúng có thể ăn nhiều thức ăn thô khi cho sữa nên giá thành của sữa sẽ hạ.

Nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy thể tích dạ cỏ chỉ chiếm 20% thể tích của dạ dày lúc sơ sinh và đạt đến mức 80% lúc 2 tháng rưỡi tuổi khi tập cho dê con ăn sớm. Khi đó dê con có thể tiêu hóa tốt thức ăn thô. Lúc đó cần sân chơi để dê con vận động dưới ánh sáng mặt trời.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trị bệnh cho dê

Bệnh ỉa chảy:

Nguyên nhân: do vi trùng hoặc thức ăn, nước uống bẩn, lạnh, thiu, mốc. Dê bị bệnh phân nát đến lỏng. Cho ăn hoặc uống nước lá ổi, lá quả hồng xiêm, búp sim kết hợp cloramfenicon ngày 2-4 viên/con lớn.

Bệnh chướng bụng đầy hơi:


Nguyên nhân: do thức ăn thiu, mốc hoặc quá giàu đạm và thay đổi đột ngột. Dê bệnh thành bụng bên trái căng, chướng to, gõ tiếng bùm bụp, con vật khó thở sùi bọt mép. Lấy 1-2 củ tỏi giã nhỏ hòa vào 100ml rượu hoặc dấm cho dê uống và nhấc 2 chân trước lên để dê ở trạng thái đứng: xoa bóp vùng bụng liên tục nhiều lần cho dê ợ hơi, trung tiện được.

Bệnh loét miệng truyền nhiễm:

Nguyên nhân: do siêu vi trùng hoặc ăn thức ăn già, cứng gây xây sát nhiễm trùng. Xung quanh môi, trong miệng đều có mụn to, loét ra; nặng thì tai mũi bầu vú cũng bị viêm loét, con vật khó nhai, khó nuốt, nước dãi thối. Hàng ngày rửa vết loét bằng nước muối loãng, hay nước oxy già rồi bôi thuốc mỡ kháng sinh. Kinh nghiệm dùng chanh, khế sát vào vết loét nhiều lần cũng khỏi bệnh.

Bệnh viêm vú:

Nguyên nhân: do vệ sinh bầu vú không sạch, vắt sữa không đúng kỹ thuật gây viêm nhiễm làm bầu vú sưng đỏ, nóng, đau. Chườm vú nhiều lần bằng nước nóng có pha muối 5%. Sau đó đắp cao tan vào vú viêm.

Bệnh giun sán:

Nguyên nhân: do vệ sinh thức ăn và chuồng trại kém. Dê bị bệnh biếng ăn, gầy, thiếu máu, đau bụng, ỉa nhão đến lỏng, mắc sán lá gan, dê có hiện tượng tích nước ở hàm dưới và bụng. Cho dê con trước khi cai sữa (3 tháng tuổi) và dê mẹ sau khi phối giống 5-6 tuần uống thuốc levamisole phòng bệnh giun tròn. Không cho dê ăn cỏ lá vùng ngập nước, dùng dextrin-B phòng định kỳ và điều trị với dê đã mắc bệnh.

Bệnh đau mắt:

Nguyên nhân: do chuồng trại bẩn, chật chội. Dê bị bệnh mắt đỏ, nước mắt chảy nhiều, nặng có mủ. Rửa nước muối, hoặc nhỏ thuốc đau mắt (sunfat kẽm 10%) rồi bôi thuốc mỡ tetraxilin ngày 2-3 lần đến khi khỏi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi dê bách thảo

1. Đặc điểm

Hiền lành ít phá hoa màu, ăn tạp, năng suất cho thịt, sữa cao. Tầm vóc cao to, đầu dài trán lồi, sống mũi dô, tai to rủ, có hoặc không có sừng, 60% dê có màu lông đen, số còn lại có màu đen đốm trắng, trắng nâu, vàng.

Dê sinh sản nhanh: tuổi phối giống lần đầu 7 – 8 tháng (P = 19 – 20kg), cứ 7 tháng đẻ 1 lứa, lứa đầu đẻ 1 con, từ lứa thứ 2 trở đi đẻ 2 con. Dê con sơ sinh nặng 1,9 – 2,5kg. Dê 3 tháng tuổi (lúc cai sữa) nặng 10 – 12kg, dê 6 tháng tuổi (lúc giết thịt) nặng 17 – 20kg. Dê bách thảo nuôi lấy sữa cho 0,8 – 1,0kg sữa/ngày, gấp 3 – 4 lẫn dê Cỏ.

2. Cách chọn giống

Chọn dê cái: Là con của dê bố và dê mẹ cho nhiều sữa, mắn đẻ, dê con mau lớn,ngoại hình thanh mảnh, đầu nhỏ, nhẹ, mình dài, phần sau phát triển hơn phần trước. Da mỏng, lông nhỏ mịn. Bầu vú to, đều, mềm mại.

Chọn dê giống có chất lượng tốt

Chọn dê đực: Khỏe mạnh, hăng hái, không khuyết tật, đầu to, ngắn, trán rộng, thân hình cân đối, không quá béo hoặc quá gầy. Phần thân sau chắc chắn, bắp nở đều, 4 chân thẳng, khỏe. Hai hòn cà đều và cân đối. Là con của dê bố mẹ suất sắc, cho nhiều sữa, mắn đẻ, dê con tăng trọng nhanh, khả năng chống bệnh tốt.

3. Thức ăn cho dê

Thức ăn thô

– Thô xanh:

+ Các loại lá: mít, xoan, chuối, dâu, keo dậu, sắn dây, keo lá tràm, sim mua và cây bụi khác trên đồi.

Thức ăn thô xanh cho dê

+ Các loại cỏ tự nhiên: Cho dê ăn 4 – 7kg cỏ, lá hỗn hợp/ngày/con. Nếu chăn thả chỉ cần cho ăn 2 – 3 kg/ngày/con.

– Thô khô:

Cỏ và rơm khô, thức ăn củ quả: sắn, khoai lang, chuối, bí đỏ, đu đủ, cà rốt,… Rửa sạch, thái mỏng cho ăn 0,2 – 0,8 kg/con/ngày.

Thức ăn tinh hỗn hợp

Gồm các loại cám gạo, ngô, bột sắn, bột sắn, bột đậu tương rang, rỉ mật đường. Tùy theo lứa tuổi, khả năng sinh sản và tiết sữa cho dê ăn từ 0,2 – 0,8 kg/con/ngày.

Tỷ lệ: Bột ngô 25 – 30%, cám gạo 25 – 40%, bột sắn 15 – 20%, bột đỗ tương rang 10 – 20%, rỉ mật 10 – 20%, khoáng 2%, muối 1%.

Phụ phẩm nông, công nghiệp

Bã đậu phụ, vỏ giá đỗ xanh, bã bia, vỏ và trái cây,… Tuyệt đối tránh thức ăn chua, hôi, mốc, ướt, cho ăn 0,3 – 0,6kg/con/ngày.

4. Chăm sóc nuôi dưỡng

Dê bách thảo có thể chăn chả ban ngày, tối về chuồng ăn thêm cỏ, lá cây. Nuôi nhốt tại chuồng, vận động tại sân chơi.

Đảm bảo hàng ngày: Thức ăn khô ráo, không hôi mốc, sạch không lẫn đất cát, uống thỏa mãn nước sạch. Quét dọn vệ sinh sạch sẽ: nền, sân chuồng, máng ăn sạch sẽ. Cách ly con đau ốm và không thả chung đàn.

Chăm sóc dê hậu bị (từ khi cai sữa đến khi phối giống): Cho ăn 2 – 5kg lá cây, cỏ xanh non và từ 0,1 – 0,4kg thức ăn tinh/con/ngày. Chỉ chăn thả hoặc vận động khi trời đã tan sương. Tách riêng dê đực 4 tháng tuổi ra nơi khác. Cho dê cái phối giống lần đầu ở 7 – 8 tháng tuổi, nặng 19 – 20 kg trở lên. Tuổi phối giống lần đầu của dê đực: 7 – 8 tháng tuổi, nặng 25 – 30 kg.

5. Chăm sóc dê chửa, dê đẻ

– Thời gian chửa 146 – 157 ngày. Trong thời gian chửa cần chăn thả dê gần chuồng, nơi bằng phẳng tránh dồn đuổi, đánh đập, tránh xa dê đực giống để tránh nhảy dê chửa, dễ sảy thai. Trước khi đẻ 5 – 10 ngày nhốt riêng dê chửa. Dê sắp đẻ bầu vú căng sữa, bụng sa, dịch nhờn chảy nhiều ở âm môn, sụt mông. Cho cỏ khô sạch lót ổ, chuẩn bị đỡ đẻ.

– Dùng khăn sạch, mềm, khô lau nhớt từ miệng, tai mũi và toàn thân cho dê sơ sinh. Thắt rốn bằng chỉ cách cuống rốn 4cm rồi cắt ngoài chỗ thắt, sát trùng rốn bằng cồn. Để dê con nằm ổ ấm, bên mẹ cho đến 4 ngày tuổi (trời rét cần sưởi ấm). Lau sạch bầu vú và phần âm môn dê mẹ. Sau đẻ 30 phút hỗ trợ dê con bú sữa đầu. Đẻ xong cho dê uống nước ấm pha muối 0,5% và ăn cỏ, lá xanh non và thức ăn tinh không ôi, ẩm mốc.

– Từ ngày thứ 4 đến 21 ngày tuổi, nuôi dê con trong cũi, đảm bảo ấm khi trời lạnh, chỗ nằm khô, sạch. Cho bú mẹ 3 – 4 lần/ngày. Khi 10 ngày tuổi tập cho dê con ăn thức ăn dễ tiêu: cháo, chuối chín, bột ngô, đỗ tương rang kỹ nghiền nhỏ mịn và cỏ non sạch, khô ráo.

6. Vắt sữa dê

– Vệ sinh khi vắt sữa: Rửa sạch tay và dụng cụ trước và sau khi vắt sữa. Dùng khăn sạch ướt rửa toàn bộ bầu vú. Lau sạch núm vú, tránh xây xát vú sau khi vắt hết sữa.

– Thao tác vắt sữa: Cố định người vắt, giờ vắt, không ồn ào khi vắt sữa. Thao tác vắt sữa nhẹ nhàng, đều đặn, thứ tự và nhanh. Sau đó buông tay ra để sữa xuống căng núm vú và lặp lại thao tác trên.Sau cùng vuốt hết sữa đọng trong núm vú.

Thao tác vắt sữa dê

– Lịch vắt sữa: Vắt sữa trước khi cho con vào bú mẹ.Vắt 1 – 2 lần tùy theo lượng sữa mẹ và số dê con đẻ ra.

– Xử lý sữa: Vắt sữa xong lọc qua 8 lớp vải màn sạch, rồi đun cách thủy trong nước sôi khoảng 10 – 15 phút mới được sử dụng.

7. Chuồng trại

– Chọn địa điểm làm chuồng: Chọn nơi cao ráo thoát nước, ở cuối hướng gió, tránh gió lùa. Chuồng nên làm hướng nam hoặc đông nam.

– Kiểu chuồng: Có sàn, đơn giản tre nứa lá. Có 3 kiểu: Chuồng dê nhốt chung, chuồng dê chia ô lớn, chuồng chia ô nhỏ nhốt riêng từng con. Sàn chuồng làm bằng thanh tre, gỗ nứa thẳng, nhẵn, bản rộng 2,5cm, cách nhau 1,5cm, cách mặt đất 0,6 – 0,8m. riêng đối với dê con, các nan nhỏ cách nhau 0,8cm để dê không bị lọt chân.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cừu Phan Rang

Cừu Phan Rang là giống cừu Việt Nam duy nhất hiện nay, được nuôi dưỡng hơn 100 năm trở lại đây, đã thích nghi cao với điều kiện sinh thái của tỉnh Ninh Thuận và những địa phương có đặc điểm khí hậu tương tự. Tuổi trưởng thành, con cái nặng 39- 40kg, con đực 43- 44kg, khoảng cách lứa đẻ của cừu cái là 8 tháng/lứa.

Chuồng trại

Nên làm chuồng kiểu sàn: mặt sàn cách mặt đất 0,8-1 m tạo độ thoáng và đủ độ cao để vệ sinh quét dọn dễ dàng, khe hở mặt sàn 1,5 cm. Máng ăn bố trí sát mặt ngoài sàn (ở phía trước chuồng) để cừu thò đầu ra ăn. Chuồng nuôi phải bảo đảm vệ sinh, quét dọn phân hằng ngày. Mỗi tháng tẩy uế chuồng 1 lần bằng vôi bột hoặc Dipterex.

Thức ăn, nước uống

Cừu ăn được nhiều loại thức ăn như cỏ tươi, rơm, các loại dưa, bí, cà rốt, củ cải, ngô ủ chua… Để tăng cường dinh dưỡng cho cừu, ngoài thức ăn thô xanh, hằng ngày cho ăn thêm 0,1 – 0,3 kg thức ăn tinh (bột ngô, khoai, sắn…).
Vào mùa thức ăn tươi đầy đủ, trong thức ăn thường đầy đủ các yếu tố khoáng và vitamin, song vào mùa đông khô và rét, thức ăn tươi hiếm, khẩu phần ăn cần bổ sung canxi và các vitamin A, D…, tránh tình trạng dê nuôi bị thiếu dinh dưỡng, đẻ non, đẻ con yếu, ít sữa nuôi con, niêm mạc mắc khô, mắt mờ… Hằng ngày nên bổ sung 6- 9g canxi, 3-5 g phốtpho, vitamin D 4.000 – 10.000 đơn vị/ngày. Có thể mua (hay làm lấy) tăng urê-mật rỉ để bổ sung khoáng và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cừu.
Cần có đủ nước sạch để cừu uống tại chuồng. Không cho cừu uống nước tù đọng tránh cừu bị nhiễm giun sán.

Kỹ thuật chăm sóc

Đối với cừu mẹ: Một con cừu cái tốt có đặc điểm đầu rộng hơi dài, mình nở, ngực sâu, lưng thẳng, hông rộng, lông mượt, bộ phận sinh dục nở nang, bầu vú phát triển, vú có da mềm nhão nhưng khi bầu vú căng sữa sẽ tiết sữa nhiều, gân sữa nổi rõ trên bầu vú. Tỷ lệ đực/cái trong đàn nên duy trì 1/25, thường xuyên thay đổi đực để tránh thụ tinh đồng huyết.
Chu kỳ động dục cừu cái là 16-17 ngày. Sau khi phối giống, qua 16-17 ngày không thấy động dục trở lại là cừu cái có chửa. Cừu mang thai 146-150 ngày. Căn cứ vào ngày phối giống để chú ý đỡ đẻ cho cừu, tránh đẻ bất ngờ làm chết cừu con.
Cừu cái chửa cho ăn thêm thức ăn tinh, rau cỏ non. Khi có dấu hiệu sắp đẻ như bầu vú căng, xuống sữa, âm hộ sưng to, cào bới sàn… thì nhốt riêng, chuẩn bị ổ cho cừu đẻ.
Sau khi cừu đẻ, dùng khăn mềm, sạch, ẩm để lau nước nhầy ở miệng, mũi cho cừu con, lấy dây chỉ sạch buộc rốn (cách rốn 5- 6cm), rồi dùng kéo cắt cách vết buộc 2 cm. Bôi cồn iốt để sát trùng. Đẻ xong, cừu mẹ khát nước nhiều, pha nước đường 1% + muối 0,5% cho cừu mẹ uống thoải mái.

Nuôi cừu con: Sau khi sinh ra, cừu con cần được bú sữa đầu là sữa chứa nhiều dinh dưỡng và giúp cho cừu sau này chống chịu được bệnh tật. Trong 10 ngày đầu sau đẻ cho cừu con bú mẹ tự do; từ 11-20 ngày tuổi, cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, đồng thời tập cho cừu con ăn thức ăn tinh, rau cỏ xanh; 80-90 ngày tuổi, cho cừu con cai sữa.
Đối với cừu nuôi thịt: Gồm các cừu đực đã cai sữa và con giống loại thải. Cừu nuôi bán thịt phải nhốt riêng, tránh quậy phá đàn, hư hỏng chuồng trại. Trước khi xuất chuồng hai tháng cho ăn khẩu phần tăng cường để tăng trọng lượng lúc bán. Thức ăn bổ sung có thể là thức ăn tinh, cỏ, rau xanh, củ quả, phụ phẩm nông nghiệp…

Phòng trị bệnh

Cừu thường bị mắc một số bệnh sau:

Bệnh đậu cừu: Do virus gây nên. Bệnh làm xuất hiện các nốt phỏng to bằng hạt đậu trên các vùng da mỏng, sau vỡ thành mụn nước mầu rỉ sắt, khô đi thành vẩy rồi thành sẹo. Con vật ngứa ngáy, có thể ỉa ra máu và chết. Bệnh tiêm phòng bằng vaccine.

Bệnh viêm miệng lở loét: Rửa miệng và các vết loét bằng nước muối rồi chấm iốt. Nếu bị bệnh nặng, con vật có thể có biến chứng ở phổi và đường ruột. Điều trị bằng kháng sinh Penixilin và Streptomycin. Cho cừu uống nước ấm, ăn thức ăn mềm, bổ sung tinh bột.

Bệnh viêm phổi cấp tính: Bệnh có thể gây tử vong. Cần giữ chuồng ấm, sạch, cho ăn tốt. Khi con vật bị bệnh, tiêm Penixilin hay cho uống Tetracyclin.

Bệnh giun sán đường tiêu hóa: Để phòng trị, cho uống Phenothiazin lúc 5-12 tháng tuổi với liều 0,5-1g/kg thể trọng. Sau khi uống thuốc, nhịn ăn 3 giờ.

Ngoài ra, cừu còn mắc một số bệnh khác như bệnh thối móng, ỉa chảy, bệnh giun phổi… Cần theo dõi, phát hiện và chữa trị kịp thời, bảo đảm cừu ăn uống, sinh trưởng và phát triển bình thường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Hướng dẫn cách phơi cà phê kiểu mới đem hiệu quả cao

Cách phơi cà phê kiểu mới đem hiệu quả cao Viện khoa học nông lâm nghiệp Tây Nguyên đề xuất cách phơi cà phê mới đơn giản, dễ áp dụng ở từng nông hộ và có thể vừa hái vừa phơi trên rẫy.

Phơi cà phê trên giá

Dùng những cây tre/thanh gỗ đóng giá phơi giống như kiểu làm cây thang. Tùy vị trí đặt và phương tiện chuyên chở giá phơi đến vị trí phơi, chiều dài một khung tre có thể từ 2 – 6 m. Cắt các khúc ngọn tre làm thanh đà ngang dài 1,2 hoặc 1,4 m. Đục các lỗ tương ứng cách nhau 40 cm trên hai thanh dài để lắp các thanh đà ngang. Dùng ngàm/chốt nối 2 đoạn tre dài với các đoạn tre ngắn thành khung giá. Chẻ những thanh tre có bản rộng 2 – 3 cm, chuốt sơ, tề đầu, đóng cách nhau 3 cm vào các thanh đà. Chân giàn cao 0,7 – 0,8 m tiện cho việc đứng phơi, thu gom; có thể đóng cố định xuống đất, tạo thành ngựa hay dùng các sọt nhựa hình chữ nhật dễ di chuyển. Dựng giá phơi ở chỗ nhiều nắng và có gió càng tốt. Dùng bạt nhựa loại 2 da hay có chỉ (bền, xài được nhiều năm) rộng 1,5 – 1,6 m trải lên mặt giàn. Hái được bao nào, đổ lên giàn, trải mỏng phơi liền. Gặp mưa chỉ cần kéo nửa tấm bạt đậy lại, trời hửng giở ra, lâu lâu quơ tay đảo trở.

Phơi cà phê trên giá kết hợp với hiệu ứng lồng kính

Giá phơi làm như trên. Làm thêm tấm “kính” bằng nylon hay polyester trong suốt có kích thước bằng hay lớn hơn một chút với giá phơi. Trong 1 giờ đầu buổi sáng, tấm “kính” được đậy lên giàn phơi. Khi bên ngoài nhiệt độ 20 – 30 độ C, bên trong lồng kính tăng đến 40 – 50 độ C, hơi nước trong trái cà phê bay hơi nhanh hơn. Sau 1 – 1 giờ 30, dùng đoạn cây dài 30 – 40 cm chống một bên của tấm “kính” lên, việc này quan trọng giúp hơi nước bay đi mà không thấm lại vào trái cà phê. Nắng vẫn xuyên qua tấm “kính”, nhiệt độ trong lồng kính cao vẫn làm sự bay hơi nước liên tục, cà phê mau khô. Nếu trời mưa, chỉ cần sập tấm “kính” xuống là cà phê không bị ướt.

Nhà kính phơi cà phê

Phát triển từ phơi giá và tấm “kính” làm tăng nhiệt độ, phơi cà phê mau khô. Theo cách này, chế nhà vòm mỗi chiều khoảng 2,5 – 3 m lợp “kính”, dựng ngoài trời, có “nồi hút gió” trên nóc. Phủ “kính” kín từ nóc, tứ bề đổ xuống nền xi măng. Bố trí 2 – 3 cửa thông (lấy) gió dài 30, rộng 15 cm ở hai bên, cách mặt đất 20 cm. Trong nhà vòm có nhiều tầng đặt giá lưới sắt hay nan tre, giá dưới cùng cách mặt đất 30 – 35 cm, các tầng trên cách nhau 25 – 30 cm. Khi trời nắng, nhiệt độ ngoài trời đạt 30 độ C thì trong nhà vòm là 60 độ C, cà phê rất mau khô. Không khí trong nhà vòm bị nung nóng bởi hiệu ứng nhà kính bốc lên cao đi qua các giàn cà phê cần phơi, bay ra ngoài qua nồi gió. Các luồng không khí đi vào từ bên dưới, vào nhà vòm, bốc lên cao một cách tuần hoàn; trong khi không khí nóng di chuyển giúp cà phê khô mau.

Nguồn: Trung tâm nguyên cứu nông vận nông được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số kỹ thuật thú y ở dê

1. Kỹ thuật khử, cắt sừng

Mục đích của việc cắt, khử sừng dê là để tránh cho dê đánh húc nhau hoặc sừng quặp vào đầu, cổ gây tổn thương.

Nên khử sừng dê con khi sừng mới nhú lên, lúc dê con còn đang theo mẹ (dưới 3 tháng tuổi). Bởi vì khử sừng lúc này sẽ ít tổn hại đến sức khỏe dê và ít gây viêm nhiễm hoặc biến chứng.

Cách tiến hành: cắt lông, vệ sinh vùng sừng mọc; dùng ống sắt đặc, dài 5 – 7 cm, đường kính 3 – 4 cm, có cán gỗ; nung nóng trên bếp rồi áp nhanh vào gốc sừng.

Những dê có sừng quá dài hoặc có nguy cơ đâm vào đầu, cổ hay mắt thì nên cắt bỏ bớt sừng.

Cách tiến hành: vệ sinh sạch sẽ và sát trùng vùng cắt; phong bế gốc sừng bằng Novocain với liều 30 – 50 ml. Tiếp theo, dùng cưa sắc cắt nhanh quanh phần sừng quá dài. Áp nhanh dao nung đỏ vào vùng sừng vừa cắt. Cuối cùng, dùng bông, gạc buộc chặt vết cắt và tiến hành theo dõi cho đến khi khỏi hẳn.

2. Kỹ thuật thiến dê

Nên thiến những dê đực non không sử dụng làm giống lúc đạt 3 tuần tuổi. Những dê đực giống hết thời gian sử dụng, trước khi đưa vào nuôi vỗ béo cũng nên thiến để tăng hiệu quả chăn nuôi và chất lượng thịt.

Cách thiến như sau:

– Làm vệ sinh, sát trùng túi dịch hoàn; nắm và kéo hai dịch hoàn ra phía ngoài và dùng dây buộc lại để chúng không di chuyển trở lại vào trong.

– Dùng dao sắc cắt một đường dài khoảng 3 – 4 cm vào chính giữa túi, để lộ dịch hoàn và kéo dịch hoàn ra ngoài.

– Buộc thắt phần trên thừng dịch hoàn hai nút cách nhau 1,5 cm, sau đó dùng dao sắc cắt thừng dịch hoàn giữa hai nút buộc. Làm tương tự như vậy với dịch hoàn còn lại.

– Dùng bông lau sạch máu bên trong và bên ngoài bao dịch hoàn; rắc kháng sinh vào bên trong và khâu bao dịch hoàn lại (nếu môi trường không đảm bảo vệ sinh và nhiều ruồi nhặng thì nên bôi thêm Ichthyol).

– Kiểm tra, theo dõi vết thiến và bôi thuốc sát trùng hàng ngày cho đến khi khỏi hẳn.

3. Kỹ thuật cắt móng dê

Móng chân dê thường phát triển nhanh, nhất là trong điều kiện nuôi nhốt hoặc ít được chăn thả. Khi móng chân dê quá dài làm cho chúng đi lại khó khăn, dễ gãy, xước hoặc bị kẹt đá, sỏi, gây tổn thương, làm thối móng và có thể dẫn đến què. Do vậy, cần thường xuyên kiểm tra chân móng dê và tiến hành cắt gọt.

Cách tiến hành: dùng dao hoặc kéo sắc cắt móng chân, chú ý cắt bỏ hết các phần móng thừa, bẩn và bị bệnh. Có thể cắt sâu khi tổ chức móng bị hỏng. Trường hợp chảy máu, dùng cồn iốt 5% sát trùng rồi băng bó vết thương.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Quy trình phòng bệnh cho dê

1. Về giống

Cũng giống như các loại gia súc khác, để lựa chọn các cá thể dê làm giống phải chọn qua đời trước (ông bà, bố mẹ). Kiểm tra cá thể con giống về các đặc điểm như ngoại hình, khả năng sản xuất, khả năng thích ứng với điều kiện chăn nuôi và chọn lọc qua đời sau của chúng. Đồng thời, phải chọn lựa dê làm giống ở những cơ sở chăn nuôi dê có uy tín, đảm bảo chất lượng.

Chọn dê giống có chất lượng tốt

Một số điều cần lưu ý trong quá trình chọn giống dê:

a. Chọn giống dê cái

– Ngoại hình: Chọn những dê có ngoại hình đẹp, mình nở rộng, ngực sâu, thân hình cân đối khỏe mạnh, da mềm, lông bóng. Bầu vú nở rộng, cân đối, núm vú dài và đưa về phía trước, có nhiều mạch máu nổi trên bầu vú.

– Khả năng sinh sản: Khoảng cách lứa đẻ đều đặn, số con đẻ ra nhiều, tỉ lệ nuôi sống cao.

– Khả năng sinh trưởng: Chọn những con có chỉ tiêu sinh trưởng cao hơn những con khác trong đàn tại thời điểm sơ sinh, lúc 6 tháng tuổi, lúc phối giống, tuổi đẻ lứa đầu tiên.

b. Chọn giống dê đực

Chọn những con đực có ngoại hình đẹp, đầu cổ kết hợp hài hòa, thân mình cân đối khỏe mạnh, 4 chân vững chắc, hai dịch hoàn to đều, dáng nhanh nhẹn, tính hăng tốt.

c. Chọn dê nuôi lấy thịt

Chọn những con có thân hình đều đặn, cân đối, săn chắc, đùi nổi bắp thịt; đầu, cổ vừa phải và thon; ngực nở và sâu; lưng phẳng và rộng; chân khỏe; da mềm mại, lông mượt, khoeo rộng.

Mua dê từ các cơ sở không có lưu hành các loại dịch bệnh nguy hiểm trong cùng thời điểm. Dê mua về phải nuôi cách ly và theo dõi chặt chẽ trong thời gian 2 – 3 tuần, nếu dê khỏe mạnh, ăn uống bình thường mới cho nhập đàn.

2. Về thức ăn

Do có khả năng ăn tạp nên nguồn thức ăn cung cấp cho dê rất phong phú, có thể là các loại cây bụi, cỏ trồng, cỏ mọc tự nhiên, các loại lá cây (so đũa, mít, chuối, keo dậu, dâm bụt…), phế phẩm nông nghiệp (rơm, thân cây ngô, ngọn mía, dây đậu…), các loại củ quả (khoai lang, bí đỏ, chuối…), thức ăn tinh, thức ăn khoáng… Trong đó, thức ăn thô xanh thường chiếm khoảng 55 – 70% khẩu phần ăn của dê.

Để phát triển tốt chăn nuôi dê trong điều kiện hiện nay ở nước ta, chúng ta cần phải tận dụng triệt để các nguồn thức ăn tự nhiên, đặc biệt là bãi chăn thả ở các vùng đồi núi không có khả năng canh tác. Kết hợp việc trồng các loại cây thức ăn với các loại cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp phù hợp. Tăng cường và tận dụng các phế phụ phẩm ngành trồng trọt, ngành công nghiệp chế biến (rượu, bia, mía đường…) để đảm bảo cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng thức ăn cho đàn dê trong các mùa vụ khác nhau, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Về mùa khô có thể chế biến và cung cấp các loại thức ăn dự trữ cho dê như: cỏ khô, thức ăn ủ chua, mía cây, rỉ mật đường và các loại thức ăn bổ sung khác như thức ăn tinh, củ quả, khoáng đa vi lượng…

Hiện nay, ở một số địa phương, ngoài việc tận dụng nguồn thức ăn sẵn có người chăn nuôi còn tiến hành trồng các cây thức ăn thích hợp cho dê, đồng thời tận dụng các nguồn phế phụ phẩm khác như bã sắn, bã bia, thân cây ngô, ngọn lá sắn khi thu hoạch, lá mít, cỏ các loại và cây đậu phơi khô cho dê cái chửa và dê sữa ăn cho hiệu quả tốt.

Thức ăn cho dê cũng phải đảm bảo sạch, không có hoá chất độc, không có các loại hormon kích thích sinh trưởng, không có độc tố nấm mốc theo quy định của Cục Chăn nuôi và Cục Thú y.

Đảm bảo cung cấp đủ nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm các chất độc hại (thuốc bảo vệ thực vật, độc tố nấm, muối nitrat và nitrit), đồng thời không bị nhiễm các vi sinh vật có hại (vi khuẩn Salmonella), hoặc có số lượng dưới mức cho phép (vi khuẩn E. coli). Khi có lũ lụt thì cần xử lí nước bằng Cloramin T, B (300g/m3 nước) để diệt vi sinh vật gây bệnh.

3. Về chuồng trại

Hầu hết các cơ sở chăn nuôi dê ở nước ta đều xây chuồng sàn để nuôi dê. Xây dựng chuồng nuôi dê cần chú ý những vấn đề như sau:

– Chuồng nuôi dê có thể làm đơn giản và rẻ tiền bằng các loại vật liệu sẵn có ở địa phương, nhưng phải đáp ứng được đặc tính của dê là thích sống nơi cao ráo, thoáng mát, không ẩm thấp.

Chuồng dê nên xây dựng cao ráo, thoáng mát

– Hướng chuồng: Nên chọn hướng Đông hay Đông Nam để lấy được ánh nắng mặt trời buổi sáng sớm và tránh được mưa rào, gió bấc. Chuồng trại không nên làm quá gần nhà ở để đảm bảo vệ sinh môi trường sống cho con người, nhưng cũng không nên làm quá xa nhà ở vì sẽ khó quản lý và chăm sóc dê.

– Xây dựng chuồng nuôi dê theo định mức sau: Dê con theo mẹ 0,2 m²/con; dê cai sữa 0,3 m²/con; dê cái tơ và dê nuôi thịt vỗ béo 0,6 m²/con; dê cái sinh sản 0,8 m²/con và dê đực giống 1,5 – 2 m²/con.

– Chuồng dê nên làm theo kiểu chuồng sàn bằng gỗ hoặc tre chắc chắn, sàn chuồng cách mặt đất khoảng 30 – 40 cm. Mặt đất dưới sàn chuồng có độ dốc khoảng 30 – 45º, phẳng và láng nhẵn để dễ thoát nước tiểu và phân, dễ dọn chuồng. Cần đảm bảo mùa đông ấm, mùa hè mát, tránh gió lùa. Có hố lưu phân và chất thải chăn nuôi, đồng thời phải được dọn sạch hàng ngày.

– Sân chơi là phần nền đất, tiếp giáp với chuồng, có hàng rào bảo vệ. Sân chơi cần có diện tích rộng ít nhất gấp 3 lần diện tích chuồng nuôi. Ở sân chơi phải có bóng mát, không có vũng nước đọng, có máng ăn và máng đựng nước sạch cho dê uống hàng ngày.

– Chuồng nuôi dê phải được rào để bảo vệ, có hố sát trùng ở cổng ra, vào và ở đầu chuồng dê. Cần xây dựng bản nội quy phòng trừ dịch bệnh cho dê hàng quý, hàng năm. Cấm người không có trách nhiệm ra vào chuồng dê. Chú trọng đảm bảo vệ sinh thức ăn và nước uống cho dê hàng ngày.

– Xây dựng chuồng trại nuôi dê xa khu dân cư, đảm bảo chuồng dê luôn khô và sạch, thoáng mát về mùa hè, kín ấm về mùa đông. Có thể chống rét cho dê khi nhiệt độ hạ thấp (trên dưới 10ºC), định kì sử dụng thuốc sát trùng 2 tuần 1 lần lúc không có dịch, 1 tuần 1 – 2 lần khi có dịch.

Sử dụng một trong các loại thuốc sát trùng thông thường như: Han Iodin 10% (khi phun pha với nước thành dung dịch 1%, phun ở chuồng không có dê; pha nồng độ 0,5% phun ở chuồng đang có dê); Halamid 3%, Hantox 200 (pha thành dung dịch 5%), nước vôi 10%, vôi bột (rắc).

4. Phòng bệnh bằng vắc- xin

Việc phòng bệnh bằng vắc-xin có vai trò rất quan trọng trong chăn nuôi gia súc, gia cầm nói chung và chăn nuôi dê nói riêng. Người chăn nuôi cần thực hiện tiêm phòng nghiêm ngặt một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho đàn dê. Các bệnh cần phòng là:

Phòng bệnh đậu

– Vắc- xin đậu dê: Vắc- xin vô hoạt dạng lỏng, màu hồng nhạt, có chất bổ trợ là keo phèn.

– Đường dùng thuốc: Vắc- xin dùng để tiêm phòng cho dê từ 1 tháng tuổi trở lên theo đường tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.

– Liều lượng sử dụng: 1 ml/con, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, tiêm 2 lần/năm.

– Những chú ý khi sử dụng: Chỉ tiêm cho dê từ 1 tháng tuổi trở lên; Sát trùng bơm, kim tiêm thật kĩ trước khi tiêm; Lắc đều lọ vắc- xin trước khi sử dụng; Không tiêm vắc- xin trong vòng 21 ngày trước khi giết mổ dê.

Phòng bệnh viêm ruột hoại tử

– Tiêm giải độc tố phòng bệnh viêm ruột hoại tử cho dê.

– Liều tiêm: 2 ml/con, tiêm dưới da cổ, mỗi năm tiêm 2 lần vào tháng 3 và tháng 9.

– Sau 2 tuần có miễn dịch.

 Phòng bệnh tụ huyết trùng

– Vắc- xin tụ huyết trùng dê là vắc- xin vô hoạt, dạng lỏng, màu vàng nhạt.

– Liều tiêm: 2 ml/con cho dê từ 1 tháng tuổi trở lên, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp thịt.

– Tiêm vắc- xin định kì 2 lần/năm để phòng bệnh cho đàn dê.

– Chú ý: Lắc kĩ lọ vắc- xin trước khi sử dụng và chỉ sử dụng trong ngày.

Phòng bệnh lở mồm long móng

– Vắc- xin phòng bệnh lở mồm long móng là vắc- xin vô hoạt dạng nhũ dầu.

– Liều tiêm: 1 ml/con, tiêm sâu vào bắp thịt.

– Thời gian tiêm:

+ Chủng mũi đầu tiên: lúc 4 tháng tuổi.

+ Chủng tăng cường: 9 tháng sau mũi đầu tiên.

+ Tái chủng: cứ 12 tháng chủng lại.

+ Sau 2 tuần có miễn dịch, tiêm nhắc lại tùy thuộc vào tình hình dịch bệnh của địa phương.

5. Phòng bệnh bằng thuốc

Phòng và trị bệnh kí sinh trùng đường máu cho dê

– Thuốc Trypamidium, liều 1 mg/kg TT. Pha với nước cất hoặc nước sinh lý (dung dịch NaCl 0,9%) thành dung dịch 2 – 3%, tiêm tĩnh mạch.

Thuốc có tác dụng trị bệnh tiên mao trùng, đồng thời có tác dụng phòng bệnh tiên mao trùng cho dê trong vòng 1 – 1,5 tháng. Chú ý tiêm cho dê vào mùa hè (khi côn trùng môi giới truyền bệnh là ruồi trâu và mòng hoạt động mạnh).

– Thuốc Hemosporidin, liều 0,5 mg/kg TT, pha thành dung dịch 1%, tiêm tĩnh mạch để điều trị bệnh lê dạng trùng cho dê.

Phòng trị bệnh giun tròn cho dê

Có thể dùng một trong các thuốc sau:

– Thuốc Levamisol: liều 1 ml/10kg TT (6 – 7 mg/kg TT), tiêm bắp thịt.

– Thuốc Mebendazol: liều 15 – 20 mg/kg TT, hoà sữa hoặc nước, cho uống.

– Thuốc Ivermectin: liều 0,2 – 0,3 mg/kg TT, tiêm dưới da.

Phòng trị bệnh sán lá gan, sán lá dạ cỏ cho dê

Có thể dùng một trong các thuốc sau:

– Thuốc Fasciolid – 25: liều 0,04 ml/kg TT (tương đương với 1 mg hoạt chất /kg TT), tiêm dưới da.

– Thuốc Dertil: liều 8 – 9 mg/kg TT, cho uống.

– Thuốc Albendazol: liều 50 mg/kg TT, cho uống.

Phòng trị bệnh sán dây cho dê

– Thuốc Niclosamid: liều 20 mg/kg TT, cho uống.

Phòng trị bệnh ngoại kí sinh trùng (ve, rận)

Phun định kì 2 tuần/lần cho dê bằng một trong các thuốc: Abuitox, Amitaz, Hantox 200…

Ngoài các vấn đề trên, chúng ta cần chú ý thực hiện đầy đủ và nghiêm túc công tác kiểm dịch khi vận chuyển, xuất và nhập dê dưới sự giám sát của cơ quan thú y có thẩm quyền để khống chế sự lây lan dịch bệnh từ bên ngoài vào cơ sở chăn nuôi dê và ngược lại.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Quản lý thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản

Vấn đề quản lý thức ăn chăn nuôi, thủy sản, quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng, khảo nghiệm, chứng nhận, kiểm tra và quản lý nhà nước về thức ăn chăn nuôi, thủy sản thương mại là một việc vô cùng quan trọng cần được sự quan tâm của chính quyền và người dân.

Nghị định 39/2017/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định số 08/2010/NĐ-CP ngày 05/ 02/2010 về việc quy định điều kiện kinh doanh, sử dụng, khảo nghiệm, chứng nhận, kiểm tra và quản lý nhà nước về thức ăn chăn nuôi, thủy sản thương mại. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, xã hội đầu tư nghiên cứu, đào tạo, khuyến công, khuyến nông và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật về dinh dưỡng, chế biến thức ăn chăn nuôi, thủy sản.

Chính phủ sẽ ưu tiên đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thủy sản trong nước và các chính sách khác, trong đó có việc dành thêm quỹ đất và tín dụng ưu đãi cho việc trồng, thu hoạch, bảo quản, sản xuất, gia công, chế biến nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thủy sản trong nước.

Đầu tư và xã hội hóa đầu tư nâng cao năng lực hoạt động thử nghiệm, chứng nhận sự phù hợp phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chất lượng thức ăn chăn nuôi, thủy sản. Khuyến khích phát triển mạnh hình thức xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi.

Đối với việc quản lý thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh, Nghị định đã quy định không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản. Ngoài ra, kháng sinh sử dụng trong thức ăn chăn nuôi nhằm mục đích kích thích tăng trưởng cho gia súc, gia cầm phải có trong danh mục kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi.

Không sử dụng kháng sinh trong thức ăn thủy sản

Nguồn: Internet

Kháng sinh sử dụng trong thức ăn chăn nuôi nhằm mục đích trị bệnh cho gia súc, gia cầm và phòng bệnh cho gia súc, gia cầm non phải là thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam và theo đơn của bác sỹ thú y có chứng chỉ hành nghề phòng, trị bệnh cho động vật theo quy định của pháp luật về thú y.

Sản xuất và sử dụng thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, mục đích sử dụng, thời gian sử dụng đảm bảo không gây tồn dư kháng sinh vượt mức giới hạn cho phép trong sản phẩm chăn nuôi và không gây ảnh hưởng đến kháng kháng sinh trong điều trị bệnh của con người và vật nuôi.

Chỉ được phép sử dụng tối đa 2 loại kháng sinh trong một sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh nhằm mục đích phòng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm phải có bác sỹ thú y có chứng chỉ hành nghề phòng, trị bệnh cho động vật theo quy định của pháp luật về thú y. Thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh phải ghi rõ tên và hàm lượng kháng sinh, hướng dẫn sử dụng, thời gian ngưng sử dụng trên bao bì hoặc tài liệu kèm theo.

Về điều kiện nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, thủy sản, các tổ chức, cá nhân nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, thủy sản phải có hoặc thuê kho bảo quản thức ăn chăn nuôi, thủy sản đáp ứng các yêu cầu về điều kiện bảo quản đảm bảo chất lượng hàng hóa, bảo vệ môi trường và theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, thủy sản

Nghị định cũng nêu rõ, đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi, thủy sản phải đáp ứng các điều kiện như: Địa điểm sản xuất, gia công phải nằm trong khu vực không bị ô nhiễm bởi những yếu tố như chất thải, hóa chất độc hại, chuồng trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; Khu sản xuất có tường, rào ngăn cách với bên ngoài; Có báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về môi trường…

Trong thời hạn 18 tháng kể từ ngày 20/5/2017, cơ sở sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi, thủy sản thương mại có trách nhiệm thực hiện việc công bố hợp quy về điều kiện cơ sở sản xuất, gia công thức ăn chăn nuôi, thủy sản theo quy định của Nghị định này.

Theo hoinongdan.org.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi gà theo công nghệ mới đạt hiệu quả cao

Với mục tiêu đưa nhanh tiến bộ khoa học áp dụng vào cuộc sống để giúp dân xóa đói giảm nghèo, Trạm Khuyến nông huyện Quế Phong (Nghệ An) đã xây dựng thành công nhiều mô hình sản xuất, chăn nuôi theo công nghệ mới. Trong đó có mô hình nuôi gà ri lai đang được bà con nhân ra diện rộng.

Nuôi gà ri lai có cơ hội mang lại kinh tế cao

Gà nông hộ ở Quế Phong chủ yếu là phục vụ riêng cho gia đình. Đàn gà phát triển tự nhiên như cây cỏ, một mặt đã không mang lại hiệu ích kinh tế, mặt khác môi trường sinh thái bị ô nhiễm, dẫn tới bệnh hại thường lây lan nhanh trên diện rộng. Chính vì vậy mà khi Trạm KN Quế Phong xây dựng mô hình nuôi gà theo công nghệ mới thì nông dân vô cùng phấn khởi, bởi hiệu quả kinh tế cao hơn 2,6 lần so với đàn gà đang nuôi theo tập quán cũ.

Đánh giá về thực trạng chăn nuôi gà ở huyện biên giới này, Hoàng Đình Nghĩa, Trạm trưởng Trạm Khuyến nông Quế Phong cho hay: Gà là giống gia cầm mà nông dân ở đây nhà nào cũng có. Tuy nhiên về phương thức chăn nuôi thì hầu như đàn gà chỉ biết tự đi kiếm ăn trong nương vườn là chủ yếu. Phần thức ăn bổ sung cũng có, nhưng không đáng kể.

Mô hình “Chăn nuôi gà thịt an toàn sinh học” nằm trong chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ cao trong nông nghiệp, phục vụ an sinh xã hội, do Ngân hàng TMCP Đầu tư & phát triển Việt Nam tài trợ vốn. Vật nuôi của mô hình được cấp 1.000 con gà ri lai 20 ngày tuổi, do Trạm KN Quế Phong chọn lựa xây dựng tại 5 hộ dân dân ở xã Châu Kim.

Trước lúc bắt tay vào thực hiện mô hình, Trạm KN đã hướng dẫn cho các hộ dân làm chuồng trại đảm bảo sạch sẽ, thoáng mát về mùa nóng, kín ấm về mùa đông. Dụng cụ đựng thức ăn, máng nước luôn phải được vệ sinh thau rửa. Quá trình chăm sóc cho gà ăn cũng như theo dõi bệnh tật, cán bộ kỹ thuật của Trạm KN đã trực tiếp túc trực cùng hộ dân để cân đong đúng liều lượng và xem xét sự thay đổi sức khỏe của từng cá thể.

Gà ri lai khi được chăm sóc tốt

Theo đó đúng theo lịch trình các chuồng trại phải được vệ sinh, tẩy uế, phun thuốc khử trùng phòng bệnh. Nhờ vậy đàn gà nuôi của mô hình 1.000 con gà ri lai ở 5 hộ dân đều phát triển nhanh. Tỷ lệ sống từ ngày nuôi đến lúc xuất chuồng (hơn 3 tháng) đạt 93%. Trọng lượng gà mái đạt 1,8 – 2kg/con, gà trống đạt 2 – 2,4kg/con. Trong khi đó đàn gà 1.000 con giống bản địa, nuôi theo tập quán cũ, tỷ lệ sống đến lúc xuất chuồng chỉ đạt 78% và trọng lượng bình quân cả mái và trống chỉ đạt 1,5 – 1,7kg/con.

Mô hình gà ri lai sở dĩ đã thu hút tới sự quan tâm học hỏi của đồng bào bởi con giống do Viện Chăn nuôi lai tạo từ con trống là giống gà vàng thuần chủng, con mái là gà Lương Phượng thuần chủng. Gà ri lai có sức đề kháng cao, thích nghi với môi trường sống bán chăn thả, khả năng hấp thụ tiêu hóa thức ăn tốt nên tăng trọng đồng đều, sinh sản nhanh. Thịt gà ri lai thơm ngon, mẫu mã đẹp, trọng lượng vừa phải gọn gàng, nên thị trường rất ưa chuộng.

Ông Nguyễn Sĩ Vinh, cán bộ Trung tâm KN tỉnh Nghệ An, người trực tiếp cùng với Trạm KN Quế Phong thực hiện mô hình này cho biết: Trong thời gian triển khai mô hình, đàn gà ri lai ở giai đoạn 21 – 42 ngày tuổi có xuất hiện bệnh cầu trùng, ỉa chảy 30% và bệnh Newcastle 15% do nguồn bệnh từ đàn gà ngoài mô hình lây lan sang.

Tuy nhiên nhờ kiểm tra phát hiện sớm và điều trị kịp thời nên đàn gà đã khỏi bệnh. Thế nên gà mô hình khi xuất chuồng tỷ hao hụt chỉ 7%. Trong khi đó cùng thời gian nuôi, nhưng gà truyền thống hao hụt tới 22%. Về chi phí, tuy nuôi gà theo công nghệ mới có cao hơn so với đàn gà đối chứng, nhưng hiệu quả kinh tế tính ra tiền thì lại cao hơn 2,6 lần so với đàn gà nuôi theo tập quán cũ. Lợi hơn nữa là gà mô hình thuộc nguồn thực phẩm sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng và môi trường sinh thái thì luôn được bảo đảm an toàn.

Nguồn nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.