Nuôi tôm thẻ chân trắng kết hợp với cá điêu hồng

Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Nam Định, nhằm đánh giá tác động cũng như tìm ra giải pháp thích hợp để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu như hiện nay.

Tổng quan về mô hình

Cá điêu hồng (Oreochromis sp.) là loài ăn tạp, chúng có thể ăn cả thực vật, động vật thủy sinh, động vật đáy, mùn bã hữu cơ trong ao nuôi và thậm chí cả chất thải của đối tượng nuôi khác. Tôm thẻ chân trắng là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng và phát triển nhanh không chỉ ở Việt Nam mà ở các nước có nghề nuôi tôm trên thế giới. Nuôi tôm thẻ chân trắng kết hợp với cá điêu hồng sẽ giảm thiểu vi khuẩn gây bệnh như AHPND/EMS (acute hepatopancreatic necrosis disease/Early Mortality Syndrome) (SalgueroGonzález et al., 2016).

Mô hình được thực hiện tại xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định là một trong những địa phương chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong vùng: như hiện tượng xâm thực mặn, ngọt hóa một số thời điểm, một số vùng. Vì vậy, sự phù hợp của mô hình được xem là giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu trong nuôi trồng thủy sản ở vùng duyên hải.

Quy trình kỹ thuật

Chuẩn bị ao nuôi: Tiến hành tát cạn ao, sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý bùn đen ở đáy ao, phơi đáy 10 – 15 ngày, cày xới đáy ao để loại bỏ khí độc NH3, H2S. Bón vôi cải tạo đáy và bờ ao, nhằm diệt tạp, nâng cao pH, tăng khả năng đệm của nước ao nuôi, phơi đáy ao 3 ngày. Ao có diện tích 2.000 – 2.500 m2 là phù hợp.

Chọn giống: Chọn tôm và cá giống khỏe mạnh, nguồn gốc rõ ràng, cá không bị xây xước, dị tật dị hình… Tôm thẻ chân trắng cỡ 2 – 3 cm/con, cá điêu hồng trọng lượng 5 ± 0,35 g.

Mật độ nuôi: Thả tôm chân trắng với mật độ 100 con/m2. Tôm giống trước khi thả ra ao nuôi được thuần hóa về nước ngọt trên các bể ương 7 – 10 ngày. Cá điêu hồng với mât độ 2 con/m2.

Môi trường: Ở thời điểm thả tôm giống, nước ao có nhiệt độ dao động 22 – 25oC, với ao nước ngọt có độ mặn 0 – 0,5‰, ao nước lợ có độ mặn 5 – 10‰. Ôxy hòa tan được cung cấp bổ sung bằng cách bật quạt nước, mỗi ao nuôi được lắp đặt 2 hệ thống quạt 6 cánh ngay từ tháng nuôi thứ 2. Hàng ngày quạt nước thường được bật ngay từ 21 giờ đêm cho đến 6 giờ sáng hôm sau, trong những ngày thời tiết thay đổi quạt còn được bật ngay cả ban ngày vừa để cung cấp ôxy hòa tan vừa thoát khí độc ra khỏi ao nuôi.

Thức ăn: Thức ăn được dùng cho cá điêu hồng là thức ăn viên nổi có hàm lượng đạm 30 – 35%. Một điểm khác biệt ở đây là tôm thẻ chân trắng trong mô hình được cho ăn thức ăn vịt đẻ hàm lượng đạm 18 – 19% (thức ăn có hàm lượng đạm ít hơn so với các mô hình thông thường).

Cho ăn: Hàng ngày cho ăn 2 lần vào 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.

Chăm sóc: Sử dụng chế phẩm vi sinh có chứa các chủng loại vi khuẩn có lợi như Bacillus sp., Notrosomonas sp., Nitrobacter sp. Bổ sung 1 lần/tháng trong 2 tháng nuôi đầu và 1 lần/2 tuần trong tháng nuôi cuối. Ngoài ra, cũng cần định kỳ bổ sung mật  rỉ đường. Do nhu cầu độ kiềm cao của tôm thẻ chân trắng khi nuôi trong nước ngọt nhằm tránh hiện tượng mềm vỏ nên sử dụng Dolomite được bón định kỳ 2 lần/tháng.

Trong quá trình nuôi thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, ôxy hòa tan được đo 2 lần/ngày vào 6 giờ sáng và 2 giờ chiều, các yếu tố khác như độ mặn, N-NO2, NH2, được đo 1 lần/tuần. Tốc độ sinh trưởng của cá, tôm được kiểm tra định kỳ 1 lần/2 tuần để kịp điều chỉnh lượng thức ăn. Thời tiết nắng nóng chú ý bật quạt nước đều và nâng mức nước lên vào những ngày lạnh.

Thu hoạch và kết quả

Nuôi cá trong vòng 6 tháng đạt cỡ > 800 g/con, nuôi tôm chung với cá trong vòng 3 tháng (một vụ cá kết hợp 2 vụ tôm) đạt cỡ 40 – 60 con/kg, trong khi đó nuôi hoàn toàn tôm thẻ chân trắng cùng thời gian, cho kết quả đạt 60 – 80 con/kg.  Mặc dù, ở mô hình nuôi tôm kết hợp cá diêu hồng này đã sử dụng thức ăn thấp đạm (sử dụng thức ăn nuôi vịt đẻ), cho thấy đây là ảnh hưởng tích cực của việc kết hợp giữa cá điêu hồng với tôm thẻ chân trắng, đã tạo môi trường sinh thái thích hợp cho tôm phát triển, hơn nữa, thức ăn có hàm lượng đạm thấp nhằm mục đích sử dụng triệt để nguồn dinh dưỡng trong ao nuôi, tạo điều kiện cho vi sinh vật có lợi phát triển.

Trong quá trình nuôi, tôm nuôi không bị dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp, giảm chi phí thuốc và hóa chất của mô hình lên tới 30% và mang lại hiệu quả kinh tế tăng đến hơn 2,8 lần. Với mô hình này đã đem lại hiệu quả kinh tế 124 – 126 triệu đồng/1.000 m2ao nuôi.

Tuy nhiên, trong mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng kết hợp với cá điêu hồng cũng xuất hiện một số hạn chế cần khắc phục như: Tôm hay bị bệnh mềm vỏ do nước ngọt thường có độ kiềm thấp nên cần tăng cường bổ sung Dolomit cho ao nuôi; chất lượng cá điêu hồng giống thường bị hạn chế về màu sắc và gặp khó khăn trong việc tìm con giống sớm do ảnh hưởng của không khí lạnh khu vực phía Bắc; các hộ nuôi thường thu cá thương phẩm đồng loạt do ảnh hưởng của mùa vụ khi thu hoạch nên phần nào đã bị tác động của thị trường tiêu thụ (cung vượt cầu). Từ đó khiến giá bán không ổn định, thu nhập của người nuôi bấp bênh.

Nguồn: Tạp chí thủy sản VN được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Tại sao nhiều cá hồi nuôi bị mất thị lực vào mùa hè?

Cá hồi nuôi thường bị mất thị lực vào mùa hè vì đục thủy tinh thể làm đôi mắt không trong suốt. Điều này xảy ra khi nhiệt độ tăng, các nhà khoa học tại NIFES đã tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa sự tăng lên của nhiệt độ và chứng mù ở cá hồi.

Đục thủy tinh thể là một rối loạn mắt có thể ảnh hưởng đến cả người và cá. Mắt cá nên mờ  dần cho đến khi nó không còn trong suốt. Đây là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng đối với cá hồi nuôi.

Nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu dinh dưỡng và nghiên cứu hải sản quốc gia (NIFES) cho biết: “Trường hợp xấu nhất là tầm nhìn của cá bị suy yếu đến nỗi không thể nhìn thấy thức ăn, ngừng ăn uống và ngừng phát triển.”

Thủy tinh thể của mắt là một quả cầu nhỏ trong suốt, không khác gì lòng trắng quả trứng, nó cũng bao gồm các protein trong suốt. Khi các protein bị phá hủy chúng chuyển sang màu trắng, và mất đi sự trong suốt của nó.

Cá hồi không thích nước ấm

Nguy cơ mù của cá Hồi sẽ cao hơn vào mùa hè, do nhiệt độ đại dương cao hơn.

“Vì cá hồi lạnh, nhiệt độ cơ thể cũng giống như nhiệt độ của nước. Nhiệt độ tối ưu cho cá hồi Đại Tây Dương là khoảng 13oC. Nếu nó nóng hơn, cá hồi sẽ không hoạt động tốt và có nguy cơ mắc bệnh đục thủy tinh thể cao hơn ”, nhà khoa học NIFES nói.

Trong tự nhiên, cá hồi hoang dã có thể di chuyển đến những vùng nước sâu hơn và lạnh hơn khi nhiệt độ tăng, nhưng điều đó không làm được với cá hồi nuôi trong lồng bè ở ngoài biển.

Nguyên nhân ảnh hưởng đến thủy tinh thể

Trong một nghiên cứu gần đây đã được công bố, các nhà khoa học thấy rằng có một số thay đổi xảy ra trong mắt cá khi nhiệt độ nước tăng. Một thay đổi quan trọng là thủy tinh thể hết các chất chống oxy hoá. Các chất chống oxy hoá bảo vệ mắt khỏi hư hỏng, và khi không có đủ thì các protein sẽ bị phá hủy hình thành các đốm trắng trong mắt. Đây gọi là stress oxy hóa.

Tương tự như bị đục thủy tinh thể do tiểu đường

Đồng thời, thủy tinh thể thay đổi theo cách tương tự như những thay đổi nhìn thấy ở những người mắc đục thủy tinh thể do bệnh tiểu đường. Mức đường trong máu của cá hồi sống trong nước ấm tăng lên, và điều này có ảnh hưởng đến thủy tinh thể.

“Khi lượng đường trong máu tăng lên, lượng đường trong lens bị quá tải, và chúng ta thấy sự tích tụ của đường điều này gây ra vấn đề với sự cân bằng nước trong thấu kính.

Nhiệt độ ảnh hưởng đến sự cân bằng nước

Mắt phải chứa đúng lượng nước để được trong suốt. Nếu nó sưng lên hoặc khô ra, điều này có thể làm hỏng tế bào và dẫn đến sự hình thành đục thủy tinh thể. Các nhà khoa học gọi đó là áp suất thẩm thấu.

Các nhà khoa học nhận thấy rằng thủy tinh thể của cá hồi sống trong nước ấm có khả năng điều chỉnh sự cân bằng thấp hơn bởi vì chúng có ít osmolytes (chức năng của chúng là vận chuyển nước ra khỏi tế bào).

Histidine bảo vệ chống lại bệnh đục thủy tinh thể

Đục thủy tinh thể là vấn đề lớn trong nuôi trồng thủy sản trong 20 năm qua. Trước đó, các sản phẩm phụ từ động vật như bột máu đã được sử dụng trong thức ăn cho cá, nhưng nó  đã ngưng vào những năm 1990 do nguy cơ lây bệnh bò điên. Nếu thức ăn cá không có máu, và với ít bột cá thì cá hồi nuôi bị mất đi một nguồn quan trọng của histidine.

Histidine là một axit amin thiết yếu, có chức năng hình thành protein. Ngoài ra, axit amin này có thể hoạt động như một chất chống oxy hoá và osmolyte. Điều này có nghĩa là histidine có thể bảo vệ tế bào khỏi căng thẳng oxy hoá và giúp duy trì cân bằng nước trong thủy tinh thể, đó là lý do tại sao histidine có thể bảo vệ chống lại sự phát triển đục thủy tinh thể.

Bảo vệ cá hồi chống lại những thay đổi môi trường

Cá hồi phải nhận được đầy đủ acid amin là histidine cần để đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng thông qua thức ăn. Tuy nhiên, không phải tất cả các nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất thức ăn chứa đủ histidine. Các nhà khoa học tại NIFES trước đây đã phát hiện ra rằng cá hồi Đại Tây Dương cần khoảng hai lần nhiều histidine để giảm thiểu đục thủy tinh thể.. Tuy nhiên, điều này không phải là yếu tố đủ để loại bỏ đục thủy tinh thể.

Nguồn: NIFES được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Đặc điểm sinh học của cá khế vằn

1. Đặc điểm hình thái

Thân cao, hình quả trám, dẹp hai bên, trán dốc phía trên mắt tạo thành hình rất cong. Vây lưng thứ hai có 1 tia cứng và 19 – 20 tia mềm. Gốc vây hậu môn ngắn hơn gốc vây lưng. Vây ngực hình lưỡi liềm. Đường bên phía trước cong đến mút cuối vây ngực. Phần thẳng bắt đầu từ dưới tia vây mềm 6 – 7 của vây lưng thứ hai. Cá thể trưởng thành có nhiều đốm đen trên thân.

Cá khế vằn

2. Đặc điểm phân bố

Thế giới: Vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới ấn Độ-Thái Bình Dương. Đông Phi, Hồng Hải. Nhật Bản, Trung Quốc, Inđônêxia, Philippin

Việt Nam: Phân bố Khánh Hòa, vùng biển đảo Phú Quốc, Kiên Giang…

3. Đặc điểm dinh dưỡng

Cá khế vằn sử dụng hàm có thể căng ra để hút con mồi từ cát hoặc rạn san hô và ăn nhiều loại cá, giáp xác và động vật thân mềm.

4. Đặc điểm sinh trưởng

Môi trường sống là tầng nổi trên cát và đá, thường gặp nhất ở vùng biển ven bờ với độ mặn thấp: san hô, đầm phá, bãi triều, có khi hướng ra biển với độ sâu 80m. Cá có chiều dài 4cm có màu vàng với 9 sọc tối, cá càng lớn tốc độ tăng trưởng nhanh hơn.

5. Đặc điểm sinh sản

Cá thành thục sinh dục có chiều dài từ 54 – 61cm ở 3 – 4 tuổi. Cá thường đẻ trứng xung quanh các rạn san hô. Mỗi cá thể đẻ trứng nhiều lần trong từng chu kì. Chúng tập hợp đẻ trứng vào ban đêm tại những thời điểm khác nhau trong năm trên toàn phạm vi của nó. Tỷ lệ giới tính cá đực và cá cái ở quần đàn 1:1.

Cá khế vằn sinh sản theo tháng có khí hậu ấm

Tổng hộ bởi Farmtech Vietnam.

Quy trình trồng rong sau đó diệt rong làm thức ăn cho tôm

“Kỹ sư nuôi rong” là tên gọi vui mà bà con đặt cho anh nông dân Lê Ngọc Giao, ấp Đất Sét, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân.

Trong khi nhiều người nuôi tôm thường lạm dụng hoá chất, thì anh Giao lại đi từ yếu tố căn bản là tạo môi trường tự nhiên bằng vi sinh, chế phẩm sinh học. Mất nhiều thời gian tìm hiểu và thực hiện quy trình nuôi rong, rồi lại diệt rong trong đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến, anh Giao chia sẻ , đây là khâu quan trọng trong quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến nước tĩnh bền vững. Con tôm cần nhất 3 yếu tố: có thức ăn để sống, có ôxy để thở và môi trường sống rộng rãi, trong lành. 17 năm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thức ăn thiên nhiên không còn, vì vậy đòi hỏi phải tạo nguồn thức ăn cho tôm đối với nuôi quảng canh cải tiến và quảng canh truyền thống.

Anh Lê Ngọc Giao (bìa phải) thường xuyên trao đổi, hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm quảng canh cải tiến cho bà con nông dân

“Yếu tố quan trọng là phải khôi phục các yếu tố tự nhiên, đảm bảo môi trường vì môi trường nước nuôi tôm hiện nay ít nhiều bị ô nhiễm vì chất thải chính từ nuôi tôm và các chất thải công nghiệp khác, thải ra, lấy vào đều bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, bà con thường nóng vội, thả tôm rất dày, có khi chỉ 1 ha nhưng thả đến cả trăm ngàn con giống, vậy mà chừng 2 tháng lại tiếp tục thả nối đuôi. Quá dày, không đủ thức ăn, phát sinh bệnh tật, hậu quả là… thất bại”, anh Giao khẳng định.

Với suy nghĩ làm cách nào vừa có thức ăn tự nhiên cho tôm, vừa cải thiện được môi trường bền vững, với kiến thức tích luỹ được và dựa trên quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến của ngành chuyên môn, anh Giao xây dựng một quy trình nuôi tôm “quảng canh cải tiến bền vững” cho mình và chia sẻ cho bà con xung quanh cùng thực hiện. Nhiều hộ được anh hướng dẫn áp dụng đã thành công ngay vụ nuôi đầu tiên.

Quy trình bền vững

Quy tắc chung của quy trình này là đảm bảo 3 yếu tố: thứ nhất là nuôi thưa, chỉ 1-2 con/m2 để đảm bảo môi trường sống đủ ôxy và thức ăn, hạn chế bệnh tật cho tôm; thứ hai là tạo thức ăn cho tôm nuôi bằng giải pháp tự nhiên. Có thể tận dụng rạ lúa, cỏ khô để thả xuống vuông. Khi cây cỏ phân huỷ sẽ sinh ra các loại sinh vật làm thức ăn cho tôm. Đối với những khu vực vuông nuôi thiếu cỏ khô, gốc rạ như ở huyện Phú Tân hiện nay thì phải thực hiện quy trình tạo rong. Rong sẽ hút chất bẩn do quá trình nuôi tôm thải ra, góp phần cải thiện môi trường và cũng là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm khi rong chết đi.

Nuôi rong rồi diệt rong làm mồi cho tôm đang được áp dụng rộng rãi trong mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến ở xã Phú Thuận, huyện Phú Tân

Để tạo rong thì dùng chế phẩm sinh học và đạm vô cơ rải đều trên trảng, mỗi công đất chừng 1 kg. Chỉ rải trên một khu vực nhỏ trong vuông tôm thôi, rồi sau đó diệt đám rong này lại tạo rong chỗ khác. Nếu rong mọc hết vuông tôm không khéo tôm lại thiếu ôxy thì tác dụng ngược. Còn cách diệt rong thì dễ, có thể dùng men hoặc thuốc để cắt luồng rong. Rong phân huỷ sẽ tạo nên thức ăn cho tôm. Quy tắc chung là vậy, nếu vuông nuôi có thảm thực vật như cỏ hay năn thì sẽ thực hiện bằng cách khác.

Làm tốt công việc này cũng là đảm bảo cho yếu tố thứ 3 trong quy trình nuôi tôm bền vững, đó là đảm bảo môi trường. Anh Giao nói, trong quá trình cải tạo ao đầm không được dùng hoá chất mà phải sử dụng chế phẩm sinh học, vi sinh. Chỉ sử dụng hoá chất lúc cải tạo ban đầu và diệt tạp.

Vụ nuôi theo quy trình này kéo dài 1 năm, bắt đầu từ khoảng tháng 5 âm lịch hằng năm. Ban đầu phải cải tạo ao đầm triệt để, diệt cá tạp và phơi đất khô. Tiếp đó hứng nước mưa và thực hiện việc tạo rong. Sau đó diệt rong để tạo thức ăn cho tôm rồi tiến hành xử lý nước bằng thuốc diệt khuẩn, tro trấu, khoáng, men vi sinh và thả tôm nuôi. Tôm hầm đất là phù hợp, thả ban đầu khoảng 1 con/m2, sau đó thả bổ sung hằng tháng. Cứ thế, khi lứa nào thu hoạch được thì thu hoạch và thả giống bổ sung nhưng phải đảm bảo mật độ khoảng 2 con/m2. Hằng tháng phải tạt men vi sinh bổ sung trong quá trình nuôi. Điểm đáng lưu ý là nuôi theo quy trình này thì rất ít thay nước, chủ yếu là lấy nước thêm khi mực nước trên ao đầm hụt đi.

Hiệu quả…

Ở ấp Đất Sét và là một trong những hộ được anh Giao hướng dẫn thực hiện nuôi theo quy trình này, đã đạt hiệu quả ngay vụ đầu tiên, ông Tô Ngọc Đẹp cho rằng: “Trước đây, nuôi truyền thống trúng lắm cũng khoảng 50 triệu đồng/ha/năm, thậm chí mấy năm gần đây tôm chết hoài. Bây giờ nuôi theo quy trình này mà thu nhập 50 triệu đồng/ha coi như là thất”.

Ông Phạm Hoàng Phương ở cùng ấp cũng áp dụng theo quy trình này từ giữa năm 2016 trên diện tích 3 ha của gia đình mình. Mức thu nhập đến nay của gia đình đã vượt ngưỡng 100 triệu đồng/ha. Không giấu được sự vui mừng, ông Phương cho biết: “Yếu tố quan trọng là sử dụng các giải pháp hoàn toàn tự nhiên nên tôm nuôi rất mạnh và ổn định, lớn nhanh”.

Hơn 20 hộ dân ở ấp Đất Sét, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân thực hiện theo quy trình này đều có hiệu quả ban đầu. Tất cả bà con đều vô tổ hợp tác để thuận tiện thông tin, trao đổi lẫn nhau. Có lúc thông tin qua điện thoại, có lúc trực tiếp.

Là nông dân thực thụ nhưng anh rất thuần thục cách sử dụng vi sinh, khoáng… Kiểm tra dấu hiệu trên tôm, anh biết nó thiếu thức ăn hay chậm lớn do nguyên nhân gì, từ đó bày cho bà con cách xử lý phù hợp. Anh nhiệt tình đi từ cánh đồng này đến ruộng nọ, từ nhà nọ đến nhà kia để hướng dẫn bà con cách nuôi tôm quảng canh cải tiến bền vững.

Vừa qua, được ngành chuyên môn hỗ trợ để thực hiện quy trình nuôi tôm quảng canh cải tiến nước tĩnh cho 5 hộ, anh Giao lồng ghép thực hiện luôn quy trình của mình. Kết quả, 3 hộ thành công do thực hiện đúng quy trình. Thu hoạch bình quân hơn 100 triệu đồng/ha. 2 hộ thành công chưa cao do thực hiện sai, thả tôm quá dày nên không đủ ôxy, thức ăn.

Kỹ sư Nguyễn Văn Lương, Trạm Khuyến nông huyện Phú Tân, cho biết: “Về cơ bản quy trình nuôi tôm của anh Giao áp dụng không khác so với quy trình khuyến cáo của ngành chuyên môn nhưng có cải tiến theo hướng phù hợp điều kiện đất đai và thực tế từng vuông nuôi. Điểm quan trọng là nuôi thưa và tạo môi trường tự nhiên lý tưởng cho tôm nuôi sinh sống và có thức ăn, ít thay nước”.

…và nhân rộng

Tiếng lành đồn xa, nhiều bà con ở xã Tân Hưng Tây, Phú Tân, Việt Thắng… đến tìm hiểu, nhờ anh Giao hướng dẫn thực hiện mô hình quảng canh cải tiến bền vững này. Trong đó có cả những người đã từng nuôi công nghiệp thất bại nay muốn trở về mô hình nuôi bền vững hay những nông dân từng nuôi quảng canh truyền thống, giờ muốn nâng cao hiệu quả sản xuất.

Ông Lê Văn Sơn, ấp Tân Phú, xã Phú Tân, huyện Phú Tân, mấy năm nay tôm thất liên tục. Được anh Giao chuyển giao và hướng dẫn kỹ thuật nuôi quảng canh cải tiến ít thay nước, ông nuôi được hơn 8 tháng, 5 tháng nay đã thu hoạch dần, mỗi tháng cũng hơn chục triệu đồng.

Ông Hồ Hởi, Phó chủ tịch UBND xã Phú Thuận, cho biết: “Xã vừa phối hợp ngành chuyên môn tổ chức hội thảo về mô hình này. Bà con phấn khởi lắm bởi đã có hướng đi cho người nuôi tôm ít vốn, ít kỹ thuật nhưng đất đai rộng. Xã cũng đưa vào kế hoạch trình cấp trên nâng lên thành hợp tác xã để bà con áp dụng mô hình cánh đồng lớn”. “Phải nhân rộng” là câu khẳng định của lãnh đạo xã này, của ngành chuyên môn và nhiều nông dân khác. Đây cũng là điều kiện góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng bền vững, giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu trong điều kiện hiện nay.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Tại sao thịt cá lại có nhiều màu sắc khác nhau?

Từ màu đỏ đến màu trắng, từ màu cam cho đến màu xanh, thịt cá có thể rơi vào bất kỳ chổ nào trên thang đo màu sắc. Đằng sau sự khác nhau về màu sắc của từng loại thịt cá là gì? Chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài viết này.

Nếu bạn là người đam mê ẩm thực Nhật Bản, đặc biệt là các món ăn từ cá sống như sushi hay sashimi thì chắc hẳn bạn sẽ nhận ra sự phong phú về màu sắc của từng loại thịt cá khác nhau xuất hiện trong các món ăn này. Có rất nhiều nguyên nhân làm cho màu sắc thịt cá khác nhau có thể từ gen cho đến các sắc tố mật. Ngoài ra, môi trường sống của cá, sự vận động và đặc điểm thức ăn của cá cũng góp phần làm cho thịt cá có nhiều màu sắc khác nhau.

Màu sắc khác nhau của thịt cá. Theo thứ tự từ trái qua phải là thịt cá ngừ vây vàng, cá hồi chinook, cá tuyết lingcod và cá bơn Thái Bình Dương .

Thịt đỏ của cá ngừ vây vàng

Cá ngừ vây vàng được xem là Michael Phelps trong thế giới loài cá bởi khả năng vận động và bơi lội cừ khôi của chúng. Chính sự vận động và bơi lội tuyệt vời của cá ngừ vây vàng làm cho thịt của chúng có màu đỏ tươi.

Thịt màu đỏ tươi của cá ngừ vây vàng

Bruce Collette, nhà động vật học thuộc Trung tâm Dịch vụ Biển Quốc gia cho biết cá ngừ vây vàng cần rất nhiều oxy để phục vụ cho khả năng bơi lội và vận động với cường độ cao của nó. Một protein gọi là myoglobin chứa oxy và hoạt động như sắc tố, chuyển màu thịt của đa số các loài cá ngừ, và các loài cá sống đại dương khác như cá mập mako và cá kiếm, thành màu đỏ hơi hồng.

“Điều đó cũng đúng đối với các động vật trên cạn: Nếu chúng hoạt động nhiều, chúng có nhiều myoglobin hơn và thịt chúng có màu đậm hơn”, Collette nói. Michaeleen Doucleff cho rằng, hoạt động của cơ quá nhiều cũng làm cho thịt cá cứng hơn và gây khó khăn trong việc vận động. Điều này giải thích vì sao phần bụng của cá ngừ vây vàng rất mềm, giúp chúng cử động cơ thể dễ dàng hơn.

Màu thịt cá ngừ càng đỏ thì càng tươi ngon, tuy nhiên cần lưu ý là một số người buôn bán thủy sản bất lương dùng khí CO để gia tăng màu đỏ của thịt cá ngừ. Phương pháp này giúp cho màu thịt cá ngừ từ hơi nâu của cá không được tươi trở thành màu đỏ tươi ngon. Việc này là bất hợp pháp ở một số quốc gia như Singapore, nhưng ở Mỹ thì không. Vì thế hãy cảnh giác với những miếng cá ngừ có màu đỏ anh đào giống như thật – thịt nó có thể không tươi như quảng cáo.

Thịt trắng của cá bơn Thái Bình Dương

Trong khi màu thịt đỏ sẫm có liên quan đến những loài cá thương xuyên vận động và bơi quãng đường xa, màu thịt quá trắng, gần như không màu của một số loài cá là dấu hiệu của những loài cá ít vận động.

Thịt màu trắng của cá bơn Thái Bình Dương

Cá bơn Thái Bình Dương có cơ thịt dày và trắng nhìn rất ngon do xuất phát từ thói quen vận động của chúng. Loài cá này thường dành hết thời gian hàng ngày bơi một cách chậm chạp hoặc nằm nghỉ dưới đáy biển – ngược lại hoàn toàn với cá ngừ.

Khi thịt cá bơn còn tươi sống, nó không thực sự trắng mà hơi bóng và gần như trong suốt. Nhưng sau khi nấu làm cho protein trong thịt đông lại, tạo ra màu thịt trắng như tuyết và cơ thịt chắc mà chúng ta thường gọi là “cá thịt trắng”. Một quá trình tương tự cũng xảy ra ở tất cả các động vật trên cạn lẫn dưới nước. Điều này giải thích tại sao thịt cá ngừ biến thành màu xám khi nấu nướng, trong khi thịt cá hồi biến thành màu hồng nhạt, và thịt bò biến thành màu nâu.

Thịt màu cam của cá hồi chinook

Thịt cá hồi chinook có màu cam hơi hồng, đó là do sự kết hợp của gen và thức ăn của chúng. Milton Love, nhà sinh vật học tại Đại học California, cho biết khi cá hồi ăn tôm krill, loại thức ăn chính của nó, các sắc tố gọi là carotenoid trong loài giáp xác này làm cho thịt cá hồi có màu cam.

Thịt màu cam của cá hồi chinook

Thế nhưng, tại sao điều này không xảy ra đối với tất cả các loài cá ăn tôm krill khác? Milton Love giải thích rằng cá hồi có chứa “gen màu” cho phép carotenoid biểu hiện trong cơ thịt của nó.

Tuy nhiên, trong số các loài cá hồi như Chinook, cá hồi king, cá hồi salmon một số cá thể thiếu “gen màu”, kết quả là đôi khi thịt của những loài cá hồi này có màu hơi xám. Những con cá hồi thịt màu xám này gọi là “vua ngà” (ivory kings) có giá bán cao hơn trên thị trường, tuy nhiên rất khó bán do người tiêu dùng thích cá hồi thịt đỏ hơn.

Thịt màu xanh của cá tuyết lingcod

Mặc dù thịt thường có tông màu trắng giống cá bơn hay cá tuyết khác, thịt cá lingcod, loài cá sống đáy ở Bờ Tây trông có vẻ như nó được nhuộm qua đêm trong khay thuốc nhuộm màu xanh.

Milton Love viết trong sách của ông rằng màu của sắc tố mật được gọi là biliverdin dường như chịu trách nhiệm trong việc chuyển hóa huyết thanh của những con cá này thành màu xanh gây kinh ngạc – nhưng làm thế nào sắc tố này đi vào cơ thịt cá, hoặc tại sao chỉ một số cá lingcod chuyển màu vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà sinh học.

Thịt màu xanh của cá tuyết lingcod

Lingcod – thành viên của họ cá xanh (greenling family), không phải là loài cá phân bố ở khu vực Bờ Tây duy nhất có màu thịt xanh. Các loài cá cùng họ khác như rock greenling và kelp greenling, thỉnh thoảng thịt của chúng có màu xanh ngọc lam.

Tom Worthington, đồng sở hữu của chợ cá Monterey ở San Francisco cho rằng thịt cá màu xanh ngọc lam có mùi vị tương tự như cá màu thịt trắng. Trong khi nấu nướng, màu xanh sẽ biến mất hoàn toàn. Những người có đủ may mắn bắt gặp một miếng philê thịt xanh có thể bị thu hút bởi sự hấp dẫn về mặt thẩm mỹ của nó. Worthington nói philê cá lingcod thịt xanh bán chạy hơn cá philê thịt trắng cùng loài.

Tóm lại, màu sắc của thịt cá phụ thuộc vào nhiều đặc điểm như sự vận động, loại thức ăn, sắc tố mật và cả gen di truyền.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ép cân và những lưu ý khi ép cân cho cá

Phương pháp ép cân hay còn gọi “tập thể dục cho cá” có lợi ích cho chất lượng cá ngon hơn, các mô mỡ giảm dần hệ cơ vận động săn chắc, bán giá cao hơn do cá được ép cân dáng vẻ thon tròn và da láng bóng.

 

Phương pháp cho cá tập thể dục

Anh Cao Xuân Kiền ở bến phà Phú Hậu, xóm 9, xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam dùng phương pháp ép cân cho cá lăng đen. Cá sau khi được ép cân trong 30-40 ngày thì giảm khoảng 800g/con, lúc đó ruột cá rất sạch, thịt săn, bụng không còn mỡ. Những con cá khi mang đi ép cân hoàn toàn không ăn gì trong những ngày này, thế nhưng đến lúc bán cá vẫn khỏe.

Một con cá lăng đen giống, anh Kiền nuôi khoảng 2 năm đạt từ 3-4 kg, có con đột biến thì được 5kg. Nguyên tắc ép cân của anh Kiền: giảm ăn, ngưng ăn và tăng cường vận động

Kỹ thuật ép cân cho cá

Để ép cân cho một con cá lăng đen, anh Kiền phải nghiêm khắc luyện tập cho chúng từ 20-40 ngày, gồm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1:

Giảm ăn: Trước khi thực hiện ép cân từ 3-5 ngày giảm ăn theo tỷ lệ phần trăm khối lượng vì dụ ngày đầu tiên giảm nửa bao, ngày 2 giảm 1 bao cứ thế tăng dần tập cho cá thói quen nhịn ăn, bởi nếu đột ngột cá sẽ sốc và chết.

Lựa chọn và nuôi tách riêng những con cá có cùng độ tuổi, cùng kích cỡ ở dưới lồng nuôi cho riêng vào một cái lồng ép nhỏ ở bè, lúc cá được chuyển sang ô lồng mới cá sẽ được nhịn ăn hoàn toàn.

Vài ngày sau rắc 1kg muối trắng vào bể khoảng 2 khối nước, sau đó dội nước trực tiếp vào cá để chúng vận động thải hết thức ăn từ trong ruột ra và sát trùng để cá không bị lở loét.

Hàng ngày những con cá này đều được “đánh dẻo” theo đúng số lần và thời gian quy định. Cách đánh dẻo cho cá: mỗi ngày kéo lưới ở lồng nuôi cá lên lửng 2 lần để cá vận động nhiều hơn. Trước khi đánh dẻo phải cho cá nghỉ ăn 2 ngày để cá vận động nhiều không bị chết, nếu cá ăn no mà kéo dẻo liền thì cá chết ngay.

Giai đoạn 2:

Sau gần nửa tháng huấn luyện, anh tiếp tục vận chuyển những con cá này về bể đặt ở nhà rồi tiếp tục cho cá nhịn ăn trên 10 ngày xong mới đem bán. Cá thả tại bể được dùng bằng nước máy đã khử clo, mỗi ngày anh đều thay nước trong bể 1 hoặc 2 lần.

Hằng ngày tiếp tục tập thể dục cho cá bằng cách sục nước lùa cá bơi quanh bể, đồng thời cho 1 lượng muối nhỏ (2m3 nước dùng 1kg muối) để khoảng 15 phút rồi thay nước.

Cá sau khi bị ép cân sẽ hao hụt trọng lượng. Tuy nhiên, khi ép thành công, giá bán sẽ tăng gấp đôi nên lợi nhuận vẫn rất cao.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp phát hiện sớm bệnh trên tôm với chi phí rẻ

Một công ty công nghệ sinh học Nhật Bản đang hợp tác với các nhà nghiên cứu tại Đại học Tohoku để phát triển một giải pháp có thể phát hiện nguyên nhân gây hội chứng tử vong sớm (EMS) ở tôm nuôi và các bệnh khác trên tôm. Được thực hiện tại ao, nhanh chóng và chính xác nhưng chi phí cực kỳ hợp lý.

Tohoku Bio-Array, còn được gọi là Công ty TBT và Đại học Tohoku ở thành phố Sendai, Nhật Bản, sẽ cùng nhau phát triển xét nghiệm di truyền để cho phép phát hiện sớm các bệnh truyền nhiễm trong tôm nuôi, được báo cáo trên Nippon Keizai Shimbun vào ngày 5/6 vừa qua. Mục đích chính của phương pháp này là nhanh chóng phát hiện ngay tại ao nuôi tôm.

Để sử dụng bộ kit, tôm được nghiền sau đó pha trộn rồi đưa qua phản ứng PCR được gắn nhãn để khuếch đại gen của virut. PCR là một kỹ thuật sao chép một vài bản sao của một đoạn DNA, để sản xuất hàng ngàn (hoặc hàng triệu bản sao). Sau đó, một dải thử nghiệm – một màng có dãy DNA in trên nó – được nhúng trong dung dịch, và một đường màu xanh xuất hiện nếu kết quả dương tính, và có thể được xác nhận trực quan. Các xét nghiệm cho ba hoặc bốn bệnh, bao gồm cả EMS, có thể được bao gồm bằng 1 xét nghiệm duy nhất.

Một máy xử lý là cần thiết để khuếch đại gen, nhưng giá mỗi lần xét nghiệm dự kiến sẽ chỉ khoảng 5-10 USD (từ 4,50 đến 9 EUR). Việc chẩn đoán có thể được thực hiện trong khoảng một giờ để nông dân có cơ hội thu hoạch ao sớm hoặc dừng ao nuôi mới nhằm giảm tổn thất nếu có kết quả dương tính.

Xét nghiệm di truyền chuẩn đoán bệnh trên tôm không phải là mới. Nó đã có thể được thực hiện với chi phí cao hơn một chút so với các thử nghiệm này. Và phương pháp thông thường vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm để thử nghiệm thì nông dân phải đợi ít nhất vài ngày mới có kết quả.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Cá tai tượng – loài cá phát tài

Cá tai tượng – một loài cá xương nước ngọt thuộc họ Osphronemidae, sống ở vùng nước lặng, nơi có nhiều cây thuỷ sinh. Đây là loài cá đặc trưng cho vùng nhiệt đới, phân bố ở vùng đồng bằng Nam Bộ Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào.

Tại Việt Nam cá tai tượng phân bố tự nhiên ở sông Đồng Nai. Đây là loài cá có khả năng thích nghi đặc biệt với điều kiện khắc nghiệt của môi trường.

Cá tai tượng

1. Môi trường sống của cá tai tượng

Cá tai tượng sống ở ao hồ, đầm nước ngọt cá có cơ quan hô hấp nên cá sống được ở nước tù, thiếu oxy.

Cá cũng sống được ở nước lợ, ngưỡng nhiệt độ 16 – 42 °C, sinh trưởng tốt ở 25 – 30 °C  ở nhiệt độ thấp hơn cá thường hay bị bệnh. Độ PH thích hợp là 5. Chúng có thể sống được trong môi trường nước ao dơ bẩn, thiếu oxy nhờ cơ quan hô hấp phụ nằm ở cung mang thứ nhất

Cá tai tượng được nuôi trong hồ kiếng

So với cá sặc rằn và cá rô phi thì khả năng chịu lạnh của cá tai tượng kém hơn, nhưng khả năng chịu nóng lại cao hơn.

2. Đặc tính sinh sản

Nên có sẵn một hồ kiếng khá rộng cho một cặp cá Tai Tượng Phi Châu vào đẻ. Trong hồ ta nên đặt sẵn một cục gạch thẻ theo thế đứng để làm ổ cho cá đẻ lên đó.

Cặp cá mái Tai Tượng thả vào hồ chúng có thể bơi lội nhởn nhơ bình thường. Nhưng một lúc nào đó ta thấy hai con trượt đuổi nhau, cắn mổ nhau, húc đầu vào nhau, cá trống tìm cách khống chế cá mái bắt cá mái phải phục tùng… đó là dấu hiệu báo cho ta biết cá sắp đẻ trứng.

Khi đẻ, trứng nằm theo từng hàng trên viên gạch, không đẻ một lần liên tục mà chia ra nhiều lần. Mỗi lần cá mái thở là nó lại đẻ tiếp một đợt trứng. Có cái khéo léo là các trứng không nằm đè lên nhau. Khi cá mái đẻ xong, cá trống liền tới thụ tinh cho ổ trứng, nó rưới lên trứng một chất nhão đó là tinh trùng…

Và cũng như thói quen của cá Dĩa, trống mái Tai Tượng cũng lẩn quẩn quanh ổ trứng vừa canh trứng vừa dùng vi quạt trứng như một hình thức ấp trứng để nước dao động quanh trứng, cung cấp dưỡng khí cho trứng…

Khoảng một ngày sau đó trứng nở. Cá con vẫn bám chặt vào ổ như vậy suốt ba bốn ngày. Và trong thời gian này, cá cha mẹ vẫn siêng năng ở bên cạnh để canh giữ

Nuôi dưỡng cá con: Mới ra đời, cá con chưa biết ăn, chúng sống được nhờ thức ăn dự trữ trong thân chúng. Sau bốn ngày tuổi, cá con mới rời ra khỏi ổ trứng và lúc này mới biết bơi. Cá con Tai Tượng Phi Châu mới nở rất lớn và ăn các loại thức ăn nhỏ như lòng đỏ trứng gà…… Sau khoảng một tuần cá có thể ăn trùn chỉ,cám..

3. Tập tính của cá Tai Tượng

Cá tai tượng có thể ăn bất cứ gì mà người nuôi cho vào cho chúng ăn. Cá rất tham ăn vì thế các bạn lưu ý cho cá ăn vừa phải tránh cá bị sình bụng do ăn quá nhiều

Cá tai tượng rất tham ăn

Cá Tai Tượng có thể ăn các loại cá con vì thế tránh nuôi cá tai tượng chung với các loại cá nhỏ khác trong cùng một hồ nuôi. Cá khá dữ và hay đánh cũng như ăn thịt các loại cá cảnh khác trong cùng một bể chỉ nuôi cá với các loại cá có tập tính tương đương như Hồng két, đầu bò hoặc nuôi riêng lẻ.

4. Thị trường mua bán, giá bán cá tai tượng

– Giá trung bình (VND/con):20000
– Giá bán min – max (VND/con):10.000 – 4.000.000

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Những khoáng chất nào cần cho tôm?

Khoáng có vai trò hết sức quan trọng đối với động vật thủy sản, vì nó tham gia trực tiếp vào các quá trình sinh tổng hợp diễn ra bên trong cơ thể vật nuôi.

Do đó, làm thế nào để giúp động vật thủy sản hấp thu đủ lượng khoáng, luôn là vấn đề quan tâm của người nuôi. Khoáng là một nhóm các chất cần thiết và vật nuôi chỉ cần một lượng nhỏ, nhưng nếu thiếu chúng sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh trưởng và phát triển của vật nuôi. Hiện nay, người ta đã xác định được 16 nguyên tố khoáng đa lượng (Cu, Fe, Mn, Zn, Sn…) và 6 nguyên tố khoáng vi lượng (Ca, Mg, P, Na, K, Cl). Do động vật thủy sản sống trong môi trường nước, có thể hấp thu khoáng qua mang hoặc da, nên rất khó xác định chính xác nhu cầu khoáng. Tuy nhiên, nhu cầu khoáng của động vật thủy sản phụ thuộc vào 3 yếu tố:

• Tình trạng dinh dưỡng  của vật nuôi

• Thành phần và hàm lượng khoáng trong thức ăn

• Nồng độ khoáng trong môi trường nước.

Vai trò một số nguyên tố  Khoáng đối với động vật thủy sản

Trong nuôi trồng thủy sản, nhu cầu về các nguyên tố khoáng Sắt (Fe), Đồng (Cu), Kẽm (Zn), Canxin (Ca), Magie (Mg), Phosphorus (P) được quan tâm nhiều hơn.

Fe

Là thành phần cấu tạo nên Hemoglobin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên cá. Cá có thể hấp thu Fe qua môi trường, còn nếu bổ sung nên chọn muối có chứa ion Fe 2+ vì sẽ giúp cá dễ  hấp thu hơn. Thiếu sắt sẽ làm số lượng tế bào hồng cầu giảm, gan cá bị vàng. Các loại muối Fe được dùng phổ biến là Sắt (II) choloride (FeCl2), Sắt (II) Sulfat (FeSO4).

Cu

Là thành phần cấu tạo nên Hemocyanin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên Tôm, góp phần hình thành nên sắc tố melanin.Thiếu Cu tôm sẽ giảm sinh trưởng, giảm lượng Cu trong máu và gan tụy. Tôm có thể hấp thu Cu qua môi trường nước và trong bột cá. Loại muối bổ sung Cu được dùng phổ biến là CuSO4.

Zn

Kẽm giúp tăng khả năng vận chuyển CO2 trên động vật thủy sản, kích thích tiết acid chlohyride (HCl). Thiếu kẽm vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Loại muối thường dùng để bổ sung Zn là ZnSO4.

Ca

Là thành phần chủ yếu hình thành nên khung xương cá , duy trì áp suất thẩm thấu, tham gia cấu tạo vào chất dẫn truyền thần kinh. Cá có thể hấp thu Ca từ nước qua mang da, thiếu Ca sẽ làm giảm chức năng sinh sản trên cá. Cùng với Mg, Ca tham gia vào quá trình lột xác của tôm, nếu thiếu thì sẽ dẫn đến tôm không lột xác được, chậm lớn. Các muối thường dùng để bổ sung Ca là Calcium lactate (C6H10O6), Tri basic Calcium phosphate (Ca3(PO4)2), Calcium Cacbonate (CaCO3)…

Mg

Là chất xúc tác trong một số phản ứng quan trọng trong hệ thống enzyme. Tôm cá biển dễ hấp Mg từ môi trường nước. Thiếu Mg vật nuôi sẽ giảm ăn, tỉ lệ chết cao. Người ta sử dụng các muối MgSO4.7H2O, K2SO4.2MgSO4 để bổ sung khoáng cho vật nuôi.

P

Tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng, sinh trưởng, sinh sản và duy trì sự ổn định của pH trong ao nuôi. Cá tôm không thể hấp thu P qua môi trường nước mà hấp thu trực tiếp từ thức ăn. Khi thiếu P, vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, và làm tôm bị mềm vỏ. Do đó người nuôi hết sức lưu ý để bổ sung đủ lượng P cho tôm, cá. Các muối thường dùng để bổ sung P là: KH2PO4, NaH2PO4.

Kết luận

Tùy vào từng giai đoạn phát triển của vật nuôi mà nhu cầu khoáng cho từng giai đoạn sẽ khác nhau. Người nuôi cần chú ý sử dụng các muối có chứa các nguyên tố khoáng ở dạng dễ tan, để giúp vật nuôi hấp thu tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Con đường lây lan của dịch bệnh đốm trắng trên tôm

Những nghiên cứu cho thấy WSSV lây lan theo chiều ngang theo môi trường nước bởi sinh vật mang mầm bệnh (carriers) như: Vi tảo (microalgae), giun nhiều tơ (polychaete worms) và trứng của luân trùng (rotifer eggs).

1. Nghiên cứu của Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ (CIBA-ICAR) Ấn Độ

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên về giun nhiều tơ (Polychaete worms) là một vector thụ động của hội chứng đốm trắng cho tôm Sú bố mẹ (Penaeus monodon).

Nghiên cứu dựa trên những con giun nhiều tơ sống, Marphysa spp., Thu được từ các nhà cung cấp, ngư dân, cũng như các mẫu thu thập được từ 8 trạm trên bờ biển phía bắc của Tamilnadu (Ấn Độ). Tôm Sú bố mẹ với buồng trứng không phát triển, được thí nghiệm lây nhiễm WSSV bằng cách cho ăn giun nhiều tơ, loài này đã mang WSSV trước đó.

50% giun nhiều tơ có được từ các nhà cung cấp giun được phát hiện là dương tính WSSV bằng PCR 2 bước. Trong số 8 trạm nghiên cứu, 5 con giun dương tính với WSSV với tỷ lệ nhiễm từ 16,7 đến 75%. Giun nhiều tơ thu được từ các khu vực gần các trang trại nuôi tôm cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm cao hơn.

Các thí nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm đã khẳng định các quan sát được > 60% giun nhiều tơ tiếp xúc với WSSV được chứng minh là dương tính WSSV sau 7 ngày tiếp xúc. Người ta cũng xác nhận rằng tôm bố mẹ có thể bị nhiễm WSSV bởi thức ăn giun nhiều tơ mang mầm bệnh WSSV. Mặc dù nghiên cứu này chỉ cho thấy sự lây nhiễm ở mức độ thấp ở các loài thực vật hoang dã hoang dã nhưng các thí nghiệm này cũng cho thấy rõ ràng khả năng chuyển WSSV từ thức ăn sống sang tôm bố mẹ, giun nhiều tơ có thể đóng một vai trò trong dịch tễ học của WSSV.

Một số sinh vật mang mầm bệnh WSSV khác 

2. Nghiên cứu của Trường Đại học Thủy sản, Trung Quốc

Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bởi phương pháp PCR trong luân trùng và trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích ao nuôi tôm.

Vi rút hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bằng phương pháp PCR-dot blot hybridization trong trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích tôm nuôi tôm He Trung Quốc (Penaeus chinensis). Nó cũng được phát hiện trong luân trùng được nở từ những quả trứng đó. Kết quả cho thấy trứng nghỉ có thể là một vật mang cho WSSV trong ao nuôi tôm.

3. Thí nghiệm của Viện Hải dương học, Học viện Khoa học Trung Quốc

Nghiên cứu về sự lây lan của WSSV (virus hội chứng đốm trắng) ở tôm he Nhật Bản (Marsupenaeus japonicus) thông qua vi tảo biển.

Để chứng minh được khả năng vi tảo biển biển mang WSSV, 6 loài vi tảo biển (Isochrysis galbana, Skeletonema costatum, Chlorella sp., Heterosigma akashiwo, Scrippsiella trochoidea, Dunaliella salina) đã được nuôi cấy với tôm he Nhật Bản trưởng thành (Marsupenaeus japonicus). WSSV được khảo sát hàng ngày bằng PC-nested để nghiên cứu liệu chúng có thể mang WSSV hay không. Các thí nghiệm tiếp theo đã được tiến hành để điều tra xem vi khuẩn có mang vi khuẩn có thể tái nhiễm trên tôm con. Kết quả cho thấy rằng tất cả các vi tảo biển thực nghiệm, ngoại trừ H. akashiwo còn lại có thể mang WSSV, và trong số đó, Chlorella sp. và S. trochoidea có khả năng mang WSSV mạnh nhất. Không giống như những sinh vật mang không xương sống khác của WSSV, các phát hiện của WSSV trong vi tảo biển, có kết quả dương tính sau 1 và 3 ngày, âm tính sau 10 ngày nuôi cấy.

Kết quả phát hiện WSSV ở tôm M. japonicus cho thấy tôm đã bị lây nhiễm từ Chlorella sp. Mặc dù tôm M. japonicuschỉ mang một lượng WSSV nhỏ đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi nested-PCR. Kết quả của thí nghiệm này cho thấy vi tảo có thể là một con đường truyền tải ngang có thể cho WSSV. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về các yếu tố khả năng mang khác nhau và các cơ chế mang vi rút của các loài vi tảo khác nhau.

Nguồn: Aquaculture được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.