Phát triển tôm kháng bệnh cho thị trường Châu Á

Công ty Benchmark đã công bố sự phát triển tôm kháng bệnh cụ thể (SPR) sẽ giải quyết các vấn đề mà người nuôi tôm Châu Á đang đối mặt và tôm giống đã sẵn sàng cho sản xuất thương mại.

Phát triển tôm kháng bệnh cho thị trường Châu Á.

Châu Á sản xuất hơn 2.66 triệu tấn tôm thẻ chân trắng, trị giá khoảng 13 tỷ USD với tổng giá trị thị trường tăng trung bình 7% mỗi năm.

Bệnh trên tôm bao gồm White Spot (WSSV) và AHPND (trước đây gọi là Hội Chứng Tử vong Sớm – EMS), từng gây ra tổn thất hàng tỷ đô la mỗi năm cho ngành tôm toàn cầu. Riêng ngành tôm Châu Á đã phải chịu thiệt hại 22,5 tỷ đô la Mỹ từ AHPND trong giai đoạn 2009-2016.

Tôm của Benchmark đã chứng minh có sức đề kháng với các bệnh chính như: White Spot, Taura (TSV), NHP (Necrotising Hepatopitis), IHHNV và vibrio và có khả năng kháng AHPND.

Malcolm Pye, Giám đốc điều hành Benchmark cho biết:  “Trong vòng 20 năm, các đội của chúng tôi ở Colombia và Na Uy đã phát triển một loại tôm có khả năng kháng một số bệnh tôm chính. Chúng tôi đang chuyển sang giai đoạn thương mại hóa của công nghệ này đưa nó vào các thị trường sản xuất tôm lớn trên thế giới.”

Nguồn: Thefishsite được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vì sao tôm chậm lớn?

Tôm chậm lớn hay tôm còi ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của vụ nuôi do vậy cần theo dõi trọng lượng tôm hằng ngày để phát hiện kịp thời nguyên nhân làm tôm chậm lớn từ đó đưa ra giải pháp kịp thời.

Tác hại của tôm chậm lớn

1. FRC của tôm cao tốn kém thức ăn.

2. Tôm chậm lớn kéo dài thời gian thu hoạch làm tăng chi phí nuôi.

3. Làm giảm giá trị tôm nuôi, giảm năng suất sản lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân và cách phòng bệnh của tôm chậm lớn

1. Chất lượng con giống kém

Nếu nguồn giống bố mẹ cho đẻ càng nhiều lần thì chất lượng tôm giống càng kém hoặc tôm giống kém chất lượng do quá trình chăm sóc, vận chuyển chưa đúng cách. Do vậy phải lựa chọn tôm giống có chất lượng, tuyệt đối không thả giống trôi nổi trên thị trường.

Phương pháp lựa chọn tôm giống: Lựa chọn con giống của nhà sản xuất có uy tín. Xét nghiệm PCR và test khuẩn trên môi trường thạch. Nếu tôm không đạt chuẩn kiên quyết loại bỏ.

2. Tôm mắc bệnh còi MPV (Monodon Baculovirus) và HPV (Hepatopancreatic virus)

Dấu hiệu tôm bắt mồi kém, vỏ sậm màu, bơi lội lờ đờ, dễ bị ký sinh trùng hoặc rong bám, nặng hơn chết rải rác trong thời gian nuôi.

Chưa có biện pháp trị: Ngay khi phát hiện tôm bệnh phải bắt bỏ những con tôm bị còi ra khỏi ao bằng cách đặt chà ( dùng rò tre nhỏ bỏ cành cây lá khô, dụ bắt tôm còi)

Biện pháp phòng:

+ Không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh MBV.

+ Tẩy dọn ao, bể nuôi như phương pháp phòng chung. Thường xuyên diệt khuẩn môi trường ao nuôi.

+ Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Không để tôm sock trong quá trình nuôi.

+ Kiểm dịch nguồn tôm bố mẹ trước khi cho đẻ.

+ Xử lý nước nguồn nước kỹ trước khi ấp trứng thì có thể sản xuất được đàn tôm Postlarvae không nhiễm virus MBV.

3. Tôm bị bệnh phân trắng

Sau khi tôm bị mắc bệnh phân trắng nếu không kịp thời chữa trị tôm yếu dần khả năng hấp thu chất dinh dưỡng kém làm cho tôm bị chậm lớn.

Khi phát hiện tôm bị bệnh phân trắng cần có biện pháp điều trị kịp thời.

4. Vi bào từ trùng

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) ký sinh trong tế bào gan tụy của tôm, chúng sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan tụy khiến cho tôm nuôi không đủ dinh dưỡng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Phòng: Xét nghiệm con giống trước khi thả nuôi, tuyệt đối không để cua còng vào ao, diệt giáp xác thật kỹ khi thả nuôi.

Khuyến cáo: sử dụng vôi nóng (CaO) xử lý ao để có thể đạt độ pH đáy ao trong quá trình cải tạo cao hơn 11 – 12 để làm chết mầm bệnh EHP.

5. Mật độ quá dày, sinh khối lớn

Khi nuôi tôm mật độ quá dày, những chất dinh dưỡng cần thiết cung cấp cho tôm không đủ để tôm phát triển và lột xác.

Khuyến cáo: nuôi tôm thâm canh thì mật độ thích hợp là dưới 100con/m2. Định kỳ bổ sung khoáng vào thức ăn tôm và khoáng tạt vào ao nuôi. Nếu đánh khoáng nên đánh vào buổi tối.

6. Lạm dụng kháng sinh trong phòng, trị bệnh

Người dân thường sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm và dùng quá liều kháng sinh khi trị bệnh giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm làm tôm chậm lớn.

Lưu ý khi sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm: dùng đúng liều đúng chu trình 5-7 ngày tránh lờn thuốc. Sau đó cần bổ sung sorbitol 2g/1kg thức ăn nhằm giúp tôm đào thải kháng sinh, sau khi dùng men vi sinh 3 ngày phải cho tôm ăn men đường ruột.

>> Không sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm giống và tôm nuôi, vì sẽ gây lờn thuốc và giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm.

7. Thức ăn kém chất lượng, chất lượng nước ao nuôi xấu

Thức ăn kém chất lượng cũng là nguyên nhân làm tôm chậm lớn do tôm không đủ dinh dưỡng để tăng trưởng. Do đó phải bảo quản thức ăn đúng nơi quy định. Không được để bao thức ăn dưới sàn đất.

Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường nước (Độ kiềm, Fe, NO2, NH3..) trong ao để nhanh chóng điều chỉnh.

Không được sử dụng thuốc trừ sâu để cải tạo ao.

Trên đây là những nguyên nhân phổ biến làm cho tôm bị chậm lớn, chúc bà con một vụ mùa bội thu.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp phát hiện sớm bệnh trên tôm với chi phí rẻ

Một công ty công nghệ sinh học Nhật Bản đang hợp tác với các nhà nghiên cứu tại Đại học Tohoku để phát triển một giải pháp có thể phát hiện nguyên nhân gây hội chứng tử vong sớm (EMS) ở tôm nuôi và các bệnh khác trên tôm. Được thực hiện tại ao, nhanh chóng và chính xác nhưng chi phí cực kỳ hợp lý.

Tohoku Bio-Array, còn được gọi là Công ty TBT và Đại học Tohoku ở thành phố Sendai, Nhật Bản, sẽ cùng nhau phát triển xét nghiệm di truyền để cho phép phát hiện sớm các bệnh truyền nhiễm trong tôm nuôi, được báo cáo trên Nippon Keizai Shimbun vào ngày 5/6 vừa qua. Mục đích chính của phương pháp này là nhanh chóng phát hiện ngay tại ao nuôi tôm.

Để sử dụng bộ kit, tôm được nghiền sau đó pha trộn rồi đưa qua phản ứng PCR được gắn nhãn để khuếch đại gen của virut. PCR là một kỹ thuật sao chép một vài bản sao của một đoạn DNA, để sản xuất hàng ngàn (hoặc hàng triệu bản sao). Sau đó, một dải thử nghiệm – một màng có dãy DNA in trên nó – được nhúng trong dung dịch, và một đường màu xanh xuất hiện nếu kết quả dương tính, và có thể được xác nhận trực quan. Các xét nghiệm cho ba hoặc bốn bệnh, bao gồm cả EMS, có thể được bao gồm bằng 1 xét nghiệm duy nhất.

Một máy xử lý là cần thiết để khuếch đại gen, nhưng giá mỗi lần xét nghiệm dự kiến sẽ chỉ khoảng 5-10 USD (từ 4,50 đến 9 EUR). Việc chẩn đoán có thể được thực hiện trong khoảng một giờ để nông dân có cơ hội thu hoạch ao sớm hoặc dừng ao nuôi mới nhằm giảm tổn thất nếu có kết quả dương tính.

Xét nghiệm di truyền chuẩn đoán bệnh trên tôm không phải là mới. Nó đã có thể được thực hiện với chi phí cao hơn một chút so với các thử nghiệm này. Và phương pháp thông thường vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm để thử nghiệm thì nông dân phải đợi ít nhất vài ngày mới có kết quả.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Con đường lây lan của dịch bệnh đốm trắng trên tôm

Những nghiên cứu cho thấy WSSV lây lan theo chiều ngang theo môi trường nước bởi sinh vật mang mầm bệnh (carriers) như: Vi tảo (microalgae), giun nhiều tơ (polychaete worms) và trứng của luân trùng (rotifer eggs).

1. Nghiên cứu của Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ (CIBA-ICAR) Ấn Độ

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên về giun nhiều tơ (Polychaete worms) là một vector thụ động của hội chứng đốm trắng cho tôm Sú bố mẹ (Penaeus monodon).

Nghiên cứu dựa trên những con giun nhiều tơ sống, Marphysa spp., Thu được từ các nhà cung cấp, ngư dân, cũng như các mẫu thu thập được từ 8 trạm trên bờ biển phía bắc của Tamilnadu (Ấn Độ). Tôm Sú bố mẹ với buồng trứng không phát triển, được thí nghiệm lây nhiễm WSSV bằng cách cho ăn giun nhiều tơ, loài này đã mang WSSV trước đó.

50% giun nhiều tơ có được từ các nhà cung cấp giun được phát hiện là dương tính WSSV bằng PCR 2 bước. Trong số 8 trạm nghiên cứu, 5 con giun dương tính với WSSV với tỷ lệ nhiễm từ 16,7 đến 75%. Giun nhiều tơ thu được từ các khu vực gần các trang trại nuôi tôm cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm cao hơn.

Các thí nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm đã khẳng định các quan sát được > 60% giun nhiều tơ tiếp xúc với WSSV được chứng minh là dương tính WSSV sau 7 ngày tiếp xúc. Người ta cũng xác nhận rằng tôm bố mẹ có thể bị nhiễm WSSV bởi thức ăn giun nhiều tơ mang mầm bệnh WSSV. Mặc dù nghiên cứu này chỉ cho thấy sự lây nhiễm ở mức độ thấp ở các loài thực vật hoang dã hoang dã nhưng các thí nghiệm này cũng cho thấy rõ ràng khả năng chuyển WSSV từ thức ăn sống sang tôm bố mẹ, giun nhiều tơ có thể đóng một vai trò trong dịch tễ học của WSSV.

Một số sinh vật mang mầm bệnh WSSV khác 

2. Nghiên cứu của Trường Đại học Thủy sản, Trung Quốc

Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bởi phương pháp PCR trong luân trùng và trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích ao nuôi tôm.

Vi rút hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bằng phương pháp PCR-dot blot hybridization trong trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích tôm nuôi tôm He Trung Quốc (Penaeus chinensis). Nó cũng được phát hiện trong luân trùng được nở từ những quả trứng đó. Kết quả cho thấy trứng nghỉ có thể là một vật mang cho WSSV trong ao nuôi tôm.

3. Thí nghiệm của Viện Hải dương học, Học viện Khoa học Trung Quốc

Nghiên cứu về sự lây lan của WSSV (virus hội chứng đốm trắng) ở tôm he Nhật Bản (Marsupenaeus japonicus) thông qua vi tảo biển.

Để chứng minh được khả năng vi tảo biển biển mang WSSV, 6 loài vi tảo biển (Isochrysis galbana, Skeletonema costatum, Chlorella sp., Heterosigma akashiwo, Scrippsiella trochoidea, Dunaliella salina) đã được nuôi cấy với tôm he Nhật Bản trưởng thành (Marsupenaeus japonicus). WSSV được khảo sát hàng ngày bằng PC-nested để nghiên cứu liệu chúng có thể mang WSSV hay không. Các thí nghiệm tiếp theo đã được tiến hành để điều tra xem vi khuẩn có mang vi khuẩn có thể tái nhiễm trên tôm con. Kết quả cho thấy rằng tất cả các vi tảo biển thực nghiệm, ngoại trừ H. akashiwo còn lại có thể mang WSSV, và trong số đó, Chlorella sp. và S. trochoidea có khả năng mang WSSV mạnh nhất. Không giống như những sinh vật mang không xương sống khác của WSSV, các phát hiện của WSSV trong vi tảo biển, có kết quả dương tính sau 1 và 3 ngày, âm tính sau 10 ngày nuôi cấy.

Kết quả phát hiện WSSV ở tôm M. japonicus cho thấy tôm đã bị lây nhiễm từ Chlorella sp. Mặc dù tôm M. japonicuschỉ mang một lượng WSSV nhỏ đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi nested-PCR. Kết quả của thí nghiệm này cho thấy vi tảo có thể là một con đường truyền tải ngang có thể cho WSSV. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về các yếu tố khả năng mang khác nhau và các cơ chế mang vi rút của các loài vi tảo khác nhau.

Nguồn: Aquaculture được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đánh giá và theo dõi sức khỏe tôm nuôi

Việc theo dõi sức khỏe của tôm rất quan trọng và cần được thực hiện liên tục trong suốt thời gian nuôi. Nhờ đó có thể phát hiện sớm các dấu hiệu bất ổn và kịp thời xử lý.

Căn cứ theo số ngày nuôi tính từ khi thả giống và dựa vào kinh nghiệm, người nuôi tôm nên dự báo các thời điểm tôm có thể bị sự cố để quan sát, theo dõi kỹ hơn từ nhiều ngày trước đó. Thông thường, sức khỏe của tôm nuôi có thể được đánh giá dựa trên quan sát trực tiếp, gián tiếp thông qua lượng thức ăn tôm sử dụng và gửi mẫu xét nghiệm. Giải pháp gửi mẫu xét nghiệm cho kết quả chính xác nhưng thường mất thời gian và không tiện lợi do vùng nuôi thường ở xa cơ quan thú y. Vì thế, cần dựa vào các thông tin thu thập được ngay tại ao nuôi bao gồm:

Tỉ lệ sống

Tỉ lệ sống giảm dần theo vụ nuôi và phụ thuộc vào chất lượng con giống, điều kiện môi trường và khả năng chăm sóc. Có thể ước tỉ lệ sống qua số lượng tôm vào nhá hoặc chính xác hơn dùng chài kiểm tra khi tôm đã lớn. Tỉ lệ sống của tôm sau 30, 60, 90 và 120 ngày nuôi ở mức 95, 90, 85 và 80% được coi như đạt. Nếu phát hiện tôm chết rải rác trong nhá hoặc trên đáy thì nên lặn kiểm tra ngay.  Trong trường hợp tỉ lệ rớt đáy đã ở mức 25 – 30% thì nên thu hoạch gấp để giảm thiểu thiệt hại.

Tốc độ tăng trưởng

Tôm nuôi tăng trưởng tốt là dấu hiệu khả quan về sức khỏe. Thông thường sau 30, 60 và 90 ngày nuôi kích cỡ phải đạt 500, 80 và 60 con/kg. Tốc độ tăng trưởng kém có thể do điều kiện nuôi không tốt, tôm bị bệnh còi hoặc chất lượng con giống không đảm bảo.

Hoạt động bắt mồi

Tôm bắt mồi tốt, lượng thức ăn tăng đều đặn theo thời gian nuôi là dấu hiệu khả quan. Nếu tôm đột ngột bỏ ăn mà không phải đang vào thời gian lột xác thì cần phải kiểm tra lại điều kiện môi trường ao, kết hợp với lặn kiểm tra đáy và bắt tôm để quan sát thật kỹ. Trong nhiều trường hợp, khi môi trường ao nuôi được xử lý, tốt trở lại tôm sẽ bắt mồi bình thường.

Hoạt động bơi lội

Tôm mạnh khỏe luôn có phản xạ tốt và lẩn tránh nhanh khi có người đến gần. Tôm yếu hoặc bị bệnh thường dạt bờ, nổi đầu, bơi lờ đờ hoặc xoắn vặn theo hình lò xo. Trong những trường hợp thiếu thức ăn hoặc nền đáy ao bị ô nhiễm, tôm có thể kéo đàn bơi vòng quanh ao.

Tình trạng của đường ruột, tuyến gan tụy và phân tôm.

Tuyến gan tụy của tôm nằm ở phần đầu ngực, có thể quan sát dễ dàng. Tôm khỏe có đường ruột đầy thức ăn, tuyến gan tụy có màu nâu sáng, kích thước bình thường. Phân tôm mạnh khỏe sẽ có màu của thức ăn. Phân tôm có màu khác hoặc nhớt là dấu hiệu bất ổn. Khi thấy phân tôm của một vài con có màu đỏ, thường là trong ao đã có tôm chết và bị những con này ăn.

Các dấu hiệu tôm bị bệnh

Một số dấu hiệu như: thay đổi màu sắc, vết tổn thương trên cơ thể hoặc biến đổi hình dạng. Các cơ quan cần quan sát là mang tôm, phần giáp đầu ngực, các phụ bộ và đuôi.

Các thời điểm cần tập trung quan sát tôm là sáng sớm, khi kiểm tra nhá cho tôm ăn, khoảng 1 – 2 giờ sáng, trước và sau khi thay nước hoặc can thiệp vào môi trường nuôi, khi thời tiết thay đổi đột ngột. Khi thấy các biểu hiện bất thường như tôm chậm bắt mồi hoặc bỏ ăn, rớt trong nhá, dạt bờ, nổi đầu … cần thu mẫu kiểm tra xem cơ thể bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc, đường ruột đứt đoạn hoặc rỗng, tuyến gan tụy có màu sắc hình dạng không bình thường. Tiếp theo đối chiếu với mô tả triệu chứng các loại bệnh thường gặp để phán đoán và tham khảo hướng giải quyết. Liên hệ ngay với cán bộ kỹ thuật hoặc cơ quan quản lý dịch bệnh thủy sản tại địa phương để được tư vấn thêm.

Nguồn: ‘Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng hiệu quả và bền vững’ của Skretting 

Tại sao trị bệnh cho tôm khó?

Tôm là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn. Nhiều nhà nông đã trở thành triệu phú nhưng cũng có nhiều người đổ nợ vì con tôm. Đặc biệt khi tôm đã bị bệnh thì rất khó phát hiện và chữa trị. Do đó người dân cần có kiến thức để phòng tránh, nhận biết và chữa trị một cách nhanh chóng, kịp thời nhất.

Dưới đây là một số nguyên nhân giải thích vì sao chữa bệnh cho tôm lại khó khăn:

Đặc điểm của tôm

Nuôi tôm khác với nuôi các loài động vật trên cạn vì phương pháp chữa bệnh cho tôm chủ yếu trộn vào thức ăn chứ không phải tiêm trực tiếp như động vật trên cạn. Do đó việc điều trị bệnh cho tôm không thể kiểm soát chính xác liều lượng thuốc được đưa vào từng cá thể tôm. Vì phần lớn thuốc bị hấp thu vào nước và liều đưa vào mỗi cá thể không xác định được do con ăn nhiều, con ăn ít, con không ăn.

Hơn nữa, tôm sống ở trong ao nên bình thường người nuôi khó quan sát. Khi đã tôm đã chết hoặc bơi lên bờ thì mới phát hiện nhưng lúc này đã quá muộn.

Tôm sú nổi đầu bơi vào gần bờ

Thay đổi thời tiết

Tôm là động vật biến nhiệt nên nhiệt độ cơ thể không ổn định mà phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường nước. Khi thời tiết thay đổi bất thường làm cho tôm bị yếu và có thể bị bệnh.

Nếu nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước trên 32oC): Tôm bắt mồi nhanh nhưng thải nhiều phân sống làm nước ô nhiễm. Vi khuẩn có hại hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh phân trắng.

Vào mùa lạnh (nhiệt độ nước dưới 25oC): Tôm bắt mồi yếu, thậm chí ngưng ăn. Virus hoạt động mạnh thường gây ra dịch bệnh đốm trắng.

Mầm bệnh lây lan nhanh

Do sống trong môi trường nước nên mầm bệnh xuất hiện rất dễ lây lan và không cách lý được. Tôm bị bệnh chết đi trở thành thức ăn của tôm khỏe và ngoài ra việc sử dụng sục khí, quạt nước góp phần phát tán mầm bệnh nhanh chóng.

Sức đề kháng kém

Tôm là động vật bậc thấp, không có hệ miễn dịch đặc hiệu nên khả năng đề kháng mầm bệnh kém, không có vaccine phòng bệnh. Tôm yếu rất dễ bị bệnh virus (đốm trắng, Taura) và vi khuẩn (Vibrio).

Thuốc không vào được tôm bệnh

Tôm bệnh thường bỏ ăn. Thuốc được trộn vào thức ăn sẽ không vào được cơ thể tôm bệnh. Vì thế, sử dụng thuốc chủ yếu là phòng bệnh cho tôm vừa chớm bệnh hay tôm còn khỏe.

Nhiều tác nhân cơ hội

Khi tôm bị bệnh, cơ thể yếu, không còn sức đề kháng, các mầm bệnh cơ hội trong nước đồng loạt tấn công khiến tôm càng yếu nhanh. Thực tế, hầu hết tôm bệnh khi kiểm tra đều nhiễm nhiều loại vi khuẩn, kí sinh trùng, virus, nấm và các yếu tố môi trường bất lợi (khí độc, ôxy hòa tan thấp…) nên sẽ khó xác định tác nhân chính gây bệnh và kéo dài thời gian xét nghiệm.

Cách xử lý những ao tôm bệnh

Nếu chẳng may ao có tôm bị bệnh, việc phát hiện càng sớm thì cơ hội trị bệnh càng cao và cách ứng phó hiệu quả là:

  • Tăng cường quạt nước: cung cấp nhiều ôxy cho tôm, tạo môi trường thuận lợi cho vi sinh phân hủy chất thải và giải phóng khí độc.
  • Cắt giảm mạnh thức ăn thừa: giảm áp lực chất thải gây ô nhiễm môi trường ao, giảm khí độc tích tụ, giảm mật độ vi khuẩn gây bệnh phát triển.
  • Chữa bệnh đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian: tùy loại thuốc mà sử dụng buổi sáng hay buổi chiều (xử lý vi sinh vào giữa buổi sáng), tùy thời gian đào thải ra cơ thể tôm mà sử dụng bao nhiều lần (sau 6 giờ thì cứ 6 giờ bổ sung 1 lần theo các cữ ăn; sau 12 giờ thì bổ sung vào 1 cữ sáng và 1 cữ chiều; sau 24 giờ thì bổ sung vào 1 cữ ăn trong ngày).
  • Tăng cường sức đề kháng và phục hồi biến dưỡng cho tôm: bổ sung vitamin C, hoạt chất butaphosphan, các vitamin và khoáng chất khác .
  • Không thay nước từ nguồn bên ngoài: tránh lây lan và tạp nhiễm thêm mầm bệnh.
  • Kết hợp cải thiện chất lượng môi trường: đây là việc cấp thiết trong can thiệp xử lý ao tôm bệnh. Sử dụng vi sinh để phân hủy chất thải, xử lý khí độc; khoáng giúp cho nước ao tăng hệ đệm, ổn định độ kiềm, pH và tảo.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Ứng dụng của vi khuẩn quang hợp trong nuôi tôm

Quản lý chất lượng nước có vai trò quyết định sự thành bại của vụ nuôi. Đặc biệt vấn đề quản lý khí độc phát sinh trong quá trình nuôi do lượng chất thải hữu cơ tích tụ là vấn đề nan giải cần được chú trọng.

Vi khuẩn quang hợp (PSB). Là một loại vi khuẩn có thể tiến hành quang hợp (khác với quang hợp trên thực vật). Vi khuẩn quang hợp dùng H2S để cung cấp H, dùng CO2 để cung cấp nguồn C, qua phản ứng quang hợp sản sinh ra chất hữu cơ, không tạo ôxy.
PSB thường dùng trong NTTS là loài có sắc tố quang hợp màu đỏ. Đây là chủng vi khuẩn có lợi tác dụng phân hủy các chất thải hữu cơ thông qua các quá trình tổng hợp thức ăn và có tác dụng xử lý triệt để khí độc H2S sinh ra trong ao nuôi tôm, cá.

PSB khi sử dụng trong ao nuôi thủy sản (rộng muối) được kích hoạt nhanh chóng và sống trong nhiều điều kiện khắc nhiệt. 

Tác dụng và nguyên lý của vi khuẩn quang hợp

Tác dụng của vi khuẩn quang hợp và nguyên lý của nó trong nghề nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu có mấy mặt sau :

– Làm thuốc làm sạch chất nước của nước nuôi trồng

Trong quá trình nuôi trồng thuỷ sản, do sự tăng lên của cặn bã thức ăn vật phế thải của đối tượng nuôi tăng lên, chất nước bị ô nhiễm. Phương pháp truyền thống trước đây là thay một lượng nước lớn, xả bỏ nước cũ bị ô nhiễm, bơm vào nước sạch mới. Song do sự hạn chế của hàng loạt nguyên nhân, biện pháp này chỉ trị ngọn chứ không trị từ gốc, theo sự ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng của sông, cái gọi là thay nước chỉ là nói một cách tương đối thôi, nước ô nhiễm thải ra từ trên thượng du, ở hạ du lại trở thành nước sạch được đưa vào nguồn nước nuôi. Cứ tiếp tục như thế, không ngừng ô nhiễm, nước sau khi bị ô nhiễm, vật hữu cơ tăng lên, nồng độ các ion NH3, N tăng lên có thể ảnh hưởng đến việc kiếm mồi sinh trưởng của tôm cá mà dẫn đến bệnh tật. Cho nên nói nuôi cá trước hết là nuôi nước là vì vậy, nước trong sạch, loài cá ăn mồi nhiều, sinh trưởng nhanh, bệnh tự nhiên ít, và ngược lại. Nếu trong quá trình nuôi, định kỳ cho một lượng vi khuẩn quang hợp thích hợp vào nước nuôi, có thể làm mất ion N trong nước và các vật sinh ra do phân giải vật hữu cơ khác từ đó đạt tới việc không thay nước mà vẫn có thể giữ được môi trường nước tốt. Ðiều đó chủ yếu là do vi khuẩn quang hợp ở trong nước có thể lợi dụng vật hữu cơ làm vật cung ứng H để tiến hành tác dụng quang hợp, đồng thời với việc loại bỏ vật ô nhiễm, bản thân vi khuẩn quang hợp cũng sinh sôi tăng trưởng, đạt tới tác dụng tuần hoàn ưu việt.

Trong công nghiệp, vi khuẩn quang hợp thường dùng để xử lý nước ô nhiễm. Trong tự nhiên, nước bẩn nồng độ cao, trước tiên do vi khuẩn dị dưỡng phân giải các carbohydrate, lipid, protein thành vật chất phân tử cấp thấp như axit béo cấp thấp, aminô axit. Tiếp đó vi khuẩn quang hợp lợi dụng chất hữu cơ phân tử, lượng nhỏ như axit béo cấp thấp mà sinh sôi rất nhanh, xử lý nước bẩn BOD 95% trở lên. Sau đó, do loài tảo và vi sinh vật bùn đất hoạt tính làm cho BOD xuống tới tiêu chuẩn xả bỏ. Quá trình làm sạch nước bẩn vật hữu cơ trong công nghiệp chia thành 3 bước :

Vật hữu cơ cao phân tử nồng độ cao khuẩn dị dưỡng axit béo phân tử thấp.

* Axit béo phân tử thấp vi khuẩn quang hợp vật hữu cơ nồng độ thấp.

* Vật hữu cơ nồng độ thấp loài tảo, bùn đất hoạt tính nước thải được làm sạch.

– Dự phòng và điều trị bệnh

Do sự sinh sôi nhanh chóng của vi khuẩn quang hợp, mà hạn chế sự sinh sôi của khuẩn khác gây bệnh. Theo thông báo, vi khuẩn quang hợp có tác dụng rõ rệt đối với bệnh đỏ vỏ tôm, bệnh đen mang, bệnh khuẩn dạng sợi. Và khuẩn quang hợp trong quá trình chuyển hoá có thể sinh ra loại men chống độc tố bệnh (men phân giải trypsin, có tác dụng dự phòng và chữa trị bệnh tôm cá).

– Làm thức ăn cho ấu thể tôm cá

Vi khuẩn quang hợp có giá trị dinh dưỡng rất cao hàm lượng prôtêin đạt trên 60%, đồng thời còn chứa vitamin nhóm B phong phú và folacin, sinh vật tố và chất thúc lớn sinh vật chưa biết, chấy lượng của nó thì men không có cách gì so sánh được. Còn khuẩn thể của vi khuẩn quang hợp rất nhỏ (chỉ là 1/20 của tảo tiểu cầu), do đó, còn là thức ăn vừa miệng nhất của ấu thể cá, tôm, nhuyễn thể có vỏ. Trong quá trình nuôi ấu thể cá, tôm, nhuyễn thể có vỏ ứng dụng vi khuẩn quang hợp có thể nâng cao tỷ lệ sống, tăng nhanh sự sinh trưởng, giảm bớt lượng nước thay. Cuối cùng nguyên nhân của nó, một là làm sạch nước, cải thiện môi trường nước, hai là làm thức ăn cho ấu thể, ba là vi khuẩn quang hợp sau khi trở thành loài ưu thế của khối nước, vật chất sinh trưởng do nó giải phóng ra có thể làm cho một số nguyên nhân bệnh khó tồn tại, có thể giảm bớt bệnh của ấu thể, từ đó nâng cao tỷ lệ sống của ấu thể.

– Làm chất phụ gia cho thức ăn có chất lượng

Vi khuẩn quang hợp gồm vật chất sống có nhiều loại công năng thúc đẩy sinh trưởng và vật hoá hợp chất béo (nhân tố sinh trưởng) v.v Do đó, nó có thể trực tiếp làm chất phụ gia cho thức ăn. nếu trong thức ăn cho thêm vi khuẩn quang hợp thì không cần phải thêm chất phụ gia vào thức ăn nưã. Vì giá thành không cao, thông thường trong thức ăn tăng 0,5 -1% là có thể tăng rõ rệt hiệu quả thức ăn và tỷ lệ tăng trọng.

Phương pháp sử dụng vi khuẩn quang hợp và những vấn đề cần chú ý

– Phương pháp sử dụng

* Cách dùng trong

Sử dụng làm chất phụ gia của thức ăn, lượng dùng dạng nước là 1%, lượng dùng dạng bột là 0,5%. Nếu khi là thức ăn nở hoặc thức ăn của tôm, căn cứ vào số lượng thức ăn cho ít vi khuẩn quang hợp, sau đó để thức ăn thấm vi khuẩn quang hợp rồi cho ăn. Khi cho ăn thức ăn hạt thông thường, trước hết dùng một lượng ít nước sau khi làm thưa vi khuẩn quang hợp, làm ướt thức ăn rồi cho ăn, nếu khi là thức ăn cho ăn dạng bột, nhào vi khuẩn quang hợp với chất kết dính, cùng với thức ăn làm thành nắm cho ăn.

* Cách tưới vãi

Khi làm sạch nước dự phòng trị bệnh, có thể trực tiếp đem vi khuẩn quang hợp đã làm thưa tưới vãi đều trong nước. Lượng dùng dạng nước là mỗi mẫu mỗi mét nước sâu 3 kg; dạng bột mỗi mẫu mỗi mét nước sâu 1kg, cứ cách 15 ngày vãi lại một lần.

-Khi sử dụng vi khuẩn quang hợp phải chú ý một số vấn đề dưới đây

* Vi khuẩn quang hợp phải bảo quản ở nơi râm mát tránh ánh sáng.

* Trước khi sử dụng vi khuẩn quang hợp phải lắc đều nước sử dụng; vi khuẩn quang hợp chưa sử dụng hết phải nút kín cất giữ.

* Hàm lượng vi khuẩn quang hợp do Trung Quốc sản xuất có sự khác nhau nhiều, số hoạt khuẩn mỗi ml có từ mấy chục triệu đến mấy trăm triệu, do đó khi sử dụng phải chú ý. Thông thường khi dùng tưới vãi toàn ao mỗi m3 hàm lượng vi khuẩn quang hợp trên 1 tỷ khuẩn thể, lượng phụ gia thức ăn mỗi kg nên có từ 1 tỷ khuẩn thể trở lên.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam

SHIV – Virus mới phát hiện gây tỉ lệ chết cao trên tôm thẻ chân trắng

Một loại virut mới phát hiện được gây ra bệnh nguy hiểm và tỷ lệ tử vong cao trên tôm chân trắng Litopenaeus vannamei ở Chiết Giang, Trung Quốc, đã được xác minh và tạm thời xác định là Shrimp hemocyte iridescent virus (SHIV). Thuộc họ Iridoviridae.

Để làm rõ tác nhân này, một nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc đã tiến hành chẩn đoán và định danh tác nhân gây bệnh trên.

Triệu chứng tôm nhiễm bệnh

-Dấu hiệu bệnh lý tôm nhiễm virus SHIV

Tôm thẻ chân trắng L. vannamei thử nghiệm lây nhiễm virus SHIV từ mẫu 20141215 có các triệu chứng bao gồm: dạ dày và ruột rỗng, sự mất màu nhẹ trên bề mặt của gan tụy và vỏ tôm bị mềm. Một phần ba số tôm có thân hình hơi đỏ (a, b). Tôm mất khả năng bơi lội và chìm xuống đáy ao. Các triệu chứng điển hình và chết cũng đã được quan sát thấy ở tôm càng xanh nhiễm bệnh từ giai đoạn ấu trùng đến tôm trưởng thành trong phòng thí nghiệm.

Các triệu chứng lâm sàng của tôm L. vannamei đã gây nhiễm thực nghiệm với SHIV (phía bên phải) so với nhóm đối chứng (bên trái). (a) Biểu hiện bệnh bên ngoài của tôm. (b) Phần gan tụy.

-Bệnh tích vi thể

Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy một lượng lớn virion trong ống gan tụy của tôm (a và b) và cơ thịt (c và d). Một số  lượng lớn virion trong tế bào chất của bạch cầu (a-d). MI: ty thể; N: hạt nhân; và M: cơ; Ngôi sao đen: mô gan tụy; và ngôi sao trắng: ống gan tụy.

Tổn thương mô (a) – (d) mô gan tụy trong mẫu dương tính SHIV; (e) – (h) mô gan tụy trong mẫu âm tính SHIV. Các màu xanh đã được quan sát thấy trong tế bào chất của các tế bào máu.

 

Các đặc điểm mô bệnh học của tôm L. vannamei cố định bằng dung dịch Davidson (a, c, e và d). Các mũi tên màu đen hiển thị các vết bẩn cơ bản, các mũi tên màu trắng cho thấy các hạt nhân teo nhỏ (nhuộm của mô gan tụy); (b) tổn thương mang.

Phân tích cây di truyền

Cây phát sinh loài dựa trên trình tự axit amin của SHIV trên tôm với các trình tự MCP và ATPase từ các thành viên khác của họ Iridoviridae

Những kết quả phân tích trên của nhóm các nhà khoa học người Trung Quốc cho thấy tác nhân virus gây hại trên là một thành viên mới của họ Iridoviridae. Môt mối đe dọa mới trên tôm thẻ chân trắng L.vannamei ở Trung Quốc cũng như toàn thế giới.

Nguồn: Nature được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Dung dịch giấm táo (ACV) và propionic acid có tác dụng điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Đây được kỳ vọng như là một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm.

Biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm thẻ từ giấm táo và propionic acid

Giấm táo là gì?

Giấm táo (dấm táo) hay Apple cider vinegar là một loại giấm làm từ rượu táo. Giấm làm từ táo có có màu nâu nhạt, đậm dần đến lưng chừng màu hổ phách. Là một loại giấm sống chưa được tiệt trùng. Khi chưa lọc, giấm táo có chứa những phân tử dấm mẹ nhìn giống như có một lớp màng mỏng phía trên mặt hoặc có những trầm tích màu nâu đục lắng tụ dưới đáy chai, đó là những phân tử giấm mẹ dạng loãng.

– Khởi đầu giấm được làm bằng những trái táo băm nhỏ hay nước ép táo, pha trộn với đường. Vi khuẩn và nấm men được thêm vào chất lỏng để tạo nên quá trình lên men rượu.

– Trong quá trình lên men kế tiếp, rượu được chuyển thành giấm bởi vi khuẩn tạo nên axit axetic (Acetobacter). Axit axetic và axit malic là tác nhân hình thành vị chua của giấm.

Nghiên cứu ảnh hưởng của ACV và propionic acid lên tôm thẻ chân trắng

Thí nghiệm này được tiến hành để nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ khác nhau của ACV và Propionic axit (PA) trên biểu hiện của gen miễn dịch liên quan và hiệu suất tăng trưởng ở tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei).

375 con tôm với trọng lượng ban đầu trung bình là 10,2 ± 0,04 g đã được thu thập và làm quen với môi trường nước trong hai tuần. 5 chế độ ăn thử nghiệm bao gồm chế độ ăn đối chứng, chế độ ăn uống 0,5% PA và chế độ ăn 1%, 2% và 4% ACV được sử dụng để nuôi tôm. Tôm được cho ăn 4 lần một ngày với 2,5% trọng lượng cơ thể.

Kết quả:

Biểu hiện của prophenoloxidase (proPo), lysozyme (Lys), penaeidin-3a (Pen-3a) và gen Crustin (Cru) đã được xác định từ gan tụy, sử dụng real-time PCR sau 15, 30 và 60 ngày. Việc biểu hiện gen Lys và proPo được tăng lên đáng kể trong tôm nuôi bằng khẩu phần ACV và PA so với nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày điều trị.

Sau 15 ngày, biểu hiện gen Pen-3a cao hơn đáng kể ở nhóm PA so với nhóm đối chứng. Ngoài ra, tôm ăn với chế độ ăn 1% & 4% ACV và PA cho thấy Pen-3a tăng lên đáng kể sau 30 ngày.

Ngược lại, sự biểu hiện của Cru đã giảm đáng kể khi đáp ứng với chế độ ăn uống của ACV, nhưng sự biểu hiện của Cru trong tôm được xử lý với khẩu phần PA cao hơn nhóm đối chứng sau 30 và 60 ngày.

Kết luận:

Các kết quả cung cấp bằng chứng cho thấy ACV có thể được sử dụng như một biện pháp miễn dịch tự nhiên cho tôm để điều chỉnh và tăng cường sự biểu hiện của các gen liên quan đến miễn dịch.
Nguồn: NCBI được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam