Nông dân Tiền Giang trúng đậm mùa mít Thái siêu sớm

Giá trái mít ở tỉnh Tiền Giang tăng ở mức kỷ lục, nông dân trúng đậm.

Tại thời điểm này, giá mít Thái siêu sớm dao động từ 55.000 -70.000 đồng/kg, tăng gần 2 lần so cùng kỳ năm ngoái. Với mức giá này,  mỗi năm, nhà vườn trồng mít có thu nhập hơn 1 tỷ đồng/ha. Trái mít tăng giá là do thị trường xuất khẩu hút hàng; trong khi đó vào mùa nước nổi, sản lượng trái mít giảm nên “cầu vượt cung”.

Nhà vườn huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang tích cực chăm sóc vườn mít đang cho lãi cao.

Toàn tỉnh Tiền Giang có khoảng 3.000 ha cây mít, trồng tập trung ở các huyện vùng lũ như: Cái Bè, Cai Lậy, Thị xã Cai Lậy, và huyện Tân Phước. Hiện nay, nhà vườn các địa phương này rất phấn khởi, đang tập trung gia cố đê bao chống lũ và triều cường, bảo vệ vườn mít.

Trái mít Thái Siêu sớm giá ở mức cao.

Ông Nguyễn Văn Chiến, nhà vườn ở xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cho biết, mít năm nay giá cao kỷ lục. Thương lái mua tại vườn với giá 70.000 đồng/kg, còn mít loại 2 giá 55.000 đồng/kg. Mít siêu sớm có giá cao nhất và rất dễ trồng.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Việt Nam trúng thầu 29.000 tấn gạo cho Philippines

Trong phiên mở thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo theo hình thức Chính phủ- Tư nhân (G2P) của Philippines vào hôm nay, 18-10, Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu 29.000 tấn.

Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu 29.000 tấn gạo cho Philippines trong phiên mở thầu hôm nay, 18-10. Trong ảnh, nông dân đang thu hoạch lúa.

Giám đốc một doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long tiết lộ với TBKTSG Online vào chiều hôm nay rằng hai đơn vị đến từ Việt Nam giành được hợp đồng xuất khẩu gạo cho Philippines trong phiên mở thầu sáng cùng ngày là Tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood2) và Tổng công ty lương thực miền Bắc (Vinafood 1) với tổng khối lượng 29.000 tấn.

Theo vị này, Vinafood 2 đã giành được hợp đồng 15.000 tấn với mức giá bỏ thầu là 427,68 đô la Mỹ/tấn và Vinafood 1 giành được hợp đồng 14.000 tấn với mức giá 427,5 đô la Mỹ/tấn.

Trong khi đó, một đơn vị khác đến từ Thái Lan là Công ty Thai Capital Crops Co Ltd đã giành được hợp đồng cung cấp 18.000 tấn gạo cho Philippines với mức giá 426,3 đô la Mỹ/tấn.

Như vậy, tổng khối lượng gạo Philippines đã đạt thỏa thuận trong phiên mở thầu sáng nay với các nhà cung cấp tư nhân là 47.000 tấn, tức nước này cần thêm 203.000 tấn gạo nữa mới đạt được kế hoạch nhập khẩu 250.000 tấn như công bố.

Theo vị này, lý do khối lượng gạo đạt thỏa thuận trong phiên mở thầu hôm nay của Philipines đạt thấp vì các nhà cung cấp tư nhân đưa ra mức giá cao hơn so với mức dự kiến ngân sách của Cơ quan lương thực quốc gia Philippines (NFA) là 428,18 đô la Mỹ/tấn.

Trước đó, Philippines đã thông báo mời thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo loại 25% tấm từ bất kỳ nguồn cung nào. Theo đó, mức giá tham chiếu được Philippines đưa ra là 431,2 đô la Mỹ/tấn, giá CIF giao tại kho chỉ định của Philippines, nằm trong bán kính 30 km từ cảng dỡ hàng, bao gồm cả chi phí chất hàng vào kho. Hình thức thanh toán trả chậm 30 ngày, kể từ ngày người mua nhận được bộ chứng từ gốc hợp lệ.

Với 250.000 tấn gạo, Philippines chia ra làm 9 gói thầu và 14 điểm cảng dỡ hàng. Thương nhân được phép dự thầu tất cả 9 gói thầu hoặc ít nhất là 1 gói. Tuy nhiên, điều kiện tham dự đấu thầu được Philippines đưa ra là trong 5 năm trở lại đây, tính đến ngày nộp thầu, thương nhân phải hoàn tất ít nhất một hợp đồng xuất khẩu gạo với quy mô tài chính tương đương gói thầu sẽ tham dự.

Trước đó, vào tháng 5-2018, NFA đã mở thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo theo hình thức G2P, các thương nhân Việt Nam đã không bán được tấn gạo nào cho Philippines, trong khi Thái Lan gần như chiếm trọn hợp đồng này.

Cũng trong tháng 5-2018, Việt Nam đã giành được hợp đồng xuất khẩu 130.000 tấn gạo cho Philippines trong gói thầu nhập khẩu 250.000 tấn gạo tại một cuộc mở thầu theo hình thức liên Chính phủ (G2G).

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

“Vận đen” của hồ tiêu: Chết trơ trụi, nông dân nợ chồng chất

Hàng trăm hecta tiêu bị chết hoặc đang nhiễm bệnh ở mức không thể cứu vãn cùng rất nhiều diện tích khác bị nhiễm bệnh đang khiến hàng ngàn nông dân tại Đắk Song (Đắk Nông) đứng ngồi không yên. Nhiều người bỏ nhà cửa đi biệt xứ vì nợ nần.

5 năm trước, thấy giá hồ tiêu cao ngất, ông Nguyễn Văn Thu (thôn Đắk Kual 5, xã Đắk N’Drung, Đắk Song, Đắk Nông) đã phá bỏ cà phê để trồng 1.400 trụ tiêu. Để có vốn đầu tư, ông Thu thế chấp sổ đỏ, vay ngân hàng 250 triệu đồng. 4 năm sau, khi vườn tiêu bắt đầu cho thu bói thì giá tiêu lao dốc. Thế nhưng “vận đen” chưa từ bỏ ông Thu khi năm nay, vườn tiêu bắt đầu cho thu chính thì lại đổ bệnh, chết hàng loạt.

  Vườn tiêu của ông Thu chết trụi chỉ trong vòng một tuần.

“Tiêu vàng lá rồi chết khô chỉ trong vòng một tuần không thể trở tay. Công sức, vốn liếng của gia đình 5 năm qua giờ tiêu tan. Bây giờ tiêu chết, gia đình ông chưa biết lấy tiền đâu ra để trả nợ và kiến thiết vườn cây”- ông Thu chua xót nói.

Gần nhà ông Thu, hơn 1.700 trụ tiêu đang kinh doanh của ông Nguyễn Hữu Hương cũng chết khô. Vợ ông Hương nói với chúng tôi, khi thấy vườn tiêu vàng lá, bà đã mời kỹ sư về tư vấn rồi bỏ gần 50 triệu đồng mua thuốc về chữa nhưng kết quả là tiền mất tật mang, cả vườn tiêu chết sạch chỉ trong chừng một tháng. Gần 1 tỷ đồng mà gia đình ông Hương đầu tư trồng tiêu giờ tiêu tan…

Một vườn tiêu ở xã Thuận Hà chết trụi.

Trưởng thôn Đắk Kual 5, ông Nguyễn Hữu Thiện, cho biết, tình trạng hồ tiêu chết hàng loạt đã khiến 3 gia đình trong thôn bỏ nhà đi biệt tích. Hàng trăm gia đình khác đang đứng trước nguy cơ trắng tay khi diện tích tiêu nhiễm bệnh rồi chết tiếp tục tăng.

Khó cứu chữa

Ngoài Đắk N’Rung, tại các xã khác của huyện Đắk Song như: Thuận Hạnh, Nâm N’Jang, Trường Xuân, Thuận Hà hàng trăm ha tiêu cũng đang nhiễm bệnh và chết. Theo ông Lê Hoàng Vinh, Trưởng phòng NNPTNT huyện Đắk Song, thống kê đến cuối tháng 9, toàn huyện có hơn 200 ha tiêu chết, 130 ha đang nhiễm bệnh nặng không thể cứu chữa và gần 1.700 ha tiêu đang bị nhiễm bệnh.

Một vườn tiêu ở Đắk N’Rung chết sạch đang bị chủ nhân bỏ hoang.

Tuy nhiên, theo ông Vinh đây là con số chưa chính xác, diện tích hồ tiêu chết và nhiễm bệnh vẫn đang tiếp tục tăng. Cũng theo ông Vinh, tình trạng tiêu chết và nhiễm bệnh xuất hiện từ khoảng cuối tháng 6, khi mùa mưa kết thúc.

Nguyên nhân ban đầu được xác định là do trên địa bàn có mưa nhiều khiến cây tiêu bị nhiễm nhiều loại nấm (Phytophthora sp, Pythium…), vi khuẩn, tuyến trùng và nhiều diện tích bị úng nước. Mặt khác, trong canh tác, nhiều bà con quá lạm dụng các loại phân bón không phù hợp, thuốc bảo vệ thực vật không đúng theo khuyến cáo của ngành chức năng.

Ông Vinh cho biết, hiện đối với những diện tích đã nhiễm bệnh nặng thì xem như không thể cứu vãn. Đối với diện tích mới nhiễm, ngành nông nghiệp đang tuyên truyền cho người dân áp dụng quy trình kỹ thuật quản lý bệnh chết nhanh, chết chậm hại hồ tiêu do Cục Trồng trọt- Bộ NNPTNT- ban hành tháng 8.2016.

Theo ngành nông nghiệp huyện Đắk Song, tình trạng tiêu nhiễm bệnh và chết vẫn đang tiếp tục tăng chưa có biện pháp chữa trị hữu hiệu.

Ngoài ra, Phòng NNPTNT huyện cũng thống kê diện tích tiêu nhiễm bệnh và bị chết để báo cáo UBND huyện, Sở NNPTNT sớm có giải pháp hỗ trợ xử lý tình trạng dịch bệnh đang lan rộng trên cây hồ tiêu. Cùng với đó, Phòng sẽ tham mưu cho UBND huyện đề xuất UBND tỉnh có ý kiến với Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Đắk Nông chỉ đạo các chi nhánh ngân hàng thương mại khoanh nợ, giãn nợ cho các nông hộ để bà con vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất.

Theo Phòng NNPTNT huyện Đắk Song, toàn huyện có hơn 15.200 ha hồ tiêu, chiếm khoảng một nửa diện tích tiêu toàn tỉnh. Trước tình trạng tiêu chết và nhiễm bệnh hàng loạt, các ngành chức năng, chính quyền các cấp và người dân đang nỗ lực dùng nhiều biện pháp để cứu chữa.

Tuy nhiên, mọi sự cố gắng vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Cây tiêu vẫn đang trên đà chết và lây lan dịch bệnh rất nhanh.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kiểm soát chặt doanh nghiệp xuất khẩu vú sữa lò rèn sang Mỹ

Nông dân trồng vú sữa lò rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang) đang háo hức với vụ mùa mới, trong khi chính quyền địa phương đang nỗ lực siết chặt quản lý xuất khẩu nhằm tránh để doanh nghiệp làm ăn gian dối.

Chiều 17-10, Chủ tịch UBND tỉnh Tiền Giang Lê Văn Hưởng có buổi làm việc với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vú sữa lò rèn trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

Theo đó, từ vụ vú sữa lò rèn năm nay, tỉnh sẽ siết chặt kiểm soát đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tránh tình trạng trộn hàng kém chất lượng gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu loại trái cây đặc sản này.

Ông Hưởng cho biết cần rút kinh nghiệm từ vụ xuất khẩu vú sữa lò rèn sang Mỹ đầu tiên năm 2017, cũng là năm đầu tiên Mỹ chấp thuận cho loại trái cây này vào thị trường của họ.

Dù năm đầu tiên chỉ xuất được gần 200 tấn nhưng một số doanh nghiệp đã trộn hàng không đạt chuẩn, chưa được cấp mã code (mã số vùng trồng) gây ảnh hưởng lớn đến thương hiệu của loại trái cây đặc sản này.

“Năm nay, các doanh nghiệp xuất khẩu vú sữa lò rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang) sang Mỹ phải tuân thủ đúng cam kết chỉ xuất hàng trong số diện tích trồng đã có mã vùng. Nếu doanh nghiệp nào gian dối trộn hàng mua từ tỉnh khác hoặc hàng hóa không sản xuất theo quy trình đã cam kết với phía Mỹ sẽ bị xử lý nghiêm”, ông Hưởng chỉ đạo.

Ông Đoàn Văn Giàu, đại diện Công ty Cát Tường, đã cam kết sẽ xuất hàng đúng quy trình sản xuất theo yêu cầu phía nhập khẩu, cam kết mua đúng vùng trồng đã được cấp mã code. Đồng thời sẽ chia sẻ giá tốt hơn so với năm 2017 nếu nông dân làm tốt, làm đúng quy trình.

Vùng trồng vú sữa lò rèn Vĩnh Kim trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện còn khoảng 500 ha, năng xuất bình quân 14 tấn/ha. Song, diện tích ngành chức năng cấp mã số vùng trồng chỉ hơn 100 ha. Dự báo khoảng một tháng nữa vụ mùa vú sữa lò rèn sẽ vào chính vụ.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Làm cho táo tăng năng suất gấp đôi

Nếu có dịp ra Bình Thuận, Ninh Thuận thì bà con mình dễ dàng bắt gặp những vườn táo tươi tốt. Bây giờ ở ngoài đó, người ta trồng nhiều táo lắm! Có nơi còn coi cây táo là cứu tinh, là nguồn thu nhập chính của gia đình…

Cây táo ta là loại cây quen thuộc của dân mình. Suốt từ Bắc vào Nam, chỗ nào cũng trồng được táo. Táo dễ trồng, dễ sống, mau cho quả và lại cho năng suất cao. Táo là loại quả ngon, có vị chua ngọt, giàu vitamin, được dùng để ăn tươi, ăn khô, làm rượu, làm mứt, làm nước giải khát… Nó còn được coi là một vị thuốc tăng sức khỏe cho con người. Người già, người trẻ đều thích ăn táo. Vì vậy, táo là một mặt hàng bán rất chạy. Ít khi thấy táo bị ế. Đặc biệt vào dịp tết, khi người ta ăn quá nhiều các thức ăn giàu đạm và uống quá nhiều rượu, lúc đó họ lại nghĩ tới đĩa táo. Táo không phải là loại quả sang trọng nhưng lại là loại quả rất phổ biến và tiện dùng.

Có rất nhiều giống táo, cả giống trong nước và giống nhập ngoại. Nhưng hiện nay, phổ biến vẫn là các giống táo của Đài Loan và Thái Lan. Giống táo rất sẵn, cơ sở làm giống nào cũng có. Táo được nhân giống bằng phương pháp ghép. Ghép chúng cũng dễ nên giá cây giống không cao.

Táo không kén đất, đất nào cũng trồng được. Chỉ lưu ý, tránh trồng chúng ở nơi bị ứ nước. Mặt khác, nó là cây có tiềm năng cho năng suất rất cao, do đó, nên trồng ở những nơi đất tốt, tơi xốp, đủ nước và có nhiều chất mùn. Ta phải đào hố và bón lót trước khi trồng. Nên bón nhiều phân chuồng. Táo bén rễ rất nhanh. Nếu đủ phân, chúng lớn lên rất mau. Rễ táo có thể ăn sâu tới hơn 1m và lan rộng gấp 5 – 6 lần đường kính tán lá của nó. Vì vậy, thân chúng rất chắc. Có nơi còn dùng táo làm cây chắn gió.

Táo trồng đầu năm thì cuối năm đã có quả. Muốn cây phát triển tốt thì số quả lứa đầu ta bỏ đi hoặc bỏ bớt đi để tập trung dinh dưỡng cho cây phát triển. Từ năm thứ hai trở đi, táo cho năng suất rất cao nếu như chúng ta cung cấp cho nó đủ phân và nước. Ở phía Bắc, táo thường ra hoa từ tháng 8 – 9. Nó ra rộ vào tháng 10. Quả được thu vào tháng 12 trở đi. Còn ở phía Nam, ta thấy táo ra hoa quanh năm. Sau khi thu hết quả và ta tiến hành đốn cành thì chỉ 1 – 2 tháng nữa là nó lại ra hoa. Tuy nhiên, táo thường tập trung ra hoa vào hai thời điểm từ tháng 2 – 3 và tháng 9 – 10.

Xin lưu ý, 2/3 lượng phân cần bón ta tập trung bón khi cây vừa thu hoạch kết quả; còn 1/3 sẽ bón vào lúc cây bắt đầu ra hoa. Phải đào rãnh quanh gốc để bỏ phân, sau đó lấp lại. Ở một số nơi, bà con vét bùn ao lên và phơi khô. Sau đó, tán nhỏ chúng ra và bón cho gốc táo. Hiệu quả cũng rất tốt.

Muốn táo cho năng suất cao, còn có một biện pháp rất hay là khoanh vỏ: ta chọn thời điểm hoa táo ra rộ, dò từ trên ngọn xuống, tới chỗ nào cành cho hoa ít hoặc không ra hoa thì ta tiến hành khoanh vỏ. Ta khoanh 1 lớp vỏ rộng khoảng 2cm quanh thân. Lưu ý, không để sót 1 sợi xơ nào. Như vậy là ta đã cắt đường vận chuyển nhựa luyện từ trên lá xuống phần gốc, lúc này, chất dinh dưỡng dồn cả vào các cành mang hoa, ta dễ dàng nhận thấy bằng mắt thường số quả trên cây nhiều hơn và quả cũng lớn hơn. Vì rằng, chất dinh dưỡng đã làm cho cuống hoa chậm hóa bền, nên nó lâu rụng. Ong, bướm có dịp thụ tinh tiếp cho hoa nên số hoa đậu sẽ cao hơn. Mặt khác, do tiếp nhận nhiều dưỡng chất nên quả sẽ to hơn, thậm chí, nó to gấp rưỡi quả ở cành không được khoanh vỏ. Vì vậy, năng suất của cây táo sẽ tăng lên gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Lúc này, điều cần lưu ý nhất là ta phải chống cho cành. Vì quả quá nhiều và to hơn nên cành rất dễ gãy. Gãy là mất ăn!

Sau khi thu hoạch, ta tiến hành đốn cây. Lưu ý, điểm đốn phải nằm ở phía dưới của nơi ta đã khoanh vỏ. Làm đúng như vậy, bà con sẽ có được những vụ táo bội thu.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trung Quốc ồ ạt trồng thanh long cạnh tranh với Việt Nam

Cuối năm 2017, chị Thúy, một thương nhân ở Lào Cai, cùng một anh bạn làm nông nghiệp ở Lào sang Trung Quốc tìm đối tác, ghé thăm trang trại trồng thanh long Langwan (ngay sát đường cao tốc G80, cách biên giới Việt Nam khoảng 200km) của tập đoàn nông nghiệp Quảng Tây Jinsui ở thị trấn Natong, quận Long An, thành phố Nam Ninh.

Tại đây, chị Thúy kể đã chứng kiến những trang trại trồng thanh long rộng lớn với quy mô lên tới nghìn héc-ta, được đầu tư rất bài bản.

Những năm gần đây nhiều trang trại thanh long lớn ở Trung Quốc “mọc lên”

Các nhà xuất khẩu thanh long của Việt Nam nói rằng đã biết chuyện Trung Quốc đang trồng rất nhiều thanh long để cạnh tranh với Việt Nam từ năm 2013.

Theo ông Mai Xuân Thìn – CEO Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Rồng Đỏ, các đối tác của ông cho biết có những thương nhân Trung Quốc đầu tư những trang trại thanh long lớn đến 3.000 – 5.000 ha tại nước này.

Trung Quốc là thị trường nhập khẩu 80 – 90% thanh long Việt Nam, nhưng trong thời gian qua đã phát triển loại cây này một cách rất nhanh chóng. Năm 2011, theo báo Nông thôn Nam Phương, Trung Quốc mới chỉ có 3.400 ha trồng thanh long, đến nay đã gần 40.000 ha và các dự báo cho thấy với đà này sẽ có thêm 34.000 – 68.000 ha thời gian tới.

Sơ chế thanh long tại Trung Quốc – Ảnh: CTV

Quảng Tây là vùng trồng thanh long lớn nhất nước này với gần 15.300 ha (chiếm gần 40% Trung Quốc), dự kiến đến năm 2020 diện tích sẽ tăng lên đến 18.000 ha, sản lượng vượt 500.000 tấn.

Các tỉnh kế cạnh như Quảng Đông, Quí Châu, Phước Kiến, Vân Nam cũng trồng không ít thanh long và loại trái cây này còn được mở rộng cả sang các tỉnh Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Sơn Tây, Chiết Giang, Sơn Đông…

Theo Nông thôn Nam Phương, các vùng trồng thanh long qui mô lớn có giá ổn định, giá thu mua tại vườn hiện bình quân 6 – 8 NDT/kg (1 NDT = 3.300 đồng) và khi đến tay người tiêu dùng Bắc Kinh giá thấp nhất 21 NDT/kg.

Cũng tờ báo này cho biết chuyện ông Lý ở Bắc Hải, Quảng Tây đang tìm thuê đất để mở rộng diện tích, hiện nay 17 ha thanh long của ông mỗi mẫu (khoảng 666 m2) cho doanh thu 8.000 – 15.000 NDT.

Theo ông Lý, giá thành mỗi mẫu 12.000 – 15.000 NDT, sản lượng 500kg, giá bình quân 7 NDT/kg, năm đầu có thể thu hồi 30% vốn, đến năm thứ 3 là có lãi.

Dù vậy, sự phát triển ồ ạt thanh long không phải lúc nào cũng mang lại niềm vui cho người trồng thanh long. Vào tháng 7 năm nay, giá thanh long ở Quí Châu giảm còn 3,3 NDT/kg, theo Nhân dân nhật báo.

Trong khi Việt Nam tiếp tục là nhà xuất khẩu thanh long ruột trắng lớn nhất của Trung Quốc thì những trang trại thanh long ruột đỏ đã bắt đầu mọc lên tại các tỉnh phía đông nam Trung Quốc như Quảng Đông, Chiết Giang, Quảng Tây.

Tháng 6-2017, tại Quảng Đông, lần đầu tiên lễ hội thanh long đã được tổ chức, không phải do chính quyền sắp xếp mà là do một nông dân có tên Chen Lianghua đứng ra lo liệu.

Chen là người đã nghiên cứu và áp dụng thành công công nghệ mới khi tạo ra ánh sáng gần giống như ánh nắng áp dụng vào trang trại thanh long của mình, và tuyên bố sản phẩm của mình “ăn đứt chất lượng thanh long nhập khẩu từ Việt Nam”.

Điều đáng lo là mùa thu hoạch thanh long ruột đỏ ở Trung Quốc kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, khá giống với mùa vụ ở Việt Nam khiến sự cạnh tranh càng thêm phần khốc liệt.

Trong cuộc đua đó, thanh long Việt Nam đã gặp bất lợi ngay từ đầu về việc giữ độ tươi ngon và chi phí vận chuyển, chưa nói đến vấn đề chất lượng và nhu cầu thực tế của thị trường Trung Quốc.

Sau khi rớt giá thê thảm, hiện nay trái thanh long ở Bình Thuận đã tăng trở lại nhưng nông dân còn rất ít hàng để bán.

Theo khảo sát một số vựa dọc hai bên Quốc lộ 1 ở huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận), mặc dù giá thu mua giao động từ 8.000 – 10.000 đồng/kg với loại xuất khẩu, nhưng đã khan hiếm hàng.

Thời điểm này, các nhà vườn đang chặt bỏ, bán tống bán tháo lứa thanh long rớt giá vừa qua để dọn cây, chăm sóc cho lứa trái mới.

Bình Thuận có gần 30.000 ha trồng thanh long với sản lượng ước đạt 600.000 tấn, trong đó gần 10.000 ha đã được chứng nhận VietGAP và 262 ha có chứng nhận GlobalGAP.

Cuối tháng 9 vừa qua, giá thanh long tại nơi được coi là “thủ phủ” của loại trái cây này rớt thê thảm, chỉ còn vài ba ngàn một ký, nhưng không có người mua khiến nhiều nông dân phải chặt bỏ cây sau ba tháng chăm sóc.

Theo Sở NN&PTNT tỉnh này, do thời tiết thuận lợi nên thanh long ra lứa hoa tự nhiên gần cuối vụ chính, nông dân cũng tập trung giữ lứa này với hy vọng bán được giá cao như cùng kỳ năm trước, vốn lên đến 23.000 đồng/kg, vì thế một số người đã chong đèn sớm khiến cho sản lượng tăng đột biến.

Điều này khiến các doanh nghiệp trở tay không kịp kho lạnh dự trữ hết chỗ nên ngưng mua, vậy là giá rớt thê thảm. Tuy nhiên, giá thanh long chất lượng cao vẫn ổn định.

Ở vùng chuyên canh thanh long Chợ Gạo, Tiền Giang, không khí mua bán thanh long có vẻ trầm lắng. Nhiều vựa thanh long lớn ven tỉnh lộ 879C đi từ Chợ Gạo về Long An đang trong tình trạng đóng cửa hoặc giao dịch ít.

Giải thích nguyên nhân này, ông Trần Hữu Danh, giám đốc Công ty TNHH Long Việt, cho rằng thanh long mùa đang vào đợt cuối vụ nên ít hàng, phải 10 – 15 ngày nữa sẽ vào đợt cuối vụ nhưng sản lượng sẽ không nhiều, giá đủ chuẩn xuất khẩu hiện vẫn được mua với giá 22.000 – 25.000 đồng/kg, và vẫn phải “đỏ mắt để tìm mua”.

Tại huyện Châu Thành, Long An, sau một giai đoạn giá thanh long ruột đỏ bị mua tại vườn với giá chỉ 10.000 đồng/kg, giá thanh long ruột trắng với mức giá khoảng 3.000 đồng/kg, hiện không khí mua bán tại đây cũng khá trầm lắng.

Nhiều chủ vườn cho biết hiện nay người dân đang tập trung vào vụ chệch vào thời gian tới, sản lượng không nhiều, sẽ có giá cao hơn.

“Trang trại chúng tôi làm theo tiêu chuẩn Global GAP chuyên cung cấp hàng cho công ty xuất khẩu thanh long đi các thị trường cao cấp như Mỹ, EU nên giá cố định quanh năm từ 20.000 đồng/kg trở lên”, ông Trần Quốc Thắng – chủ trang trại Hùng Linh, xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận – nói.

Ông Mai Xuân Thìn, CEO Công ty Red Dragon, cho biết trong suốt thời gian qua dù giá thanh long ở Bình Thuận giảm mạnh nhưng giá mua thanh long đạt chuẩn để xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao.

Theo ông Thìn, người Việt cần phải thay đổi theo cách làm thanh long tiêu chuẩn toàn cầu để xuất khẩu đi nhiều nước, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc, nhằm đưa loại trái cây này “đạt tầm cỡ như trái kiwi của New Zealand” mà chỉ riêng năm 2017 đã đem về 3,5 tỉ USD cho quốc gia này.

“Dù là nước trồng nhiều kiwi và xuất khẩu kiwi sang Việt Nam nhưng Trung Quốc cũng nhập khẩu tới trên 1 tỉ USD kiwi từ New Zealand”, ông Thìn cho biết.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

GS Võ Tòng Xuân: Nông nghiệp 4.0 cần bắt đầu từ bớt phân thuốc

Khi nông nghiệp 4.0 bắt đầu được bàn luận nhiều thì theo giáo sư Võ Tòng Xuân, nên nghĩ đến nó từ việc rất căn bản là giảm phân thuốc.

Sau thời gian “công nghiệp 4.0” được bàn luận sôi nổi, “khí thế” này cũng đã lan sang ngành nông nghiệp. Trong một hội thảo mới diễn ra, Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, nông nghiệp 4.0 hay còn gọi là nông nghiệp thông minh đã giúp nền nông nghiệp nhiều quốc gia “phát triển rực rỡ”, mang lại bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng canh tác.

Tại Việt Nam, đã có các dự án nông nghiệp công nghệ cao lớn như mô hình sản xuất nấm của Kinoko Thanh Cao, trồng rau của VinEco, nuôi bò sữa của Vinamilk, nuôi gà của Hùng Nhơn… Tuy nhiên, số lượng chưa nhiều.

Mô hình thủy canh giá thể nhiều tầng Sky Green của VinEco.

“Việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến dựa trên số hóa và kết nối tạo ra các mô hình nông nghiệp thông minh đã xuất hiện nhưng còn rất ít”, cơ quan này nhận định.

Là chuyên gia làm việc lâu năm trong ngành nông nghiệp, giáo sư Võ Tòng Xuân bình luận, chính bởi đa số người làm nông chưa có điều kiện áp dụng công nghệ cao nên nếu suy nghĩ đến 4.0 thì việc đầu tiên cần làm đơn giản là bớt dùng phân bón, thuốc hóa học.

“Ngoài những cá nhân có điều kiện áp dụng nông nghiệp 4.0, đại bộ phận nông dân sẽ áp dụng nó trong chuỗi phát triển nông nghiệp theo mục tiêu tối hậu của nó, tức là ứng dụng các chế phẩm mới nhất trong quy trình sản xuất, giảm mạnh phân bón hóa học, nhất là phân đạm, tăng cường phân hữu cơ kết hợp với phân sinh học chứa nhiều nguyên tố vi lượng và vi sinh vật kháng sâu bệnh”, ông khuyến nghị.

Vị giáo sư cho rằng, triển khai nông nghiệp 4.0 ở Việt Nam sẽ không đơn giản vì còn hàng loạt thách thức, cả khách quan lẫn chủ quan. Biến đổi khí hậu, điều kiện đất đai, tập quán canh tác là các điển hình.

“Trước khi quyết định làm 4.0 thì cũng phải thấy bây giờ khí hậu thất thường, mưa nắng không đều, nước lũ về thấp hơn. Kênh mương chằng chịt làm đất đai manh mún, khó ứng dụng cơ giới hóa trên cánh đồng lớn”, ông nói.

Dẫn con số 68% người dân khu vực nông thôn dùng smartphone, ông Võ Tòng Xuân nhận định nhiều nông dân hứng thú tiếp cận công nghệ nhưng tư duy sản xuất vẫn giữ thói kinh nghiệm lão nông.

“Ông nông dân mình rất sang, chi mấy triệu mua smartphone không sao nhưng dùng hiệu quả chưa là chuyện khác. Mình cần nhiều thanh nông hơn chứ lực lượng lão nông rất khó sửa và cập nhật tiến bộ mới.

Nông dân cũng quá tự do, muốn trồng gì thì trồng, chặt gì thì chặt, không thích hợp tác một cách tự nguyện nên mỗi lần có chương trình, dự án phải vận động rất nhiều”, ông nhận định.

Theo vị giáo sư, qua 40 năm, ngành trồng lúa đã được cơ giới hóa hoàn toàn. Sản lượng lúa tăng tốt nhưng chất lượng chưa cao. Chăn nuôi và cây ăn quả phát triển nhưng chưa bền vì sâu bệnh tăng. Xuất khẩu cũng tăng nhưng không ổn định, dễ “dội chợ”. Do đó, suy nghĩ về nông nghiệp 4.0 cũng hợp lý nhưng còn rất nhiều việc phải làm.

Theo khái niệm của Hiệp hội Máy Nông nghiệp châu Âu, nông nghiệp 1.0 xuất hiện ở đầu thế kỷ 20 vận hành với hệ thống tiêu tốn sức lao động, năng suất thấp. Nông nghiệp 2.0 là cuộc cách mạng xanh vào những năm 1950.

Nông nghiệp 3.0 diễn ra từ những năm 1990 với ứng dụng GPS, cảm biến, cơ giới hóa cao. Và gần đây, nông nghiệp 4.0 được nhắc đến từ khái niệm công nghiệp 4.0 do người Đức định nghĩa.

Với một số chuyên gia và nhà quản lý tại Việt Nam, việc hướng đến nông nghiệp 4.0 đang cần thiết để thay đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp vẫn trong tình trạng khối lượng nhiều – giá trị thấp, hiệu suất dùng đất đai và tài nguyên chưa cao. Ngoài ra, thị trường thế giới đang là thời cơ cần nắm bắt.

“Việt Nam có vị trí chiến lược tại Đông Nam Á để cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho khu vực. Ngoài ra, chúng ta đang nằm cạnh một thị trường hết sức lớn và dễ tính”, Tiến sĩ Đoàn Duy Khương – Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nêu ví dụ.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Cam, quýt Australia đổ về Việt Nam

Trên thị trường Việt Nam hiện có 3 loại cam, quýt Australia được bán với giá vài trăm nghìn đồng một kg.

Chị Hoa, ở quận Gò Vấp cho biết, gần đây chị chuộng quýt Australia dù giá lên tới 250.000 đồng một kg, đắt gấp 10 lần hàng Việt.

“Loại này vỏ mỏng, trái mọng nước ít bị khô như hàng Việt, được  thông tin là canh tác hữu cơ nên tôi yên tâm”, chị Hoa nói và cho biết, ngoài quýt Australia thì mặt hàng cam của nước này cũng được chị đặt mua thường xuyên.

Khảo sát của VnExpress cho thấy, cam, quýt Australia được bán khắp các chợ, cửa hàng nhập khẩu và siêu thị.

Tại chợ Bà Chiểu (TP HCM), cam quýt của Australia có giá 120.000 – 200.000 đồng một kg. Chị Vân, tiểu thương ở đây cho biết, mặt hàng này bán khá chạy, mỗi ngày cửa hàng của chị bán lẻ 2 – 3 thùng loại 15 kg. “Cứ đến tháng 9, 10 là cam quýt vào mùa. Tuy nhiên, các sản phẩm này vẫn không ngừng được lựa chọn, đặc biệt quýt Australia mới về được một tháng nay nhưng về đến đâu hết đến đó”, chị Vân nói

Không chỉ tại chợ, các hệ thống siêu thị Lottemart, Aeonmall… sản phẩm này cũng được bán với số lượng lớn. Tại Lotte, quýt Australia có giá 180.000 đồng hộp 9 trái nặng gần một kg. Theo nhân viên tại Lottemart Gò Vấp, loại này được siêu thị nhập về bán vài tuần nay, mỗi ngày tiêu thụ cả tạ quýt.

Còn tại các cửa hàng nhập khẩu quýt Australia được bán với giá 250.000 đồng một kg; cam vàng, cam ruột đỏ bán với giá 160.000 đồng một kg.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hiện nay lượng cam, quýt Australia vào Việt Nam tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Dữ liệu 9 tháng đầu năm cho thấy, giá trị nhập khẩu rau quả từ Australia vào Việt Nam tăng đột biến. Đây là một trong ba thị trường có mức tăng mạnh nhất so với cùng kỳ 2017. Cụ thể, 8 tháng, Việt Nam nhập 70,6 triệu USD rau quả từ Autralia, tăng 72,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 6,2% thị phần tại Việt Nam.

Trước đó, Chính phủ Australia cũng đã mở các chương trình đẩy mạnh xuất khẩu cam vào thị trường Việt Nam thông qua các siêu thị và cửa hàng với số lượng lớn. Bà Yvonne Chan, Tham tán thương mại cấp cao, Cơ quan Thương mại & Đầu tư Chính phủ Australia nhận xét, người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu ngày càng cao với các nguyên liệu tươi, ngon, sạch và tốt cho sức khỏe. Điều này đã giúp cho sản phẩm của Australia có mặt tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là cam, quýt.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gạo Việt Nam xuất khẩu miệt mài nhưng vẫn chưa đặc tên

Trong khi Thái Lan có thương hiệu gạo thơm Hom Mali, Campuchia gia nhập thị trường xuất khẩu sau cũng đã kịp có tên gạo Phka Romdoul… thì Việt Nam dù đã bền bỉ xuất khẩu gạo nhiều năm nay, thuộc top đầu thế giới vẫn chưa được định vị bằng một cái tên thật sự “danh chính ngôn thuận”.

Chỉ chú ý số lượng

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, xuất khẩu gạo liên tục tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,82 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2016; trị giá đạt khoảng 2,63 tỷ USD, tăng 22% so với 2016. Còn trong 9 tháng năm 2018, xuất khẩu gạo đạt 4,73 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017; trị giá đạt 2,38 tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ 2017. Dự kiến, cả năm 2018, xuất khẩu gạo sẽ đạt con số 3,2 – 3,3 tỷ USD.

Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, tới đây sẽ tiếp tục đàm phán mở cửa và phát triển thị trường, các biện pháp nhằm duy trì thị trường xuất khẩu ổn định, tăng cường quan hệ hợp tác thương mại gạo cả kênh Chính phủ và doanh nghiệp; đa dạng và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại.

Đến nay, Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Gạo Việt Nam có mặt tại 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới. Mặc dù vậy, Bộ Công Thương cho rằng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Tại hội nghị “Triển vọng sản xuất và thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam” ngày 10.10, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, những tiến bộ trong sản xuất và cơ cấu giống, mùa vụ, cùng với các biện pháp canh tác thích hợp đã từng bước nâng cao chất lượng gạo Việt Nam. Đáng chú ý, ngày 15.8.2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2018 thay thế Nghị định 109/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo, sẽ tiếp tục tạo dựng môi trường thông thoáng, thúc đẩy đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, thương mại gạo.

“Tuy vậy, phải thừa nhận một thực tế, mặt hàng gạo của Việt Nam cần khắc phục và hoàn thiện việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, marketing, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu; các sản phẩm gạo Việt Nam vẫn chưa được phần lớn người tiêu dùng các nước biết đến. Đây là những vấn đề cần được khắc phục thời gian tới” – ông Hải nói.

Đồng quan điểm, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết hiện nay cơ cấu chủng loại xuất khẩu gạo trắng cấp thấp, trung bình và gạo trắng phẩm cấp cao của Việt Nam vẫn chiếm gần 40%. Trong khi đó, các thị trường cạnh tranh về xuất khẩu gạo với Việt Nam đang ngày càng đầu tư nghiên cứu, nâng cao chất lượng gạo.

Trước bối cảnh trên, ông Hải cho hay, định hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới, ngành lúa gạo sẽ hướng đến sản xuất theo quy trình sạch, hữu cơ, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ lúa gạo. Xây dựng uy tín, thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới là những định hướng mà ngành gạo Việt Nam đang triển khai. “Hiện, gạo trắng cấp thấp chiếm hơn 30%. Thời gian tới, sẽ giảm gạo phẩm cấp thấp, nâng cao thị phần gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica” – ông Hải nhấn mạnh.

Xây dựng thương hiệu, cách nào?

Có thể thấy, điểm yếu nhất của gạo Việt hiện nay là chưa có thương hiệu. Theo ông Martin Albani – chuyên gia Tập đoàn Tài chính quốc tế: Thương hiệu chính là việc xác định hình ảnh. Trong đó, giai đoạn đầu tiên là đưa ra hình ảnh, tiếp đó là phát triển thương hiệu. Việc đưa ra thương hiệu không chỉ tác động đến chủ thương hiệu mà còn tác động đến khách hàng mà còn đối với đối tác.

“Theo khảo sát, người tiêu dùng chấp nhận trả mức giá cao hơn gấp đôi so với sản phẩm thông thường để mua các sản phẩm có nguồn gốc, có chỉ dẫn địa lý” – ông Martin Albani nói.

Lấy thêm ví dụ về Campuchia, theo ông Martin, ngành lúa gạo nước này bắt đầu gần như từ “tay trắng” nhưng nhờ chú trọng nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu, Campuchia đã khiến người tiêu dùng thế giới biết tới gạo của họ.

Bà Nguyễn Thúy Kiều Tiên – Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho rằng, các loại giống lúa Japonica, giống lúa theo thực phẩm chức năng, nhóm lúa hạt dài ở Việt Nam vẫn chưa tạo được sự vượt trội về hình dáng, hương vị so với các nước khác. “Muốn xuất khẩu gạo đem lại nhiều giá trị cần phải đặc biệt chú trọng tới giống lúa” – bà Tiên nhấn mạnh.

Trước thực tế trên, lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết, thời gian tới sẽ đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất lúa gạo, định hướng sản xuất gắn với tín hiệu thị trường; từng bước nâng cao và ổn định chất lượng gạo xuất khẩu; đảm bảo đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của các thị trường nhập khẩu về chất lượng, an toàn thực phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong sản xuất, chế biến lúa gạo; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu, bảo quản lúa gạo giảm tổn thất sau thu hoạch.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nguyên nhân đằng sau việc Malaysia ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam

Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp chế biến Malaysia (MOA) đã thông báo tạm dừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam với lý do dư lượng thuốc trừ sâu tối đa (MRL) vượt quá ngưỡng cho phép của nước này.

Theo phóng viên TTXVN tại Kuala Lumpur, ngày 11/10, Tham tán Thương vụ Việt Nam tại Malaysia, ông Phạm Quốc Anh cho biết có hai vấn đề cần lưu ý đằng sau việc Malaysia ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam.

Đó là không phải tất cả các đơn vị xuất khẩu ớt của Việt Nam đều vi phạm tiêu chuẩn MRL của Malaysia và quyết định tạm dừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam rất có thể liên quan đến chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trẻ do Chính phủ Malaysia bảo trợ.

Ông Phạm Quốc Anh cho biết mới đây, MOA rất quan tâm đến các hộ nông dân trồng ớt của Malaysia, đặc biệt là các nông dân trẻ tham gia chương trình bảo trợ của chính phủ, đồng thời bày tỏ mong muốn các nông dân Malaysia có thể cạnh tranh được với các nông dân trồng ớt nước ngoài.

Với lý do này, MOA đã quyết định cử đoàn công tác đến Việt Nam và Thái Lan, hai nước xuất khẩu ớt số lượng lớn vào Malaysia, để tìm hiểu thực địa.

Song song với việc trên, MOA cũng đã tiến hành một loạt hoạt động thanh kiểm tra đối với các sản phẩm ớt nhập khẩu được bán trên thị trường Malaysia.

Kết quả cho thấy không có hành động bán phá giá, song rõ ràng giá bán ớt nhập khẩu thấp đã gây áp lực lên các sản phẩm trong nước.

Ví dụ như ớt được trồng tại bang Johor được bán với giá 8 ringgit/kg (khoảng 45.000 VND), ớt dầu đỏ giá 6,5 ringgit/kg, trong khi giá ớt nhập từ Việt Nam chỉ ở mức 3,9 ringgit/kg.

Các cuộc thanh kiểm tra cũng nhằm xác định xem các sản phẩm ớt nhập khẩu có vi phạm các tiêu chuẩn về an toàn của Malaysia hay không. Thông báo tạm ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam được đưa ra sau các cuộc thanh kiểm tra nói trên.

Trong khi đó, ông Trần Văn Hân, chủ một doanh nghiệp xuất khẩu ớt sang Malaysia cho biết quyết định trên khiến hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam bị đình trệ.

Lệnh cấm không chỉ ảnh hưởng đến người trồng ớt Việt Nam mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng Malaysia vì họ không được phép tiếp cận với các sản phẩm ớt nhập khẩu giá rẻ của Việt Nam trong bối cảnh thị trường Malaysia nhập khẩu đến 80% để đáp ứng nhu cầu về ớt trong nước.

Trước tình hình trên, Thương vụ Việt Nam tại Malaysia đã có công văn gửi Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản Việt Nam, theo đó đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có văn bản chính thức yêu cầu phía Malaysia làm rõ tiêu chuẩn về tiêu chuẩn dư lượng thuốc trừ sâu cho phép để làm cơ sở cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tham khảo.

Bên cạnh đó, hai bên cần thảo luận để đi đến công nhận lẫn nhau về vấn đề kiểm định chất lượng, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn của Malaysia được tiếp tục cấp phép xuất khẩu sản phẩm vào nước này.

Bên cạnh đó, Chính phủ Malaysia cần có biện pháp tháo gỡ cho các doanh nghiệp xuất khẩu ớt của Việt Nam, cũng như đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng Malaysia.

Các doanh nghiệp Việt Nam rất cần những thông tin công khai của phía Malaysia về tiêu chuẩn nhập khẩu ớt, nhất là các tiêu chí về dư lượng thuốc trừ sâu cho phép, để các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình vào thị trường này.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam