Kỹ thuật chăm sóc cây cà phê sau vụ thu hoạch

Sau khi thu hoạch, cây cà phê bị mất sức sinh trưởng rất nhiều và cần có thời gian phân hóa mầm hoa, nở hoa, đậu trái… điều này ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cà phê mùa vụ tiếp theo.

Ở Tây Nguyên, mùa khô thường kéo dài từ tháng 11- tháng 4 hàng năm. Bước vào đầu mùa khô sẽ có những đợt gió lạnh, nhiệt độ hạ xuống thấp hơn nhưng vào giữa và cuối mùa khô, xuất hiện nắng nóng kéo dài, nhiệt độ tăng cao. Đây lại là giai đoạn cây cà phê bắt đầu phân hóa mầm hoa, nở hoa và quả non phát triển, giai đoạn này sẽ ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất và chất lượng của cà phê.

Vì vậy để giúp bà con có các biện pháp, kỹ thuật chăm sóc cây cà phê đạt hiệu quả cao nhất, cây cà phê sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao, chất lượng đảm bảo và đặc biệt  tăng thu nhập kinh tế cho người dân. Sau đây là một số kỹ thuật cơ bản chăm sóc cây cà phê sau thu hoạch.

1. Cắt tỉa cành cây cà phê sau thu hoạch

Cây cà phê cần phải có thời gian phân hóa mầm hoa sau khi thu hoạch (siết nước) như vậy tỷ lệ đậu quả đạt cao,người dân cần đốn đau kể kích thích cây cà phê ra hoa, đậu quả.

Cần tỉa những cành khô, lá héo,cành tổ quạ, cành chân vịt, cành già, cành sâu bệnh, cành còi cọc hay cành vô hiệu mọc trong tán sát mặt đất hay những cành thứ cấp quá dày vượt trên tán sau khi thu hoạch. Việc tỉa cành cần tiến hành cẩn thận bằng cưa hay kéo sắc để vết cắt ngọt sẽ không làm cành bị xước. Xác định vị trí cắt sao cho thích hợp để có được bộ tán cân đối, tập trung dinh dưỡng nuôi quả đạt hiệu quả cho năng suất cao.

2. Bón phân cho cây cà phê

Cây cà phê sau khi thu hoạch xong sẽ bị mất đi phần lớn dinh dưỡng, làm cây suy kiệt. Vì thế việc bón phân cung cấp dinh dưỡng kịp thời để cây phục hồi tốt, chuẩn bị cho lần ra hoa vụ sau rất quan trọng.

Phân bón đa lượng

– Đạm rất cần thiết để cà phê tăng trưởng mạnh trong điều kiện thời tiết khô hanh, nắng nóng kéo dài, giúp cây cà phê ra hoa đậu quả tốt, quả phát triển nhanh. Nếu thiếu đạm trong mùa khô sẽ làm cây bị cằn cỗi, lá ít, cành trơ , năng suất và chất lượng quả cà phê thấp.

 – Lân là một trong những yếu tố cần thiết cho việc phân hóa mầm hoa, nở hoa, nâng cao lượng hoa và quả. Nếu thiếu lân ở giai đoạn này, thì quá trình phân hóa mầm hoa bị ngừng hoặc chậm ra hoa, tỷ lệ đậu quả sẽ rất thấp, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cà phê. Trời nắng nóng, đất khô cằn trong mùa khô sẽ  làm lân trong đất bị cố định ở các dạng cây không hút được, dẫn đến tình trạng thiếu lân ở cà phê càng trở nên trầm trọng và việc bón các loại phân có lân dễ tan trong mùa khô là rất quan trọng và cần thiết.

– Kali sẽ là yếu tố giúp tăng tỷ lệ kết quả, tăng sức chống chịu sâu bệnh và thời tiết thất thường. Thiếu kali lá cây cà phê sẽ mỏng, mép lá khô, lá già sẽ nhanh rụng, nguy hiểm là sẽ rụng hàng loạt khi gặp những đợt gió đầu mùa. Thiếu kali cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoa và quả non rụng nhiều, tỷ lệ quả 1 nhân cao, năng suất và chất lượng giảm thấp.

Bón phân trung, vi lượng

Các yếu tố dinh dưỡng trung lượng như lưu huỳnh,  canxi, magiê là rất cần cho cà phê trong mùa khô, giúp cho nở hoa tốt, tỷ lệ kết quả cao, năng suất chất lượng tăng cao.

– Thiếu lưu huỳnh, lá sẽ non mỏng, giòn lá, lá chuyển vàng.

– Thiếu magiê, canxi, dễ gãy cành,cây yếu, rụng quả cho năng suất thấp.

– Các nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, đồng, bo, mangan, molypđen và clo cũng rất cần thiết cho việc tượng hoa, ra hoa, đậu quả, hạn chế rụng quả non của cà phê trong mùa khô. Ngoài ra các nguyên tố vi lượng này còn có tác dụng giúp cà phê tăng sức chống chịu sâu bệnh và chịu được nắng nóng trong mùa khô kéo dài. Khi thiếu các nguyên tố vi lượng này , cây sẽ  cằn cỗi, lá non nhăn hoặc dài ra, hạt phấn chậm phát triển, khả năng đậu quả thấp, sâu bệnh xuất hiện nhiều, năng suất và chất lượng thấp.

3. Phòng trừ sâu bệnh cho cây cà phê sau thu hoạch

Cần chú ý phòng trừ các loại sâu bệnh như: rỉ sắt, đốm mắt cua, rệp sáp, rệp vẩy, bọ xít trong mùa khô, đặc biệt bệnh rệp sáp rất phổ biến.

Phòng ngừa bệnh hại cho cây cà phê

Người dân cần phải theo dõi thường xuyên để phun thuốc ngay khi phát hiện có sâu bênh tránh để tình trang bệnh dịch phát triển nhanh, xâm nhập vào chùm quả sẽ rất khó diệt. Phun thuốc Fastac 5EC, Motox 2.5 EC hay Butal 10WP. Nếu cà phê bị rệp vẩy nên  phun Binhmor 40EC. Nếu cà phê bị bọ xít nên phun thuốc Cypermap 10EC.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Dự báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (13.11.2017)

Ở các tỉnh thành phía Nam, rầy nâu phổ biến tuổi 2 – 4, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

1. Trên lúa

1.1. Các tỉnh phía Bắc: 

Rầy, sâu cuốn lá, chuột, nhện gié, bệnh khô vằn, bạc lá, đốm sọc vi khuẩn, lem lép,… hại nhẹ trên lúa mùa muộn tại Hà Tĩnh.

1.2. Các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: 

– Trên lúa đông xuân cực sớm giai đoạn đẻ nhánh – làm đòng các đối tượng bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông hại nhẹ; giai đoạn mạ – đẻ nhánh sâu năn, sâu keo, bọ trĩ, dòi đục nõn… phát sinh gây hại nhẹ. Rầy, sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân, bệnh bạc lá… hại lúa mùa giai đoạn đẻ nhánh – chín.

– Chuột gây hại cục bộ trên lúa đông xuân giai đoạn đẻ nhánh và trên lúa gieo.

– Ốc bươu vàng di chuyển và lây lan theo nguồn nước và gây hại diện rộng sau mưa lũ.

1.3. Các tỉnh phía Nam: 

– Rầy nâu phổ biến tuổi 2 – 4, gây hại chủ yếu ở mức nhẹ – trung bình trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, hại nặng cục bộ trên lúa giai đoạn làm đòng trỗ.

– Bệnh bạc lá có khả năng phát triển mạnh trên lúa giai đoạn cuối đẻ nhánh đến trỗ, trên những diện tích lúa quá tốt do bón thừa phân đạm, nhất là trên các giống nhiễm C10, OM 4900, OM 5451, OM 7347…

2. Trên cây trồng khác

– Trên ngô và cây rau màu: Các đối tượng gây hại tiếp tục hại nhẹ – trung bình.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng rễ, bệnh chết chậm giảm; bệnh chết nhanh gây hại tăng nhẹ.

– Cây cà phê: Bệnh khô cành, gỉ sắt; rệp vảy xanh, rệp sáp, bệnh đốm mắt cua… gây hại tăng.

– Cây có múi: Sâu vẽ bùa, ruồi đục quả, bệnh loét, bệnh sẹo… hại tăng.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu tăng nhẹ.

– Cây điều: Bọ xít muỗi và bệnh thán thư tiếp tục phát sinh gây hại tăng.

– Cây mía: Bệnh chồi cỏ, bệnh trắng lá… gây hại cục bộ mía ở vùng ổ dịch.

– Cây sắn: Nhện đỏ, bệnh chổi rồng, bệnh khảm lá sắn… tiếp tục gây hại.

Nguồn: Cục Bảo vệ thực vật được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Quy trình sơ chế “Ủ” phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê

Vỏ cafe là nguồn nguyên liệu rất tốt để chế biến phân hữu cơ vi sinh chất lượng cao. Chất dinh dưỡng trong 1kg vỏ cafe tương đương 3 kg phân chuồng loại tốt . Vì hàm lượng hữu cơ cao trên 30% nên vỏ cafe đem bón mà không được ủ hoai mục thì lại là nguồn gây bệnh cho cây trồng.

Sử dụng 01 kg men HB-01 ủ cho lượng vỏ cafe của 1,2 – 1,5 tấn nhân.

CÁCH 1 : ủ theo quy trình chuẩn để được phân hữu cơ vi sinh chất lượng cao.

Chuẩn bị nguyên liệu:

  • Vỏ café : 1 tấn
  • Phân chuồng : 0,5 m3 (nhiều hơn càng tốt)
  • Lân nung chảy : 25-50 kg
  • Urê : 5 kg
  • Mật mía (hay đường vàng) : 0,5-1 kg
  • Men HB-01 : 1 kg (có thể nhiều hơn)

Qui trình :

Bước 1 : làm ẩm toàn bộ vỏ cà phê, tưới nước nhiều lần trước khi ủ sao cho vỏ mềm, để ráo nước (nếu không có điều kiện tưới thì khi trộn men có thể dùng ít nước tưới cho đều, hạn chế để róc nước, rồi sau 1 tuần ủ sẽ bổ sung thêm nước).

Bước 2 : hòa toàn bộ men trong nước đường (mật), lượng nước nhiều hay ít tùy vào lượng men và độ ẩm của vỏ cafe, tưới hỗn hợp vào đống vỏ, để thời gian 3-5 tiếng đồng hồ cho ngấm đều (làm sao khi tưới trộn hỗn hợp men phải bám tương đối đều cả trên lẫn dưới đống vỏ, nước men không bị rỉ xuống dưới).

Bước 3 : tiến hành ủ : hỗn hợp vỏ cafe + lân + urê + phân chuồng được trộn đều, chọn chỗ đất bằng và nhẵn, rải một lớp vỏ quả 40cm rộng ít nhất 2,0m, chiều dài tùy thuộc vào lượng vỏ café thành luống rồi tưới nước men đều lên mặt luống. Tiếp tục rải một lớp hỗn hợp dày 30cm và tưới nước men….làm khoảng 5 lớp sao cho đống ủ cao >1,5m. Ủ xong phủ toàn bộ bạt để giữ ẩm và nhiệt. Tuyệt đối không được nén chặt đống ủ ( không dẫm đạp lên đống ủ) .

Bước 4 : Sau khi ủ một tuần thì tiến hành kiểm tra đống ủ: đống ủ nóng, có nhiệt độ 70 độ C trở lên, có màu nâu đen là tốt, màu nâu nhạt là do thiếu nước, phải tưới thêm nước (hầu như toàn bộ đều phải tưới thêm nước). Lượng nước nhiều quá hoặc ít quá đều ảnh hưởng đến quá trình phân hủy của men.

Sau 20 ngày tiến hành đảo trộn, lên đống và nén thật chặt, khoảng 75 – 90 ngày đống ủ sẽ hoàn toàn hoai mục, ta tiến hành rỡ bạt để 1- 2 ngày rồi mang đi bón hoặc hong khô đóng bao

CÁCH 2: ủ tắt để phân hủy vỏ trấu caphe hoai mục (cách này không dùng chất phụ gia)

Qui trình :

Bước 1 : làm ẩm toàn bộ vỏ cafe, tưới nước nhiều lần trước khi ủ sao cho vỏ trấu mềm, để ráo nước, (nếu không có điều kiện tưới thì khi trộn men có thể dùng ít nước để tưới cho đều, hạn chế rỉ nước rồi sau 1 tuần ủ sẽ bổ sung thêm nước).

Bước 2: hòa 1kg men trong 50– 100L nước (lượng nước nhiều hay ít tùy vào lượng men và độ ẩm của vỏ quả cafe, làm sao khi tưới trộn men phải bám tương đối đều cả trên và dưới của đống ủ, nước men không bị rỉ xuống dưới), để thời gian 3-5 tiếng đồng hồ. Chọn chỗ đất bằng và nhẵn, rải một lớp vỏ cafe 40cm rộng tối thiểu 2,0m, chiều dài tùy thuộc lượng vỏ cafe, rồi tưới nước men đều lên mặt luống. Tiếp tục rải 30cm vỏ và tưới nước men… làm khoảng 5 lớp sao cho đống ủ cao >1,5m. Ủ xong phủ bạt lên toàn bộ để giữ ẩm và nhiệt, tuyệt đối không được nén chặt đống ủ ( không đi lại trên đống ủ) .

Bước 3: Sau khi ủ một tuần thì tiến hành kiểm tra đống ủ: đống ủ nóng (có nhiệt độ > 70oc), đống ủ có màu nâu đen là tốt, màu nâu nhạt thì thiếu nước khi đó phải tưới thêm nước. (Hầu như toàn bộ phải tưới thêm nước).
Lượng nước nhiều quá hoặc ít quá đều ảnh hưởng đến quá trình phân hủy của men.

Sau 20 ngày tiến hành đảo trộn, lên đống và nén thật chặt, khoảng 75 – 90 ngày đống ủ sẽ hoàn toàn hoai mục ta tiến hành dỡ bạt để 1- 2 ngày rồi mang đi bón hoặc hong khô đóng bao.

Cách sử dụng phân vi sinh :

  • Cafe kiến thiết cơ bản bón 2-3 kg/cây ; cà phê kinh doanh bón 4-6 kg/cây.
  • Phân ủ có mật độ vi sinh vật sống cao nên khi bón đất phải ẩm càng nhiều càng tốt (bón vào mùa mưa là tốt nhất).
  • Không nên trộn chung với các loại thuốc hóa học để vi sinh vật tiếp tục hoạt động giúp cho cây cafe chống bệnh thối rễ vàng lá.
  • Những cây cà fê nào bị thối rễ vàng lá thì bón nhiều phân ủ và giảm phân vô cơ.

*** Ghi chú thêm :

  • Cách tưới nước bổ sung: dùng ống nước cắm trực tiếp vào đống ủ rồi bơm nước, thường xuyên tưới bổ sung cho đống ủ.
  • Không sử dụng nước máy hay các loại phân khác để ủ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn cách phơi cà phê kiểu mới đem hiệu quả cao

Cách phơi cà phê kiểu mới đem hiệu quả cao Viện khoa học nông lâm nghiệp Tây Nguyên đề xuất cách phơi cà phê mới đơn giản, dễ áp dụng ở từng nông hộ và có thể vừa hái vừa phơi trên rẫy.

Phơi cà phê trên giá

Dùng những cây tre/thanh gỗ đóng giá phơi giống như kiểu làm cây thang. Tùy vị trí đặt và phương tiện chuyên chở giá phơi đến vị trí phơi, chiều dài một khung tre có thể từ 2 – 6 m. Cắt các khúc ngọn tre làm thanh đà ngang dài 1,2 hoặc 1,4 m. Đục các lỗ tương ứng cách nhau 40 cm trên hai thanh dài để lắp các thanh đà ngang. Dùng ngàm/chốt nối 2 đoạn tre dài với các đoạn tre ngắn thành khung giá. Chẻ những thanh tre có bản rộng 2 – 3 cm, chuốt sơ, tề đầu, đóng cách nhau 3 cm vào các thanh đà. Chân giàn cao 0,7 – 0,8 m tiện cho việc đứng phơi, thu gom; có thể đóng cố định xuống đất, tạo thành ngựa hay dùng các sọt nhựa hình chữ nhật dễ di chuyển. Dựng giá phơi ở chỗ nhiều nắng và có gió càng tốt. Dùng bạt nhựa loại 2 da hay có chỉ (bền, xài được nhiều năm) rộng 1,5 – 1,6 m trải lên mặt giàn. Hái được bao nào, đổ lên giàn, trải mỏng phơi liền. Gặp mưa chỉ cần kéo nửa tấm bạt đậy lại, trời hửng giở ra, lâu lâu quơ tay đảo trở.

Phơi cà phê trên giá kết hợp với hiệu ứng lồng kính

Giá phơi làm như trên. Làm thêm tấm “kính” bằng nylon hay polyester trong suốt có kích thước bằng hay lớn hơn một chút với giá phơi. Trong 1 giờ đầu buổi sáng, tấm “kính” được đậy lên giàn phơi. Khi bên ngoài nhiệt độ 20 – 30 độ C, bên trong lồng kính tăng đến 40 – 50 độ C, hơi nước trong trái cà phê bay hơi nhanh hơn. Sau 1 – 1 giờ 30, dùng đoạn cây dài 30 – 40 cm chống một bên của tấm “kính” lên, việc này quan trọng giúp hơi nước bay đi mà không thấm lại vào trái cà phê. Nắng vẫn xuyên qua tấm “kính”, nhiệt độ trong lồng kính cao vẫn làm sự bay hơi nước liên tục, cà phê mau khô. Nếu trời mưa, chỉ cần sập tấm “kính” xuống là cà phê không bị ướt.

Nhà kính phơi cà phê

Phát triển từ phơi giá và tấm “kính” làm tăng nhiệt độ, phơi cà phê mau khô. Theo cách này, chế nhà vòm mỗi chiều khoảng 2,5 – 3 m lợp “kính”, dựng ngoài trời, có “nồi hút gió” trên nóc. Phủ “kính” kín từ nóc, tứ bề đổ xuống nền xi măng. Bố trí 2 – 3 cửa thông (lấy) gió dài 30, rộng 15 cm ở hai bên, cách mặt đất 20 cm. Trong nhà vòm có nhiều tầng đặt giá lưới sắt hay nan tre, giá dưới cùng cách mặt đất 30 – 35 cm, các tầng trên cách nhau 25 – 30 cm. Khi trời nắng, nhiệt độ ngoài trời đạt 30 độ C thì trong nhà vòm là 60 độ C, cà phê rất mau khô. Không khí trong nhà vòm bị nung nóng bởi hiệu ứng nhà kính bốc lên cao đi qua các giàn cà phê cần phơi, bay ra ngoài qua nồi gió. Các luồng không khí đi vào từ bên dưới, vào nhà vòm, bốc lên cao một cách tuần hoàn; trong khi không khí nóng di chuyển giúp cà phê khô mau.

Nguồn: Trung tâm nguyên cứu nông vận nông được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Người dân trồng mía Khánh Hòa trắng tay sau bão

Hàng ngàn ha mía ở Ninh Hòa (Khánh Hòa) đổ rạp, gãy ngọn, bật gốc sau bão 12 đi qua. Một vụ mía trắng tay.

Đã nhiều năm, người trồng mía Khánh Hòa mới chịu thiệt hại nặng nề đến như thế. Nhiều người thua lỗ hàng trăm triệu đến cả tỷ đồng.

Đổ rạp, bật gốc toàn bộ

Là địa phương có diện tích mía lớn của tỉnh Khánh Hòa, khi cơn bão số 12 đi qua, hầu hết các cánh đồng mía ở TX Ninh Hòa đều bị hư hại. Thống kê sơ bộ, có 7.768ha mía chịu thiệt hại do bão. Trong đó, nhiều địa phương như Ninh Thượng, Ninh Tây, Ninh Sim… diện tích thiệt hại trên 1.000ha.

Sau bão, diện tích trồng mía trên địa bàn TX Ninh Hòa (Khánh Hòa) chịu thiệt hại nặng nề

Ông Lê Thiện Nhất, Phó chủ tịch xã Ninh Sim, cho biết, trên địa bàn có khoảng 1.800ha mía gãy đổ, bật gốc. “Tùy từng cây ở độ tuổi nào mà chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau. Những cây lớn thường bị gãy ngọn, thân, còn  cây nhỏ thì đổ rạp, bật gốc. Nói chung là tỷ lệ diện tích thiệt hại lên đến 100%. Chắc chắn năng suất mía sẽ giảm khoảng 50%”, ông Nhất nói.

Được biết, vụ thu hoạch mía tại Ninh Hòa sẽ bắt đầu từ cuối tháng 12 cho đến tháng 5 năm sau. Qua quan sát, hầu như toàn bộ những cây mía lớn, chỉ còn khoảng 2 tháng nữa là thu hoạch đều bị gió bẻ gãy ngang thân, ngọn đứt lìa. “Năng suất sẽ giảm khoảng 50 – 70% vì cây đã gãy như thế thì không phát triển được nữa”, ông Cao Văn Cảnh (Ninh Sim) – một người dân trồng mía cho biết.

Vụ mía này, ông Cảnh canh tác diện tích 20ha. Tính tất cả chi phí đầu tư, phân bón, nhân công… ông đã bỏ ra khoảng 800 triệu đồng. Bình thường với diện tích này mỗi năm sẽ đem lại cho ông khoảng 200 – 300 triệu tiền lời thì năm nay, gia đình ông sẽ thua lỗ với con số tương tự.

Trắng tay sau bão

Cũng giống như ông Cảnh, do ảnh hưởng của bão, toàn bộ 57ha mía của gia đình ông Nguyễn Hữu Điền (Ninh Xuân, Ninh Hòa) cũng thiệt hại hoàn toàn. Ông Điền nghẹn ngào: “Còn gì đâu mà nhắc đến nữa. Tôi bỏ ra hơn 2 tỷ đồng đầu tư cho đồng mía giờ toàn bộ vốn liếng gần như đi sạch. Dù có vớt vát lại cũng phải lỗ gần cả tỷ đồng rồi. Số tiền lỗ còn có thể hơn nữa vì năm nay, mía đổ nghiêng ngả nên thu hoạch khó. Tiền công chặt năm ngoái trung bình 200.000 đồng mỗi tấn chứ năm nay có thể lên đến 300.000 đồng, càng thêm lỗ”.

Những cây mía sắp đến thời kỳ thu hoạch đều bị gió bão làm gãy ngọn

Đau xót không kém là trường hợp của gia đình ông Nguyễn Văn Được (Ninh Tây). Mấy ngày nay, dù căn nhà của ông bị đổ sập, mọi thứ còn ngổn ngang chưa dọn dẹp nhưng vì quá buồn bã ông cứ đi loanh quanh khắp nơi cho khuây khỏa. Toàn bộ diện tích 45 ha mía của ông đều bị bão tàn phá hư hại.

“Mất sạch rồi chú à. Mấy ngày nay người trồng mía chúng tôi đã khóc cạn nước mắt. Trồng mía ở đây mấy chục năm chưa có năm nào cây mía bị tàn phá hoàn toàn như thế. Trong 6 tiếng đồng hồ, bao nhiêu tiền bạc, vốn liếng ra đi sạch”, ông Được nói.

Lặng lẽ đi vào ruộng mía, ông Được cho biết thêm, với cây mía đã ngã đổ thì người dân chỉ biết để vậy chứ không có cách nào khắc phục. Khi nào thu hoạch chặt được chừng nào hay chừng đó. “Mía chưa phát triển tối đa đã gãy đổ thì tỷ lệ chữ đường cũng thấp, giá bán thấp hơn. Những cây mía còn nhỏ, khoảng 6 – 7 tháng nữa mới thu hoạch giờ bị ngã như thế chỉ bỏ luôn chứ làm gì được. Tính ra năm nay nhà tôi thua lỗ gần 700 triệu đồng”, ông Được nói.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

“Cải lão hoàn đồng” những giống cà phê đặc sắc

Sau nhiều thập niên gần như bị lãng quên, các giống cà phê đặc sắc, quý hiếm bậc nhất thế giới như Bourbon, Moka… đang được phục tráng, trồng trở lại tại Cầu Đất và vùng phụ cận của Đà Lạt – Lâm Đồng. Các hãng cà phê lớn trên thế giới sẵn sàng đặt hàng, báo giá trước khi thu hoạch tới vài tháng.

Thu hoạch cà phê Arabica.

Thương hiệu trăm năm

Từ những thập niên đầu của thế kỷ trước, người Pháp đưa một số giống cà phê Arabica nổi tiếng thế giới như Moka, Bourbon… sang trồng tại Cầu Đất (xã Xuân Trường), cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 20km. Dòng cà phê Moka nhanh chóng thích nghi với vùng đất mới, nơi có độ cao lý tưởng 1.600m, khí hậu lạnh, có sương mù… Moka Đà Lạt đã góp phần làm rạng danh thương hiệu “Arabica du Tonkin” tại Pháp từ trăm năm trước. Theo các “tín đồ” của dòng Moka, loại cà phê này có hương thơm quyến rũ, hậu vị sâu và thanh chua tinh tế.

Một dòng cà phê được xếp vào loại quý hiếm nhất nữa là Bourbon với hạt nhỏ màu xanh biếc, hương thơm quý phái, ngất ngây, vị hơi chua một cách thanh thoát và hậu vị hơi đắng như socola. “Một khi đã thưởng thức hương vị đích thực của Bourbon, người ta sẽ luôn nhớ đến nó hơn bất kỳ loại cà phê nào”, một du khách Mỹ thốt lên sau khi thưởng thức ly cà phê Bourbon tại resort 4 sao Ana Mandara Villas Dalat.

Đây là loại cà phê mang về giải Nhất 2 năm liên tiếp (2015-2016) cho ông Lê Thành An (Đà Lạt) tại cuộc thi tuyển chất lượng cà phê Arabica của Việt Nam do UCC Nhật Bản – UCC châu Âu tổ chức tại Lâm Đồng. Vì khó trồng và năng suất thấp nên giá cà phê Bourbon thường cao gấp đôi các loại Arabica khác.

Theo các chuyên gia đến từ Công ty Cà phê UCC UESHIMA COFFEE CO.LTD, cà phê Arabica hiện có nhiều dòng khác nhau. Dòng Bourbon được trồng tại Đà Lạt có giá trị cao nhất Việt Nam và chất lượng hương vị sánh ngang với cà phê ngon nhất thế giới.

Nhãn hiệu độc quyền

Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) vừa cấp chứng nhận nhãn hiệu độc quyền cho sản phẩm “Cà phê Cầu Đất Đà Lạt”. Kết quả khảo sát mới nhất cho thấy, Cầu Đất – Xuân Trường hiện có gần 1.300 ha, phần lớn là cà phê kinh doanh hơn 10 năm tuổi. Đây là diện tích đã được cấp “sổ đỏ”, nếu cộng thêm những vườn cà phê trồng trên đất đang chờ phân định nông-lâm thì diện tích cà phê Arabica tăng hơn gấp đôi.

Theo Phòng Kinh tế thành phố Đà Lạt, ngoài Cầu Đất, Arabica còn được trồng tại các xã Trạm Hành, Xuân Thọ và một số phường, nâng tổng diện tích lên khoảng 3.500ha, chiếm hơn 85% diện tích cà phê và 33% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn thành phố. Năng suất bình quân đạt 2,7 tấn/ha, sản lượng ước đạt gần 11 ngàn tấn/năm.

Cuối tháng 10 vừa qua, UBND thành phố Đà Lạt đã cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Cà phê Cầu Đất Đà Lạt” đợt đầu tiên cho 10 công ty, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến cà phê nhân và cà phê bột Arabica tại Đà Lạt. “Đây là tài sản trí tuệ của thành phố nên chúng tôi cam kết không tự ý chuyển nhượng nhãn hiệu với bất kỳ hình thức nào. Mục tiêu của doanh nghiệp là duy trì, phát triển và không ngừng nâng cao giá trị, chất lượng của sản phẩm cà phê Arabica”, ông Phan Đắc Phú, Giám đốc Cty TNHH cà phê Arabica Cầu Đất Phú Vinh, nói.

Cơ sở chế biến với công suất 100 tấn tươi/ngày của Phú Vinh được đặt tại xã Xuân Thọ, vùng cà phê Arabica rộng lớn với diện tích hơn 540 ha, ước tính tổng sản lượng hơn 1.500 tấn nhân. Hiện đang vào vụ thu hoạch 2017 – 2018. Hội Nông dân xã tích cực vận động nông dân hạn chế tối đa thu hái cà phê xanh, chỉ tập trung thu hái cà phê đủ độ chín để bán cho công ty này.

Các chuyên gia ngành cà phê khuyến cáo trong vòng 24 giờ sau khi thu hái phải đưa cà phê vào chế biến để đảm bảo chất lượng. Ủ lên men đúng kỹ thuật sẽ làm cho hương vị cà phê dịu và thơm ngon tự nhiên. Cà phê phơi nắng có màu sáng trong hơn cà phê sấy; hương vị cũng  ngon hơn…

Kỳ công phục tráng

Theo ông Phạm S, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, Arabica còn được trồng ở Mộc Châu (Sơn La), Sa Pa (Lào Cai) và một số vùng ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị… Thế nhưng cà phê Arabica ở Đà Lạt và một số tiểu vùng tại huyện Lạc Dương (Lâm Đồng) vẫn đạt chất lượng cao nhất bởi vì dẫu ưa khí hậu lạnh nhưng Arabica không chịu được nhiệt độ thấp kéo dài dưới 12 độ C của những nơi khác.

Với độ cao lý tưởng (trên 1.500m) và biên độ nhiệt phù hợp, Đà Lạt-Lâm Đồng trồng được những loại cà phê Arabica có giá cao nhất thế giới như Moka, Bourbon… Tuy nhiên vì đây là những giống khó trồng và dễ bị sâu bệnh nên nông dân chưa mặn mà, giống bị thoái hóa dần.

Những năm gần đây, ông Pierre Morère từ Pháp đã trở lại Lâm Đồng để phục tráng giống cà phê Bourbon mà ông ngoại và mẹ ông từng phát triển thành những đồn điền tươi tốt từ những năm 30 của thế kỷ trước. Ông chuyển giao cây giống và kỹ thuật cho nhiều nông dân ở Lâm Đồng trồng cà phê, sau đó bao tiêu sản phẩm để chế biến thành công loại cà phê mang thương hiệu Bourbon Morère Pointu rồi bán tại Việt Nam và đưa đi tiếp thị rộng rãi ở nước ngoài.

Ông Phạm S cho biết đã tham quan vùng cà phê Bourbon này và nhận thấy tiềm năng rất lớn, do đó tỉnh đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn lập trại nhân giống cà phê Bourbon. Nếu thành công thì 2 năm nữa sẽ có đủ cây giống để trồng quy mô lớn.

Nguồn: Báo Tiền Phong được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nhân giống cà phê

Cà phê là một cây công nghiệp dài ngày, chu kỳ kinh tế trên 40 năm tuỳ theo từng giống, điều kiện trồng chế độ chăm sóc và mục đích khai thác. Vì vậy để bảo đảm cho việc sản xuất kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao thì việc chọn giống cũng như kỹ thuật nhân giống thích hợp có tính quyết định.

1. Chọn cây lấy hạt giống

Chọn cây đã cho trái 6 – 8 năm, năng suất cao và ổn định, kháng sâu bệnh, dạng hình dẹp. Chọn trái chín có hai nhân phát triển cân đối.

2. Xử lý hạt giống và gieo hạt

Hạt đã nãy mầm đem gieo vào bầu đất trong túi nhựa PE (kích thước túi 17 × 25cm, có đục 8 lỗ nhỏ 0,5cm phía gần đáy).

Đất trong bầu là đất mặt tốt, tơi xốp, hàm lượng mùn trên 3%. Dọn sạch lớp cây cỏ, cây và vật lạ trên mặt, lấy lớp đất màu trong độ sâu 10cm, trộn đều với phân hữu cơ thật hoai và phân lân. Hỗn hợp đất phân được sàng qua lưới sàng 5mm, phần không qua sàng tiếp tục làm nhỏ và sàng trở lại.

Bầu phải chặt, cân đối, thẳng đứng, chừa trồng miệng bầu từ 0,5 – 1cm đã rãi trấu hoặc mùn cưa sau khi đã ương hạt.

Trước khi gieo hạt vào bầu hạt giống phải được xử lý cho nẩy mầm theo trình tự sau:

– Hòa nước vôi theo tỉ lệ 1kg vôi/50 lít nước để lắng gạn lấy phần nước trong, đem đun nóng đến 54 – 60ºC (3 phần nước sôi 2 phần nước lạnh) và cho hạt giống vào ngâm trong 18 giờ, sau đó với ra đãi hết nhớt bằng nước sạch.

– Ủ hạt giống trong luống chìm rộng 1 – 1,2m, sâu 0,6 – 0,8m kể từ đáy luống lên có những bước sau:

+ Thân lá xanh còn tươi (20 – 25cm)

+ Phân chuồng chưa hoai (20 – 25cm)

+ Lớp vôi mỏng (0,5kg/m2)

+ Lớp bao tải

+ Lớp hạt giống thời kỳ đầu dày chùng 10 – 15cm tưới đẩm nước (khi hạt bắt đầu nẩy mầm thì rảy mỏng từ 5 – 8cm)

+ Lớp bao tải khô.

+ Rơm khô (càng dày càng tốt).

+ Chung quanh khu luống ủ có vách cao 2m, có liếp che phía trên để mỏ được ban ngày, đậy lại ban đêm.

Khi cây có 2 lá mầm tiến hành nhổ cây con, chọn những cây có một rễ đuôi chuột đem trồng vào bầu đã chuẩn bị ở vườn ươm.

3. Chăm sóc cây con

– Tưới nước: Cây nhỏ tưới ít và nhiều lần, cây lớn tưới nhiều và ít lần trong ngày.

– Tưới phân thúc: tưới dung dịch urê và clorua kali theo tỷ lệ 2:1 (với nồng độ 1%), xen kẽ với dung dịch phân hữu cơ ngâm (phân trâu, bò, phân xanh, bánh dầu,…) cho hoai mục, cây nhỏ tưới loãng, cây lớn tưới đậm hơn.

– Chăm sóc: Nhổ cỏ, phá váng không để bầu ngập nước. Trong vườn ươm lưu ý bệnh lở cổ rễ và bệnh vàng lá.

– Đảo cây: cây con có 3-4 đôi lá thật, tiến hành đảo cây, xếp cây lớn vào giữa luống, cây nhỏ ở hai bên luống để cây phát triển đều. Lưu ý xếp thưa dần khi cây lớn.

Chú ý: dỡ dàn che từ từ, khi cây đủ tiêu chuẩn cần dỡ bỏ dàn che hoàn toàn trước khi trồng mới 30 ngày.

4. Tiêu chuẩn cây giống

a. Cây thực sinh

Cây con được ươm từ hạt trước khi trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:

– Tuổi cây: 6 – 8 tháng.

– Chiều cao thân kể từ mặt bầu: 25 – 35cm, thân mọc thẳng.

– Số cập lá thật: 5 – 7.

– Đường kính gốc: 3 – 4mm

– Cây không bị sâu bệnh, dị hình và được luyện dưới ánh sáng hoàn toàn từ 10 – 15 ngày trước khi trồng.

– Kích thước bầu đất: 14 – 15 x 24 – 25cm

b. Cây ghép

Ngoài tiêu chuẩn cây thực sinh, cây ghép cần phải đạt:

– Chồi ghép có chiều cao trên 10cm và có ít nhất 1 cặp lá phát triển hoàn chỉnh.

– Chồi được ghép tối thiểu 1 tháng trước khi trồng.

5. Ghép cải tạo và nâng cấp vườn

Dùng chồi của những dòng cà phê cho năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, ghép trên gốc cà phê xấu, đã được ứng dụng và cho kết quả tốt.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 3

Farmtech VietNam xin giới thiệu cho bạn đọc về cách phòng trị các loài bệnh thường gặp ở cây cà phê vối và nhưng lưu ý khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

VIII- PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH:

1. Bệnh hại

1.1- Bệnh lở cổ rễ (nấm Rhizoctonia solani): 

Bệnh thường gây hại cây con ở vườn ươm và thời kỳ kiến thiết cơ bản. Bệnh hại ở phần cổ rễ, làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại.

Phòng trị: Tiêu huỷ những cây bệnh nặng, dùng các loại thuốc để tưới vào gốc như: Validamycin (Validacin); Pencycuron (Monceren) hoặc các loại thuốc gốc đồng.

1.2 – Bệnh khô cành, khô quả (nấm Collectotrichum coffeanum)

Bệnh thường phát triển vào đầu mùa mưa nhưng thể hiện rõ rệt khi quả còn non đến lúc 6-7 tháng tuổi.

Phòng trị: Bón phân đầy đủ, kịp thời cân đối NPK, dùng các loại thuốc Propineb (antracol); Carbendazim(bavistin); hoặc các loại thuốc gốc đồng như copper sulfat (Bordeaux), Kasugamycin 2 % + Copper Oxychloride 45% (Kasuran) để phòng trừ 2-3 lần/vụ.

1.3 – Bệnh tuyến trùng:

Do tuyến trùng Pratylenchus coffae gây vết thương, tuyến trùng Meloidogyne spp. gây nốt sần, tuyến trùng Tylenchus gây nội sinh. Cây bị bệnh thường sinh trưởng kém, vào mùa khô thường bị vàng héo, có khả năng lây lan lớn.

Phòng trị: Phát hiện sớm, tiêu hủy những cây bệnh nặng, cây bị bệnh nhẹ nên tăng cường bón phân hữu cơ, xử lý đất bằng thuốc cytokinin (Sincocin).

1.4 – Bệnh rỉ sắt (Hemileia vastatrix)

Triệu chứng: Bệnh thường xuất hiện ở những vườn cây già cỗi, đầu tư kém. Bệnh hại trên lá, vết bệnh hình tròn, có lớp bột phấn vàng màu da cam ở mặt dưới lá. Bệnh làm rụng lá, thường hại nặng vào tháng 10-11-12 và tháng 3, 4 trong năm.

Phòng trị: Cuối mùa mưa (tháng 10-110 dùng copper sulfat (Bordeaux 1%) hay copper hidroxide (Champion) phun mặt dưới lá 3-4 tuần/lần khi bệnh mới xuất hiện. Hiện nay có thể dùng các loại thuốc nội hấp Hexaconazole 85% (Anvil), cyproconazole 94% (Bonanza), Propiconazole 90% (Tilt).

Chú ý: Bệnh đã phát triển cần vệ sinh vườn, tỉa cành cho thông thoáng kết hợp với dùng thuốc hóa học.

1.5 – Nấm hồng (Corticium salmonicolor)

Tác hại trên cành và phần ngọn của cây, thường phát sinh mạnh vào đầu và trong mùa mưa, khi phát hiện thấy cành bị bệnh và cắt đốt kịp thời. Tiến hành phun thuốc trừ, phòng trong giai đoạn bệnh phát triển. Dùng Bordeaux hay Oxyt clorua 1% phun vào vùng bị bệnh, boặc dùng dung dịch Bordeaux 5% quét lên vết bệnh ở cành chưa bị héo.

2. Sâu hại

2.1- Rệp sáp (Pseudococus. Spp):

Gây hại ở chùm quả và vùng rễ làm cho cây cà phê phát triển kém, làm rụng quả. Thường xuyên theo dõi và phát hiện sớm. Thực hiện phun thuốc trên những cây phát hiện rệp

Phòng trị: Phát hiện sớm dùng Alpha-cypermethrin 90% (Fastac), Methidathion 96% (Supracide 40 EC).

2.2 – Mọt đục cành (Xyleborus mortati):

Phá hại chủ yếu trong thời kỳ kiến thiết cơ bản sang thời kỳ kinh doanh.

Phòng trị: Phát hiện cắt bỏ kịp thời, gom đốt những cành bị mọt.

2.3 – Sâu đục vỏ trái (Prays endolemma):

Thường tấn công trái non làm rụng trái hay tạo các ụ lớn trên vỏ trái làm trái bị biến dạng, giảm giá trị sản phẩm.

Phòng trị: Cần theo dõi thu gom các trái rụng đem chôn để trừ ấu trùng đang phát triển trong vỏ trái.

2.4 – Mọt đục trái (Stephanoderes lampei):


Đục từ núm quả vào trong sau đó phá hạt. Dùng các loại thuốc để trừ như: Phun Fenvalerate 92% (First 20EC), Etofenprox 96% (Trebon), Lambda-cyhalothrin (Karate) vào giai đoạn quả chuyển từ xanh sang chín.

2.5 Sâu đục thân thường gọi là Bore (Xylotrechus quadripe).

 Chỉ tác hại trên giống cà phê chè ở tuổi cây thường từ cuối năm thứ 3 trở đi. Sâu đẻ trứng vào kẻ nút của vỏ sau đó sâu non nỏ vào phá hoại phần gỗ bên trong thân cây là cho cây héo rồi chết. Loại sâu này khả năng xuất hiện quanh năm nhưng tập trung đẻ trứng rộ vào hai thời kỳ xuân, hè (tháng 3,4,5) và thu đông (tháng 10,11).

Trồng cây bóng mát cho cà phê để hận chế sự tác hại của sâu. Dùng Boremun 4% phun phủ kín lên thân cây từ ngọn đến gốc 1 năm 2 lần để diệt trừ trứng, sâu non và sâu trưởng thành vào tháng 3-4 (xuân – hè) và tháng 10-11 (vụ thu đông). Những cây bị sâu nặng phải kịp thời cưa cắt kịp thời để kịp thời diệt nguồn sâu trưởng thành.

VI. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT

1. Kỹ thuật sử dụng thuốc

1.1 Sử dụng theo 4 đúng

a. Đúng thuốc: căn cứ đối tượng dịch hại cần diệt trừ và cây trồng hoặc nông sản cần được bảo vệ để chọn đúng loại thuốc và dạng thuốc cần sử dụng.
b. Đúng lúc: dùng thuốc khi sinh vật còn ỏ diện hẹp và ở các giai đoạn dễ mẫn cảm với thuốc (thời kỳ sâu non, bệnh chớm xuất hiện).
c. Đúng liều lượng, nồng độ: đọc kỹ hướng dẫn trên nhãn thuốc và liệu lượng nước trên một đơn vị diện tích.
d. Đúng cách: tùy vào dạng thuốc, đặc tính thuốc và những yêu cầu kỹ thuật cũng như nơi xuất hiện dịch bệnh mà sử dụng cho đúng cách.

1.2 Hỗn hợp thuốc

Là pha hai hay nhiều loại thuốc nhằm trừ cùng một lúc được nhiều dịch hại, tuy nhiên cần lưu ý các điểm sau: chỉ nên pha các lọai thuốc theo sự hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc, bảng hướng dẫn pha thuốc hoặc sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật chuyên ngành biết rõ về đặc tính của thuốc.

2. An toàn trong sử dụng thuốc BVTV

2.1 Những tình huống bị nhiễm thuốc BVTV
– Nuốt phải thuốc
– Hít phải thuốc.
– Dính vào da.
Trong đó nuốt phải thuốc là dễ trúng độc nhất.

2.2 Triệu chứng ngộ độc thuốc BVTV
– Toàn thân: mệt mỏi, phờ phạc, sốt nóng hoặc rét lạnh.
– Da: tấy đỏ, viêm, đổ mồ hôi, xạm hoặc tái xanh.
– Mắt: ngứa, viêm đỏ, chảy nước mắt, mờ nhìn không rõ, có trường hợp đồng tử co hoặc giãn.
– Hệ hô hấp: hắt hơi chảy nước mũi ho đâu ngực, khó thở.
– Hệ thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, cử động rối loạn, cơ bắp co giật, bồn chồn, đi lảo đảo, nói đớ lưỡi, người xỉu đi, bất tỉnh.
– Hệ tiêu hóa: miệng và họng bị nóng, ra nhiều nước dãi, buồn nôn, ói mửa, đau bụng, co thắt dạ dày, tiêu chảy.

2.3 Các biện pháp sơ cứu khi nhiễm thuốc BVTV
– Đọc kỹ nhãn về phòng chống độc và một số đồ dùng cần thiết khi cấp cứu.
– Bình tỉnh đưa nạn nhân ra xa nơi nhiễm thuốc, cởi đồ nhiễm thuốc và rửa sạch vùng da nhiễm thuốc.
– Gây nôn nếu nạn nhân còn tỉnh táo và nhãn thuốc cho phép.
– Đặt nạn nhân nằm ổn định, giữ ấm nếu thấy lạnh, lau bằng nước lạnh nếu nạn nhân nóng sốt.
– Theo dõi nhịp thở, nếu ngừng thở phải làm hô hấp nhân tạo.
– Tuyệt đối không cho hút thuốc, uống sữa, uống rượu.
– Đưa nạn nhân đến Y, bác sỹ và phải mang theo nhãn thuốc.

2.4 Đồ bảo hộ lao động

– Áo dài tay, quần dài.
– Nón, mũ.
– Khẩu trang.
– Kính bảo hộ mắt
– Bao tay.
– Ủng, giày cao su
Yêu cầu bảo hộ lao động phải che phủ cơ thể và thích hợp với điều kiện khí hậu.

2.5 Chuyên chở thuốc BVTV
– Trước khi rời khỏi cửa hàng phải: kiểm tra bao bì xem thuốc có bị rò rỉ hay không, được gói buộc cẩn thận chưa và hỏi người bán thuốc các biện pháp cần phải làm nếu thuốc bị đổ bể.
– Không chuyên chở thuốc BVTV lẫn lộn với các vật dễ cháy, dễ nổ, lương thực thực phẩm vật dụng khác…
– Hạn chế chuyên chở thuốc bằng các phương tiện chật hẹp vì dễ gây ngộ độc cho người đi cùng và ảnh hưởng môi trường.

2.6 Cất giữ thuốc BVTV
– Nên mua thuốc BVTV đủ sử dụng, tránh dư thừa nhiều.
– Phải cất giữ thuốc nơi riêng biệt, không để gần gia súc, lương thực thực phẩm, người không có trách nhiệm.
– Nơi cất giữ thuốc không được ở nơi đầu gió, không gần giếng ăn hoặc kênh rạch, không bị nắng chiếu vào, không bị mưa.
– Luôn kiểm tra nơi giữ thuốc, không để cho thuốc bị đổ vỡ, rò rỉ. Nếu xảy ra cần dọn dẹp sạch sẽ ngay.
– Nơi cất giữ thuốc phải có khóa chắc chắn để trẻ em, người lớn không phận sự và gia súc không ra vào được nơi đó.

2.7 Cân đong và pha thuốc
– Cần mang đủ đồ bảo hộ lao động khi cân đong và pha thuốc.
– Đọc kỹ hướng dẫn ghi trên nhãn hoặc tờ bướm để biết rõ liều lượng pha và các thông tin khác.
– Chuẩn bị đủ dụng cụ cân đong, những loại này đều được đánh dấu riêng.
– Kiểm tra cần phun, cẩn thận khi mở nắp chai thuốc, tránh vung tung tóe thuốc, tránh cân đong nơi trẻ em nô đùa.
– Cân đong chính xác lượng thuốc cần dùng.
– Không được cân đong, pha thuốc hoặc rửa bình bơm gần ao hồ, suối, giếng, kênh mương.

2.8 Phun rải thuốc BVTV

Nên:
– Mang bảo hộ lao động khi phun thuốc.
– Kiểm tra ruộng bảo đảm không có người và gia súc có mặt nơi đó.
– Đọc kỹ nhãn để biết mối nguy hiểm với môi trường.
– Gắn biển báo nơi sau khi phun thuốc.
– Rửa sạch bình bơm ngay sau khi phun
– Phun đều khắp ruộng.
Không nên:
– Phun khi trời gió to, chuyển mưa, ngược chiều gió, lúc trưa nắng.
– Phun khi cơ thể suy yếu, mệt mỏi.
– Cho trẻ em và phụ nữ mang thai phun thuốc.
– Ăn uống, hút thuốc trong khi phun thuốc.
– Đưa béc phun vào miệng thổi.
– Phun rải bay tạt vào nguồn nước uống, nhà ở…

2.9 Dọn sạch thuốc đổ vãi
– Bảo hộ lao động khi tiếp xúc với thuốc.
– Không được dùng nước để cọ rửa vì nước sẽ làm thuốc tràn lan khắp nơi.
– Rắc mùn cưa, tro, đất bột, cát lên trên mặt nơi có thuốc rơi vãi.
– Nếu thuốc hoặc chất thấm nước có khả năng bay mùi ra xung quanh phải rưới nước từ từ hoặc phủ lên đó một tấm vải nhựa.
– Thu gom thuốc đổ vãi và vật dụng xử lý cho vào túi nhựa và tiến hành tiêu hủy.

2.10 Tiêu hủy thuốc và bao bì chứa thuốc
– Nếu bao bì bằng giấy thì cho xuống hố rồi đốt.
– Nếu bằng nhựa nhưng trên nhãn có chỉ dẫn là không được đốt thì phải đập vỡ, đâm thủng rồi chôn xuống đất.
– Nếu bao bì làm bằng vật liệu không cháy thì đập vỡ đâm thủng.

2.11 Vệ sinh sau khi tiếp xúc với thuốc BVTV
– Cởi bỏ ngay bộ đồ bảo hộ lao động.
– Tắm gội sạch sẽ bằng xà phòng.
– Giặt giũ đồ bảo hộ lao động.
– Thay quần áo sạch trước khi nghỉ ngơi, ăn uống, hút thuốc.
Tóm lại, việc sử dụng thuốc một cách an toàn là điều rất quan trọng cho bản thân và môi trường cộng đồng xung quanh, góp phần mang lại hiệu quả sử dụng cao hơn. Vì thế chúng ta nên chú ý tuân thủ theo những vấn đề an toàn và thời gian cách ly được nêu ra theo khuyến cáo hoặc trong nhãn thuốc trừ sâu.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ghép cây cà phê

Hầu hết các phương pháp ghép áp dụng cho các loại cây ăn quả đều có thể dùng để ghép cho cây cà phê. Tuy nhiên từ những kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy phương pháp ghép nối ngọn là thích hợp hơn cả.

Vì vậy, trong phần này chỉ trình bày phương pháp ghép nối ngọn trong cả hai trường hợp đối với gốc ghép đã được ươm trong bầu 4-6 tháng tuổi và đối với gốc ghép còn non đang ở giai đoạn đội mũ (ghép dưới trục hạ diệp). Cho đến nay chưa thấy một ghi nhận nào về sự không tương thích cũng như ảnh hưởng xấu của chồi ghép và gốc ghép giữa 3 loài cà phê chè, vối và mít.

Do vậy ghép không những là một phương pháp nhân vô tính mà còn là một phương pháp nhân giống tạo tính kháng tuyến trùng đặc bịêt là đối với các giống cà phê chè bằng cách ghép trên gốc cà phê vối có mang tính kháng cao.

Dưới đây là quy trình ghép nối ngọn:

1. Gốc ghép có từ 4 – 6 tháng tuổi

Những cây non được nhân bằng con đường hữu tính khi đã có từ 3 cặp lá thật trở lên là có thể sử dụng để làm gốc ghép. Dùng kéo cắt bỏ phần ngọn non cách cặp lá phía dưới khoảng 3 – 4 cm sau đó từ đỉnh vết cắt bổ dọc đoạn

Cách ghép cây cà phê

Chồi ghép là một đoạn ngọn thu từ vườn nhân chồi ghép dài chừng 4 – 5cm có mang một cặp lá còn non hoặc bánh tẻ và một đỉnh sinh trưởng. Dùng kéo cắt bớt 2/3 phiến lá để làm giảm quá trình mất nước sau đó dùng dao sắc cắt vát hai phía của đoạn chồi

Đưa chồi ghép vào gốc ghép sao cho hai lớp vỏ của chồi ghép và gốc ghép tiếp giáp thật tốt với nhau, sau đó dùng dây nylon rộng 1 – 1,2cm, dài 25 – 30cm buộc thật chặt phần tiếp xúc giữa gốc ghép và chồi ghép.

2. Gốc ghép còn non (giai đoạn đội mũ)

Phương pháp này thường được sử dụng để ghép các giống cà phê chè trên gốc cà phê vối có khả năng kháng được tuyến trùng hại rễ nhằm tạo ra các giống cà phê chè có khả năng kháng được tuyến trùng. Thực chất đây không phải là phương pháp nhân giống vô tính mà là nhân giống hữu tính vì chồi ghép được dùng là những cây cà phê chè được gieo ươm bằng hạt.

Chuẩn bị gốc ghép: dùng hạt của các giống cà phê vối có khả năng kháng cao với tuyến trùng hạt rễ để gieo ương làm gốc ghép. Khi hạt ủ đã bắt đầu nhú mầm có thể đem ươm trực tiếp trên luống rộng từ 1 – 1,2m (nếu ương cây con trên luống).

Chuẩn bị gốc ghép

Dùng tay đưa nhẹ phần vát của ngọn vào vị trí đã bổ của gốc ghép tự hoại buộc chặt phần tiếp giáp giữa gốc và chồi ghép. Kỹ thuật chăm sóc huấn luyện cây sau khi ghép tương tự như phương pháp nhân giống hữu tính. Sau khi ghép xong dùng lớp nylon trắng làm thành vòm che kín trên luống để giữ ẩm trong tuần đầu.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 2

Ở phần 1, Farmtech VietNam đã giới thiệu cho bạn đọc về đặc điểm của cây cà phê vối (Robusta) cùng với kỹ thuật nhân giống. Ở phần 2, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cà phê vối.

VI. KỸ THUẬT TRỒNG – CHĂM SÓC:

1. Chuẩn bị đất:

Đất phẳng được dọn sạch tàn dư thực vật, đào mương thoát nước theo sơ đồ thiết kế vườn cà phê như sau:

Sơ đồ thiết kế vườn trồng cà phê

2. Kỹ thuật trồng:

Thời vụ: Trồng vào đầu mùa mưa (tháng 5, tháng 6).

Khoảng cách, mật độ: Đất tốt, điều kiện thâm canh cao thì trồng thưa và ngược lại. Khoảng cách: đất tốt và bằng phẳng 3 x 3 m (1.118 cây/ha); đất trung bình và dốc 3 x 2.5 m (1.330 cây/ha).

Cách trồng: Đào hố trước khi trồng 1 tháng, hố có kích thước 60 x 60 x60 cm. Lớp đất mặt để một phía, sau đó trộn với 10 – 20 kg phân chuồng hoai mục + 0,5 kg super lân + 0.5 kg vôi bột đưa xuống hố. Lớp đất dưới để một phía sau dùng làm bồn quanh gốc. Lúc trồng bón lót ngoài tán lá cây 100 gram phân NPK 16 – 16 – 8 – 13 S.

*Chú ý: Dặm chặt đất ở xung quanh gốc, sau cơn mưa lớn cần vét bồn, để phòng cây bị lấp.

3. Bón phân chăm sóc:

3.1 Phân bón:
Cà phê là cây có nhu cầu dinh dưỡng cao. Chất hữu cơ rất quan trọng đối với cây cà phê, cần bón mỗi năm với số lượng 10-15kg phân chuồng hoai/cây, bón vào thời kỳ sau thu hoạch. Lượng phân hóa học bón cho 1 ha cà phê:

Lượng phân bón hóa học cho 1 ha cà phê

3.2 Tưới nước kết hợp với bón phân qua hệ thống đường ống:

– Lần thứ nhất: Bón vào đầu mùa mưa (tháng 3 đến tháng 5), dùng 35% lượng đạm, 30% lượng kali. Chia là 6 lần bón, chu kỳ 10 ngày/lần.
– Lần thứ hai: Bón vào giữa mùa mưa(tháng 7 đến tháng 8), dùng 40% lượng đạm, 40% lượng kali, 40% lượng lân. Chia làm 5 lần bón, chu kỳ 10 ngày/lần.
– Lần thứ ba: Bón vào cuối mùa mưa(tháng 10-11), dùng 25% đạm, 60% lân, 30% kali. Chia 5 lần bón, chu kỳ 7 ngày/lần.

Chú ý: Phải bổ sung lượng phân khoảng 30-40% so với tổng lượng phân bón trong năm để phục hồi sinh trưởng đối với vườn cà phê cho năng suất cao, tránh tình trạng suy kiệt cây.

Lần tưới đầu khi hoa có hình dạng hình mỏ sẻ màu xám hoặc xám xanh. Sau đó tưới định kỳ 7 ngày/lần đối với đất sỏi cơm, 10-12 ngày/lần đối với đất đỏ bazan, đảm bảo 150-200 lít/cây/lần tưới. Có điều kiện dùng rơm rạ, cỏ tủ gốc cây trong mùa khô.
Mỗi lần bón hòa tan hoàn toàn lượng phân trong bồn, mở hệ thống tưới tiết kiệm nước, phân theo hệ thống đi đến từng gốc cây.

Phương pháp tưới nước tiết kiệm

Các ưu điểm của phương pháp tưới nước tiết kiệm và bón phân qua đường ống:
+ Tiết kiệm lượng nước tưới.
+ Tiết kiệm dầu tưới.
+ Tiết kiệm công tưới.
+ Tiết kiệm làm bồn.
+ Tăng hiệu quả của việc bón phân.
+ Tăng năng suất và chất lượng trái.
+ Hạn chế lây lan bệnh cây, nhất là bệnh rễ cây.

Mô hình : Hệ thống tưới nước kết hợp bón phân qua đường ống:


4. Tạo hình:

Chú thích: Căn cứ vào hướng dẫn các đợt bón phân trong quy trình kỹ thuật, mỗi đợt lượng phân bón được hòa tan vào hệ thống tưới 3-4 lần mỗi lần cách nhau 7-10 ngày, chia nhỏ lượng phân ra các lần bón như thế sẽ góp phần giảm thất thoát phân bón, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón của cây trồng.

Pha phân: Khi bón phân cho cây, phân bón được ngâm trước 1 ngày, thường xuyên khuấy đều khi ngâm phân để hòa tan hoàn toàn lượng phân cần tưới vào bồn chứa dung dịch phân( không nên sử dụng các loại phân khó tan)

Nguyên tắc hoạt động:

– Khi vận hành máy bơm, dưới lực hút của máy nước từ giếng và dung dịch phân trong bồn chứa sẽ được hút vào máy bơm và được khuấy đều trong hệ thống và ra các vòi tưới cho cây. Chúng ta có thể thay đổi lượng phân bón trước khi vào trong máy bằng khoá điều chỉnh.
– Từ máy bơm, một lượng nước chứa phân được đưa đến bộ lọc( tránh nghẹt béc) rối đến ống cấp 1. Nếu nước trong bồn bị cạn hệ thống sẽ ngưng hoạt động.
– Từ ống cấp 1 nước chứa phân được đưa đến ống cấp 2, rồi đến ống cấp 3 tưới vào từng gốc cây.
– Ồng cấp 2 được đặt dọc theo các hàng cây, trên các ống cấp 2 này chúng ta lắp đạt hệ thống van điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước vì nơi gần máy bơm áp lực và lưu lượng nước cao hơn những nơi xa máy bơm. Ngoài ra các van này cũng tất quan trọng để điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước cho những vùng có địa hình không đồng đầu, đồi dốc…

4.1 Nuôi đa thân: Ở Đồng Nai các nhà vườn thường áp dụng phương pháp này giữ lại mỗi gốc 3 thân phân đều xung quanh. Phương pháp này có nhược điểm là chu kỳ kinh tế ngắn (5 – 7 năm). Để khắc phục nhược điểm trên, có thể phối hợp với biện pháp nuôi thêm thân (cành vượt), thay thế những thân chính có hiện tượng tán dù. Chọn chồi khoẻ ở phần gốc, sau thu hoạch cần cưa bỏ thân đã có hiện tượng tán dù giúp cho chồi non phát triển.

4.2 Tỉa cành: Thường xuyên tỉa bỏ những chồi vượt, những cành bị sâu bệnh gây hại, những cành đã ra quả ở những năm trước chỉ còn 2-3 cặp lá ở đầu cành.

4.3 Cưa đốn phục hồi: Những vườn cà phê đã già cỗi, cho năng suất thấp thì cưa đốn phục hồi vào cuối mùa thu hoạch trái. Vị trí cưa: cách gốc 20-30 cm, giữ lại mỗi gốc 3 chồi tốt nhất phân bố đều quanh gốc.

VII. THU HOẠCH – CHẾ BIẾN – BẢO QUẢN:

1. Thu hoạch:

Khi thu hoạch chỉ nên hái trái cà phê vừa chín vì những trái cà phê quá chín hoặc xanh là nguyên nhân làm cho cà phê mất mùi vị ngon. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho nấm mốc và độc tố phát triển.

Cà phê thu hoạch ngày nào, chế biến ngay ngày đó, không nên ủ quá 24 giờ, làm giảm chất lượng.

2 Chế biến: Có 2 phương pháp:

Chế biến ướt: Xát tươi loại bỏ phần vỏ, thịt, sau đó lên men hay xát bỏ phần nhớt bám xung quanh vỏ trấu, ngâm rửa rồi đem phơi.

Xát vỏ cà phê trong phương pháp chế biến ướt

Chế biến khô: Sau khi thu hoạch đem phơi cả quả, không qua khâu xát tươi. Cà phê được phơi trên nền ximăng, trên tấm vải nhựa. Phơi từng lớp mỏng (không dày quá 3-4cm) và đảo qua lại thường xuyên.

Phơi khô trái cà phê có cả vỏ

3. Bảo quản sau thu hoạch:

Chỉ đưa vào bảo quản trong kho khi độ ẩm trong hạt không quá 12,5% để cà phê không bị lên men mốc, không bị mất mùi, không để trực tiếp trên nền đất.

Dùng bao tải sạch để bảo quản cà phê, trong nhà kho có thông gió tốt và đề phòng nước dột, không để cà phê sát tường. Không dùng bao nhựa để chứa cà phê, chứa cà phê trong bao không quá đầy.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.