Kỹ thuật trồng Cải Thìa (P1)

Cây cải thìa có đặc điểm hình thái: cuống lá hình lòng máng, màu trắng, phiến lá hơi tròn, cây mọc gọn có thể trồng gần như quanh năm. Thời gian sinh trưởng từ 35 – 40 ngày, dễ trồng, chi phí đầu tư thấp.

1. Giống

– Sử dụng các giống năng suất cao, thích hợp với điều kiện địa phương, có nguồn gốc rõ ràng, có trong danh mục được phép kinh doanh tại Việt nam.

– Nếu giống tự sản xuất phải có hồ sơ ghi lại đầy đủ các biện pháp xử lý hạt giống, xử lý cây con, hoá chất sử dụng, thời gian, tên người xử lý và mục đích xử lý. Trong trường hợp giống không tự để giống phải có hồ sơ ghi rõ tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân, thời gian cung cấp, số lượng, chủng loại, phương pháp xử lý giống (nếu có).

– Lượng giống:

+ Gieo hạt trực tiếp lên liếp: 400-600gr/1000m2.

+ Gieo qua liếp ươm: 100-200gr hạt gieo trên 100m2 cấy cho 1000m2. Tuổi cây con được nhổ trồng lại 17 – 23 ngày tuổi tùy theo mùa vụ.

– Xử lý giống: xử lý khô hạt giống bằng Roval, Benlate-C hoặc Aliette, lượng dùng: 1gr thuốc cho 10 gr hạt. Sau khi gieo hạt, phủ một lớp đất trộn phân chuồng hoai mỏng, rồi phủ một lớp rơm mỏng, tưới đủ ẩm.

2. Thời vụ:

– Cải thìa có thể trồng quanh năm, tuy nhiên trong mùa khô năng suất đạt được cao hơn. Trong mùa mưa khi trồng cần phải có biện pháp che chắn (lưới, giàn che…) để tránh nước mưa làm rách, dập lá.

– Thời gian cấy đến thu hoạch 18-25 ngày .

– Thời gian gieo đến thu hoạch (không qua vườn ươm) 35-40ngày.

– Phải lập hồ sơ lịch canh tác.

3. Chuẩn bị đất:

– Yêu cầu: Cải thìa có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau. Đất thích hợp trồng cải thìa là loại đất có nhiều mùn, tơi xốp, thoát nước tốt không bị ngập úng. Đất không bị ô nhiễm các chất độc, kim loại nặng….Theo Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ngày 28/12/2007 về việc Ban hành Quy định về sản xuất và kinh doanh rau an toàn, mức giới hạn tối đa cho phép của một số kim loại nặng trong đất như sau:

Bảng 1: Mức giới hạn tối đa cho phép của một số kim loại nặng trong đất

TT
Nguyên tố
Mức giới hạn tối đa

cho phép (mg/kg)

Phương pháp thử
1 Asen (As) 12,0 TCVN 6498:1999; 10 TCN 797:2006
2 Cardimi (Cd)  2,0 TCVN 6498:1999; 10 TCN 796:2006
3 Chì (Pb) 70,0 TCVN 6498:1999; 10 TCN 796:2006

Trong mùa mưa cần có biện pháp che phủ (rơm hoặc nylon) để tránh đất bám trên lá, cây dễ nhiễm bệnh và làm giảm giá trị thương phẩm của rau.

– Kỹ thuật làm đất: làm đất tơi xốp, tùy điều kiện tốt nhất nên phơi ải đất từ 7- 10 ngày trước khi lên liếp mới.

– Kích thước liếp: chiều dài tùy theo kích thước vườn, rộng 1 – 1,2m x cao 10 -15cm ( mùa mưa lên liếp cao 20-25cm). Khoảng cách giữa hai liếp khoảng 25 – 30cm để thoát nước và đi lại chăm sóc, tưới nước.

– Xử lý đất: tiến hành xử lý đất 3 ngày trước khi trồng, sử dụng Dibonin 5G, BM-Tigi 5H, Pounce 1.5G để phòng trừ sâu đất, tuyến trùng.

– Hàng năm phải tiến hành phân tích, đánh giá các nguy cơ tiềm ẩn trong đất và giá thể theo tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước.

– Khi cần thiết phải xử lý các nguy cơ tiềm ẩn từ đất và giá thể, tổ chức và cá nhân sản xuất phải được sự tư vấn của nhà chuyên môn và phải ghi chép và lưu trong hồ sơ các biện pháp xử lý.

– Không được chăn thả vật nuôi gây ô nhiễm nguồn đất, nước trong vùng sản xuất. Nếu bắt buộc phải chăn nuôi thì phải có chuồng trại và có biện pháp xử lý chất thải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm sau thu hoạch.

4. Nước tưới:

– Nước tưới cho sản xuất và xử lý sau thu hoạch rau phải đảm bảo theo tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam hoặc tiêu chuẩn mà Việt Nam đang áp dụng.

Theo Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ngày 28/12/2007 về việc Ban hành Quy định về sản xuất và kinh doanh rau an toàn, mức giới hạn tối đa cho phép của một số chất trong nước tưới như sau:

Bảng 2: Mức giới hạn tối đa cho phép của một số chất trong nước tưới

TT Nguyên tố Mức giới hạn tối đa

cho phép (mg/lít)

Phương pháp thử
1 Thủy ngân 0,001 TCVN 5941:1995

TCVN 6665:2000

2 Cardimi(Cd) 0,01 TCVN 6665:2000
3 Asen (As) 0,1 TCVN 6665:2000
4 Chì (Pb) 0,1 TCVN 6665:2000

– Việc đánh giá nguy cơ ô nhiễm hóa chất và sinh học từ nguồn nước sử dụng cho: tưới, phun thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng cho bảo quản, chế biến, xử lý sản phẩm, làm sạch và vệ sinh, phải được ghi chép và lưu trong hồ sơ.

– Trường hợp nước của vùng sản xuất không đạt tiêu chuẩn phải thay thế bằng nguồn nước khác an toàn hoặc chỉ sử dụng nước sau khi đã xử lý và kiểm tra đạt yêu cầu về chất lượng. Ghi chép phương pháp xử lý, kết quả kiểm tra và lưu trong hồ sơ.

– Không dùng nước thải công nghiệp, nước thải từ các bệnh viện, các khu dân cư tập trung, các trang trại chăn nuôi, các lò giết mổ gia súc gia cầm, nước phân tươi, nước giải chưa qua xử lý trong sản xuất và xử lý sau thu hoạch.

5. Khoảng cách trồng

– Khoảng cách trồng 20 x20 cm hoặc 20 x 15 cm.

6. Phân bón, chất phụ gia:

– Từng vụ phải đánh giá nguy cơ ô nhiễm hoá học, sinh học và vật lý do sử dụng phân bón và chất phụ gia, ghi chép và lưu trong hồ sơ. Nếu xác định có nguy cơ ô nhiễm trong việc sử dụng phân bón hay chất phụ gia, cần áp dụng các biện pháp nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm lên rau.

– Chỉ sử dụng các lọai phân bón có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Sử dụng phân hữu cơ và phân vô cơ đúng liều lượng, đúng kỹ thuật và đúng thời điểm, không bón thừa phân đạm(N), đảm bảo cách ly phân đạm từ 7-10 ngày trước khi thu hoạch. Không lạm dụng các chế phẩm tăng trưởng, các chất kích thích, phân bón lá vì sẽ gây tốn kém, dễ bị nhiễm sâu bệnh.

– Phân hữu cơ phải được ủ hoai đúng phương pháp, đúng kỹ thuật, không sử dụng phân bắc, phân rác… để bón cho rau.

– Không sử dụng phân hữu cơ chưa qua xử lý (ủ hoai mục). Trong trường hợp phân hữu cơ được xử lý tại chỗ, phải ghi lại thời gian và phương pháp xử lý. Trường hợp không tự sản xuất phân hữu cơ, phải có hồ sơ ghi rõ tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân vả thời gian cung cấp, số lượng chủng loại, phương pháp xử lý.

– Nơi chứa phân bón hay khu vực để trang thiết bị phục vụ phối trộn và đóng gói phân bón, chất phụ gia cần phải được xây dựng và bảo dưỡng để giảm nguy cơ gây ô nhiễm vùng sản xuất và nguồn nước.

– Lưu giữ hồ sơ phân bón và chất phụ gia khi mua (ghi rõ nguồn gốc, tên sản phẩm, thời gian và số lượng mua).

– Lưu giữ hồ sơ khi sử dụng phân bón và chất phụ gia (ghi rõ thời gian bón, tên phân bón, địa điểm, phương pháp bón phân và tên người bón).

-Lượng phân dùng trên diện tích 10m2 đất trồng cải thìa bao gồm:

+ Phân hữu cơ: Phân chuồng hoai từ 10-15kg hoặc phân hữu cơ vi sinh liều lượng từ 1-2kg.

+ Phân vô cơ: Urê 50-100gr; DAP 50gr; NPK 16-16-8 300-350gr tùy thuộc vườn cấy hoặc vườn gieo thẳng. Trường hợp không có phân hữu cơ có thể tăng gấp đôi liều lượng từng loại phân.

-Cách bón:

Bón lót: Dùng cho vườn ươm và vườn sản xuất (vườn cấy hoặc gieo thẳng)

10-15kg phân chuồng hoai (hoặc 1-2kg hữu cơ vi sinh) + 150gr NPK.

Bón thúc:

*Vườn ươm:

Bón thúc 1 lần vào giai đoạn 10 ngày sau gieo: tưới 50gr urê +50gr DAP.

*Đối với vườn cấy: Được bón thúc 2 lần:

Lần 1: 5-7 ngày sau cấy, tưới 50gr urê + 50gr DAP.

Lần 2: 10 ngày sau cấy, tưới 150gr NPK.

*Đối với cải sạ thẳng (không qua giai đoạn vườn ươm): Bón thúc 3 lần: Lần 1: 10 ngày sau gieo 50gr urê + 50gr NPK.

Lần 2: 17 ngày sau gieo 50gr urê + 50gr DAP.

Lần 3: 25 ngày sau gieo 150gr NPK.

7. Hoá chất (bao gồm cả thuốc bảo vệ thực vật)

– Người lao động và tổ chức, cá nhân sử dụng lao động phải được tập huấn về phương pháp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các biện pháp sử dụng bảo đảm an toàn.

– Trường hợp cần lựa chọn thuốc bảo vệ thực vật và chất điều hoà sinh trưởng cho phù hợp, cần có ý kiến của người có chuyên môn về lĩnh vực bảo vệ thực vật.

– Nên áp dụng các biện pháp quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPM), quản lý cây trồng tổng hợp (ICM) nhằm hạn chế việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

– Chỉ được phép mua thuốc bảo vệ thực vật từ các cửa hàng được phép kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật.

– Chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong danh mục được phép sử dụng cho từng loại rau, qủa tại Việt Nam.

– Phải sử dụng hoá chất đúng theo sự hướng dẫn ghi trên nhãn hàng hoá hoặc hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo an toàn cho vùng sản xuất và sản phẩm.

– Các hỗn hợp hoá chất và thuốc bảo vệ thực vật dùng không hết cần được xử lý đảm bảo không làm ô nhiễm môi trường.

– Sau mỗi lần phun thuốc, dụng cụ phải vệ sinh sạch sẽ và thường xuyên bảo dưỡng, kiểm tra. Nước rửa dụng cụ cần được xử lý tránh làm ô nhiễm môi trường.

– Kho chứa hoá chất phải đảm bảo theo quy định, xây dựng ở nơi thoáng mát, an toàn, có nội quy và được khoá cẩn thận. Phải có bảng hướng dẫn và thiết bị sơ cứu. Chỉ những người có trách nhiệm mới được vào kho.

– Không để thuốc bảo vệ thực vật dạng lỏng trên giá phía trên các thuốc dạng bột.

– Hoá chất cần giữ nguyên trong bao bì, thùng chứa chuyên dụng với nhãn mác rõ ràng. Nếu đổi hoá chất sang bao bì, thùng chứa khác, phải ghi rõ đầy đủ tên hoá chất, hướng dẫn sử dụng như bao bì, thùng chứa hoá chất gốc.

– Các hoá chất hết hạn sử dụng hoặc đã bị cấm sử dụng phải ghi rõ trong sổ sách theo dõi và lưu giữ nơi an toàn cho đến khi xử lý theo quy định của nhà nước.

– Ghi chép các hoá chất đã sử dụng cho từng vụ (tên hoá chất, lý do, vùng sản xuất, thời gian, liều lượng, phương pháp, thời gian cách ly và tên người sử dụng).

– Lưu giữ hồ sơ các hoá chất khi mua và sử dụng (tên hoá chât, người bán, thời gian mua, số lượng, hạn sử dụng, ngày sản xuất, ngày sử dụng).

– Không tái sử dụng các bao bì, thùng chứa hoá chất. Những vỏ bao bì, thùng chứa phải gom và cất giữ ở nơi an toàn cho đến khi xử lý theo quy định của nhà nước.

– Nếu phát hiện dư lượng hoá chất trong rau quả vượt quá mức tối đa cho phép phải dừng ngay việc thu hoạch, mua bán sản phẩm, xác định nguyên nhân ô nhiễm và áp dụng các biện pháp ngăn chặn giảm thiểu ô nhiễm. Phải ghi chép cụ thể trong hồ sơ lưu trữ.

– Các loại nhiên liệu, xăng, dầu và các hoá chất khác cần được lưu trữ riêng nhằm hạn chế nguy cơ ô nhiễm lên rau, quả.

– Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quy trình sản xuất và dư lượng hoá chất có trong rau theo yêu cầu của khách hàng hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền. Các chỉ tiêu phân tích phải tiến hành tại các phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế về lĩnh vực dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng rau Cải Bẹ Dưa (Tòa Xại)

Rau cải vốn ưa khí hậu mát, lạnh song cũng có những giống chịu nóng khá tốt. Rau cải có bộ rễ ăn nông trên tầng đất màu, bộ lá khá phát triển, to bản nhưng mỏng nên chịu hạn kém và dễ bị sâu bệnh phá hại. Đặc điểm của nhóm cải bẹ là có bẹ lá to, lá rất lớn, một cây có thể nặng 2 – 4kg, thời gian sinh trưởng dài trên 50 ngày tùy loại.

Thời vụ:

Gieo hạt vào tháng 8, tháng 9, tháng 10. Trồng ra ruộng vào các tháng 9, tháng 10 và tháng 11.Tuổi cây giống 30 – 35 ngày (4 – 5 lá thật). Để trồng 1 ha cần 350 – 400gr hạt giống.

Làm đất:

Làm đất, bón lót và trồng: Làm luống rộng 1,2 – 1,5m; trồng 3 hàng kiểu nanh sấu. Trồng theo hốc. Bổ hốc trồng trên mặt luống sâu 12 – 15cm và cách nhau 40 – 50cm một hốc để có khoảng 32 – 35 ngàn cây trên 1 ha. (1.152 – 1.620 cây/sào)

Bón phân:

Bón lót cho 1 ha cải bẹ như sau:

+ Phân chuồng: 15 – 20 tấn.

+ Phân đạm urê: 20 – 25 kg

+ Phân lân supe: 120 – 150kg

+ Phân kali : 30kg

Tât cả các lại phân này được trộn đều và bón trực tiếp vào hốc, đảo đều đất rồi đặt cây giống vào. Chú ý đặt cây giống nằm ở tư thế tự nhiên, sau đó lấp đất, ấn nhẹ đất quanh gốc rồi san bằng mặt luống.

Chăm sóc:

+ Tươi nước: sau khi trồng phải tưới nước ngay; mỗi ngày một lần, nên tưới trực tiếp vào gốc, cho đến khi cây bén rễ hồi xanh. Sau đó chỉ tưới khi cảm thấy đất thiếu ẩm.

+ Bón thúc và vun xới: sau khi trồng 12 – 15 ngày cây đã hỗi xanh và có nhu cầu phát triển thì bón thúc bằng phân chuồng nước pha loãng. Với “rau sạch” thì không bón bằng nước phân chuồng pha loãng mà hoà bằng nước hoặc rắc khoảng 32 – 35 kg urê trên mặt luống gần gốc cây rồi tưới nước để phân ngấm vào đất.

Khi cây xoè lá thì bón thúc lần thứ hai. Trước khi bón thúc nên xới xáo mặt luống kết hợp với vun cao gốc cho cải bẹ để chống đổ và nhặt cỏ dại.

Trong suốt quá trình sinh trưởng của cải bẹ cần bón thúc 5 – 7 lần. Lượng phân bón thúc cho cải bẹ như sau:

+ Phân bắc, phân chuồng ủ mục khoảng 6 – 10 tấn

+ Phân đạm urê bón phối hợp khoảng 85 – 100kg

Tuỳ tốc độ sinh trưởng của cây, màu sắc của thân lá cây ma tăng hay giảm lượng phân bón cho phù hợp.

Thu hoạch:

Cải bẹ có thể tỉa lá hoặc thu chặt cả cây thu hoạch 1 lần.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Cải Thảo cho năng suất cao

Kỹ thuật trồng cây cải thảo không hề khó, ai cũng có thể áp dụng tại nhà:

1.Thời vụ:

Phía Bắc trồng từ tháng 8 – 10, phía Nam trồng từ tháng 7 đến tháng 4 sang năm, còn ở Đà Lạt, người dân trồng quanh năm.
cải thảo.jpg

2.Vườn ươm:

Làm đất kỹ, nhặt sạch cỏ dại, lên luống rộng 90-100cm, rãnh rộng 30cm, cao 25cm. Bón lót 1kg phân chuồng hoai mục + 15g supe lân + 8g kali sunfat cho 1m2 đất vườn ươm. Trải đều phân lên mặt luống, trộn lẫn phân với đất, sau đó vét đất ở rãnh phủ lên mặt luống dày 1,2-2cm.

Hạt giống sau khi ngâm vào nước nóng 50oC trong 20 phút, tiếp tục ngâm vào nước sạch trong 4-6 giờ. Gieo 1,5-2g hạt/m2. Gieo hạt xong phủ lên một lớp rơm rạ cắt ngắn 1-1,5cm hoặc trấu đã qua xử lý. Dùng cót tre chùm lên khung bằng tre, nứa uốn theo hình vòm cống để che mưa to, nắng rát trong 12- 15 ngày đầu.

Tưới đậm nước bằng ô doa, những ngày sau đó khoảng 2 ngày tưới 1 lần. Nhổ tỉa cây bị sâu bệnh, cỏ dại, để khoảng cách 2-2,5cm/cây. Tưới thúc bằng nước phân chuồng ngâm ngấu pha loãng. Khi cây có 4-5 lá thật thì nhổ đem cấy ra ruộng sản xuất.

3.Làm đất, chăm sóc:

Chọn ruộng cát pha, thịt nhẹ, chủ động nước, làm đất kỹ, lên luống rộng 1,2m, rãnh rộng 30cm, cao 25cm. Trồng hai hàng dọc trên luống với khoảng cách: Trồng hàng cách hàng 50cm, cây cách cây 35-40cm.
làm đất.jpg

Lượng phân bón (tính cho 1 sào Bắc bộ 360m2): Phân chuồng hoai mục 0,7-1 tấn, đạm urê 10-12kg, supe lân 15-20kg, kali sunfat 5-6kg. Nếu đất chua (độ pH< 6) bón thêm 20-25kg vôi bột trước khi bừa lần cuối.Cách bón: Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân + 1/4 lượng đạm và kali. Trộn đều phân rồi cấy cây giống.

Bón thúc lần 1 khi cây bén rễ hồi xanh 1/4 đạm, kali.

Bón thúc lần 2 khi lá cây bắt đầu vào cuốn bón 1/4 phân đạm và kali.

Bón lần 3 với lượng phân còn lại, sau lần 2 khoảng 12-15 ngày, kết hợp các đợt bón phân làm cỏ, xới xáo vun gốc, tưới nước.

Có thể dùng một số chế phẩm phân bón lá như: K-H; Atonic, Humate, Yogen,… khoảng 10-12 ngày phun/lần cho năng suất tăng thêm 20-30%, chất lượng vẫn đảm bảo. Bà con lưu ý dùng nước sạch, nước giếng khơi, giếng khoan, nước sông ngòi chưa bị ô nhiễm tưới cho cải thảo để đảm bảo an toàn thực phẩm.

Ngoài ra, kỹ thuật trồng cây cải thảo cũng chú trọng nhiều đến việc bón phân cân đối và hợp lý, tăng cường sử dụng phân hữu cơ sinh học, vi sinh, chăm sóc theo yêu cầu sinh lý của cây (tạo cây khỏe). Người trồng rau cải thảo cũng nên thường xuyên vệ sinh đồng ruộng hoặc luống trồng để phát hiện và kịp thời có biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh.

4.Phòng trừ sâu bệnh giai đoạn vườn ươm:

Cần chú ý các đối tượng rệp, sâu xám, bệnh sương mai và bệnh thối gốc… phòng trừ bằng các thuốc sinh học thế hệ mới.-Giai đoạn giữa vụ (trải lá bàng – cuốn nhỏ) lưu ý các đối tượng sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, sâu khoang và rệp muội. Sử dụng các loại thuốc thảo mộc, sinh học, nguồn gốc sinh học để phòng trừ khi mật độ sâu bệnh cao như: Sâu tơ > 30 – 40 con/m2; sâu xanh, sâu khoang ≥ 4 – 5 con/m2 ; rệp muội > 40%.

-Giai đoạn cuối vụ (15 – 20 ngày trước thu hoạch):Bà con cần đặc biệt quan tâm các đối tượng như: Rệp muội, sâu tơ, sâu khoang và bệnh thối nhũn. Khi mật độ sâu cao (rệp muội > 50 % cây bị hại cấp 2 – 3; sâu tơ > 90 – 100 con/m2; sâu khoang > 5 – 6 con/m2) xử lý thuốc thảo mộc có hoạt chất matrine thuốc sinh học Bt và các loại nguồn gốc sinh học tương tự như giai đoạn giữa vụ để phòng trừ

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn kỹ thuật trồng Cải Bó Xôi (rau Chân Vịt)

Cải bó xôi (hay còn gọi là rau chân vịt, rau bina) có nguồn gốc ôn đới nên nhiệt độ thích hợp để trồng là từ 18 -20ºC, là loài cây chịu bóng, sinh trưởng tốt trên đất cát pha.

1. Thời vụ:

Cải Bó Xôi có thể trồng quanh năm. Nếu trồng vào mùa mưa bà con phải có màng lưới hay bạt che để tránh giập lá.

2. Giống:

Có nhiều loại nhưng tốt nhất nên chọn một số giống có uy tín trên thị trường như giống công ty Trang Nông. Những giống này cây sinh trưởng phát triển khỏe, năng suất cao. Thời gian thu hoạch sau khi gieo trồng 35-40 ngày.

3. Chuẩn bị đất:

 Chuẩn bị đất:

– Làm sạch cỏ – bón vôi – cày đất – phơi ải từ 7-10 ngày. Mục đích để giúp đất tơi xốp, tăng độ PH, diệt trừ sâu hại và nấm bệnh trong đất.

– Đất thích hợp để trồng rau ăn lá là đất không bị phèn, độ pH thích hợp từ 5,5 – 6,5.

Lên liếp (làm luống):

– Đất phải cày bừa, băm nhỏ.

– Mỗi liếp rộng 0,8- 1m có thể 1,5m tùy địa thế đất mà bà con có cách lên liếp khác nhau. Liếp cao 20-30cm. Bà con nên bố trí đường đi giữa 2 liếp rộng 0,4-0,5m để thuận lợi cho việc thu hoạch, chăm sóc sau này.

Bón Lót:

– Super Lân + Phân hữu cơ + Thuốc trừ sâu Basudin 10G hoặc Visa 5G. “ bà con nên bón nhiều phân hữu cơ đặc biết là phân gà vì phân gà rất tốt cho nhóm cây rau ăn lá ”
=> Cách bón: Rãi phân rồi cày bừa xới sáo cho đều với đất mặt.

– Đối với liếp gieo hạt ươm cây con cần phải tăng lượng phân chuồng và tro để đất được tơi xốp, cây con sẽ phát triển tốt hơn.

 Khoảng cách trồng: 15×20 cm ( hàng cách hàng 15, cây cách cây 20).

5. Kỹ thuật gieo, trồng cây con

Bà Con gieo hạt đểu trên các liếp ương, sau đó bà con rải nhẹ một lớp tro trấu rồi tưới nước sau khoảng 15 ngày bà con bứng cây con trên líp đem cấy, nên cấy cây con vào buổi chiều mát, hoặc lúc trời không có nắng. Thường 3 ngày đầu cây dễ bị héo nên trong 3 ngày đầu nên tưới nước 3 lần/ngày, để đảm bảo tỉ lệ cây con sống và phát triển đồng đều sau này.

6. Bón phân, tưới nước, làm cỏ

Bón Phân:

– bón thúc lần 1 sau khi gieo trồng 7-10-ngày. Hòa ure tưới cho cây nên tưới vào buổi chiều mát. 10g ure/ 10 lít nước, sáng hôm sau bà con tưới rửa lá tránh tình tạng cháy lá.

– bón thúc lần 2 sau khi cấy 3 ngày. Ure + DAP + nước bánh dầu

bón thúc lần 3 sau khi cấy 10 ngày. Ure + DAP + nước bánh dầu

=>> Bánh dầu có thể bà con dùng loại bánh đậu hoặc bánh dầu dừa đều được. Khi mua về nên ngâm bánh dầu trong nước 10-15 ngày để bánh dầu rã ra sau đó tưới mới tốt.

=>> Tóm lại bón phân thúc đối với nhóm rau ăn lá thì nên bón Ure, Bánh Dầu, DAP. Tùy vào diện tích trồng mà bà con có sử dụng liều lượng khác nhau.

Sử Dụng Phân Bón Lá:

– Cứ 7-10 ngày phun một lần bà con tham khảo một số loại phân sau đây:

* Phân hữu cơ rong biển canada 95%.

* HVP 401N chuyên dùng rau củ.

Tưới Nước.

– Tùy vào chân đất mà có cách tưới khác nhau

– Bà con nên lắp đặt hệ thống tưới để giàm công chăm sóc

=>> Lưu Ý: không được tưới quá ẩm cây trồng rất dễ bị nấm bệnh. Ví dụ thối rễ, chết nhanh.

Làm Cỏ:  Mật độ cỏ ít thì bà con nên nhổ cỏ.

7. Phòng trị sâu bệnh.

=>> Đối với nhóm rau ăn lá nên áp dụng triệt để các biện pháp IPM trong phòng trừ dịch hại. IBM là phương pháp hiệu quả nhất, không những bảo vệ sức khoẻ cho người sản xuất, tiêu dùng và môi trường, mà còn đem hiệu quả rất lớn về kinh tế

* Khi mật độ sâu nhiều thì bà con nên phun xịt các loại thuốc hóa học, Sinh học cũng như tuân thủ 4 nguyên tắc sau.

– Đúng thuốc.

– Đúng lúc.

– Đúng liều lượng, nồng độ.

– Đúng cách và Thời gian cách ly.

Sâu hại: Sâu tơ, sâu xanh, bọ nhảy. Thuốc trị Polytrin, các thuốc gốc sinh học BT, Reasgent 3.6 ec, Tasieu 1.9 ec

Nấm bệnh:

– Thối cổ rễ: phun thuốc, Thane M 80WP, Kasuran, Viben C

– Cháy lá, đốm lá: No Mildew 25 WP, Thane M 80WP, Bavisan 50 WP.

– Thối bẹ: No Mildew 25 WP, Thane M 80WP

8. Thu hoạch.

Sau khi trồng 30-35 ngày cây bắt đầu cho thu hoạch.

Nguồn: Cachtrongrau.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật hạn chế vải ra lộc đông

Để cây vải thiều cho quả ổn định, trước tiên cần phải có chế độ chăm sóc thật chu đáo như tỉa cành, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh.

Vải thiều

Tuy đã chăm sóc cho cây sinh trưởng tốt, nhưng để cây đậu quả thì phải trải qua 2 “cửa ải”:

Thứ nhất : Vào tháng 11, 12 hằng năm, là thời kỳ hình thành đọt hoa, yêu cầu nghiêm ngặt là cần thời tiết khô và lạnh. Ở những cây cành ra lộc đông thì sẽ không có hoa hoặc ra ít hoa.

Thứ hai: Ở giai đoạn ra hoa, khoảng tháng 2, tháng 3 khi nở hoa, đậu quả cần có thời tiết khô ráo và mát mẻ. Nếu nhiệt độ quá lạnh hoặc có mưa phùn thì sẽ làm chết hạt phấn, không đậu được quả hoặc đậu tỷ lệ thấp.

Tuy nhiên, người trồng vải có thể dùng biện pháp cơ giới để hạn chế lộc đông. Đây là kỹ thuật cơ bản của nhà vườn để hạn chế năng suất bấp bênh và hiện tượng ra quả cách năm trên cây vải.

Để cây vải chính vụ có thể phát hoa đúng thời điểm, có chùm hoa lớn sau này cho năng suất cao thì đợt lộc cuối cùng phải nhú trước ngày 31/10. Ở giai đoạn từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 12, đối với những cây vải khỏe, có bộ lá dày biểu hiện sức sinh trưởng tốt, đã nhú đợt lộc cuối cùng trong năm trong tháng 10, khi đó không được tưới ẩm cho vườn vải.

Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế ra lộc đông: Trên các cành cấp 2, cấp 3 dùng dao sắc khoanh đường xoắn từ 1 đến 3 vòng tròn/cành (tùy sức sinh trưởng của cây), vòng nọ cách vòng kia 1,5 – 2cm, vết khoanh vừa chạm đến gỗ. Khi khoanh không được nghiêng dao làm lật vỏ cây. Chỉ khoanh ở những cây đang sung sức, sinh trưởng tốt, có khả năng ra lộc đông, không khoanh ở những cây cằn cỗi. Khoanh ở những cây khi lá đã thành thục, lá đã chuyển sang màu xanh sẫm.

Bớt lại 10 – 15% số cành không khoanh để có đủ nhựa luyện nuôi bộ rễ. Đồng thời với việc khoanh vỏ, tiến hành dùng cuốc vỡ lật đất thành một vòng tròn xung quanh tán cây, chiều rộng 40 – 50cm, sâu 25 – 30cm và để phơi ải. Việc làm này vừa làm đứt rễ tơ đang hoạt động mạnh, vừa làm cho đất chóng khô, hạn chế hút nước và hạn chế ra lộc đông.

Áp dụng biện pháp trên mà cây vẫn ra lộc đông thì có thể dùng thuốc trừ cỏ Ronstar 25EC pha với nồng độ 10cc thuốc/1 bình 10 lít phun để diệt trừ lộc. Cần phun sớm khi lộc mới dài từ 5 – 7cm thì mới có hiệu quả.

Đến khoảng tháng 2 năm sau tiến hành bón phân thúc hoa. Lượng bón 0,15kg đạm urê + 1–2kg Supe lân + 0,1–0,2kg Kali clorua cho 10m2 diện tích bóng tán. Bón vào rãnh quanh bóng tán đã cuốc lật từ đầu mùa đông. Mỗi loại phân thả thành 3 – 5 điểm. Sau đó tiến hành bơm xả nước xả trực tiếp vào cho tan phân và ngấm xuống phần rễ đang hoạt động bên dưới. Khi vườn vải thiều đã phát triển chùm hoa tương đối hoàn chỉnh cần kịp thời diệt trừ sâu tơ, sâu xanh sớm bằng các loại thuốc như Padan 95SP, Sherpa 25EC, Dipterex…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chặt cả đồi vải thiều rồi trồng 10.000 cây bưởi xen cam

Ngoài 60 tuổi ông Đỗ Văn Lậm, thôn Bãi Đình, xã An Dương, huyện Tân Yên (Bắc Giang) vẫn ham thiết làm giàu. Ông mạnh dạn chặt bỏ cả đồi vải thiều kém hiệu quả để trồng bưởi xen cam và hiệu quả kinh tế cao bất ngờ.

Tỷ phú Đỗ Văn Lậm chăm sóc những cây cam, bưởi – Hai giống cây đem về tiền tỷ cho gia đình ông

Khu đồi bưởi xen cam xanh thắm, trù phú của gia đình ông Lậm trước đây vốn là đồi vải thiều cằn cỗi. Ông Lậm tâm sự, trước kia, ông vốn làm nghề thợ mộc, sau chuyển sang trồng vải thiều nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm, sức cạnh tranh còn yếu so với vải nơi khác nên sau mấy mùa, ông đành “bấm bụng” chặt hạ đồi vải sau bao năm bỏ công chăm sóc.

Trong một lần thăm nhà người bạn, ông Lậm được giới thiệu về mô hình trồng cây cam, bưởi. Nhận thấy mô hình mới có hiệu quả kinh tế cao, thổ nhưỡng tại đây giống với đất tại vườn nhà nên ông đã quyết tâm học hỏi kỹ thuật canh tác.

Sau khi tích lũy được chút vốn kinh nghiệm nhất định, ông Lậm đầu tư 300 triệu đồng mua 3.000 cây cam Vinh và bưởi Diễn giống về trồng. Những cây cam Vinh, bưởi Diễn sớm phủ xanh diện tích 3ha đồi của ông Lậm.

Từ năm 2011 đến nay, đồi cam Vinh xen bưởi Diễn của ông Lậm cho nhiều vụ bội thu. “Mỗi cân cam, bưởi bán tại vườn có giá từ 25-30 nghìn đồng/kg. Mỗi vụ thu hoạch tôi lãi hàng trăm triệu đồng. Do chất lượng quả tốt, nhiều thương buôn đến đặt mua từ khi quả còn xanh. Nhiều thương lái còn đến đặt cọc tiền trước để giữ vườn…”, ông phấn khởi nói.

Chọn được giống cam, bưởi phù hợp thổ nhưỡng ông Lậm đã thành công viên mãn. Tuổi ngoài 60, lão nông trở thành tỷ phú tiếng tăm trong vùng

Được biết, năm 2016, ông Lậm thu về hơn 20 tấn cam, bưởi. Doanh thu toàn đồi đạt trên 500 triệu đồng. Làm giàu bằng mô hình canh tác mới ông Lậm còn tạo việc làm thường xuyên và thời vụ cho 15 lao động địa phương.

Lão nông tâm sự, hiện tại vẫn đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng bưởi xen cam. Khu vườn hiện nay đã đạt trên 15ha với 3.000 cây bưởi, 10.000 cây cam. Ngoài lợi nhuận từ mô hình trồng cam xen bưởi, ông Lậm còn nhân bán giống bưởi, cam giống thu về 1 khoản không nhỏ. Với giá bán cây giống từ 120-150 nghìn đồng/ cây cam, bưởi giống, mỗi năm ông Lậm “ăn ra” hơn 100 triệu đồng.

Chia sẻ về con đường thành công ông Lậm bảo, ông phải đầu tư thời gian thường xuyên đến Hưng Yên, Lục Ngạn (Bắc Giang) để học hỏi kỹ thuật. Ông Lậm lưu ý, trồng giống cây gì cần chú ý cẩn trọng xem cây đó có phù hợp thổ nhưỡng, khí hậu địa phương hay không. Nếu giống cây không thích hợp sẽ cho năng suất, chất lượng kém…

Theo danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nông dân Bắc Giang trúng đậm vụ vải nhờ áp dụng khoa học

Được lựa chọn thí điểm áp dụng khoa học giúp vải chín sớm, anh Nguyễn Thanh Lâm vui mừng thắng lớn 300 triệu vụ này.

Người nông dân vui mừng khi trúng đậm vụ vải

Bước vào vườn vải chín sớm rộng 2,5 ha của anh Nguyễn Thanh Lâm (xã Liên Sơn, huyện Tân Yên, Bắc Giang), nhiều thương lái tỏ ra ngạc nhiên khi vải nhà anh quả to đều và đẹp hơn những vườn gần đó. Bóc một quả vải ăn thử, họ càng ngạc nhiên hơn vì quả vải ngọt thơm không thua kém vải chính vụ. Anh Lâm cho biết tất cả nhờ được áp dụng khoa học kỹ thuật.

Tháng 6/2016, Viện Địa lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đến đặt vấn đề với một số hộ dân trồng vải ở Bắc Giang, trong đó có gia đình anh Lâm, về việc thực hiện đề tài nghiên cứu thực trạng và biện pháp kỹ thuật tổng hợp duy trì, nâng cao độ phì đất, góp phần tăng năng suất và ổn định chất lượng vải thiều.

“Tôi đã khá lo lắng khi được chọn làm thí điểm đề tài của các nhà khoa học vì trước đó bà con ở huyện Tân Yên chúng tôi chỉ chăm sóc cây vải theo phương thức truyền thống hay quy trình VietGAP. Bây giờ, họ chỉ lấy mẫu đất về phân tích để xem thừa, thiếu chất dinh dưỡng nào khiến tôi lo sợ sẽ mất trắng cả vụ vải”, anh Lâm nói.

Tuy nhiên, sự lo lắng của anh Lâm được xua tan dần khi các nhà khoa học thường xuyên trực tiếp đến vườn vải kiểm tra. “Khi vải bắt đầu nhú hoa, các anh ấy đã cho tôi phân bón lá, phân bón gốc và hướng dẫn chi tiết quy trình bón phân. Các anh còn dặn phải ghi chép đầy đủ ngày, giờ chăm sóc vào một cuốn sổ và báo cáo lại qua điện thoại”, anh Lâm nói và cho biết đã hoàn toàn tin tưởng khi tỷ lệ đậu hoa và quả cao hơn mọi năm từ 20 đến 30%.

Đến ngày thu hoạch, chủ vườn vải “mừng ra mặt” khi sản lượng đạt hơn 10 tấn/ha, tăng gấp rưỡi so với trung bình hàng năm và gấp 3 lần năm ngoái. Giá trị quả vải cũng tăng đáng kể. Giá bán tại gốc đầu mùa là từ 30 đến 35 nghìn/kg. “Tôi đã có ý định phá vải để trồng bưởi hoặc cam canh sau vụ này. Nhưng với sản lượng như vậy, tôi quyết định sẽ tiếp tục chăm cây vải”, anh Lâm chia sẻ.

Có diện tích chỉ khoảng 7.000 m2 với 350 gốc vải chín sớm, anh Ngô Văn Cường (xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên) vui mừng khi vụ năm nay, anh thu về khoảng 300 triệu đồng. “Quả vải đều, đẹp hơn mọi năm và không bị sâu cuống, chất lượng hơn hẳn vải được chăm sóc theo cách truyền thống. Tôi bán khoảng 30 nghìn/kg tại vườn, cao hơn giá thị trường từ 5 đến 7 nghìn”, anh Cường thông tin.

Theo chủ vườn này, quy trình chăm sóc cây vải do Viện Địa lý hướng dẫn không vất vả hơn so với chăm sóc truyền thống nhưng hiệu quả hơn hẳn. “Nhiều hộ xung quanh cứ hỏi có bí quyết gì để quả vải đẹp vậy. Họ còn trách tôi vì sao không chia sẻ cách làm cho họ”, anh Cường cười nói và hy vọng các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục mở rộng đề tài để không chỉ gia đình anh mà cả huyện được hỗ trợ về khoa học kỹ thuật.

Theo kết quả báo cáo của chủ nhiệm đề tài, các mô hình thực nghiệm vải chín sớm Phúc Hòa có hơn 2.300 hoa/chùm, số quả trung bình đạt hơn 7 quả/chùm, tăng so với các hộ dân không thực hiện mô hình 31,8%. Về hình thức, quả vải to và đỏ hơn. Về chất lượng, vải ngọt và không bị sâu cuống. Năng suất tăng từ 15 đến 20%, sản lượng rơi vào khoảng 15-17 tấn/ha.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Giang cho biết đề tài do Viện Địa lý làm thí điểm là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên liên quan đến nghiên cứu đất và biện pháp canh tác vải mà các nhà khoa học trực tiếp tham gia.

“Ban đầu, người dân cũng chưa tin lắm, vẫn còn khó khăn trong quá trình chọn hộ nhưng khi chọn được rồi, họ tuân thủ rất đúng sự hướng dẫn của các nhà khoa học nên kết quả rất tốt. Theo báo cáo của người dân, sản lượng trung bình tăng 20%, thậm chí có vườn tăng 30%”, ông Kiên nói.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chính sách trong ngành trồng vải của Úc

Ngành trồng vải của Úc đã phát triển từ một ngành non trẻ vào giữa năm 70 của thế kỷ trước cho đến nay đã có hơn 300 người trồng vải trên diện tích hơn 800 ha, với khoảng 4.000 cây vải, sản xuất khoảng 2.000-3.000 tấn vải, trị giá khoảng 10-15 triệu AUD mỗi năm. Sản lượng dự báo vẫn ở mức tương tự trong vòng 5 năm tới.

Vải thiều

Trong thời gian cuối những năm 1990 ước tính có tới 30-35% sản lượng vải của Úc được xuất khẩu, tức là khoảng 700 đến 1.000 tấn/năm. Kim ngạch xuất khẩu đã giảm mạnh kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001 và hạn chế kiểm dịch đã được đặt ra cho trái cây nhập khẩu vào Trung Quốc. Hiện nay, theo ước tính của Hiệp hội những người trồng vải của Úc, kim ngạch xuất khẩu đã giảm xuống chỉ còn 500-600 tấn mỗi năm. Nếu vải có thể thâm nhập lại thị trường Trung Quốc thì có thể đạt được mục tiêu mở rộng thị trường của ngành vải Úc.

Tuy là một ngành nhỏ với sản lượng và kim ngạch xuất khẩu không đáng kể so với các ngành hoa quả khác nhưng ngành trồng vải của Úc vẫn hoạt động khá bài bản.

Chính phủ Úc đánh thuế đối với các hoạt động trồng, sản xuất và xuất khẩu vải, cụ thể như sau:

  • Vải tươi: 8 cent/kg
  • Chế biến vải: 1 cent/kg
  • Xuất khẩu vải: 8 cent/kg

Các khoản thuế này sẽ được dùng để tài trợ cho mục đích nghiên cứu và phát triển, tiếp thị, kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chương trình an toàn sinh học, và các chương trình hỗ trợ khẩn cấp cho ngành.

Chọn giống là một trong những ưu tiên tài trợ của Chính phủ Úc. Hiện nay, có 8 giống vải đang được trồng tại Úc có hạt nhỏ, có thể bán giá cao và giống vải thu hoạch sớm của Bắc Queensland.

Một số giống mới đang tiếp tục được chọn thông qua Chương trình chọn giống do ngân sách Chính phủ và ngành vải tài trợ, cộng thêm việc nhập khẩu giống cây tốt từ nước ngoài trong đó có giống vải không hạt. Các giống mới ở trong nước đang được Hiệp hội những người trồng vải (ALGA) trồng thử, do Tổ chức Nghiên cứu khoa học và công nghiệp liên bang (CSIRO) cung cấp hạt giống.

Tiếp thị trong nước và thúc đẩy xuất khẩu cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên của ngành.

Vải được phân phối phần lớn tại thị trường trong nước thông qua hai nhóm tiếp thị. Nhóm thứ nhất có tên là United Lychee Marketing Authority – ULMA, có thương hiệu vải là “Sun Lychee” Đây là một liên minh những người trồng vải ở tất cả các vùng, số lượng thành viên và mức độ ảnh hưởng của nhóm này đang ngày càng tăng lên. Nhóm thứ hai có tên là Top Crop, hoạt động ở vùng phía Bắc Queensland.

Toàn bộ vải xuất khẩu của Úc được tiêu thụ bằng tên gọi là “quả vải tươi” do vận chuyển bằng đường hàng không, bằng thùng giữ lạnh. Vải của Úc có lợi thế hơn so với các sản phẩm của nước khác do mùa thu hoạch kéo dài và không trùng với mùa thu hoạch của các nước trồng vải lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam… Vải của Úc có năng suất cao và được đánh giá là cao cấp do chất lượng sạch, không sử dụng hoá học trong trồng trọt và bảo quản.

Dù là một ngành nhỏ nhưng Úc có Hiệp hội những người trồng vải hoạt động khá hiệu quả. Hiệp hội đã xây dựng Chiến lược đầu tư và Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu trái vải của Úc, trong đó mục tiêu đặt ra đến năm 2017, Úc sẽ xuất khẩu 50% tổng sản lượng.

Hiệp hội cũng tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu về thị trường như thói quen tiêu dùng, đối tượng tiêu dùng, khuynh hướng tiêu dùng và tiêu thụ trái vải để từ đó xây dựng chiến dịch quảng bá, tiếp thị cũng như cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ví dụ, Hiệp hội này đang nghiên cứu để đưa vào áp dụng một hộp đựng vải có nắp nhựa mới. Hộp này được dùng để hạn chế tình trạng mất nước và giữ cho vỏ có màu đỏ lâu hơn. Hiệp hội cũng đang có một Chiến dịch quảng bá tiếp thị khẩu hiệu được đưa ra là “Live it up with Lychees”.

Qua đây có thể thấy, mặc dù đây là một ngành nhỏ, sản lượng xuất khẩu không đáng kể nhưng Chính phủ vẫn quản lý và khuyến khích phát triển một cách hợp lý nhằm đưa ra thị trường một sản phẩm với chất lượng hoàn hảo và mỗi sản phẩm xuất khẩu của Úc đều đảm bảo được chất lượng và thương hiệu, từ đó các sản phẩm nông nghiệp của Úc thường được bán giá cao trên thị trường nước ngoài.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đắk Lắk : Trồng vải thiều trên đất kém dinh dưỡng đem lại hiệu quả kinh tế cao

Nhiều hộ gia đình ở Đắk Lắk đã trồng thành công cây vải trên vùng đất kém dinh dưỡng, đem lại hướng đi mới trong phát triển kinh tế.

Trồng vải trên đất kém dinh dưỡng nhưng người dân Đắk Lắk vẫn thu về lợi nhuận kinh tế cao

Những năm qua, nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã mạnh dạn chuyển đổi một phần diện tích đất canh tác kém hiểu quả sang đầu tư vào trồng vải thiều. Nhiều nông hộ đã trồng thành công cây vải thiều trên vùng đất kém dinh dưỡng, đem lại hướng đi mới trong phát triển kinh tế.

Ea Kar hiện là huyện có diện tích trồng vải thiều nhiều nhất tỉnh, đặc biệt, cây vải thiều ở đây chủ yếu được trồng trên các vùng đất bạc màu, kém dinh dưỡng, nhưng lại cho năng suất cao và ổn định.

Anh Đỗ Công Hải, thôn 2, xã Ea Sar, huyện Ea Kar cho biết, gia đình anh hiện có 1 ha vải thiều, sản lượng ước tính gần 20 tấn, được thương lái mua tại vườn với giá 50.000 đồng/kg. Trừ chi phí sản xuất, nhân công gia đình anh thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Anh Hải cho biết thêm, cây vải không kén đất, có thể trồng trên đất khô cằn và cho sản lượng cao, điều quan trọng là phải nắm được kỹ thuật canh tác, điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm và quá trình sinh trưởng của cây cho phù hợp với đặc thù khí hậu vùng Tây Nguyên.

Nếu nắm được kỹ thuật chăm sóc và điều khiển được thời gian ra hoa, đậu quả thì đảm bảo năng suất và giá thành ổn định, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Cũng trồng vải thiều trên đất bạc màu, ông Đinh Văn Đá, thôn 2, xã Ea Sô, huyện Ea Kar chia sẻ, trước đây, gia đình ông chủ yếu trồng điều nhưng do năng suất thấp, giá thành không ổn định, năm 2012, ông chuyển đổi 2 ha đất sang trồng cây vải thiều.

Năm nay, ông có 1 ha vải thu hoạch, sản lượng đạt khoảng 10 tấn, trừ chi phí sản xuất ông thu khoảng 450 triệu đồng. “Nếu áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc và điều chỉnh được quá trình sinh trưởng của cây thì chắc chắn vải thiều sẽ đem lại nguồn lợi kinh tế cao, không thua kém gì các cây công nghiệp khác” ông Đá khẳng định.

Ông Trần Văn Âm, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ea Sar, huyện Ea Kar cho biết, trên địa bàn xã đã có nhiều hộ chuyển đổi một phần diện tích đất kém dinh dưỡng để trồng vải thiều, bước đầu cây vải đã đem lại thu nhập khá cao cho người nông dân.

Hiện xã Ea Sar đã trồng thử nghiệm 16 mô hình vải thiều với 1.600 cây đã ra hoa, nếu cây phát triển tốt, cho năng suất ổn định thì địa phương xác định cây vải là một trong những cây có thể làm giàu cho người nông dân trên địa bàn xã.

Theo Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đắk Lắk, cây vải ở Đắk Lắk có ưu thế chín và thu hoạch vào tháng 4 – 5 hàng năm, sớm hơn vải của miền Bắc một tháng nên giá thành cao.

Tuy nhiên, ở Đắk Lắk có nhiều vùng sinh thái khác nhau, khí hậu không ổn định, hơn nữa cây vải đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc tỉ mỉ, khó điều khiển thời điểm ra hoa, đậu quả, vì vậy, Chi Cục cũng khuyến cáo người dân nên thận trọng khi mở rộng diện tích và chuyển đổi cây trồng.

Hiện toàn tỉnh Đắk Lắk có 297 ha vải thiều, tập chung chủ yếu ở các huyện Ea Kar Krông Năng, M’ Đrăk, thị xã Buôn Hồ…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Thương lái Trung Quốc giàu to nhờ vải thiều Việt Nam mọc từ thân

Thương lái Trung Quốc mua giống vải thiêu mọc từ thân tại vườn với giá 35.000 đồng/kg nhưng về nước lại hét giá 350.000-400.000 đồng/kg.

Vải thiều có cơm dày và thơm

Bội thu từ vải thiều mọc từ thân

Là một trong số ít người đầu tiên có vườn vải thiều mọc từ thân, ông Trần Văn Hành thôn Chão Cũ (Giáp Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang) cho biết cách đây 3 năm, trong quá trình chăm sóc, ông phát hiện một số cây có mầm mọc từ thân đã ra hoa, trổ quả thành từng chùm.

Sau quá trình sinh trưởng, phát triển, nhận thấy quả vải ra từ thân cây, mọng to, mã đẹp, năng suất cao hơn hẳn quả ra từ đầu ngọn cây, ông đã duy trì những cây này, áp dụng phương pháp trồng cho những vụ tiếp đó.

Từ một vài cây thử nghiệm, đến nay, gia đình ông có 2,5 ha. So với phương pháp cũ, cách trồng này mới giúp tăng 20% sản lượng. “Bình quân mỗi năm gia đình thu hoạch khoảng 30 tấn, giá bán chưa bao giờ dưới 25.000 đồng một kg”, ông nói. Đây là mã hàng được hầu hết các thương lái Trung Quốc săn tìm, thu mua bởi đáp ứng yêu cầu của thị trường này.

Vụ này, gia đình ông Hành đã hái bán được 20 tấn, số còn lại cũng đã được các thương lái đặt cọc để thu mua trong một vài ngày tới. Năm nay được giá, nên vải quả mọc từ thân dao động từ 25.000-30.000 đồng một kg. Dự kiến cả vụ ông có thể thu 600-700 triệu đồng.

Cũng như gia đình ông Hành, vụ vải thiều năm nay, gia đình anh Phan Văn Bảo, thôn Cầu Đền, xã Thanh Hải (Lục Ngạn) áp dụng phương pháp cho quả vải ra trên thân, cành cây.

Quả vải ra trên thân, cành cây

Anh Bảo cho biết: “Hai năm trước, tôi được Hội Nông dân xã cử sang xã Giáp Sơn tham quan thực tế và tập huấn kỹ thuật khoanh vỏ cho vải ra quả trên cành, thân. Vụ đó tôi làm thử nghiệm vài cây, sau thấy năng suất hơn hẳn những cây cho ra quả theo cách thông thường nên năm nay tôi áp dụng phương pháp này cho cả vườn vải 2 ha. Cây nào cũng sai quả, mã đẹp hơn, ít bị sâu bệnh. Năng suất ước đạt 12 tấn, tăng 5 tấn so với vụ trước. Hiện nay, không riêng gia đình tôi, nhiều hộ khác trong thôn cũng làm theo”.

Cũng áp dụng phương pháp trên trong chăm sóc vườn vải thiều, anh Trần Văn Út, thôn Chão Cũ, xã Giáp Sơn cho biết, cây vải cần được tỉa thưa tán, tạo độ thông thoáng để kích thích ra một lớp lộc non từ thân, cành cùng một lúc. Người làm vườn có thể chủ động điều tiết số lượng mầm hoa bằng cách tỉa bớt những mầm đã có ở thân, để lại những mầm chính. Vào giữa tháng 12 dương lịch, bà con dùng lưỡi cưa khoanh một vòng tròn quanh phần vỏ cây nhằm hạn chế sự vận chuyển chất dinh dưỡng đi nuôi các cành phụ và ngọn.

Áp dụng cách làm này, vải thiều cho quả to, đều, mã đẹp, năng suất cao, chất lượng tốt, dễ thu hoạch, không bị gió va đập và lá che kín, giảm tỷ lệ dập và thối quả.

“Những năm trước, mỗi vụ vải tôi phải thuê 6-10 nhân công ăn ngủ tại nhà để thu hoạch, chi phí mất khoảng 10 triệu đồng. Từ khi áp dụng phương pháp mới, tôi không phải thuê người làm, chi phí thuốc bảo vệ thực vật giảm, năng suất tăng từ 12-15%. Đặc biệt, quả vải mọc từ thân thường to hơn so với quả trên ngọn, dễ bán, giá cao hơn thị trường từ 5-10 nghìn đồng/kg. Vụ này, 1 ha vải nhà tôi ước thu hoạch được 16 tấn quả, tôi vừa bán gần một tấn với giá 25 nghìn đồng/kg, cao hơn giá vải thường 5 nghìn đồng/kg”- Anh Út chia sẻ.

Ngoài xã Thanh Hải, Giáp Sơn, hiện nay nhiều nông dân tại các xã: Nghĩa Hồ, Qúy Sơn, Hồng Giang, Tân Mộc, Phượng Sơn… cũng áp dụng phương pháp cho vải thiều ra hoa đậu quả trên thân, cành. Kỹ thuật này giúp vải thiều Lục Ngạn ngày càng nâng cao giá trị.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.