“Cải lão hoàn đồng” những giống cà phê đặc sắc

Sau nhiều thập niên gần như bị lãng quên, các giống cà phê đặc sắc, quý hiếm bậc nhất thế giới như Bourbon, Moka… đang được phục tráng, trồng trở lại tại Cầu Đất và vùng phụ cận của Đà Lạt – Lâm Đồng. Các hãng cà phê lớn trên thế giới sẵn sàng đặt hàng, báo giá trước khi thu hoạch tới vài tháng.

Thu hoạch cà phê Arabica.

Thương hiệu trăm năm

Từ những thập niên đầu của thế kỷ trước, người Pháp đưa một số giống cà phê Arabica nổi tiếng thế giới như Moka, Bourbon… sang trồng tại Cầu Đất (xã Xuân Trường), cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 20km. Dòng cà phê Moka nhanh chóng thích nghi với vùng đất mới, nơi có độ cao lý tưởng 1.600m, khí hậu lạnh, có sương mù… Moka Đà Lạt đã góp phần làm rạng danh thương hiệu “Arabica du Tonkin” tại Pháp từ trăm năm trước. Theo các “tín đồ” của dòng Moka, loại cà phê này có hương thơm quyến rũ, hậu vị sâu và thanh chua tinh tế.

Một dòng cà phê được xếp vào loại quý hiếm nhất nữa là Bourbon với hạt nhỏ màu xanh biếc, hương thơm quý phái, ngất ngây, vị hơi chua một cách thanh thoát và hậu vị hơi đắng như socola. “Một khi đã thưởng thức hương vị đích thực của Bourbon, người ta sẽ luôn nhớ đến nó hơn bất kỳ loại cà phê nào”, một du khách Mỹ thốt lên sau khi thưởng thức ly cà phê Bourbon tại resort 4 sao Ana Mandara Villas Dalat.

Đây là loại cà phê mang về giải Nhất 2 năm liên tiếp (2015-2016) cho ông Lê Thành An (Đà Lạt) tại cuộc thi tuyển chất lượng cà phê Arabica của Việt Nam do UCC Nhật Bản – UCC châu Âu tổ chức tại Lâm Đồng. Vì khó trồng và năng suất thấp nên giá cà phê Bourbon thường cao gấp đôi các loại Arabica khác.

Theo các chuyên gia đến từ Công ty Cà phê UCC UESHIMA COFFEE CO.LTD, cà phê Arabica hiện có nhiều dòng khác nhau. Dòng Bourbon được trồng tại Đà Lạt có giá trị cao nhất Việt Nam và chất lượng hương vị sánh ngang với cà phê ngon nhất thế giới.

Nhãn hiệu độc quyền

Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) vừa cấp chứng nhận nhãn hiệu độc quyền cho sản phẩm “Cà phê Cầu Đất Đà Lạt”. Kết quả khảo sát mới nhất cho thấy, Cầu Đất – Xuân Trường hiện có gần 1.300 ha, phần lớn là cà phê kinh doanh hơn 10 năm tuổi. Đây là diện tích đã được cấp “sổ đỏ”, nếu cộng thêm những vườn cà phê trồng trên đất đang chờ phân định nông-lâm thì diện tích cà phê Arabica tăng hơn gấp đôi.

Theo Phòng Kinh tế thành phố Đà Lạt, ngoài Cầu Đất, Arabica còn được trồng tại các xã Trạm Hành, Xuân Thọ và một số phường, nâng tổng diện tích lên khoảng 3.500ha, chiếm hơn 85% diện tích cà phê và 33% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn thành phố. Năng suất bình quân đạt 2,7 tấn/ha, sản lượng ước đạt gần 11 ngàn tấn/năm.

Cuối tháng 10 vừa qua, UBND thành phố Đà Lạt đã cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Cà phê Cầu Đất Đà Lạt” đợt đầu tiên cho 10 công ty, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến cà phê nhân và cà phê bột Arabica tại Đà Lạt. “Đây là tài sản trí tuệ của thành phố nên chúng tôi cam kết không tự ý chuyển nhượng nhãn hiệu với bất kỳ hình thức nào. Mục tiêu của doanh nghiệp là duy trì, phát triển và không ngừng nâng cao giá trị, chất lượng của sản phẩm cà phê Arabica”, ông Phan Đắc Phú, Giám đốc Cty TNHH cà phê Arabica Cầu Đất Phú Vinh, nói.

Cơ sở chế biến với công suất 100 tấn tươi/ngày của Phú Vinh được đặt tại xã Xuân Thọ, vùng cà phê Arabica rộng lớn với diện tích hơn 540 ha, ước tính tổng sản lượng hơn 1.500 tấn nhân. Hiện đang vào vụ thu hoạch 2017 – 2018. Hội Nông dân xã tích cực vận động nông dân hạn chế tối đa thu hái cà phê xanh, chỉ tập trung thu hái cà phê đủ độ chín để bán cho công ty này.

Các chuyên gia ngành cà phê khuyến cáo trong vòng 24 giờ sau khi thu hái phải đưa cà phê vào chế biến để đảm bảo chất lượng. Ủ lên men đúng kỹ thuật sẽ làm cho hương vị cà phê dịu và thơm ngon tự nhiên. Cà phê phơi nắng có màu sáng trong hơn cà phê sấy; hương vị cũng  ngon hơn…

Kỳ công phục tráng

Theo ông Phạm S, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, Arabica còn được trồng ở Mộc Châu (Sơn La), Sa Pa (Lào Cai) và một số vùng ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị… Thế nhưng cà phê Arabica ở Đà Lạt và một số tiểu vùng tại huyện Lạc Dương (Lâm Đồng) vẫn đạt chất lượng cao nhất bởi vì dẫu ưa khí hậu lạnh nhưng Arabica không chịu được nhiệt độ thấp kéo dài dưới 12 độ C của những nơi khác.

Với độ cao lý tưởng (trên 1.500m) và biên độ nhiệt phù hợp, Đà Lạt-Lâm Đồng trồng được những loại cà phê Arabica có giá cao nhất thế giới như Moka, Bourbon… Tuy nhiên vì đây là những giống khó trồng và dễ bị sâu bệnh nên nông dân chưa mặn mà, giống bị thoái hóa dần.

Những năm gần đây, ông Pierre Morère từ Pháp đã trở lại Lâm Đồng để phục tráng giống cà phê Bourbon mà ông ngoại và mẹ ông từng phát triển thành những đồn điền tươi tốt từ những năm 30 của thế kỷ trước. Ông chuyển giao cây giống và kỹ thuật cho nhiều nông dân ở Lâm Đồng trồng cà phê, sau đó bao tiêu sản phẩm để chế biến thành công loại cà phê mang thương hiệu Bourbon Morère Pointu rồi bán tại Việt Nam và đưa đi tiếp thị rộng rãi ở nước ngoài.

Ông Phạm S cho biết đã tham quan vùng cà phê Bourbon này và nhận thấy tiềm năng rất lớn, do đó tỉnh đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn lập trại nhân giống cà phê Bourbon. Nếu thành công thì 2 năm nữa sẽ có đủ cây giống để trồng quy mô lớn.

Nguồn: Báo Tiền Phong được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nhân giống cà phê

Cà phê là một cây công nghiệp dài ngày, chu kỳ kinh tế trên 40 năm tuỳ theo từng giống, điều kiện trồng chế độ chăm sóc và mục đích khai thác. Vì vậy để bảo đảm cho việc sản xuất kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao thì việc chọn giống cũng như kỹ thuật nhân giống thích hợp có tính quyết định.

1. Chọn cây lấy hạt giống

Chọn cây đã cho trái 6 – 8 năm, năng suất cao và ổn định, kháng sâu bệnh, dạng hình dẹp. Chọn trái chín có hai nhân phát triển cân đối.

2. Xử lý hạt giống và gieo hạt

Hạt đã nãy mầm đem gieo vào bầu đất trong túi nhựa PE (kích thước túi 17 × 25cm, có đục 8 lỗ nhỏ 0,5cm phía gần đáy).

Đất trong bầu là đất mặt tốt, tơi xốp, hàm lượng mùn trên 3%. Dọn sạch lớp cây cỏ, cây và vật lạ trên mặt, lấy lớp đất màu trong độ sâu 10cm, trộn đều với phân hữu cơ thật hoai và phân lân. Hỗn hợp đất phân được sàng qua lưới sàng 5mm, phần không qua sàng tiếp tục làm nhỏ và sàng trở lại.

Bầu phải chặt, cân đối, thẳng đứng, chừa trồng miệng bầu từ 0,5 – 1cm đã rãi trấu hoặc mùn cưa sau khi đã ương hạt.

Trước khi gieo hạt vào bầu hạt giống phải được xử lý cho nẩy mầm theo trình tự sau:

– Hòa nước vôi theo tỉ lệ 1kg vôi/50 lít nước để lắng gạn lấy phần nước trong, đem đun nóng đến 54 – 60ºC (3 phần nước sôi 2 phần nước lạnh) và cho hạt giống vào ngâm trong 18 giờ, sau đó với ra đãi hết nhớt bằng nước sạch.

– Ủ hạt giống trong luống chìm rộng 1 – 1,2m, sâu 0,6 – 0,8m kể từ đáy luống lên có những bước sau:

+ Thân lá xanh còn tươi (20 – 25cm)

+ Phân chuồng chưa hoai (20 – 25cm)

+ Lớp vôi mỏng (0,5kg/m2)

+ Lớp bao tải

+ Lớp hạt giống thời kỳ đầu dày chùng 10 – 15cm tưới đẩm nước (khi hạt bắt đầu nẩy mầm thì rảy mỏng từ 5 – 8cm)

+ Lớp bao tải khô.

+ Rơm khô (càng dày càng tốt).

+ Chung quanh khu luống ủ có vách cao 2m, có liếp che phía trên để mỏ được ban ngày, đậy lại ban đêm.

Khi cây có 2 lá mầm tiến hành nhổ cây con, chọn những cây có một rễ đuôi chuột đem trồng vào bầu đã chuẩn bị ở vườn ươm.

3. Chăm sóc cây con

– Tưới nước: Cây nhỏ tưới ít và nhiều lần, cây lớn tưới nhiều và ít lần trong ngày.

– Tưới phân thúc: tưới dung dịch urê và clorua kali theo tỷ lệ 2:1 (với nồng độ 1%), xen kẽ với dung dịch phân hữu cơ ngâm (phân trâu, bò, phân xanh, bánh dầu,…) cho hoai mục, cây nhỏ tưới loãng, cây lớn tưới đậm hơn.

– Chăm sóc: Nhổ cỏ, phá váng không để bầu ngập nước. Trong vườn ươm lưu ý bệnh lở cổ rễ và bệnh vàng lá.

– Đảo cây: cây con có 3-4 đôi lá thật, tiến hành đảo cây, xếp cây lớn vào giữa luống, cây nhỏ ở hai bên luống để cây phát triển đều. Lưu ý xếp thưa dần khi cây lớn.

Chú ý: dỡ dàn che từ từ, khi cây đủ tiêu chuẩn cần dỡ bỏ dàn che hoàn toàn trước khi trồng mới 30 ngày.

4. Tiêu chuẩn cây giống

a. Cây thực sinh

Cây con được ươm từ hạt trước khi trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:

– Tuổi cây: 6 – 8 tháng.

– Chiều cao thân kể từ mặt bầu: 25 – 35cm, thân mọc thẳng.

– Số cập lá thật: 5 – 7.

– Đường kính gốc: 3 – 4mm

– Cây không bị sâu bệnh, dị hình và được luyện dưới ánh sáng hoàn toàn từ 10 – 15 ngày trước khi trồng.

– Kích thước bầu đất: 14 – 15 x 24 – 25cm

b. Cây ghép

Ngoài tiêu chuẩn cây thực sinh, cây ghép cần phải đạt:

– Chồi ghép có chiều cao trên 10cm và có ít nhất 1 cặp lá phát triển hoàn chỉnh.

– Chồi được ghép tối thiểu 1 tháng trước khi trồng.

5. Ghép cải tạo và nâng cấp vườn

Dùng chồi của những dòng cà phê cho năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, ghép trên gốc cà phê xấu, đã được ứng dụng và cho kết quả tốt.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 3

Farmtech VietNam xin giới thiệu cho bạn đọc về cách phòng trị các loài bệnh thường gặp ở cây cà phê vối và nhưng lưu ý khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

VIII- PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH:

1. Bệnh hại

1.1- Bệnh lở cổ rễ (nấm Rhizoctonia solani): 

Bệnh thường gây hại cây con ở vườn ươm và thời kỳ kiến thiết cơ bản. Bệnh hại ở phần cổ rễ, làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại.

Phòng trị: Tiêu huỷ những cây bệnh nặng, dùng các loại thuốc để tưới vào gốc như: Validamycin (Validacin); Pencycuron (Monceren) hoặc các loại thuốc gốc đồng.

1.2 – Bệnh khô cành, khô quả (nấm Collectotrichum coffeanum)

Bệnh thường phát triển vào đầu mùa mưa nhưng thể hiện rõ rệt khi quả còn non đến lúc 6-7 tháng tuổi.

Phòng trị: Bón phân đầy đủ, kịp thời cân đối NPK, dùng các loại thuốc Propineb (antracol); Carbendazim(bavistin); hoặc các loại thuốc gốc đồng như copper sulfat (Bordeaux), Kasugamycin 2 % + Copper Oxychloride 45% (Kasuran) để phòng trừ 2-3 lần/vụ.

1.3 – Bệnh tuyến trùng:

Do tuyến trùng Pratylenchus coffae gây vết thương, tuyến trùng Meloidogyne spp. gây nốt sần, tuyến trùng Tylenchus gây nội sinh. Cây bị bệnh thường sinh trưởng kém, vào mùa khô thường bị vàng héo, có khả năng lây lan lớn.

Phòng trị: Phát hiện sớm, tiêu hủy những cây bệnh nặng, cây bị bệnh nhẹ nên tăng cường bón phân hữu cơ, xử lý đất bằng thuốc cytokinin (Sincocin).

1.4 – Bệnh rỉ sắt (Hemileia vastatrix)

Triệu chứng: Bệnh thường xuất hiện ở những vườn cây già cỗi, đầu tư kém. Bệnh hại trên lá, vết bệnh hình tròn, có lớp bột phấn vàng màu da cam ở mặt dưới lá. Bệnh làm rụng lá, thường hại nặng vào tháng 10-11-12 và tháng 3, 4 trong năm.

Phòng trị: Cuối mùa mưa (tháng 10-110 dùng copper sulfat (Bordeaux 1%) hay copper hidroxide (Champion) phun mặt dưới lá 3-4 tuần/lần khi bệnh mới xuất hiện. Hiện nay có thể dùng các loại thuốc nội hấp Hexaconazole 85% (Anvil), cyproconazole 94% (Bonanza), Propiconazole 90% (Tilt).

Chú ý: Bệnh đã phát triển cần vệ sinh vườn, tỉa cành cho thông thoáng kết hợp với dùng thuốc hóa học.

1.5 – Nấm hồng (Corticium salmonicolor)

Tác hại trên cành và phần ngọn của cây, thường phát sinh mạnh vào đầu và trong mùa mưa, khi phát hiện thấy cành bị bệnh và cắt đốt kịp thời. Tiến hành phun thuốc trừ, phòng trong giai đoạn bệnh phát triển. Dùng Bordeaux hay Oxyt clorua 1% phun vào vùng bị bệnh, boặc dùng dung dịch Bordeaux 5% quét lên vết bệnh ở cành chưa bị héo.

2. Sâu hại

2.1- Rệp sáp (Pseudococus. Spp):

Gây hại ở chùm quả và vùng rễ làm cho cây cà phê phát triển kém, làm rụng quả. Thường xuyên theo dõi và phát hiện sớm. Thực hiện phun thuốc trên những cây phát hiện rệp

Phòng trị: Phát hiện sớm dùng Alpha-cypermethrin 90% (Fastac), Methidathion 96% (Supracide 40 EC).

2.2 – Mọt đục cành (Xyleborus mortati):

Phá hại chủ yếu trong thời kỳ kiến thiết cơ bản sang thời kỳ kinh doanh.

Phòng trị: Phát hiện cắt bỏ kịp thời, gom đốt những cành bị mọt.

2.3 – Sâu đục vỏ trái (Prays endolemma):

Thường tấn công trái non làm rụng trái hay tạo các ụ lớn trên vỏ trái làm trái bị biến dạng, giảm giá trị sản phẩm.

Phòng trị: Cần theo dõi thu gom các trái rụng đem chôn để trừ ấu trùng đang phát triển trong vỏ trái.

2.4 – Mọt đục trái (Stephanoderes lampei):


Đục từ núm quả vào trong sau đó phá hạt. Dùng các loại thuốc để trừ như: Phun Fenvalerate 92% (First 20EC), Etofenprox 96% (Trebon), Lambda-cyhalothrin (Karate) vào giai đoạn quả chuyển từ xanh sang chín.

2.5 Sâu đục thân thường gọi là Bore (Xylotrechus quadripe).

 Chỉ tác hại trên giống cà phê chè ở tuổi cây thường từ cuối năm thứ 3 trở đi. Sâu đẻ trứng vào kẻ nút của vỏ sau đó sâu non nỏ vào phá hoại phần gỗ bên trong thân cây là cho cây héo rồi chết. Loại sâu này khả năng xuất hiện quanh năm nhưng tập trung đẻ trứng rộ vào hai thời kỳ xuân, hè (tháng 3,4,5) và thu đông (tháng 10,11).

Trồng cây bóng mát cho cà phê để hận chế sự tác hại của sâu. Dùng Boremun 4% phun phủ kín lên thân cây từ ngọn đến gốc 1 năm 2 lần để diệt trừ trứng, sâu non và sâu trưởng thành vào tháng 3-4 (xuân – hè) và tháng 10-11 (vụ thu đông). Những cây bị sâu nặng phải kịp thời cưa cắt kịp thời để kịp thời diệt nguồn sâu trưởng thành.

VI. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT

1. Kỹ thuật sử dụng thuốc

1.1 Sử dụng theo 4 đúng

a. Đúng thuốc: căn cứ đối tượng dịch hại cần diệt trừ và cây trồng hoặc nông sản cần được bảo vệ để chọn đúng loại thuốc và dạng thuốc cần sử dụng.
b. Đúng lúc: dùng thuốc khi sinh vật còn ỏ diện hẹp và ở các giai đoạn dễ mẫn cảm với thuốc (thời kỳ sâu non, bệnh chớm xuất hiện).
c. Đúng liều lượng, nồng độ: đọc kỹ hướng dẫn trên nhãn thuốc và liệu lượng nước trên một đơn vị diện tích.
d. Đúng cách: tùy vào dạng thuốc, đặc tính thuốc và những yêu cầu kỹ thuật cũng như nơi xuất hiện dịch bệnh mà sử dụng cho đúng cách.

1.2 Hỗn hợp thuốc

Là pha hai hay nhiều loại thuốc nhằm trừ cùng một lúc được nhiều dịch hại, tuy nhiên cần lưu ý các điểm sau: chỉ nên pha các lọai thuốc theo sự hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc, bảng hướng dẫn pha thuốc hoặc sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật chuyên ngành biết rõ về đặc tính của thuốc.

2. An toàn trong sử dụng thuốc BVTV

2.1 Những tình huống bị nhiễm thuốc BVTV
– Nuốt phải thuốc
– Hít phải thuốc.
– Dính vào da.
Trong đó nuốt phải thuốc là dễ trúng độc nhất.

2.2 Triệu chứng ngộ độc thuốc BVTV
– Toàn thân: mệt mỏi, phờ phạc, sốt nóng hoặc rét lạnh.
– Da: tấy đỏ, viêm, đổ mồ hôi, xạm hoặc tái xanh.
– Mắt: ngứa, viêm đỏ, chảy nước mắt, mờ nhìn không rõ, có trường hợp đồng tử co hoặc giãn.
– Hệ hô hấp: hắt hơi chảy nước mũi ho đâu ngực, khó thở.
– Hệ thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, cử động rối loạn, cơ bắp co giật, bồn chồn, đi lảo đảo, nói đớ lưỡi, người xỉu đi, bất tỉnh.
– Hệ tiêu hóa: miệng và họng bị nóng, ra nhiều nước dãi, buồn nôn, ói mửa, đau bụng, co thắt dạ dày, tiêu chảy.

2.3 Các biện pháp sơ cứu khi nhiễm thuốc BVTV
– Đọc kỹ nhãn về phòng chống độc và một số đồ dùng cần thiết khi cấp cứu.
– Bình tỉnh đưa nạn nhân ra xa nơi nhiễm thuốc, cởi đồ nhiễm thuốc và rửa sạch vùng da nhiễm thuốc.
– Gây nôn nếu nạn nhân còn tỉnh táo và nhãn thuốc cho phép.
– Đặt nạn nhân nằm ổn định, giữ ấm nếu thấy lạnh, lau bằng nước lạnh nếu nạn nhân nóng sốt.
– Theo dõi nhịp thở, nếu ngừng thở phải làm hô hấp nhân tạo.
– Tuyệt đối không cho hút thuốc, uống sữa, uống rượu.
– Đưa nạn nhân đến Y, bác sỹ và phải mang theo nhãn thuốc.

2.4 Đồ bảo hộ lao động

– Áo dài tay, quần dài.
– Nón, mũ.
– Khẩu trang.
– Kính bảo hộ mắt
– Bao tay.
– Ủng, giày cao su
Yêu cầu bảo hộ lao động phải che phủ cơ thể và thích hợp với điều kiện khí hậu.

2.5 Chuyên chở thuốc BVTV
– Trước khi rời khỏi cửa hàng phải: kiểm tra bao bì xem thuốc có bị rò rỉ hay không, được gói buộc cẩn thận chưa và hỏi người bán thuốc các biện pháp cần phải làm nếu thuốc bị đổ bể.
– Không chuyên chở thuốc BVTV lẫn lộn với các vật dễ cháy, dễ nổ, lương thực thực phẩm vật dụng khác…
– Hạn chế chuyên chở thuốc bằng các phương tiện chật hẹp vì dễ gây ngộ độc cho người đi cùng và ảnh hưởng môi trường.

2.6 Cất giữ thuốc BVTV
– Nên mua thuốc BVTV đủ sử dụng, tránh dư thừa nhiều.
– Phải cất giữ thuốc nơi riêng biệt, không để gần gia súc, lương thực thực phẩm, người không có trách nhiệm.
– Nơi cất giữ thuốc không được ở nơi đầu gió, không gần giếng ăn hoặc kênh rạch, không bị nắng chiếu vào, không bị mưa.
– Luôn kiểm tra nơi giữ thuốc, không để cho thuốc bị đổ vỡ, rò rỉ. Nếu xảy ra cần dọn dẹp sạch sẽ ngay.
– Nơi cất giữ thuốc phải có khóa chắc chắn để trẻ em, người lớn không phận sự và gia súc không ra vào được nơi đó.

2.7 Cân đong và pha thuốc
– Cần mang đủ đồ bảo hộ lao động khi cân đong và pha thuốc.
– Đọc kỹ hướng dẫn ghi trên nhãn hoặc tờ bướm để biết rõ liều lượng pha và các thông tin khác.
– Chuẩn bị đủ dụng cụ cân đong, những loại này đều được đánh dấu riêng.
– Kiểm tra cần phun, cẩn thận khi mở nắp chai thuốc, tránh vung tung tóe thuốc, tránh cân đong nơi trẻ em nô đùa.
– Cân đong chính xác lượng thuốc cần dùng.
– Không được cân đong, pha thuốc hoặc rửa bình bơm gần ao hồ, suối, giếng, kênh mương.

2.8 Phun rải thuốc BVTV

Nên:
– Mang bảo hộ lao động khi phun thuốc.
– Kiểm tra ruộng bảo đảm không có người và gia súc có mặt nơi đó.
– Đọc kỹ nhãn để biết mối nguy hiểm với môi trường.
– Gắn biển báo nơi sau khi phun thuốc.
– Rửa sạch bình bơm ngay sau khi phun
– Phun đều khắp ruộng.
Không nên:
– Phun khi trời gió to, chuyển mưa, ngược chiều gió, lúc trưa nắng.
– Phun khi cơ thể suy yếu, mệt mỏi.
– Cho trẻ em và phụ nữ mang thai phun thuốc.
– Ăn uống, hút thuốc trong khi phun thuốc.
– Đưa béc phun vào miệng thổi.
– Phun rải bay tạt vào nguồn nước uống, nhà ở…

2.9 Dọn sạch thuốc đổ vãi
– Bảo hộ lao động khi tiếp xúc với thuốc.
– Không được dùng nước để cọ rửa vì nước sẽ làm thuốc tràn lan khắp nơi.
– Rắc mùn cưa, tro, đất bột, cát lên trên mặt nơi có thuốc rơi vãi.
– Nếu thuốc hoặc chất thấm nước có khả năng bay mùi ra xung quanh phải rưới nước từ từ hoặc phủ lên đó một tấm vải nhựa.
– Thu gom thuốc đổ vãi và vật dụng xử lý cho vào túi nhựa và tiến hành tiêu hủy.

2.10 Tiêu hủy thuốc và bao bì chứa thuốc
– Nếu bao bì bằng giấy thì cho xuống hố rồi đốt.
– Nếu bằng nhựa nhưng trên nhãn có chỉ dẫn là không được đốt thì phải đập vỡ, đâm thủng rồi chôn xuống đất.
– Nếu bao bì làm bằng vật liệu không cháy thì đập vỡ đâm thủng.

2.11 Vệ sinh sau khi tiếp xúc với thuốc BVTV
– Cởi bỏ ngay bộ đồ bảo hộ lao động.
– Tắm gội sạch sẽ bằng xà phòng.
– Giặt giũ đồ bảo hộ lao động.
– Thay quần áo sạch trước khi nghỉ ngơi, ăn uống, hút thuốc.
Tóm lại, việc sử dụng thuốc một cách an toàn là điều rất quan trọng cho bản thân và môi trường cộng đồng xung quanh, góp phần mang lại hiệu quả sử dụng cao hơn. Vì thế chúng ta nên chú ý tuân thủ theo những vấn đề an toàn và thời gian cách ly được nêu ra theo khuyến cáo hoặc trong nhãn thuốc trừ sâu.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ghép cây cà phê

Hầu hết các phương pháp ghép áp dụng cho các loại cây ăn quả đều có thể dùng để ghép cho cây cà phê. Tuy nhiên từ những kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy phương pháp ghép nối ngọn là thích hợp hơn cả.

Vì vậy, trong phần này chỉ trình bày phương pháp ghép nối ngọn trong cả hai trường hợp đối với gốc ghép đã được ươm trong bầu 4-6 tháng tuổi và đối với gốc ghép còn non đang ở giai đoạn đội mũ (ghép dưới trục hạ diệp). Cho đến nay chưa thấy một ghi nhận nào về sự không tương thích cũng như ảnh hưởng xấu của chồi ghép và gốc ghép giữa 3 loài cà phê chè, vối và mít.

Do vậy ghép không những là một phương pháp nhân vô tính mà còn là một phương pháp nhân giống tạo tính kháng tuyến trùng đặc bịêt là đối với các giống cà phê chè bằng cách ghép trên gốc cà phê vối có mang tính kháng cao.

Dưới đây là quy trình ghép nối ngọn:

1. Gốc ghép có từ 4 – 6 tháng tuổi

Những cây non được nhân bằng con đường hữu tính khi đã có từ 3 cặp lá thật trở lên là có thể sử dụng để làm gốc ghép. Dùng kéo cắt bỏ phần ngọn non cách cặp lá phía dưới khoảng 3 – 4 cm sau đó từ đỉnh vết cắt bổ dọc đoạn

Cách ghép cây cà phê

Chồi ghép là một đoạn ngọn thu từ vườn nhân chồi ghép dài chừng 4 – 5cm có mang một cặp lá còn non hoặc bánh tẻ và một đỉnh sinh trưởng. Dùng kéo cắt bớt 2/3 phiến lá để làm giảm quá trình mất nước sau đó dùng dao sắc cắt vát hai phía của đoạn chồi

Đưa chồi ghép vào gốc ghép sao cho hai lớp vỏ của chồi ghép và gốc ghép tiếp giáp thật tốt với nhau, sau đó dùng dây nylon rộng 1 – 1,2cm, dài 25 – 30cm buộc thật chặt phần tiếp xúc giữa gốc ghép và chồi ghép.

2. Gốc ghép còn non (giai đoạn đội mũ)

Phương pháp này thường được sử dụng để ghép các giống cà phê chè trên gốc cà phê vối có khả năng kháng được tuyến trùng hại rễ nhằm tạo ra các giống cà phê chè có khả năng kháng được tuyến trùng. Thực chất đây không phải là phương pháp nhân giống vô tính mà là nhân giống hữu tính vì chồi ghép được dùng là những cây cà phê chè được gieo ươm bằng hạt.

Chuẩn bị gốc ghép: dùng hạt của các giống cà phê vối có khả năng kháng cao với tuyến trùng hạt rễ để gieo ương làm gốc ghép. Khi hạt ủ đã bắt đầu nhú mầm có thể đem ươm trực tiếp trên luống rộng từ 1 – 1,2m (nếu ương cây con trên luống).

Chuẩn bị gốc ghép

Dùng tay đưa nhẹ phần vát của ngọn vào vị trí đã bổ của gốc ghép tự hoại buộc chặt phần tiếp giáp giữa gốc và chồi ghép. Kỹ thuật chăm sóc huấn luyện cây sau khi ghép tương tự như phương pháp nhân giống hữu tính. Sau khi ghép xong dùng lớp nylon trắng làm thành vòm che kín trên luống để giữ ẩm trong tuần đầu.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 2

Ở phần 1, Farmtech VietNam đã giới thiệu cho bạn đọc về đặc điểm của cây cà phê vối (Robusta) cùng với kỹ thuật nhân giống. Ở phần 2, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cà phê vối.

VI. KỸ THUẬT TRỒNG – CHĂM SÓC:

1. Chuẩn bị đất:

Đất phẳng được dọn sạch tàn dư thực vật, đào mương thoát nước theo sơ đồ thiết kế vườn cà phê như sau:

Sơ đồ thiết kế vườn trồng cà phê

2. Kỹ thuật trồng:

Thời vụ: Trồng vào đầu mùa mưa (tháng 5, tháng 6).

Khoảng cách, mật độ: Đất tốt, điều kiện thâm canh cao thì trồng thưa và ngược lại. Khoảng cách: đất tốt và bằng phẳng 3 x 3 m (1.118 cây/ha); đất trung bình và dốc 3 x 2.5 m (1.330 cây/ha).

Cách trồng: Đào hố trước khi trồng 1 tháng, hố có kích thước 60 x 60 x60 cm. Lớp đất mặt để một phía, sau đó trộn với 10 – 20 kg phân chuồng hoai mục + 0,5 kg super lân + 0.5 kg vôi bột đưa xuống hố. Lớp đất dưới để một phía sau dùng làm bồn quanh gốc. Lúc trồng bón lót ngoài tán lá cây 100 gram phân NPK 16 – 16 – 8 – 13 S.

*Chú ý: Dặm chặt đất ở xung quanh gốc, sau cơn mưa lớn cần vét bồn, để phòng cây bị lấp.

3. Bón phân chăm sóc:

3.1 Phân bón:
Cà phê là cây có nhu cầu dinh dưỡng cao. Chất hữu cơ rất quan trọng đối với cây cà phê, cần bón mỗi năm với số lượng 10-15kg phân chuồng hoai/cây, bón vào thời kỳ sau thu hoạch. Lượng phân hóa học bón cho 1 ha cà phê:

Lượng phân bón hóa học cho 1 ha cà phê

3.2 Tưới nước kết hợp với bón phân qua hệ thống đường ống:

– Lần thứ nhất: Bón vào đầu mùa mưa (tháng 3 đến tháng 5), dùng 35% lượng đạm, 30% lượng kali. Chia là 6 lần bón, chu kỳ 10 ngày/lần.
– Lần thứ hai: Bón vào giữa mùa mưa(tháng 7 đến tháng 8), dùng 40% lượng đạm, 40% lượng kali, 40% lượng lân. Chia làm 5 lần bón, chu kỳ 10 ngày/lần.
– Lần thứ ba: Bón vào cuối mùa mưa(tháng 10-11), dùng 25% đạm, 60% lân, 30% kali. Chia 5 lần bón, chu kỳ 7 ngày/lần.

Chú ý: Phải bổ sung lượng phân khoảng 30-40% so với tổng lượng phân bón trong năm để phục hồi sinh trưởng đối với vườn cà phê cho năng suất cao, tránh tình trạng suy kiệt cây.

Lần tưới đầu khi hoa có hình dạng hình mỏ sẻ màu xám hoặc xám xanh. Sau đó tưới định kỳ 7 ngày/lần đối với đất sỏi cơm, 10-12 ngày/lần đối với đất đỏ bazan, đảm bảo 150-200 lít/cây/lần tưới. Có điều kiện dùng rơm rạ, cỏ tủ gốc cây trong mùa khô.
Mỗi lần bón hòa tan hoàn toàn lượng phân trong bồn, mở hệ thống tưới tiết kiệm nước, phân theo hệ thống đi đến từng gốc cây.

Phương pháp tưới nước tiết kiệm

Các ưu điểm của phương pháp tưới nước tiết kiệm và bón phân qua đường ống:
+ Tiết kiệm lượng nước tưới.
+ Tiết kiệm dầu tưới.
+ Tiết kiệm công tưới.
+ Tiết kiệm làm bồn.
+ Tăng hiệu quả của việc bón phân.
+ Tăng năng suất và chất lượng trái.
+ Hạn chế lây lan bệnh cây, nhất là bệnh rễ cây.

Mô hình : Hệ thống tưới nước kết hợp bón phân qua đường ống:


4. Tạo hình:

Chú thích: Căn cứ vào hướng dẫn các đợt bón phân trong quy trình kỹ thuật, mỗi đợt lượng phân bón được hòa tan vào hệ thống tưới 3-4 lần mỗi lần cách nhau 7-10 ngày, chia nhỏ lượng phân ra các lần bón như thế sẽ góp phần giảm thất thoát phân bón, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón của cây trồng.

Pha phân: Khi bón phân cho cây, phân bón được ngâm trước 1 ngày, thường xuyên khuấy đều khi ngâm phân để hòa tan hoàn toàn lượng phân cần tưới vào bồn chứa dung dịch phân( không nên sử dụng các loại phân khó tan)

Nguyên tắc hoạt động:

– Khi vận hành máy bơm, dưới lực hút của máy nước từ giếng và dung dịch phân trong bồn chứa sẽ được hút vào máy bơm và được khuấy đều trong hệ thống và ra các vòi tưới cho cây. Chúng ta có thể thay đổi lượng phân bón trước khi vào trong máy bằng khoá điều chỉnh.
– Từ máy bơm, một lượng nước chứa phân được đưa đến bộ lọc( tránh nghẹt béc) rối đến ống cấp 1. Nếu nước trong bồn bị cạn hệ thống sẽ ngưng hoạt động.
– Từ ống cấp 1 nước chứa phân được đưa đến ống cấp 2, rồi đến ống cấp 3 tưới vào từng gốc cây.
– Ồng cấp 2 được đặt dọc theo các hàng cây, trên các ống cấp 2 này chúng ta lắp đạt hệ thống van điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước vì nơi gần máy bơm áp lực và lưu lượng nước cao hơn những nơi xa máy bơm. Ngoài ra các van này cũng tất quan trọng để điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước cho những vùng có địa hình không đồng đầu, đồi dốc…

4.1 Nuôi đa thân: Ở Đồng Nai các nhà vườn thường áp dụng phương pháp này giữ lại mỗi gốc 3 thân phân đều xung quanh. Phương pháp này có nhược điểm là chu kỳ kinh tế ngắn (5 – 7 năm). Để khắc phục nhược điểm trên, có thể phối hợp với biện pháp nuôi thêm thân (cành vượt), thay thế những thân chính có hiện tượng tán dù. Chọn chồi khoẻ ở phần gốc, sau thu hoạch cần cưa bỏ thân đã có hiện tượng tán dù giúp cho chồi non phát triển.

4.2 Tỉa cành: Thường xuyên tỉa bỏ những chồi vượt, những cành bị sâu bệnh gây hại, những cành đã ra quả ở những năm trước chỉ còn 2-3 cặp lá ở đầu cành.

4.3 Cưa đốn phục hồi: Những vườn cà phê đã già cỗi, cho năng suất thấp thì cưa đốn phục hồi vào cuối mùa thu hoạch trái. Vị trí cưa: cách gốc 20-30 cm, giữ lại mỗi gốc 3 chồi tốt nhất phân bố đều quanh gốc.

VII. THU HOẠCH – CHẾ BIẾN – BẢO QUẢN:

1. Thu hoạch:

Khi thu hoạch chỉ nên hái trái cà phê vừa chín vì những trái cà phê quá chín hoặc xanh là nguyên nhân làm cho cà phê mất mùi vị ngon. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho nấm mốc và độc tố phát triển.

Cà phê thu hoạch ngày nào, chế biến ngay ngày đó, không nên ủ quá 24 giờ, làm giảm chất lượng.

2 Chế biến: Có 2 phương pháp:

Chế biến ướt: Xát tươi loại bỏ phần vỏ, thịt, sau đó lên men hay xát bỏ phần nhớt bám xung quanh vỏ trấu, ngâm rửa rồi đem phơi.

Xát vỏ cà phê trong phương pháp chế biến ướt

Chế biến khô: Sau khi thu hoạch đem phơi cả quả, không qua khâu xát tươi. Cà phê được phơi trên nền ximăng, trên tấm vải nhựa. Phơi từng lớp mỏng (không dày quá 3-4cm) và đảo qua lại thường xuyên.

Phơi khô trái cà phê có cả vỏ

3. Bảo quản sau thu hoạch:

Chỉ đưa vào bảo quản trong kho khi độ ẩm trong hạt không quá 12,5% để cà phê không bị lên men mốc, không bị mất mùi, không để trực tiếp trên nền đất.

Dùng bao tải sạch để bảo quản cà phê, trong nhà kho có thông gió tốt và đề phòng nước dột, không để cà phê sát tường. Không dùng bao nhựa để chứa cà phê, chứa cà phê trong bao không quá đầy.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Nguyên nhân và cách khắc phục cây cà phê ra hoa sớm

So với khoảng 10 năm về trước thì hiện nay thời tiết, khí hậu có nhiều thay đổi theo chiều hướng bất thuận đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cà phê nói riêng. Sự thay đổi quy luật phân bố mưa ở Tây Nguyên là một trong những nguyên nhân chính làm cho cây cà phê ra hoa sớm…

Một số nguyên nhân làm cho cây cà phê ra hoa sớm ở Tây Nguyên

Tác động của biến đổi khí hậu

Sự thay đổi nhiệt độ không khí theo chiều hướng tăng dần làm cho cây cà phê dễ ra hoa sớm. So với khoảng 10 năm về trước thì hiện nay thời tiết, khí hậu có nhiều thay đổi theo chiều hướng bất thuận đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cà phê nói riêng. Nhiệt độ tăng trung bình từ 0,7 – 1oC làm tăng quá trình tích lũy hydratcacbon, do vậy làm tăng tỷ lệ C/N của cây cà phê, vì thế cây rất mẫn cảm với việc phân hóa mầm hoa khi gặp thời tiết nắng nóng và không mưa trong khoảng thời gian ngắn. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, vào mùa mưa, đặc biệt vào các tháng 7, 8, 9 chỉ cần có khoảng thời gian từ 7 – 15 ngày trời không có mưa và nhiệt độ cao khoảng 30 – 35oC thì cây cà phê có thể tiến hành phân hóa mầm hoa, tăng trưởng mầm hoa và hình thành nụ hoa và khi gặp những cơn mưa trở lại (khoảng từ 3 mm trở lên) thì hoa cà phê sẽ nở. Tuy nhiên, trừ trường hợp đặc biệt, tỷ lệ hoa nở vào những thời điểm này là không cao, chỉ từ 2 – 8% tổng số hoa của cây cà phê để cho vụ thu hoạch tới.

Quy luật phân bố mưa trong mùa mưa thay đổi làm ảnh hưởng đến ra hoa sớm của cây cà phê. Có sự thay đổi về lượng mưa và tần suất mưa trong mùa mưa ở Tây Nguyên thời gian gần đây. Tần suất mưa có xu hướng giảm và thay vào đó là lượng mưa của những cơn mưa lại có xu hướng tăng cao làm tăng nguy cơ xói mòn đất, giảm hệ số sử dụng phân bón, do vậy làm tăng khả năng tích lũy hydrat cacbon nên cây cà phê rất dễ phân hóa mầm hoa khi gặp nắng nóng, khô hạn nhất thời. Hiện tượng khô hạn trong mùa mưa với thời gian từ 10 – 30 ngày đã từng xảy ra làm cho cây cà phê phân hóa mầm hoa sớm và hoa sẽ nở khi gặp mưa. Trong mùa mưa nếu gặp 2 đợt hạn (không mưa) thì cây cà phê cũng có khả năng phân hóa mầm hoa, nở hoa và đậu quả 2 lần gây khó khăn cho công tác quản lý kỹ thuật cũng như quản lý thu hoạch sản phẩm sau này. Ngoài ra, khi hoa nở với tỷ lệ cao vào cuối mùa mưa thì cần phải tưới đuổi để đảm bảo năng suất không bị sụt giảm.

Hoặc bắt đầu mùa khô lại có những cơn mưa nhỏ cũng làm cho hiện tượng ra hoa không đồng loạt xảy ra. Đối với các đoạn cành đã phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa thì hoa sẽ nở; ngoài ra còn có một tỷ lệ cành cà phê chưa kịp phân hóa mầm hoa và hình thành chồi hoa nên sẽ tiếp tục phát triển nếu có điều kiện khô hạn tiếp tục xảy ra. Điều kiện thời tiết năm 2016 và những tháng đầu năm 2017 là những ví dụ điển hình của sự thay đổi về phân bố mưa ở Tây Nguyên.

Tuổi cà phê có ảnh hưởng đến khả năng ra hoa sớm của cây

Tuổi cà phê càng già thì quá trình tích lũy C/N càng cao và do vậy cây rất dễ phân hóa mầm hoa trong điều kiện nhiệt độ cao và có thời gian khô hạn ngắn so với cà phê trẻ đang sung sức.
Như vậy trong điều kiện thời tiết khí hậu như hiện nay, các vườn cà phê già cỗi dễ xảy ra tình trạng ra hoa sớm hơn so với các vườn cà phê đầu thời kỳ kinh doanh.

Ảnh hưởng của quá trình canh tác có liên quan đến tình trạng ra hoa sớm của cây cà phê

Trồng cà phê không có cây che bóng có ảnh hưởng đến hiện tượng ra hoa sớm
– Trồng cà phê không có cây che bóng đã làm tăng cường độ chiếu sáng, quá trình chuyển hóa hydrat cacbon diễn ra mạnh mẽ (C/N cao) nên cây rất dễ phân hóa mầm hoa khi gặp thời tiết khô hạn trong mùa mưa và nở hoa khi gặp cơn mưa với lượng mưa từ trên 3 mm. Trường hợp lượng mưa thấp (< 20 mm) thì cần phải tưới đuổi để đảm bảo duy trì năng suất thu hoạch. Do trồng trần nên thường tỷ lệ ra hoa sớm cũng thường khá cao, có khi lên đến 30% tổng lượng hoa cà phê. Điều này làm ảnh hưởng đến công tác quản lý kỹ thuật cũng như quản lý thu hoạch sản phẩm.
– Các kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng vườn cà phê có trồng cây che bóng với mật độ thích hợp có tác dụng điều hòa tiểu khí hậu trong vườn, đồng thời cũng hạn chế quá trình chuyển hóa hydrat cacbon nên tỷ lệ C/N không cao giúp cây cà phê tăng cường sức đề kháng đối với quá trình sốc nhiệt tạm thời (nắng nóng và không mưa trong thời gian ngắn). Vì vậy cây cà phê không thể phân hóa mầm hoa sớm trong mùa mưa. Từ đó giúp cho cà phê ra hoa tập trung hơn khi có điều kiện thời tiết, khí hậu thích hợp (nắng nóng và không mưa kéo dài từ 1 đến 2 tháng).

Bón phân mất cân đối có ảnh hưởng đến hiện tượng ra hoa sớm
Bón phân mất cân đối làm cho cây cà phê sinh trưởng và phát triển bị hạn chế cũng làm tỷ tỷ lệ C/N trong cây và do vậy cây dễ mẫn cảm với tình trạng sốc nhiệt và không mưa mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn, cây cà phê phân hóa mầm hoa và nở hoa khi có mưa trở lại trong mùa mưa. Thực tế trong sản xuất rất dễ nhận thấy rằng các vườn cà phê sinh trưởng kém, cây còi cọc thường hay ra hoa sớm trong mùa mưa so với các vườn cà phê được bón phân hợp lý, cân đối cây sinh trưởng khỏe, xanh tốt.

Cắt cành không kịp thời và không đúng kỹ thuật cũng làm cho cây cà phê ra hoa sớm
Thực tế hiện nay do việc cắt cành cà phê chưa đúng kỹ thuật, có rất nhiều cành có 3 đoạn cành với các giai đoạn sinh trưởng phát triển khác nhau, đó là đoạn cành đã thu hoạch (già cỗi), đoạn cành đang mang quả và đoạn cành sẽ cho quả vào vụ tới. Những đoạn cành này có tỷ lệ C/N rất cao; đặc biệt là trên các cành có đoạn cành mang quả nhiều, nên thường dễ phân hóa mầm hoa khi gặp cường độ chiếu sáng cao và không mưa chỉ một thời gian ngắn. Trong cùng một điều kiện nhiệt độ, thời gian chiếu sáng và thời gian không mưa như nhau thì các cành có 2 đoạn cành hay chỉ là cành dự trữ khỏe mạnh thì các loại cành này thường có thời gian phân hóa mầm hoa muộn hơn và đòi hỏi thời gian chiếu sáng dài hơn, thời gian khô hạn dài hơn.

Việc cắt cành cà phê muộn cũng làm cho cây cà phê tích lũy C/N với lượng cao, do vậy rất dễ phân hóa mầm hoa, ra hoa sớm khi có thời gian sốc nhiệt xảy ra, mặc dù chỉ khoảng 7 – 15 ngày.
Như vậy việc tỉa cành đúng kỹ thuật, đúng thời điểm cây cà phê sinh trưởng khỏe hơn có khả năng vượt qua các cơ sốc nhiệt xảy ra trong thời gian ngắn và chỉ phân hóa mầm hoa khi điều kiện khô hạn kéo dài thưởng xảy ra sau khi thu hoạch.

 Các nguyên nhân khác
Vườn cà phê bị sâu bệnh hại tấn công không phòng trừ kịp thời (bệnh vàng lá thối rễ, nứt thân, rệp sáp….), cây cà phê cong rễ thường có tỷ lệ C/N cao nên dễ bị phân hóa mầm hoa khi xảy ra sốc nhiệt do nắng và không mưa.
Tưới sớm khi cây cà phê phân hóa mầm hoa chưa đầy đủ, chồi hoa ít làm cho cây cà phê nở hoa rải rác (thực tế trên những đoạn cành có tỷ lệ C/N cao khi gặp khô hạn trong thời gian ngắn đã phân hóa mầm hoa và phát triển thành chồi hoa nếu không tưới thì các chồi hoa này vẫn ở dạng ngủ nghỉ và khi tưới thì số hoa này sẽ được nở; trong khi đó các đoạn cành khác sinh trưởng khỏe thì thời gian khô hạn ngắn nên chưa đủ điều kiện để phân hóa mầm hoa). Việc xác định thời điểm tưới đúng cho cà phê là hết sức cần thiết để đảm bảo cho cây ra hoa tập trung, nở hoa đồng đều, tỷ lệ đậu quả cao và đạt được năng suất cao. Thông thường, thời gian khô hạn cần để cây cà phê phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa từ 1 đến 2 tháng tùy điều kiện thời tiết, khí hậu.
Ngoài ra, các tác động cơ giới như xén rễ, tạo vết thương ở thân chính cũng làm cho cây hình thành tỷ lệ C/N cao nên cây cà phê cũng rất dễ ra hoa, đậu quả sớm trong mùa mưa nếu như có đợt hạn tức thời và cường độ chiếu sáng cao.

Giải pháp khắc phục tình trạng cà phê ra hoa sớm

Duy trì hệ cây che bóng, hoặc trồng bổ sung cây che bóng, cây trồng xen (bơ, sầu riêng) trong vườn cà phê
Trồng cây che bóng có tác dụng điều hòa tiểu khí hậu trong vườn cà phê, giảm ánh sáng trực xạ, giảm bốc thoát hơi nước của cây và của mặt đất nên ít chịu tác của hiện tượng sốc nhiệt khi gặp hạn hán tức thời. Ngoài ra, do tác dụng tích cực của hệ thống cây che bóng trong việc điều chỉnh tỷ lệ C/N ở mức thích hợp nên hiện tượng phân hóa mầm hoa sớm trong những giai đoạn hạn tức thời của mùa mưa thường ít xảy ra. Giải pháp Trồng cây che bóng tuy đơn giản, song có vai trò đặc biệt quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng xảy ra rõ ràng hơn. Trong mùa mưa, nếu có những đợt hạn ngắn, cà phê vẫn sinh trưởng bình thường do cường độ chiếu sáng tăng không đáng kể để cây cà phê có thể tăng tỷ lệ C/N; mặc khác cây che bóng có tác dụng tốt trong việc duy trì, kéo dài độ ẩm đất ở mức khá thích hợp nên không gây tình trạng sốc hạn để phân hóa mầm hoa sớm.
Tuy nhiên, nếu mật độ cây che bóng cao hơn 100 cây/ha thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất vườn cà phê do cây cà phê không nhận được ánh sáng đầy đủ để đảm bảo các quá trình sinh lý, sinh hóa diễn ra thuận lợi cho việc phân hóa mầm hoa khi mùa khô hạn xảy ra sau khi thu hoạch.

Bón phân cân đối, hợp lý
Bón phân hợp lý, cân đối giúp cây sinh trưởng khỏe góp phần trong việc điều chỉnh tỷ lệ C/N ở mức phù hợp trong mùa mưa nên có thể ít chịu ảnh hưởng của các đợt hạn ngắn, vì vậy hạn chế được hiện tượng ra hoa sớm.
Đối với vườn cà phê có cây che bóng với mật độ hợp lý, cùng với chế độ bón phân cân đối, hợp lý thì ảnh hưởng của các đợt hạn ngắn trong mùa mưa sẽ không làm cho cà phê phân hóa mầm hoa sớm. Khi có thời gian khô hạn kéo dài phù hợp thì cây cà phê sẽ phân hóa mầm hoa đồng loạt hơn và hoa sẽ nở tập trung khi được cung cấp nước đầy đủ.

Tạo hình, tỉa cành đúng kỹ thuật
Tạo hình, tỉa cành hợp lý, đúng kỹ thuật, đúng thời điểm giúp cây có bộ tán cân đối, hệ thống cành dự trữ khỏe mạnh sẽ giúp cây ít bị ảnh hưởng bởi các đợt hạn ngắn trong mùa mưa, vì vậy hạn chế được tình trạng ra hoa sớm. Khi có điều kiện thuận lợi (khô hạn dài từ 1 – 2 tháng) thì cà phê sẽ phân hóa mầm hoa đầy đủ, tập trung, khi tưới nước sẽ giúp hoa nở đồng loạt, có khi lên đến 80 – 90%.

Tưới nước đúng thời điểm
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trong mùa mưa thường xuất hiện các đợt hạn ngắn nên có một tỷ lệ nhất định số đoạn cành già cỗi, cành mang nhiều quả có tỷ lệ C/N cao nên có thể xảy ra quá trình phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa. Trên vườn cà phê vẫn còn một tỷ lệ cành, đoạn cành còn đang sung sức, chưa có biểu hiện phân hóa mầm hoa do thời gian khô hạn chưa đủ dài. Nếu tưới vào giai đoạn này thì tỷ lệ nở hoa sẽ rất ít, rải rác và do đất đủ ẩm kéo dài nên dẫn đến việc kéo dài thời gian phân hóa mầm hoa hoặc sẽ không phân hóa mầm hoa được do sinh trưởng dinh dưỡng chiếm ưu thế. Trong trường hợp này, chúng ta đừng nôn nóng mà lợi dụng đặc tính sinh lý của cây cà phê là khi phân hóa mầm hoa thành chồi hoa, nếu thời tiết tiếp tục khô hạn thì chồi hoa bước vào thời kỳ ngủ nghỉ; trong khi đó số cành, đoạn cành còn lại tiếp tục phân hóa mầm hoa. Đợi đến khi hoa cà phê đạt được độ lớn nhất định (dài hoa từ 1 – 1,5 cm), có màu trắng ngà hoặc trắng sữa, lá héo vào ban ngày (độ ẩm đất khoảng 27%) thì tưới nước cho cà phê là đúng thời điểm; tỷ lệ hoa nở sẽ rất cao khoảng 80 – 90%, tập trung do vậy thuận lợi cho việc thu hoạch và chăm sóc sau này.

Tình huống cần tưới đuổi
Không phải trường hợp nào cũng phải tưới đuổi cho cà phê sau khi nở hoa mà lượng mưa chưa đảm bảo (< 20 mm). Các trường hợp nở hoa vào cuối và gần cuối mùa mưa với tỷ lệ hoa nở không cao, khoảng từ 1% đến 10% (do ảnh hưởng của hiện tượng sốc nhiệt tức thời, các đoạn cành cà phê già cỗi, tỷ lệ C/N cao phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa và gặp mưa thì nở hoa).

Theo các kết quả nghiên cứu của WASI, trường hợp nở hoa sớm với tỷ lệ nở hoa không đáng kể (< 10%) thì không cần tưới đuổi. Nếu sau khi nở hoa, lượng nước cung cấp không đủ, quả sẽ bị rụng và tỷ lệ quả rụng này sẽ được bù đắp thông qua quá trình tự điều chỉnh sinh lý rụng quả của cây. Thông thường, tỷ lệ rụng quả sinh lý của cây cà phê lên đến 40 – 50%. Nếu số quả trên chùm, trên cây càng nhiều thì tỷ lệ rụng quả sinh lý càng cao, số quả ít hơn sẽ có tỷ lệ rụng sinh lý ít hơn. Các đợt hoa cà phê nở sớm vào giữa mùa mưa, thậm chí cuối mùa mưa có tỷ lệ thấp, không cần phải quan tâm. Nếu tưới đuổi thì phải tưới nhiều lần, do vậy có thể ảnh hưởng đến khả năng phân hóa mầm hoa của cây cà phê sau này do sinh trưởng dinh dưỡng chiếm ưu thế.
Việc tưới đuổi cần quan tâm khi đợt nở hoa sớm rơi vào cuối mùa mưa và sau thu hoạch với tỷ lệ hoa nở trên 10%. Lưu ý cần tưới với lượng nước vừa phải và chỉ tưới 1 lần để đảm bảo quá trình phân hóa mầm hoa tiếp tục diễn ra thuận lợi trong mùa khô hạn. Việc tưới đuổi nhiều lần càng dễ gây nên hiện tượng hoa nở rải rác, ảnh hưởng đến thu hoạch và năng suất. Ngoài ra việc tưới đuổi nhiều lần sẽ ảnh hưởng đến việc phân hóa mầm hoa của cây cà phê ở những năm sau và hiện tượng ra hoa sớm, nhiều đợt lại tiếp tục xảy ra.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 1

Cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hoặc Coffea robusta) là cây quan trọng thứ hai trong các loài cà phê. Khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này.

Cây cà phê có nguồn gốc mọc trong rừng châu Phi, trên cao nguyên Kaffa của Ethiopia (ở độ cao 1370-1830 m). Từ đó cây cà phê được con người phát hiện và di canh đến các địa lục khác.

Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới là Việt Nam. Các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm Côte d’Ivoire, Uganda, Brasil, Ấn Độ.p

I. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT HỌC

1. Rễ

Rễ cọc: Rễ có độ dài từ 0,3-0,5 m, mọc từ thân chính. Nhiệm vụ chính là dùng làm trục giữ thân tránh đỗ ngã.

Rễ nhánh: Là những rễ nhánh mọc ra từ rễ cọc, ăn sâu vào đất để hút nước. Rễ nhánh có thể ăn sâu xuống đất tới 1,2- 1,5 m.  Rễ nhánh càng ăn sâu, khả năng hút nước và chịu hạn càng tốt. Các rễ  bên mọc từ rễ nhánh phát triển ra xung quanh hành hệ thống rễ con.

Rễ con: Sự phát triển của rễ con phụ thuộc vào độ dày của tầng đất canh tác, giống cà phê, chế độ bón phân, tưới nước, canh tác. Hệ thống rễ này hầu hết tập trung ở tầng đất mặt (Từ 0-30 cm). Nhiệm vụ chủ yếu là hút chất dinh dưỡng và nuôi cây.

2. Thân cành:

Cây cà phê thân gỗ, nếu để cây phát triển tự do có thể cao tới hàng chục mét. Cành mọc từ thân chính gọi là cành cơ bản (cành cấp 1), cành mọc từ cành cấp 1 gọi là cành thứ cấp (cành cấp 2). Trong điều kiện chăm sóc tốt, các cành cơ bản của cây cà phê bắt đầu xuất hiện sau trồng 20 – 40 ngày.

3. Lá:

Đối với cà phê vối, lá có tuổi thọ từ 7 – 10 tháng. Các tác động về thời tiết hoặc chế độ dinh dưỡng không tốt có thể làm cho lá rụng sớm hơn. Cành và lá có tương quan chặt chẽ với năng suất cà phê. Các nghiên cứu chứng tỏ rằng lá, cành và thân cà phê là nơi dự trữ các nguồn dinh dưỡng để tạo hoa và nuôi dưỡng sự phát triển của quả. Lượng tinh bột hình thành trong quá trình quang hợp của lá sẽ được tích lũy trong lá và hệ thống mô của cây, nếu lượng này suy giảm sẽ dẫn đến hiện tượng rụng hoa, quả và cho hạt nhỏ, năng suất thấp. Đây chính là yếu tố cần quan tâm trong quá trình chăm sóc cây cà phê để đạt năng suất cao.

4 Hoa:

Hoa cà phê mọc ra ở các chồi nách lá của cành sơ cấp và cành thứ cấp. Hoa cà phê thường nở về đêm và nở hết khoảng 4-5 giờ sáng. Cà phê vối (Robusta) thụ phấn chéo(giao phấn) là chủ yếu, đặc tính này phụ thuộc rất nhiều vào gió và côn trùng, vì vậy việc nuôi ong mật trong vườn cây cà phê cũng là biện pháp tăng tỷ lệ đậu quả của cà phê. Cà phê vối không ra hoa lại ở những đoạn cành (hoặc nách lá) đã ra hoa năm trước.

5. Quả:

Sau khi thụ phấn, quả phát triển nhanh, thường quả cà phê có 1-2 nhân (tùy theo lượng nước tưới và chế độ dinh dưỡng). Thời gian sinh trưởng đối với quả cà phê vối thường từ 9-11 tháng (tuỳ theo điều kiện chăm sóc).

II. ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH:

1. Nhiệt độ: Cây cà phê vối sinh trưởng phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ từ 22 – 260 C.

2. Ánh sáng: cây cà phê vối thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần trồng cây che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn kiết thiết cơ bản.

3. Ẩm độ: Cây cà phê (Vối) thích hợp trong điều kiện ẩm độ cao, gần như bão hòa.

4. Lượng mưa: Cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa hàng năm 1.800 – 2.000 mm, có một mùa khô ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch để phân hóa mầm hoa.

5.Gió: Gió nóng, lạnh hay gió mạnh đều gây ảnh hưởng cho sinh trưởng phát triển cây cà phê. Khi lập vườn cần trồng cây chắn gió phù hợp cho vườn cà phê.

III. ĐẤT ĐAI:

Cây cà phê không đòi hỏi khắt khe về đất, nó có thể phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất nâu đỏ, nâu vàng hoặc đất xám …. Trong đó, đất đỏ bazan cây cà phê sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Yêu cầu cơ bản là có tầng đất mặt sâu từ 70 cm trở lên, có thành phần cơ giới trung bình đến hơi nặng (Đất thịt nhẹ- sét).

IV. GIỐNG:

Có 3 giống chính: Cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta), cà phê mít (Excelsa).  Đồng Nai thích hợp trồng giống cà phê vối ( Robusta).

Hiện nay, Viện Nông Nghiệp Tây Nguyên đã chọn lọc và đưa ra sản xuất nhiều dòng cà phê. Đó là các dòng:

  • Dòng TR5: cây sinh trưởng khoẻ, năng suất đạt 3,5 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 20,6 gram( giống củ chỉ đạt 13-14 gram/100 nhân)
  • Dòng TR6: cây sinh trưởng khỏe, kháng rỉ sắt rất cao, năng suất đạt 5,6 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,5 gram.
  • Dòng TR4: Cây sinh trưởng khoẻ, kháng rỉ sắt, phân nhiều cành, cành ngang hơi rũ, năng suất đạt 7,3 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,1 gram.
  • Dòng TR8: cây sinh trưởng khỏe, kháng rỉ sắt, phân cành trung bình, năng suất đạt 4,2 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,6 gram.

V. KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG:

1. Chọn cây lấy hạt giống:

Chọn cây đã cho trái 6-8 năm, năng suất cao và ổn định, kháng sâu bệnh, dạng hình dẹp. Chọn trái chín có hai nhân phát triển cân đối.

2. Xử lý hạt giống và gieo hạt 

Hạt đã nẩy mầm đem gieo vào bầu đất trong túi nhựa PE (kích thước túi 17×25cm, có đục 8 lỗ nhỏ 0,5cm phía gần đáy).

Đất trong bầu là đất mặt tốt, tơi xốp, hàm lượng mùn trên 3%. Dọn sạch lớp cây cỏ, cây và vật lạ trên mặt, lấy lớp đất màu trong độ sâu 10 cm làm tơi nhỏ, trộn đều với phân hữu cơ thật hoai và phân lân. Hỗn hợp đất phân được sàng qua lưới sàng 5mm, phần không qua sàng tiếp tục làm nhỏ và sàng trở lại.

Bầu phải chặt, cân đối, thẳng đứng, chừa trồng miệng bầu từ 0,5-1cm đã rãi trấu hoặc mùn cưa sau khi đã ương hạt.

Trước khi gieo hạt vào bầu hạt giống phải được xử lý cho nẩy mầm theo trình tự sau:

  • Hòa nước vôi theo tỉ lệ 1kg vôi/50 lít nước để lắng gạn lấy phần nước trong, đem đun nóng đến 54-600C (3 phần nước sôi 2 phần nước lạnh) và cho hạt giống vào ngâm trong 18 giờ, sau đó với ra đãi hết nhớt bằng nước sạch.
  • Ủ hạt giống trong luống chìm rộng 1-1,2m, sâu 0,6-0,8m kể từ đáy luống lên có những bước sau:
    + Thân lá xanh còn tươi (20-25cm)
    + Phân chuồng chưa hoai (20-25cm)
    + Lớp vôi mỏng (0,5kg/m2)
    + Lớp bao tải
    + Lớp hạt giống thời kỳ đầu dày chùng 10-15cm tưới đẩm nước (khi hạt bắt đầu nẩy mầm thì rảy mỏng từ 5-8cm)
    + Lớp bao tải khô.
    + Rơm khô (càng dày càng tốt).
    + Chung quanh khu luống ủ có vách cao 2m, có liếp che phía trên để mỏ được ban ngày, đậy lại ban đêm.

Khi cây có 2 lá mầm tiến hành nhổ cây con, chọn những cây có một rễ đuôi chuột đem trồng vào bầu đã chuẩn bị ở vườn ươm.

3. Chăm sóc cây con:

Tưới nước: Cây nhỏ tưới ít và nhiều lần, cây lớn tưới nhiều và ít lần trong ngày. Tưới phân thúc: tưới dung dịch urê và clorua kali theo tỷ lệ 2:1 (với nồng độ 1%), xen kẽ với dung dịch phân hữu cơ ngâm (phân trâu, bò, phân xanh, bánh dầu,…) cho hoai mục, cây nhỏ tưới loãng, cây lớn tưới đậm hơn.

Chăm sóc: Nhổ cỏ, phá váng không để bầu ngập nước. Trong vườn ươm lưu ý bệnh lở cổ rễ và bệnh vàng lá.

Đảo cây: cây con có 3-4 đôi lá thật, tiến hành đảo cây, xếp cây lớn vào giữa luống, cây nhỏ ở hai bên luống để cây phát triển đều. Lưu ý xếp thưa dần khi cây lớn.

* Chú ý: dỡ dàn che từ từ, khi cây đủ tiêu chuẩn cần dỡ bỏ dàn che hoàn toàn trước khi trồng mới 30 ngày.

4. Tiêu chuẩn cây giống:

  • Cây thực sinh: Cây con được ươm từ hạt trước khi trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:
    – Tuổi cây: 6-8 tháng.
    – Chiều cao thân kể từ mặt bầu: 25-35cm, thân mọc thẳng.
    – Số cập lá thật: 5-7.
    – Đường kính gốc: 3-4mm
    – Cây không bị sâu bệnh, dị hình và được luyện dưới ánh sáng hoàn toàn từ 10-15 ngày trước khi trồng.
    – Kích thước bầu đất: 14-15 x 24-25cm
  •  Cây ghép
    Ngoài tiêu chuẩn cây thực sinh, cây ghép cần phải đạt:
    – Chồi ghép có chiều cao trên 10cm và có ít nhất 1 cặp lá phát triển hoàn chỉnh.
    – Chồi được ghép tối thiểu 1 tháng trước khi trồng.

5. Ghép cải tạo và nâng cấp vườn:

Dùng chồi của những dòng cà phê cho năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, ghép trên gốc cà phê xấu, đã được ứng dụng và cho kết quả tốt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Những vùng đất trồng cà phê nổi tiếng ở Việt Nam

Khi nhắc đến những vùng đất trồng cà phê ở nước ta, trước hết phải kể đến các tỉnh Tây Nguyên với các vùng trồng cà phê nổi tiếng như Cầu Đất, Núi Min, Trạm Hành (Lâm Đồng) và đặc biệt Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) – vựa cà phê Robusta đứng đầu thế giới.

Dải đất Tây nguyên này hay còn gọi là Cao nguyên trung phần, may mắn được tạo hóa ban cho đất đỏ bazan trù phú (2 triệu hécta, chiếm 60% đất bazan cả nước), có tính chất cơ lý tốt, khả năng giữ nước và hấp thu dinh dưỡng cao, kết cấu viên cục độ xốp bình quân 62 – 65%… Bên cạnh đó, các cao nguyên này lại có độ cao khoảng 500 – 600m so với mực nước biển cùng khí hậu mát mẻ, mưa nhiều nên rất thích hợp với loại cà phê Robusta và một số loại cây công nghiệp khác.

Buôn Ma Thuột là vùng đất có cà phê khá sớm ở Việt Nam. Trước đó, người Pháp đã khảo sát rất kỹ lưỡng về thổ nhưỡng, khí hậu, độ cao, tầng phù sa cổ…mới chọn Buôn Ma Thuột là nơi chuyên canh cây cà phê Robusta, lấy Buôn Ma Thuột làm tâm trong vòng bán kính 10km trồng cà phê Robusta đều cho ra thể chất tốt, như Ea Kao, Etam, Tân Lập, Tân Hòa, Tân An, Tân Lợi, Cư Ebut, và một số huyện khác: Cư Mgar, Krong Ana… Robusta vùng này là loại thích hợp nhất để tăng độ mạnh của cà phê Espresso (gốc Milano) nhưng với một tỷ lệ ít.

Cà phê Buôn Mê Thuột

Vốn là một trong tám đô thị loại một trực thuộc tỉnh, lại là thành phố chiến lược, đặc biệt quan trọng về an ninh quốc phòng cấp quốc gia nên Buôn Ma Thuột được nhà nước quan tâm và đầu tư nhiều để phát triển cơ sở hạ tầng cùng nhiều mặt khác. Với sản lượng cà phê Robusta đứng đầu cả nước, góp phần đưa sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam lên vị trí số 1 trên thế giới, và cung cấp một sản phẩm cà phê có chất lượng cao nhất và hương vị đặc trưng nhất nên  Buôn Ma Thuột được xem là “thủ phủ cà phê”.

Tuy cùng nằm trên dải đất Tây nguyên nhưng cà phê Cầu Đất, Núi Min, Trạm Hành của tỉnh Lâm Đồng lại có sự khác biệt hẳn. Đó là hương thơm quyến rũ của cà phê Arabica vốn được thế giới ưa chuộng. Ở độ cao trên 1.500m so với mực nước biển, có nhiều vùng đồi dốc thoai thoải cùng khí hậu mát mẻ, những vùng đất này của Lâm Đồng là nơi chốn đắc địa, lý tưởng nhất cho giống Arabica phát triển và sản sinh ra những hạt cà phê có chất lượng vào hàng ngon nhất nhì thế giới. Đặc biệt, cà phê Cầu Đất được xem như “Bà hoàng” của các loại cà phê nhờ hương thơm quyến rũ đặc biệt của nó.

Cà phê Arabica Đà Lạt

Khe Sanh (Quảng Trị) cũng là một vùng trồng nổi tiếng khác của giống cà phê Arabica và Catimor (cà phê mít), vốn có độ cao phù hợp và là vùng đồng bằng chịu những ngọn gió Lào hun đúc thổi từ hoang mạc Trung Á làm đồng khô cỏ cháy và con người gan góc kiên trì nhất Việt Nam. Bên cạnh đó, nước ta còn có vùng cà phê Arabica Tây Bắc đã có lịch sử cả trăm năm, tuy cho những sản phẩm thấp hơn so với các tỉnh Tây nguyên, song cũng góp phần làm hương sắc cà phê Việt thêm phong phú và đa dạng.

Ngoài những vùng trồng cà phê tiêu biểu kể trên, Việt Nam cũng được biết đến với cà phê tại Đắk Mil của Đắk Nông, có tới 19.000ha cà phê, chiếm tới 1/4 diện tích của huyện này và cung cấp sản lượng tới 42.930 tấn, chiếm 1/3 sản lượng cà phê so với toàn tỉnh. Nếu như cà phê Đắk Hà mang tới hương vị hoan hỉ, nồng nhiệt thì cà phê Đắk Mil chua thanh lại đem đến sự trầm tư, sâu sắc.

Gia Lai thì lại được biết đến với cà phê Chư Sê, một huyện nằm cách thành phố Pleiku 40km về phía nam, với diện tích 12.000ha, lại mang đến hương vị cà phê  sục sôi, đầy chất lửa. Ngoài ra, tỉnh này còn có những vùng đất trồng cà phê khác với sản lượng và chất lượng khá tốt như Chư Pả, Ia Sao, An Khê…

Cà phê Chư Sê Gia Lai

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc vườn cà phê những tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa

Vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa là giai đoạn cây cà phê phân hóa mầm hoa, hình thành hoa và nở hoa, đậu quả, quả non phát triển, là giai đoạn ảnh hưởng quan trọng đến năng suất, chất lượng của cà phê. Để vườn cà phê sinh trưởng, phát triển tốt, có năng suất – chất lượng cao, Khuyến nông Việt Nam xin giới thiệu đến bà con nông dân một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc đối với vườn cà phê trong những tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa như sau:

Phòng trừ sâu, bệnh

– Rệp vẩy xanh và rệp sáp thường phát triển rất mạnh trong những tháng mùa khô và sau đó giảm dần trong những tháng mùa mưa khi thiên địch (các loại côn trùng ăn thịt rệp) xuất hiện nhiều. Rệp chích hút nhựa ở trên những đoạn thân, cành non làm cho cây bị suy yếu. Rệp phát triển luôn kèm theo sự có mặt của kiến và bệnh muội đen. Bệnh muội đen bao phủ lên bề mặt lá làm cho cây không quang hợp được.

– Trong những tháng mùa khô, bà con nông dân thường xuyên kiểm tra vườn cây để kịp thời có biện pháp phòng trừ rệp. Chỉ phun thuốc cho những cây có rệp trên những vườn bị rệp, không phun thuốc phòng cho những cây không bị rệp và vườn chưa bị rệp để bảo vệ các loài thiên địch. Bà con có thể sử dụng một trong các loại thuốc như Supracide, Sumithion, Ofatox…

– Ngoài phun thuốc diệt rệp, cần diệt trừ các ổ kiến để ngăn ngừa sự lây lan của rệp. Kiến không những bảo vệ rệp khỏi sự tấn công của các loài thiên địch mà còn mang rệp đi lây lan sang các cây khác trên vườn. Riêng đối với rệp sáp, để tăng hiệu lực của thuốc nên hòa thêm 1% dầu hỏa vào thuốc trước khi phun.

Bón phân

Chỉ bón phân sau khi đã có một vài trận mưa lớn, đất đủ ẩm.

– Đối với phân lân nên bón một lần vào đầu mùa mưa với lượng từ 500 – 800kg/ha, bằng cách rải đều trên mặt đất.

– Đối với phân đạm và phân kali có thể trộn chung để bón. Trước khi bón đào rãnh xung quanh mép tán lá rộng khoảng 20 cm, sâu 10cm, sau đó rải phân đều xung quanh rãnh rồi lấp đất trở lại. Ở đợt bón đầu nên sử dụng phân đạm là loại phân SA (sulphate amonium), các lần sau có thể dùng phân đạm là phân urê.

– Điều kiện ở Tây Nguyên do mưa lớn và tập trung trong một số tháng nên để hạn chế sự rửa trôi, đồng thời tiết kiệm được công lao động, bà con nên sử dụng các loại phân bón viên tổng hợp chuyên dùng cho cà phê như NPK 16-8-16-13S; NPK 16-8-18 +7S+ B2O3 +TE … với lượng khoảng từ 1.500 – 1.800kg/ha, bón 3 – 4 lần trong những tháng mùa mưa.

Đánh bỏ chồi vượt và rong tỉa cây che bóng

– Sau những đợt tưới nước trong những tháng mùa khô, chồi vượt bắt đầu phát triển rất mạnh, vì vậy phải kịp thời đánh bỏ để cây tập trung chất dinh dưỡng nuôi những cành mang quả.

– Khi mùa mưa bắt đầu được khoảng một tháng, tiến hành rong tỉa các cây che bóng trong vườn sao cho cành thấp nhất của cây che bóng cách tán lá cà phê khoảng 3 m, làm cho vườn cây thông thoáng, hạn chế được sâu bệnh hại và tạo điều kiện tốt cho cây quang hợp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng cà phê

1. Chuẩn bị đất trồng cà phê

  • Đất trồng phải là đất tốt, tầng đất dày, tơi xốp, dễ thoát nước, giàu dinh dưỡng.
  • Nếu phải trồng lại trên chu kỳ trước thì phải trồng cây cải tạo đất như các cây họ đậu từ 2-3 năm.
  • Đất chu kỳ trước đã bị bệnh thối rễ thì không nên trồng lại cây cà phê mà cần phải luân canh với cây trồng khác.

Chuẩn bị đất trồng cà phê

2. Thiết kế vườn cây

Vườn cà phê thiết kế hoàn chỉnh ngay từ đầu đảm bảo yêu cầu sau:

  • Thâm canh tăng năng suất lâu dài
  • Bảo vệ đất chống xói mòn
  • Bảo vệ cây trồng, chống các yếu tố thời tiết bất thuận (sương muối, gió nóng, bão)
  • Bảo đảm cơ giới hóa trong các khâu chăm sóc, vận chuyển.
  • Tiết kiệm đất (đất dành cho đai rừng và đường đi dưới 15%).
  • Tuỳ theo địa hình bằng phẳng hoặc dốc mà thiết kế vườn cây thành từng lô, mỗi lô 16-20ha. Chiều dài của lô song song với đường đồng mức. Mỗi lô được phân thành từng lô nhỏ 1ha (50 x 100m) để tiện quản lý. Chiều dài hàng cà phê trong lô là 50m, chiều dài hàng cà phê trong 1 lô là 400 – 500m.
  • Xung quanh mỗi lô có các đai rừng và đường vận chuyển chính đồng thời là đường quay máy vuông góc với hàng cà phê, rộng 7 – 7,5m (tính từ gốc cà phê đến chân đai rừng). Nếu bề rộng của khoảng là 400m thì có 1 đường trục chính giữa song song với hàng cà phê rộng 6m.
  • Các đường phụ giữa các lô rộng 5m (tính từ gốc cà phê lô này sang gốc cà phê lô kia).
  • Nếu địa hình có độ dốc trên 80 phải chú ý thiết kế đảm bảo cho cơ giới chăm sóc và vận chuyển, bảo đảm các biện pháp chống xói mòn như thiết kế hàng cây theo hình đồng mức (vành nón), trồng cà phê theo kiểu nanh sấu, trồng các băng cây chống xói mòn.
  • Đối với hộ nông dân có diện tích nhỏ thì không cần phải phân lô, tuy nhiên phải trồng theo đường đồng mức.

3. Đào hố, trộn phân lấp hố

Kích thước hố đào: Đất tốt đào dài 40cm, rộng 40cm và sâu 50cm. Đất xấu đào dài 50cm, rộng 50cm và sâu 60cm.

Trộn phân lấp hố: Phân hữu cơ, lân trộn đều với đất mặt và lấp xuống hố. Hỗn hợp đất phân lấp cao hơn mặt hố từ 10-15cm. Trộn phân, lấp hố phải xong trước khi trồng mới khoảng 1-2 tháng.

Liều lượng phân cho 1 hố: Phân hữu cơ 10-15 kg, phân lân 0,5 kg.

4. Khoảng cách, mật độ trồng

  • Cà phê chè Catimor khoảng 5.000cây/ha, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 1m. Nếu đất xấu có thể trồng dày hơn.
  • Cà phê vối (Robusta): 3,5×2,5m tương ứng 1.330 cây/ha, trồng 1 cây/hố; 3,0×2,5m tương ứng mật độ 2.660cây/ha, trồng 2 cây/hố.

5. Thời vụ trồng

Trồng đầu mùa mưa là tốt nhất. Những vùng có nước tưới thì có thể trồng cuối mùa mưa nhưng phải đảm bảo đủ nước.

6. Kỹ thuật trồng

  • Dùng cuốc móc 1 lỗ nhỏ giữa hố sâu 25 – 30cm, rộng 15 – 20cm ở chính giữa hố đã được lấp trước. Xé túi ni lon, nhẹ nhàng đặt cây vào giữa hố, điều chỉnh cây đứng thẳng, lấp đất từ từ vừa lấp vừa dùng tay nén chặt đất, lấp đất ngang mặt bầu.
  • Trồng xong cần làm bồn tạo thành bờ xung quanh hố. Phải cẩn thận tránh không làm vỡ bầu. Đặt bầu sao cho mặt bầu âm dưới mặt đất 7 – 10cm để dễ đánh ổ gà, đắp bùn giữ nước cho cây.
  • Cây trồng thẳng và ém đất quanh bầu thật chặt, không làm vỡ bầu.
  • Sau khi trồng cây xong phải thực hiện ngay các biện pháp chăm sóc bảo vệ cây: Đánh bồn, tủ gốc bằng rơm rạ, rác, cỏ thành vòng tròn, cách gốc 20cm dày ít nhất 20cm, trên phủ nhẹ một ít đất cho rác dẹp xuống. Phun thuốc trừ sâu Confidor 100 SL để chống mối.

7. Tủ gốc, che túp

Ngay sau khi trồng xong cần tiến hành tủ gốc cho cà phê. Dùng rơm rạ, cỏ khô, cây phân xanh… tủ gốc với độ dày 5 – 10cm, cách gốc 5 – 10cm để tránh mối làm hại cây. Ở những nơi sau thời gian trồng mới thường gặp hạn cần che túp. Mùa mưa không cần che túp song mùa nắng che túp có tác dụng chống gió, chống hạn, chống rét.

8. Chăm sóc cà phê

1. Trồng dặm

Đối với cà phê trồng mới, sau khi trồng 15 – 20 ngày phải kiểm tra, trồng dặm kịp thời những cây chết và còi cọc. Chấm dứt trồng dặm trước khi kết thúc mùa mưa 1,5 – 2 tháng. Kỹ thuật trồng dặm chỉ đào hố trồng lại trên cây chết, các thao tác như trồng mới.

2. Làm cỏ, tủ gốc

  • Trong suốt thời kỳ sinh trưởng của cây cà phê, đặc biệt ở thời kỳ kiến thiết cơ bản phải diệt cỏ kịp thời, bảo đảm cây cà phê không bị cỏ lấn át.

Làm cỏ cho khu vực trồng cà phê

  • Những nơi có các loại cỏ khó cuốc sạch như cỏ tranh, cỏ gấu thì tiến hành diệt cỏ bằng các loại thuốc hoá học hiện đang được dùng.
  • Thường xuyên tủ gốc cho cây cà phê để giữ ẩm, giảm được tưới nước và công làm cỏ. Đồng thời tủ gốc còn điều hoà nhiệt độ đất, giữ cho đất luôn tơi xốp.

3. Trồng xen trong vườn cà phê ở thời kỳ kiến thiết cơ bản

Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản các vườn cà phê cần trồng xen những cây trồng khác để bảo vệ, cải tạo, nâng cao độ phì của đất. Các cây trồng xen có thể sử dụng là: lạc, đậu đỗ các loại. Cây, cành, lá của cây trồng xen dùng làm nguyên liệu tủ gốc.

4. Cây che bóng và đai rừng chắn gió

Cây che bóng tạm thời:

Trồng vào giữa 2 gốc cà phê hoặc trồng thành băng ở giữa 2 hàng cà phê bằng các cây phân xanh có thân đứng cao như muồng hoa vàng, cốt khí, đậu săng…

Cây che bóng lâu dài:

Trồng cây keo dậu, khoảng cách trồng 5m x 6m. Sau khi cây lớn thì tỉa dần và cố định mật độ 10 x 12m (cứ 2 cây tỉa đi 1 cây). Chú ý cây bóng mát trồng vào giữa vị trí của 2 cây cà phê trong thời kỳ cà phê ở thu hoạch thì bộ tán của cây che bóng phải cao cách bộ tán cây cà phê từ 2,5 – 3m.

Đai rừng chắn gió:

  • Xung quanh vùng trồng cà phê cần trồng các đai rừng chắn gió. Đai rừng trồng thẳng gốc với hướng gió chính hoặc chếch 1 góc 60 độ.
  • Đai rừng rộng 9m, ở giữa trồng 3 hàng muồng đen, hàng cách hàng 1m và cây cách cây 3m. Hai bên mép đai rừng trồng thêm các loại cây ăn quả như mít, nhãn, vải, xoài…

5. Bón phân thúc cho cà phê

Phân hữu cơ:

  • Mỗi năm bón cho cà phê 1 lần phân hữu cơ sau khi thu hoạch quả. Liều lượng 5-10kg/cây kết hợp với phân lân và phân vô cơ bón lần cuối cùng trong năm (tháng 11 – 12).
  • Cách bón: Đào rãnh sâu 20cm, rộng 20cm xung quanh mép tán, rải đều phân hữu cơ và các tàn dư thực vật xung quanh, sau đó lấp lại.

Phân vô cơ:

  • Phân đạm và kali có thể bón 3 lần/năm vào tháng 2-3, 6-7, 11-12.
  • Trước khi bón phân cần làm cỏ sạch, trộn các loại phân với nhau, rải đều xung quanh tán lá và lấp lại bằng lớp đất mặt để tránh bốc hơi hoặc phân bị rửa trôi khi gặp mưa.
  • Lần bón phân cuối cùng trong năm cần kết hợp với phân chuồng và phân lân để bón, sau khi thu hoạch xong sẽ giảm được công lao động.
  • Riêng năm trồng mới, sau khi trồng 1-2 tháng, bón 25- 30g phân Urê và 25-30g phân kali cho một hố.

6. Chống hạn, chống rét cho cà phê

  • Sau trồng mới khi cây bóng các loại chưa phát huy tác dụng thì phải che túp cho cà phê sớm.
  • Khi thời tiết nắng hạn hoặc rét, nhất là có sương muối cần che túp cho cà phê.
  • Túp che kín hướng gió đông-bắc, để hở 1/4 phía tây – nam, túp phải chắc chắn, cao cách đỉnh cà phê 10 – 15cm, không để túp đè lên cây cà phê.

7. Tạo hình, tỉa cành

Là một trong những biện pháp kỹ thuật hết sức quan trọng để tạo cho cây có bộ tán cân đối, cành quả phân bố đều trong không gian để từ đó giữ cho cây đạt năng suất cao ổn định. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chăm sóc, thu hái, hạn chế bớt sự tấn công phá hoại của sâu bệnh.

a. Tạo hình cơ bản:

Xu hướng hiện nay là tạo hình đơn thân tức là mỗi hố chỉ để  1 thân chính. Để tránh cho cà phê mọc nhiều thân trên 1 hố phải thường xuyên đánh tỉa kịp thời các chồi vượt mọc từ gốc và từ các nách lá trên thân chính.

Cây cà phê đạt năng suất cao khi chăm sóc đúng cách

 

b. Tạo hình nuôi quả:

  • Cắt bỏ các cặp cành cơ bản mọc sát mặt đất (cách mặt đất từ 20 – 25cm) để cho cây được thông thoáng và thuận lợi cho việc đi lại chăm sóc, thu hái.
  • Tỉa bớt một số cành cơ bản nhỏ, sinh trưởng kém và không có khả năng ra cành thứ cấp để cây được thông thoáng và tập trung dinh dưỡng để nuôi các cành khác.
  • Cắt bỏ tất cả các cành thứ cấp mọc sát thân chính, các cành tăm nhớt, bị sâu bệnh, cành chùm và các cành khô chết để cho ánh sáng chiếu vào được phía trong của tán cây.
  • Cắt ngắn các cành già cỗi do đã cho nhiều vụ quả để dồn chất dinh dưỡng nuôi những cành tơ khỏe mọc từ phía trong.
  • Loại bỏ những chồi vượt mọc từ gốc, trên thân chính và trên đỉnh ngọn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.