Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở gia súc trong mùa rét

Để gia súc có sức đề kháng tốt, người chăn nuôi cần tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng trâu bò, đặc biệt trong mùa mưa, rét.

A. Bệnh lở mồm long móng (FMD): Là một bệnh cấp tính nguy hiểm và lây lan rất nhanh

1. Nguyên nhân: Bệnh do vi-rút thuộc họ Picorna Viridae gây ra, vi-rút có nhiều type khác nhau, vi-rút tuýp O,A Asia 1 ở cả bò và lợn

2. Triệu chứng

– Trâu bò nung bệnh từ 2 – 7 ngày, đôi khi kéo dài 14 ngày. Con vật sốt cao 40 – 410C, ăn ít, uống nước nhiều, nước dãi từ miệng chảy ra như bọt xà phòng. Sau khi con vật sốt 2 – 3 ngày bắt đầu xuất hiện các mụn nước ở niêm mạc lưỡi, hàm trên, miệng, mũi. Mụn ở chân móng và kẽ móng làm cho con vật đi lại khó khăn.

– Các mụn nước lớn lên và vỡ ra tạo thành những nốt loét đỏ. Các nốt loét ở chân do thường xuyên tiếp xúc với môi trường bẩn nên có thể bị nhiễm trùng, gây ra bong móng, làm cho con vật đi đứng khó khăn hoặc nằm một chỗ. Ngoài ra các mụn nước còn mọc ở vú, nách, bụng gây các vết loét tương tự.

Kẽ ngón chân trâu, bò bị loét trong bệnh lở mồm long móng

3. Phòng bệnh

– Thực hiện tốt vệ sinh thú y, giữ gìn chuồng khô sạch và ấm. Thực hiện định kỳ tiêu độc khử trùng, ủ phân sinh học.

– Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng trâu bò, đặc biệt trong mùa mưa, rét. Bổ sung thức ăn tinh và thức ăn thô xanh.

– Tiêm vắc-xin lở mồm long móng 6 tháng/lần. Khi nghi ngờ gia súc mắc bệnh cần báo ngay cho cơ quan thú y gần nhất để được hướng dẫn cách xử lý.

– Kiểm dịch nghiêm ngặt khi xuất nhập khẩu trâu, bò để loại trừ những con mang mầm bệnh.

4. Điều trị

Chưa có thuốc đặc trị. Điều trị các triệu chứng như sau:

– Dùng các chất sát trùng nhẹ (xanh metylen, thuốc tím 1%), nước chanh, nước khế… để rửa, sát trùng các chỗ lở loét;

– Dùng nước sắc các loại như: ổi, chè xanh… để rửa các vết loét;

– Dùng thuốc trợ sức, trợ lực: bổ sung vitamin, khoáng chất;

– Dùng kháng sinh để chống các bệnh nhiễm trùng kế phát.

B. Bệnh tụ huyết trùng (Pasteurellosis bovum)

Bệnh tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, xảy ra trên khắp cả nước nhưng hay gặp ở các tỉnh miền núi.

1. Nguyên nhân

Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella multocida với các tuýp A,B,D,E gây ra. Vi khuẩn có sẵn trong đất, rất dễ phát tán vào mùa mưa, dính vào rơm, cỏ hoặc trôi vào nguồn nước, trâu, bò mắc bệnh do ăn phải thức ăn hoặc uống phải nước bị nhiễm khuẩn.

Bệnh cũng có thể lây lan trực tiếp từ gia súc bệnh sang gia súc khỏe thông qua tiếp xúc, nhốt chung chuồng, chung nguồn thức ăn, nước uống, chăn thả cùng bãi chăn hoặc có thể do dùng chung dụng cụ chăn nuôi… Bệnh có thể lan xa do việc mổ thịt gia súc ốm, phân tán thịt da, ăn thịt gia súc bệnh bị chết, bị giết mổ.

2. Triệu chứng và bệnh tích

Trâu bò thường mắc bệnh ở 3 thể: thể quá cấp tính, thể cấp tính và thể mãn tính.

+ Thể quá cấp: Thường ít gặp, trâu bò đột nhiên sốt cao (41 – 420C), hung dữ, bệnh phát rất nhanh và chúng có thể chết sau 24 giờ. Trâu bò chết đột ngột ngay trên bãi chăn hoặc trong chuồng, không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Với bê, nghé triệu chứng thần kinh rõ hơn, con vật giãy giụa, ngã vật xuống rồi chết.

+ Thể cấp tính phổ biến ở trâu, bò. Bệnh tiến triển trong 3 – 5 ngày, tỷ lệ chết rất cao: 90 – 100%. Sau thời kỳ nung bệnh 1 – 3 ngày, con vật có biểu hiện không nhai lại, sốt cao đột ngột 40 – 420C, khó thở và thở mạnh. Các hạch lâm ba đều sưng, đặc biệt là hạch lâm ba dưới hầu sưng to, làm con vật thở khó, lè lưỡi ra để thở nên còn gọi là “bệnh trâu bò hai lưỡi”. Hạch lâm ba trước vai, trước đùi sưng, thủy thũng làm con vật đi lại khó khăn.

Trâu, bò biểu hiện thở khó do viêm màng phổi, tràn dịch màng phổi, viêm phổi cấp tính. Một số con bị bệnh thể đường ruột: bụng chướng to do viêm phúc mạc. Con vật lúc đầu đi táo, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân có lẫn máu và niêm mạc ruột. Lúc sắp chết, thấy bò nằm liệt, đái ra máu, khó thở, có nhiều chấm xuất huyết đỏ sẫm ở các niêm mạc. Nếu bệnh chuyển sang nhiễm trùng máu thì con vật chết nhanh trong 24 – 36 giờ.

+ Thể mãn tính xuất hiện ở những con mắc bệnh thể cấp tính không chết, bệnh sẽ chuyển thành mãn tính. Bệnh biểu hiện với các triệu chứng: viêm ruột mãn tính (lúc ỉa chảy, lúc táo bón), viêm phế quản và viêm phổi mãn tính, viêm khớp và con vật đi lại khó khăn, giảm ăn, gầy nhanh.

Bệnh tiến triển trong vòng vài tuần, các triệu chứng có thể nhẹ dần và con vật khỏi bệnh, nhưng thông thường con vật khó qua khỏi.

3. Phòng bệnh

– Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, bãi chăn: tiêu độc, tẩy uế chuồng trại bằng nước vôi 10% hoặc bằng các thuốc sát trùng khác, khơi thông cống rãnh quanh chuồng, bãi chăn để hạn chế sự tồn tại của mầm bệnh trong tự nhiên.

Khi có dịch xảy ra cần phát hiện kịp thời những con ốm để cách ly và điều trị. Nghiêm cấm không cho vận chuyển, giết mổ, trâu, bò chết phải được chôn sâu, đổ vôi bột vào hố chôn, tẩy uế chuồng trại, bãi chăn, ủ phân có trộn vôi bột để tiêu diệt mầm bệnh.

Tiêm phòng vắc-xin tụ huyết trùng 6 tháng/lần. Tiêm phòng vào tháng 3 – 4 và tháng 9 – 10 trước khi giao mùa.

– Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh phòng bệnh nhất là trong lúc giao mùa và thời gian bị ngập lũ hoặc mưa rét.

4. Điều trị

Do đặc điểm bệnh thường xảy ra ở dạng cấp tính nên cần phát hiện sớm, cách ly và điều trị kịp thời mới hiệu quả.

Điều trị bằng kháng sinh Streptomycin, Kanamycin, liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Con vật sốt cao tiêm thuốc hạ sốt. Tăng cường trợ sức trợ lực bằng cafein, vitamin C, vitamin B1. Con vật quá yếu, bỏ ăn cần truyền huyết thanh. Tăng cường hộ lý chăm sóc, dinh dưỡng.

C. Bệnh cước chân ở trâu, bò

1. Nguyên nhân

Do thời tiết lạnh, vùng núi cao thường xuyên có băng giá và sương muối, nhiệt độ xuống dưới 100C làm cho đàn trâu, bò dễ mắc bệnh cước chân.

Thời tiết lạnh, trâu, bò phải đứng và nằm trong chuồng nuôi ẩm, ướt, lầy thụt mất vệ sinh, trâu, bò phải làm việc ngâm chân lâu trong nước lạnh làm cho hệ thống mao mạch ở chân trâu, bò bị co lại gây trở ngại cho việc lưu thông máu. Nếu tiếp diễn khoảng 2 – 3 ngày hệ thống mao mạch ở chân trâu, bò bị tắc từng đám dẫn đến hiện tượng phù nề xung quanh móng chân, bàn chân, cổ chân, làm cho trâu bò đau đớn không đi lại được.

2. Triệu chứng

Giai đoạn mới mắc bệnh, chân trâu, bò sưng nhẹ làm cho con vật đi lại chậm chạp, khập khiễng. Nếu không được điều trị kịp thời, chân sẽ có biểu hiện phù nề, sưng tấy, nhiều vết tím đỏ hoặc có vết nứt da, rỉ nước màu vàng, nếu ấn tay vào chỗ sưng khi bỏ tay ra thấy rõ vết lõm sâu là do hệ thống mạch máu ở vùng bàn chân đã bị tắc làm cho vùng da xung quanh móng và bàn chân bị hoại tử nặng. Chân trâu, bò bị nhiễm trùng kế phát khiến cho trâu, bò không đứng dậy đi lại được, nếu vết thương sâu làm cho trâu, bò bị què phải nằm tại chỗ.

Bệnh cước chân ở trâu, bò tuy không phải bệnh truyền nhiễm nhưng có thể xảy ra hàng loạt gây ảnh hưởng lớn đến việc cày kéo và vận chuyển. Trâu, bò giảm tăng trọng và giảm sức đề kháng, dễ gây nhiễm các bệnh kế phát.

3. Phòng bệnh

– Những ngày thời tiết giá lạnh (dưới 120C) không chăn thả trâu, bò ở ngoài trời, cần cho trâu, bò nghỉ cày kéo. Di chuyển đàn trâu, bò ra khỏi khu vực núi cao, dồn chúng về chỗ nuôi nhốt để dễ kiểm soát.

– Luôn giữ chuồng trại khô ráo, sạch sẽ, che chắn kín gió, giữ ấm cho gia súc và đảm bảo vệ sinh chuồng nuôi. Dự trữ đủ thức ăn (rơm rạ, cỏ khô) cho trâu, bò ăn uống đầy đủ và bổ sung thức ăn tinh như cám gạo, bột ngô, sắn với lượng khoảng 2 kg thức ăn tinh/ngày.

Thường xuyên quan sát đi lại của trâu, bò, nếu thấy hiện tượng như đã nêu ở phần triệu chứng cần có phương pháp điều trị kịp thời để trâu, bò nhanh bình phục.

– Dùng vật liệu giữ ấm cho gia súc như: Làm áo khoác bằng bao tải hoặc có thể nâng nhiệt độ chuồng nuôi bằng cách đốt than, trấu, củi,… để sưởi ấm cho trâu, bò (lưu ý khi đốt cần có ống khói ra ngoài để tránh trâu, bò bị ngạt).

– Thực hiện tiêm phòng đầy đủ các bệnh và tẩy ký sinh trùng định kỳ cho đàn trâu, bò trước mùa mưa rét. Định kỳ vệ sinh, khử trùng tiêu độc chuồng trại, môi trường chăn nuôi

4. Điều trị

Nếu bệnh mới xuất hiện cần rửa sạch, lau khô chân trâu, bò, dùng gừng, riềng giã nhỏ, sao nóng cho vào túi vải rồi chườm vào chỗ sưng hoặc dùng rơm rạ, bao tải… trà xát nhiền lần vào chỗ sưng làm cho máu tụ tan ra, mạch máu lưu thông trở lại, mỗi ngày chườm 2 lần. Dùng cồn Methylxalixilate xoa vào chân trâu, bò sau khi đã rửa sạch, lau khô. Không để trâu bò nằm lâu một bên sẽ gây hoại tử phần da tiếp súc xuống nền chuồng.

Nếu chân có chỗ bị vỡ, loét đã nhiễm trùng phải rửa sạch bằng dung dịch thuốc tím, sau đó rắc bột Tetracylin hoặc Sunfamid.

Nếu chân có nhiều chỗ hoại tử cần cắt bỏ những tổ chức hoại tử, sau đó điều trị kháng sinh liên tục trong 5 – 7 ngày. Tiêm kháng sinh (Pen – Strep; Ampicillin…) theo liều lượng của nhà sản xuất. Tăng cường trợ sức trợ lực bằng Cafein, vitamin C, vitamin B1. Tăng cường chăm sóc, dinh dưỡng. Giữ cho trâu, bò trên nền chuồng khô ráo, sạch và ấm.

Nguồn: PGĐ. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Biện pháp chăm sóc, quản lý Trâu, Bò trong vụ rét

Để tránh những thiệt hại nặng nề cho đàn trâu, bò trong vụ rét, người chăn nuôi cần chủ động thực hiện biện pháp chăm sóc, quản lý đàn trâu, bò như sau:

1. Thường xuyên theo dõi thời tiết

Trước những diễn biến về khí tượng thủy văn ngày càng phức tạp thì người chăn nuôi cần thường xuyên theo dõi bản tin dự báo thời tiết để có kế hoạch phòng, chống rét cho trâu, bò đạt hiệu quả cao. Trên thực tế, nguyên nhân gia súc chết rét một phần là do khí hậu lạnh giá khắc nghiệt, nhưng phần lớn là do thói quen thả rông gia súc trong rừng của người dân miền núi.

2. Quản lý đàn trâu, bò

Những ngày trời rét, nhiệt độ xuống dưới 150C nên đưa trâu, bò về nuôi nhốt tại chuồng, không nên chăn thả. Khi nhiệt độ xuống dưới 120C không cho gia súc làm việc (cày, kéo…). Trong trường hợp đặc biệt nếu bắt buộc phải đưa gia súc gia ngoài cần đảm bảo giữ ấm gia súc bằng cách mặc áo ấm trước khi đưa ra ngoài. Thời gian đưa gia súc gia ngoài tốt nhất sau 8 giờ sáng và trở về chuồng trước 17 giờ.

3. Cung cấp thức ăn và nước uống tại chuồng

Để tăng cường sức đề kháng cho trâu, bò cần cho ăn đầy đủ và cân đối khẩu phần thức ăn xanh và thức ăn tinh.

Những ngày bình thường mỗi trâu, bò trưởng thành cho ăn khoảng 25 – 30 kg thức ăn thô xanh và 1 – 1,5 kg thức ăn tinh. Nhưng nếu vào những ngày rét đậm, rét hại nhiệt độ dưới 150C thì tăng lượng thức ăn tinh lên khoảng 2 kg/con/ngày để giúp trâu, bò chống lại giá rét. Ngoài thức ăn thô xanh và thức ăn tinh, bà con cần bổ sung vitamin và khoáng chất. Có thể sử dụng tảng đá liếm hoặc dùng muối ăn, nếu sử dụng tảng đá liếm thì treo tại chuồng; nếu sử dụng muôi thì pha như sau: Pha với nước ấm 37 – 380C, nồng độ 0,1 – 0,3% (tương đương 10 – 30g muối/10 lít nước).

Cách cho ăn: Thức ăn thô xanh bổ sung trong máng thường xuyên, thức ăn tinh chia làm 2 bữa trong ngày, cho trâu bò ăn thức ăn thô xanh trước, thức ăn tinh và uống nước sạch đầy đủ theo nhu cầu.

4. Các biện pháp chống rét

a. Chất độn chuồng

Sử dụng chất độn chuồng bằng rơm, rạ, cỏ khô lót chuồng sẽ làm giảm đáng kể ảnh hưởng thời tiết lạnh đến đàn trâu, bò.

Tùy vào điều kiện thực tế có thể rải một lớp độn chuồng dày khoảng 5 – 15 cm. Các chất độn chuồng này có thể để suốt mùa đông mà không cần phải dọn (chỉ dọn phân). Chất độn chuồng luôn đảm bảo khô, không bị ẩm ướt.

b. Che chắn tránh gió

Sử dụng bạt hoặc các tấm phên, các bao tải đan lại. Không nên che kín, chỉ che qua chiều cao của con vật khoảng từ 1,8 – 2m.

c. Đốt lửa chống rét

Khi nhiệt độ xuống dưới 120C thì cần áp dụng phương pháp đốt lửa chống rét. Dùng xô, chậu cũ để đựng củi, trấu (chú ý nhóm củi bén ở ngoài chuồng cho bớt khói rồi mới đưa vào trong chuồng). Nên đặt khay lửa ở cuối chuồng để khói không tạt vào mặt trâu, bò và tránh xa chất độn chuồng, bạt che để phòng bén lửa gây cháy.

d. Mặc áo chống rét

Khi nhiệt độ xuống dưới 120C thì bà con cần mặc áo chống rét cho trâu, bò. Với 1 chiếc áo, bà con có thể sử dụng cho 01 trâu, bò trong suốt mùa, tuy nhiên bà con lưu ý không nên mặc áo chống rét cho trâu, bò cả ngày, lúc trời nắng ấm nên bỏ áo để trâu bò hưởng nắng ấm.

Khi mặc áo cho trâu, bò cần chú ý chiều dài áo phủ từ thân đến hết đuôi, chiều ngang vừa đủ choàng qua thân, các dây buộc thắt như khuy áo buộc dưới bụng.

5. Vệ sinh chuồng trại

Vệ sinh chuồng trại có vai trò quan trọng, giúp hạn chế mầm bệnh cho trâu, bò. Hàng ngày, cần quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom phân và chất thải ra khỏi chuồng nuôi. Định kỳ phun thuốc khử trùng từ 2 – 3 tuần một lần để tăng cường tiêu độc khử trùng. Có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau: Han – Iodine, cloramin B, Virkon,… Cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Lưu ý: Khi có gia súc bị chết do rét, người chăn nuôi cần báo ngay với chính quyền địa phương và cán bộ thú y để xác định thiệt hại.

Nguồn: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số nguyên nhân bò không động dục

Thông thường, bò sau khi đã được phối giống, nếu đậu thai thì không động dục (lên giống) nữa, nếu không đậu thai thì bò sẽ lên giống trở lại sau 21 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có trường hợp, sau khi đẻ, bò có biểu hiện động dục và đã được phối giống, nhưng không đậu thai mà vẫn không lên giống trở lại hoặc sau khi đẻ, bò không lên giống trở lại.

Bò không lên giống trở lại, có rất nhiều nguyên nhân: Có thể những bò này không động dục hoặc động dục thầm lặng (phải đặc biệt chú ý hoặc dùng một số biện pháp hỗ trợ thì mới có thể phát hiện được). Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do:

– Nuôi dưỡng kém

– Thành phần và giá trị dinh dưỡng của thức ăn trong khẩu phần thiếu hoặc mất cân đối, dẫn đến tình trạng bò gầy yếu;

– Bò có các bệnh liên quan đến buồng trứng, tử cung như buồng trứng kém phát triển, u nang buồng trứng, viêm tử cung với thể vàng tồn lưu…

Dẫn đến thiếu hoặc rối loạn điều tiết hormone sinh dục; chăm sóc, nuôi dưỡng kém và quản lý hệ thống chăn nuôi không tốt, bò cái ít được vận động, không tiếp xúc với những bò cái trưởng thành hoặc bò đực; cũng có thể do bò sữa đẻ lứa đầu, có sản lượng sữa lớn hoặc ở những bò cái mà bê con trực tiếp bú vú mẹ và theo mẹ…

Để khắc phục tình trạng bò không lên giống, trước hết phải xem xét bò không động dục thực sự hay động dục thầm lặng. Nếu đã theo dõi hoặc thậm chí đã dùng bò đực thí tình mà vẫn không phát hiện được động dục thì chứng tỏ bò không động dục thật sự. Sau đó xác định nguyên nhân (thông qua hệ thống sổ sách theo dõi, hỏi người chăn nuôi, sờ khám qua trực tràng…) mà áp dụng biện pháp khắc phục thích hợp: Nếu bò mới đẻ lứa đầu mà năng suất sữa cao thì phải chờ đợi thêm.

Nếu có bê con trực tiếp bú vú mẹ và theo mẹ thì phải tách ra. Nếu do chăm sóc, nuôi dưỡng kém, bò gầy yếu thì phải tăng khẩu phần giàu hàm lượng các chất đạm, đường, sinh tố, khoáng và khoáng vi lượng… kết hợp chăn thả trên bãi để bò có điều kiện vận động, tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Nếu bò bị viêm tử cung với thể vàng tồn lưu thì biện pháp điều trị tốt nhất là tiêm prostaglandin F2 hoặc các chất tương tự (2ml chế phẩm estrumate) để làm tiêu biến thể vàng, giảm hàm lượng progesteron và tăng hàm lượng estrogen trong máu để kích thích bò động dục…

Trường hợp, con bò nhà bạn sau khi phối giống được vài 3 tháng, cứ khoảng 7 – 10 ngày dịch nhờn chảy ra giống như khi động dục, phối không đậu thai. Rất có thể, đó là biểu hiện của bệnh u nang buồng trứng ở bò, các nang trứng phát triển nhưng không vỡ nang để giải phóng tế bào trứng được nên bị chai. Vì thế, kích tố oestrogen luôn được tiết ra và duy trì một hàm lượng cao trong máu, dẫn đến rối loạn chu kỳ sinh dục.

Khám qua trực tràng phát hiện thấy buồng trứng có chai noãn. Bệnh có thể xảy ra ở bò tơ hoặc bò rạ, thường gặp trên những bò có năng suất sữa cao với những triệu chứng như mô tả ở trên. Điều trị theo chỉ dẫn của cán bộ thú y.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phương pháp dự đoán ngày sinh của bò

Bò mang thai 280 ngày (hơn 9 tháng), vì vậy việc biết ngày sinh của bò là rất quan trọng. Để dự tính ngày sinh của bò, phải tính từ ngày phối giống cộng thêm 280 ngày.

1. Cách tính ngày

Lấy ngày phối giống bò cộng với 5 hay 7 ngày (có thể vào tháng 2 có 28 ngày) và lấy tháng phối giống cộng với 9, sẽ có ngày sinh dự kiến. Ví dụ:

+ Bò phối giống lần cuối vào 10-2-2015, cách tính sẽ là ngày 10 + ngày 7 = ngày 17; tháng 2 + tháng 9 = 11 tháng, vậy là ngày sinh dự kiến vào ngày 17-11-2015.

+ Bò phối giống 7-3-2015, sẽ là: ngày 7 + ngày 5 = ngày 12; tháng 3 + tháng 9 = 12 tháng, vậy ngày sinh dự kiến vào ngày 12-12-2015.

+ Bò cũng có thể sinh sớm hơn hay muộn hơn nên cần theo dõi biểu hiện của bò mẹ trước ngày sinh dự kiến là 7-10 ngày.

2. Biểu hiện khi sắp sinh

7-10 ngày trước khi sinh, bầu vú bò mẹ từ từ căng lên, núm vú căng chứa đầy sữa là bò sắp đẻ. Chú ý theo dõi đề phòng viêm vú trước khi sinh.

1-3 ngày trước khi sinh, âm hộ chảy ra nhiều dịch nhờn đặc màu trắng. Khi dịch nhờn loãng dần là bò sắp đẻ. Hiện tượng sụp mông thấy rõ ở hai bên gốc đuôi, đuôi lệch sang một bên và ít cử động. Bò có biểu hiện bồn chồn, hay đứng lên nằm xuống, đi tiêu, tiểu nhiều lần…

3. Khi gia súc đẻ khó thì có biểu hiện gì? Cách phòng trị?

a. Nguyên nhân

– Bò mẹ ít vận động, thức ăn ít chất xơ nên bị suy yếu.

– Do hẹp khung chậu.

– Do hẹp âm đạo, có u bướu ở âm đạo hoặc tử cung vặn cổ tử cung.

– Do tư thế thai không bình thường.

b. Điều trị

– Tiêm Oxytocin 50 – 100UI để kích thích tử cung co bóp.

– Dùng dây mềm buộc hai chân trước của thai, kéo mạnh theo nhịp rặn của bò mẹ để lôi thai ra.

– Dùng ngón tay cái cho vào mồm thai, ngón trỏ kẹp chặt hàm dưới kéo thai ra.

– Dùng dây buộc từ sau đầu tới hàm dưới kéo thai ra.

– Bơm dầu parafin lỏng 200 – 400ml làm trơn tử cung âm đạo.

– Nếu đã làm hết cách mà thai không ra thì phải mổ bụng lấy thai.

Trường hợp vặn cổ tử cung:

– Dùng mỏ vịt kiểm tra qua trực tràng. Nếu xoắn ít thì dùng tay lật xoay tử cung theo chiều ngược lại.

– Trường hợp do tư thế thai không bình thường:

– Gâv tê tủy sống ở khấu đuôi 1 – 2 bằng 20 – 40ml Novocain 3%.

– Sau đó dùng tay đẩy thai vào trong xoang bụng rộng rãi để sữa lại về tư thế bình thường: đầu và 2 chân trước ra trước, hoặc mông và 2 chân sau ra trước, sau đó kéo thai ra.

Mổ bụng lấy thai

Nếu thai chết trong bụng thì dùng móc sản khoa móc vào mắt hoặc vào hốc mũi để lôi thai ra. Trường hợp thai chết quá to thì phải cắt thai ra từng mảnh để lấy ra.

Sau khi bò đẻ nhất là đẻ khó cần phải rửa sạch âm hộ, âm đạo, tử cung bằng thuốc sát trùng như nước muối, thuốc tím 1%, Rivanol 1%, Lugol 2%. Bơm rửa 3-4 lần/ngày trong 3-5 ngày. Nếu có biểu hiện viêm phải thụt rửa bằng thuốc kháng sinh hoặc tiêm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh nội ký sinh trùng trên bò

Trâu bò dễ bị những bệnh ký sinh trùng và nguy cơ nhiễm càng cao khi trâu, bò ăn cỏ cắt từ ngoài đồng ruộng hoặc những nơi ngập nước. Trâu, bò mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm các ký sinh trùng này. Tỷ lệ nhiễm ở Việt Nam khá cao: sán lá gan 13,7 – 50,2%; sán lá dạ cỏ hơn 70%.

Trâu, bò bị nhiễm những ký sinh trùng này sẽ bị thiếu máu, từ đó giảm sản lượng sữa (0,7 kg sữa/con/ngày), giảm tăng trọng (đối với bò tơ và bò thịt), dễ mắc các bệnh khác và giảm năng suất sinh sản (chậm lên giống lại sau khi sinh và chậm đậu thai).

Triệu chứng:

Trâu, bò bị nhiễm thường ít có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng rõ ràng. Triệu chứng chung và dễ nhận biết nhất là thiếu máu nên niêm mạc mắt, miệng và âm hộ nhợt nhạt. Ngoài ra, bò thường gầy ốm, suy nhược, giảm ăn và có thể có tiêu chảy hoặc không. Đối với bò bị nhiễm sán lá gan còn có thêm triệu chứng lông xù, rất dễ nhổ và dễ rụng.

Điều trị:

Tùy thuộc loại thú (bò thịt hay sữa), quy mô đàn và cách chăn nuôi, bà con có thể chọn một trong các loại thuốc ở bảng bên để trị nội ký sinh trùng.

Phòng bệnh:

Sử dụng một trong các loại thuốc sau để phòng: BIO-ALBEN (phòng giun tròn, sán dây và liều cao phòng cả sán lá gan), BIOXINIL (phòng sán lá và một số giun tròn) và BIO-FENBENDAZOL (phòng giun tròn và sán dây). Liều lượng, loại thú, thời gian ngưng thuốc đối với thịt và sữa giống như phần điều trị. Đối với bò lớn 6 tháng xổ 1 lần, bò tơ và bê khoảng 4 tháng xổ 1 lần.

BIO-FENBENDAZOL là thuốc bột trộn thức ăn, vì thế phù hợp cho đàn bò thịt hoặc bò sữa quy mô lớn nuôi thả rong trong chuồng. Liều dùng: 1 g thuốc/5 kg thể trọng.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Can thiệp đẻ khó trên bò

Trong quá trình đẻ nếu thai khó ra thì gọi là đẻ khó. Khi đẻ khó mà xử lý không đúng thì có thể gây bệnh ở đường sinh dục và làm cho bò mẹ trở nên vô sinh, thậm chí làm chết cả mẹ lẫn con. Vì vậy tích cực đề phòng và kịp thời can thiệp khi đẻ khó là một khâu rất quan trọng.

Để can thiệp kịp thời, cần chẩn đoán chính xác, từ đó mới quyết định phương pháp thích hợp. Trước khi kiểm tra phải nắm toàn bộ quá trình bệnh tật, tình hình lúc mang thai, điều trị của con bò, kiểm tra toàn thân, đường sinh dục bò mẹ và tình hình thai không bình thường để có biện pháp can thiệp kịp thời.

Nguyên nhân

Do cơ năng tuyến sinh dục sản sinh kích thích tố hoạt động quá mạnh, thời gian mang thai kéo dài, thai quá to hay cấu tạo đường sinh dục bò mẹ hẹp, sức rặn yếu, thai yếu, thai không đúng vị trí.

Một số trường hợp và biện pháp can thiệp

+ Rặn đẻ yếu, cổ tử cung đã mở, sức rặn đẻ của bò mẹ yếu nên không thể tống thai ra ngoài được. Có thể hỗ trợ bò mẹ kéo thai ra khi con vật rặn đẻ.

+ Kích thước giữa thai và đường sinh dục không phù hợp. Thai bình thường nhưng đường sinh sản bị hẹp: bao gồm hẹp xương chậu, cổ tử cung hẹp, hẹp âm đạo và âm hộ, có khối u ở đường sinh sản hoặc  thai quá to. Bò mẹ rặn nhiều lần nhưng thai không ra được. Phương pháp chủ yếu là dùng sức để lôi ra. Thụt vào đường sinh sản 1 chất nhờn hoặc nước xà phòng ấm, sau đó dùng dây thừng hỗ trợ kéo thai ra. Nếu phần đầu ra trước ngoài việc buộc dây thừng vào 2 chân trước, người đỡ chính cần phải cho ngón tay cái vào miệng thai, qua đường mép dùng ngón tay trỏ kẹp chặt lấy hàm dưới để cùng lôi đầu ra. Nếu thai ra bằng phần sau, buộc dây thừng vào 2 chân sau kéo ra. Nếu không lôi ra được thì phải quyết định cắt thai hoặc mổ bụng lấy thai.

+ Thai sinh đôi: Nếu có một tư thế thai bình thường và một tư thế thai không bình thường, xoay thai lại vị trí bình thường. Nếu 2 thai cùng lọt vào cửa xương chậu một lúc với độ sâu khác nhau nên bị kẹt và gây ra khó đẻ. Cần xác định phân biệt rõ từng thai (đẻ sinh đôi thông thường thì một thai đầu ra trước, một thai hai chân sau ra trước, nên khi kiểm tra sẽ có 1 đầu và 4 chân), đẩy lùi một thai ra khỏi xương chậu, sau đó lôi từng thai ra.

+ Tư thể của thai không bình thường: Phía đầu ra trước: đầu cổ ngoẹo về một bên, đầu gập xuống dưới, đầu ngửa ra sau, đầu gối ra trước, vai ra trước. Phía sau ra trước: khoeo ra trước, mông ra trước. Cần đưa thai về vị trí bình thường, có thể hỗ trợ hoặc không hỗ trợ kéo thai ra.

+ Vị trí thai không bình thường: Đầu ra trước, thai nằm nghiêng; đuôi ra trước thai nằm ngửa hoặc nghiêng. Cần đưa thai về vị trí bình thường sau đó kéo nhẹ thai ra theo cơn rặn của bò mẹ

+ Hướng thai không bình thường: Bụng ra trước, thai thẳng đứng, lưng ra trước; thai nằm ngang, bụng ra trước. Đưa thai về tư thế bình thường và kéo thai ra.

Những vấn đề cần chú ý

+ Can thiệp sớm và kịp thời khi đẻ khó là rất quan trọng. Nếu can thiệp chậm để thai lọt vào hố chậu, thành tử cung bọc chặt lấy thai, nước thai chảy hết, đường sinh dục đã thủy thủng thì dễ gây trở ngại cho việc đẩy thai vào, xoay thai và kéo thai ra.

+ Người đỡ đẻ chính phải bình tĩnh, khéo léo và kiên nhẫn vì thao tác phải chính xác. Người đỡ đẻ nên có sẵn người giúp việc để thay khi mệt và hỗ trợ trong quá trình đỡ đẻ.

+ Trong khi đẩy lùi thai, xoay nắn và lôi thai ra, nếu nước thai đã thoát hết, đường sinh dục bị khô thì phải thụt vào âm dạo và tử cung vài lít nước xà phòng ấm đã tiệt trùng để bôi trơn đường sinh dục.

+ Bất cứ bộ phận nào của thai ở tư thế không bình thường đều phải xoay nắn lại cho đúng vị trí trước khi lôi thai ra. Xoay thai, lôi thai ra theo cơn rặn của bò mẹ.

+ Ưu tiên việc cứu cả mẹ và thai, nếu các biện pháp xoay thai và kéo thai không hiệu quả, thì tùy vào thai còn sống hay đã chết, cắt thai và mổ bụng lấy thai là biện pháp cuối cùng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

3 cách vỗ béo bò nuôi thịt

Vỗ béo bò trước khi giết thịt 3 tháng để bò tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn, nâng cao chất lượng thịt, tăng tỷ lệ thịt xẻ cho bò.

Trong giai đoạn vỗ béo mức tăng trọng tuy có chậm nhưng chiều cao, dài thân mình đã đạt được gần bằng khoảng 60 – 70% các chỉ tiêu tương ứng của bê trưởng thành. Các cơ bắp phát triển mạnh, cơ quan nội tạng dần dần được hoàn thiện về cấu tạo, riêng bộ máy tiêu hóa phát triển hoàn thiện nhất là dạ cỏ, tổ ong, lá sách. Trong giai đoạn này các cơ bắp, mô mỡ, mô liên kết phát triển mạnh nên cần nuôi dưỡng tốt và thức ăn phải giàu năng lượng (thức ăn tinh), giàu glucid (cỏ, rơm..).

Để vỗ béo bò đạt hiệu quả cần phải nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến việc vỗ béo bò như sau:

– Giống: các giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng, phát triển, tạo nạc và mỡ khác nhau. Trên bê đực lai hướng sữa thì mức tăng trọng bình quân của bê đạt từ 500 – 600 gam/con/ngày.

– Tuổi: tuổi giết mổ khác nhau sẽ cho chất lượng thịt khác nhau. Cụ thể như:

+ Dưới 1 năm tuổi: sự phát triển của cơ thể chủ yếu là kết quả của sự tích luỹ các mô cơ và xương, còn mỡ và mô liên kết tương đối thấp.
+ Đến 1,5 tuổi: sự tích luỹ mô cơ cao, còn mô xương tương đối thấp.
+ Sau 18 tháng tuổi: tốc độ sinh trưởng của tế bào cơ giảm xuống thấp, hàm lượng nước giảm, sự tích luỹ mỡ tăng lên, kèm theo là hàm lượng calori cũng tăng lên, còn mô liên kết giảm. Thời gian này do sự trao đổi chất thay đổi, làm giảm khả năng tích luỹ nitơ, cường độ hình thành protein giảm thấp và sự sinh trưởng của tế bào bị kìm hãm, đồng thời tốc độ tích lũy mỡ tăng lên. Cụ thể là khi sơ sinh thành phần protein là 18,25%; đến 18 tháng là 17,18%. Trong khi đó, mỡ tăng tương ứng là 3,64% lúc sơ sinh; 26,74% lúc 18 tháng tuổi. Nếu giết thịt lúc 18 tháng tuổi mỡ tích luỹ trong cơ bắp cao hơn mỡ nội tạng. Theo nhiều tác giả, trong điều kiện chăn nuôi ở nước ta, vỗ béo bò ở giai đoạn 22 – 24 tháng tuổi là hiệu quả kinh tế nhất.

– Tính biệt và thiến: ở các cơ sở chăn nuôi bê đực hướng sữa lấy thịt, thường giết thịt vào 15 – 18 tháng tuổi. Nhiều nghiên cứu và thực nghiệm xác nhận rằng, bê đực không thiến đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn bê đực thiến, do vậy chi phí thức ăn tính cho kg tăng trọng thấp hơn so với bê đực thiến. Tuy nhiên, sự tích lũy mỡ trong cơ bắp ở bê đực thiến cao hơn và sớm hơn bê đực không thiến.

Người dân nuôi vỗ bò thịt ở 15 – 18 tháng tuổi, thể trọng bê đực không thiến và bê thiến là 400 – 450 kg.

– Nuôi dưỡng: sức sản xuất thịt của bê phụ thuộc trước hết vào mức độ dinh dưỡng. Mức dinh dưỡng cao sẽ đạt được khối lượng thịt gấp 2 lần so với mức độ dinh dưỡng thấp, thành phần thân thịt ở gia súc nuôi dưỡng kém đạt tỷ lệ xương và dây chằng tương ứng là 25 – 30% thân thịt, năng lượng của thịt giảm 40 – 45%. Thông thường, khẩu phần nhiều thức ăn thô thì tỷ lệ nội tạng cao, tỷ lệ thịt xẻ thấp; ngược lại, khẩu phần nhiều thức ăn tinh thì tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ nội tạng thấp.

– Stress môi trường: nhiệt độ môi trường cao cản trở thải nhiệt từ cơ thể thông qua dẫn nhiệt. Trong môi trường càng nóng ẩm thì việc thải nhiệt thừa càng khó khăn. Do vậy, khi bò bị stress nhiệt sẽ làm hạn chế khả năng thu nhận thức ăn và năng suất giảm.

Trong điều kiện chăn nuôi gia đình, hiện nay có 3 cách vỗ béo bò thường được áp dụng như sau:

(1) Nuôi chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng:

Bò cần được chăn thả 8 – 10 giờ/ngày ngoài bãi chăn để tận dụng được nhiều cỏ tươi mà không phải tốn công thu cắt cỏ và vận chuyển về chuồng. Sau khi chăn thả, bò được bổ sung thêm một ít thức ăn tinh và muối ăn.

Cách vỗ béo này thường áp dụng ở những nơi có diện tích đồng cỏ lớn và năng suất đồng cỏ tương đối khá mới đảm bảo mỗi ngày bò gặm được từ 20 – 25 kg cỏ. Tuy nhiên, để tăng năng suất đồng cỏ chăn thả thì đồng cỏ phải được cải tạo, diệt trừ cỏ dại, trồng cây bóng mát, giữ ẩm đất bằng cách tưới nước hay đắp đập ngăn nước để cỏ có năng suất cao.

Dành cho đàn bò vỗ béo ở những bãi cỏ gần nguồn nước, gần chuồng để chăn thả được nhiều giờ ngoài bãi. Nếu khoảng cách từ chuồng đến bãi chăn quá 2 km thì phải làm lán trại ngoài đồng cho bò ngủ qua đêm trong suốt thời gian chăn thả.

(2) Nuôi tại chuồng kết hợp với chăn thả:

Hình thức vỗ béo này thường áp dụng ở những hộ có diện tích đồng cỏ giới hạn, bò vừa gặm được một phần cỏ ngoài bãi chăn vừa được cung cấp thêm thức ăn tinh tại chuồng. Lượng thức ăn tinh cần được đảm bảo đầy đủ để tạo điều kiện cho bò chóng béo. Có thể bổ sung thêm phụ phẩm công nông nghiệp làm thức ăn vỗ béo cho bò như:

+ Bã mía, lá và ngọn mía: cho ăn tươi hoặc ủ chua, 2 – 3 kg/con/ngày
+ Vỏ và mắt dứa: ủ chua, 3 kg/con/ngày, khi ăn thường trộn với thức ăn tinh.
+ Hèm bia: 5 – 10 kg/con/ngày, kết hợp với cỏ họ đậu.

(3) Nuôi nhốt hoàn toàn:

Đây là phương thức nuôi thâm canh tại chuồng để giảm vận động, nhằm làm cho bò đạt mức tăng trọng nhanh trong thời gian ngắn để có tỷ lệ thịt xẻ cao, tạo ra các vân mỡ trong các sớ cơ nên phẩm chất thịt được nâng cao, giảm chi phí sản xuất đồng thời tăng hiệu quả chăn nuôi. Sau thời gian vỗ béo khối lượng cơ thể bò tăng từ 15 – 20% so với trước khi vỗ béo.

Tuy nhiên, bằng các hình thức vỗ béo nào thì trước khi đưa vào vỗ béo bò, người chăn nuôi cần phải tẩy giun, sán cho bò bằng các loại thuốc như: levamisol, albendazole, biomectin…

– Thức ăn của bò nuôi vỗ béo gồm cỏ tươi, rơm khô, thức ăn tinh (cám hỗn hợp, khoai lang, khoai mì, bắp). Lượng thức ăn tinh cho mỗi con vỗ béo tối đa từ 1 – 2 kg/ngày, liên tục trong vòng 3 tháng vì đây là nguồn thức ăn vừa cung cấp năng lượng, vừa tích lũy mỡ nhanh cho cơ thể bò. Nên kích thích cho bò ăn càng nhiều càng tốt, cho ăn tự do, vận động ít hoặc không cho vận động để bò tăng trọng nhanh, khoảng 1,0 kg/con/ngày.

– Nước uống phải cung cấp thường xuyên và đầy đủ.

Nguồn: Nhanong.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Những lưu ý khi đỡ đẻ cho bò

Việc nuôi bò sinh sản có nhiều vấn đề mà không phải bà con nào cũng biết cách giải quyết. Dưới đây là một số lưu ý trong vấn đề sinh sản của bò được những người nuôi kinh nghiệm chia sẻ.

Đầu tiên là việc phối giống, với những con bò so, bò xác nhỏ bà con không nên phối những giống bò quá to như vậy khi bò đẻ sẽ rất khó. Thêm vào nữa là khi bò so mang bầu bà con nên cho ăn vừa phải đừng quá thúc làm cho bò con to nên khó đẻ.

Trong thời gian bò mang thai, bà con cần bổ sung canxi khoáng ít nhất 2 lần để đảm bảo bò con sau này không bị thiếu hụt canxi dẫn đến khó đứng, hay dị tật.

Khi bò bắt đầu đẻ, bà con cần chuẩn bị chuồng trại sạch sẽ, cần có người kéo phụ lúc bò mẹ rặn đẻ. Đây là việc cần thiết nếu không khi bò đẻ con quá to sẽ không đẻ ra được gây hại cho bò con và có thể cả bò mẹ.

Sau khi bò đẻ xong, bà con cần chú ý để bò mẹ liếm khô lông bò con. Bà con cũng có thể phụ lau khô lông bò con cũng được. Chú ý, lúc này có thể bò mẹ rất dữ. Vì vậy thao tác tiếp xúc hoặc gần với bò con bà con cần hết sức đề phòng. Nếu gặp trường hợp bò mẹ quá dữ, bà con cứ để bò mẹ tự liếm khô cho bò con. Khi bò mẹ liếm xong, bà con tìm cách cột cố định bò mẹ để tiến hành đỡ bò con tập đứng. Việc này có thể mất 15 phút hoặc cả giờ vì tùy vào thể trạng bò con. Việc đỡ bò con đứng là cần thiết để bò con có thể tự bú được. Nếu việc này kéo quá dài làm bò mẹ căng sữa. Khi đó bò con tiếp xúc với vú bò mẹ sẽ bị bò mẹ đá, đẩy ra không cho bú. Nếu trường hợp bò mẹ dữ mà bò con vẫn không thể tự bú được thì bà con cần cố định 2 chân sau của bò mẹ rồi đỡ bò con đứng bằng cách kẹp bò con vào giữa hai chân người đỡ đẻ rồi dùng tay đưa đầu bò con vào vú bò mẹ; tay còn lại vắt sữa từ vú bò mẹ chảy ra để bò con quen hơi và tập bú. Trường hợp bò mẹ quá căng sữa (sau 2-3 giờ mà bò con vẫn chưa bú được) bà con cần dùng khăn ấm lau các vú bò mẹ và bánh sữa bò mẹ. Biện pháp này vừa làm ấm sữa cho bò con bú, vừa giúp giảm căng sữa ở bò mẹ.

Khi bò con bú, bà con chú ý quan sát bò con bú đều hết các vú mới hiệu quả. Thưòng thì bò con mới đẻ bú rất ít nhưng phải bú mới có sức khỏe được. Nếu bò đẻ ban đêm bà con phải chịu khó theo dõi, việc chậm bú càng lâu càng khó giải quyết. Một là bò mẹ ngày càng căng sữa nên việc cho bú rất khó khăn; hai là bò con ngày càng đói nên đừ dần theo thời gian. Khả năng tìm bú giảm đáng kể. Do vậy bà con cần chú ý điểm này.

Sau khi bò đẻ, bà con có thể cho ăn các loại thức ăn bổ sung sữa cho bò mẹ như đậu nành rang, hoa chuối chát, …

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật đỡ đẻ cho bò

Chăn nuôi bò nói chung và chăn nuôi bà sinh sản nói riêng đã và đang là công việc mang lại thu nhập ổn định cho bà con nông dân. Ở những hộ gia đình thì việc chăn nuôi bò thịt gặp nhiều khó khăn do chế độ chăm sóc đòi hỏi khắt khe hơn. Do đó phần lớn bà con nông dân chọn phương án nuôi bò sinh sản.

 

 

Tuy nhiên, việc nuôi bò sinh sản cũng có nhiều vấn đề mà không phải bà con nào cũng biết cách giải quyết. Dưới đây là kỹ thuật đỡ đẻ cho bò giúp bò mẹ và bê con khỏe mạnh.

Triệu chứng trước khi đẻ:

  • Có hiện tượng sụt mông.
  • Bầu vú căng, đầu vú chĩa về 2 bên.
  • Nút niêm dịch thải ra, treo lòng thòng ở mép âm môn.
  • Đau bụng, đứng lên nằm xuống, chân cào đất.
  • Ỉa đái nhiều lần.
  • Có cơn rặn, bọc ối thò ra ngoài mép âm môn.

Thế nào là bò đẻ bình thường?

Bò đẻ bình thường phải ở 1 trong 2 trường hợp sau:

– Trường hợp 1: Thai xuôi là thai dọc đầu, sấp. Đầu và cổ thai phải gác lên hai chân trước duỗi thẳng và bằng nhau.

– Trường hợp 2: Thai ngược là thai dọc đuôi, sấp. Đuôi của thai phải nằm giữa 2 chân sau duỗi thẳng và bằng nhau.

Nếu chiều, hướng, tư thế của thai không ở 2 trường hợp trên là bò đẻ khó, phải mời cán bộ thú y đến can thiệp.

Quy trình đỡ đẻ

Bò đẻ bình thường không cần can thiệp hoặc chỉ cần dùng tay kéo nhẹ nhàng thai ra.

  • Khi bò đẻ sẽ vỡ ối, ta hứng lấy nước ối.
  • Cắt dây rốn dài khoảng 10-12cm (không cần buộc dây rốn) sát trùng bằng cồn Iod 5%.
  • Lau rớt rãi trong mũi, mồm.
  •  Để bò mẹ tự liếm con, nếu không liếm ta phải lau khô.
  • “Bóc móng” để bê con đỡ trơn trượt khi mới tập đi.
  • Cân trọng lượng bê.
  • Vệ sinh phần thân sau và bầu vú của bò mẹ.
  • Cho bò mẹ uống nước ối, thêm ít muối, cám và nước ấm.
  • Cho bê con bú – Ghi sổ sách theo dõi.

Phương pháp làm hồi sinh cho bê

Bê mới đẻ bị ngạt có thể áp dụng một trong các biện pháp sau:

  • Hà hơi thổi ngạt
  • Hô hấp nhân tạo
  • Dùng cuộng rơm hoặc cái lông gà ngoáy nhẹ nhàng vào lỗ mũi để kích thích.
  • Dội nước lạnh: dốc ngược bê xuống và dội xô nước lạnh lên vùng ngực và đầu.

Phòng bệnh sót nhau

12 giờ sau khi đẻ nhau chưa ra gọi là sót nhau phải can thiệp ngay.

  • Phòng sát nhau tốt nhất là cho bò mẹ uống nước ối sau khi đẻ.
  • Tiêm oxytoxin 6 đv/100kg trọng lượng.
  • Thụt Rivanol 1% 600ml vào trong tử cung.

Có thể dùng: lá hồng bì hoặc lá khế 500g. Lá trầu không 20g. Giã nát ngâm trong 1 lít nước đun sôi để nguội gạn nước cho bò uống.

 Chữa bệnh viêm tử cung

  • Dùng Lugol 1% thụt 50ml vào tử cung.
  • Sau 3-4 ngày thụt kháng sinh.
  • Penicillin 1 triệu đơn vị
  • Steptomycin 1 gam
  • Nước cất 10ml

Chú ý:

  • Nếu còn mủ thì phải tiếp tục thụt rửa Lugol 1%.
  • Chỉ thụt kháng sinh khi tử cung hết mủ. Hoặc dùng nước muối 1% hay Rivanol 1% thụt rửa tử cung, hút hết nước trong tử cung ra, rồi thụt kháng sinh (liều lượng như trên). Sau khi điều trị nếu bò động dục có thể phối giống.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Cách xác định trọng lượng và tuổi trâu, bò

Việc xác định khối lượng cơ thể chính xác nhất vẫn là cân trực tiếp. Tuy nhiên, để cân trọng lượng của một con trâu hay bò đôi khi lại gặp khó khăn vì trong nông hộ không phải lúc nào cũng sẵn cân, và để tiến hành cân 1 con trâu hay bò có khối lượng lớn không phải là chuyện dễ.

Xác định khối lượng cơ thể trâu bò thông qua việc đo vòng ngực và độ dài thân chéo

Chúng ta có thể ước lượng khối lượng con trâu hay bò tương đối chính xác thông qua công thức đã được nghiên cứu khi biết được vòng ngực và độ dài thân chéo của con trâu (bò) đó. (với sai số khoảng 5%).

Đối với bò: Khối lượng (kg) = 88,4 x VN 2 x DTC

Đối với trâu: Khối lượng (kg) = 90,0 x x VN 2 x DTC

  • Công thức này chỉ áp dụng đối với trâu bò từ 2 tuổi trở lên.
  • Nếu trâu bò mập thì cộng thêm 5% trọng lượng của nó.
  • Nếu trâu bò ốm thì trừ đi 5% trọng lượng của nó.

Trong đó:

  • VN: là vòng ngực của trâu (bò),  là chu vi mặt cắt đằng sau xương bả vai (tính bằng mét)
  • DTC: là độ dài thân chéo, là chiều dài được đo từ mỏm xương bả vai đến điểm tận cùng của xương ngồi (tính bằng mét).

Ví dụ: Một con trâu có vòng ngực là 1,82 m; dài thân chéo là 1,25m. Vậy thì khối lượng của nó sẽ là:

Khối lượng (kg) = 90,0 x (1,82)2 x 1,25=372 ( kg )

Một con bò có vòng ngực là 1,45m; dài thân chéo là 1,15m. Vậy khối lượng của nó sẽ là:

Khối lượng = 88,4 x (1,45)2 x 1,15= 214 (kg).

Cách xác định tuổi trâu

Có nhiều phương pháp giám định tuổi trâu, bò. Tuy nhiên, giám định tuổi qua răng là tương đối dễ và chính xác nhất. Răng của bò có hai loại: Răng sữa và răng vĩnh viễn. Sau khi đẻ 1 tháng, bò có 8 răng sữa, bò từ 2 tuổi trở lên căn cứ vào việc thay răng và độ mòn của răng để đoán tuổi. Có thể chênh lệch giữ năm tuổi.
  • Bò 2 năm tuổi thay 2 răng (cặp răng ở giữa)
  • Bò 3 năm tuổi thay 4 răng (cặp áp giữa)
  • Bò 4 năm tuổi thay 6 răng (cặp áp gốc)
  • Bò 5 năm tuổi thay 8 răng (cặp răng ở gốc)
  • Bò 6 năm tuổi đã thay 8 răng
  • Bò 7 năm tuổi 2 răng cửa mòn hình sợi chỉ
  • Bò 8 năm tuổi 2 răng cửa mình mòn hình chữ nhật
  • Bò 9 năm tuổi 2 răng cửa mòn hình vuông
  • Bò 10 năm tuổi 2 răng cửa mòn hình tròn
  • Bò 11 năm tuổi 4 răng cửa mòn  hình tròn
  • Bò 12 năm tuổi 6 răng cửa mòn hình tròn
  • Bò 13 năm tuổi 8 răng cửa mòn hình tròn

Lưu ý: Ở trâu sự thay đổi răng và mòn răng diễn ra chậm hơn bò khoảng 1 năm.

Dưới đây là một số hình ảnh răng bò ở từng lứa tuổi

                    

Bò dưới 2 năm tuổi- chưa thay răng              Bò 2 năm tuổi- 2 răng trưởng thành

      

Bò 2 năm tuổi                                                   Bò 3 năm tuổi- 4 răng trưởng thành

           

Bò 3 năm tuổi                                                        Bò 4 năm tuổi – 6 răng trưởng thành

   

Bò 4 năm tuổi                                                       Bò 5 năm tuổi – 8 răng trưởng thành

   

Bò 5 năm tuổi                                                                 Bò 6 năm tuổi

Bò 7 năm tuổi

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.