Góc chuyên gia: Nâng cao hiệu quả sản xuất giống động vật thân mềm

Động vật thân mềm (ĐVTM) hai mảnh vỏ có giá trị kinh tế cao, giàu chất dinh dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Do có nhiều ưu việt hơn một số đối tượng thủy sản khác như dễ nuôi, chi phí thấp, thời gian nuôi ngắn, xác suất rủi ro ít, lợi nhuận cao… nên những năm gần đây việc sản xuất giống và nuôi thương phẩm ĐVTM hai mảnh vỏ rất phát triển.

Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi một số đối tượng thủy sản khác như tôm hùm, TTCT, cá bớp, ốc hương… đang gặp khó khăn do thời tiết, thiên tai, môi trường…
Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu một số lưu ý cũng như kinh nghiệm trong sản xuất giống nhân tạo ĐVTM hai mảnh vỏ.

Kích thích sinh sản

Có nhiều biện pháp kích thích sinh sản như: Kích thích khô, bằng dòng chảy, kích thích khô kết hợp dòng chảy, bằng giới tính, tiêm trực tiếp Serotonin vào phần cơ, bằng thay đổi pH, bằng sự thay đổi chu kỳ chiếu sáng, bằng Hormone… Trong đó, phương pháp phơi khô 30 – 40 phút và kết hợp dòng chảy là phổ biến và cho kết quả tương đối tốt. Tuy nhiên, với phương pháp này những đối tượng vỏ mỏng dễ phun nước ra khỏi cơ thể như tu hài, phi, móng tay, điệp… thì tỷ lệ hao hụt sau khi cho đẻ cao. Nhằm hạn chế tỷ lệ hao hụt và giữ cho chúng khỏe để tiếp tục nuôi vỗ tái phát dục thì người nuôi có thể sử dụng biện pháp hạ nhiệt độ bằng cách: Chọn giống bố mẹ rửa sạch bằng nước biển đưa vào thau nhựa, cấp nước đầy, hạ nhiệt độ xuống thấp hơn nhiệt độ nước trong bể đẻ 150C ngâm 60 phút sau đó cho vào bể đẻ, cấp nước tạo dòng chảy nhẹ và sục khí đều.

Mật độ

Với ấu trùng kích cỡ khoảng 50 – 80 µm nên nuôi với mật độ 10 – 12 triệu con/bể (bể có thể tích 5m3).

Quản lý, chăm sóc ấu trùng

Thức ăn của ĐVTM hai mảnh vỏ chủ yếu là các loài tảo đơn bào như Nannochloropsis sp; Chaetoceros sp; Platymonas sp, Isochrysis sp…

Cho ăn: Đối với ĐVTM hai mảnh vỏ việc cho ấu trùng ăn là khâu cực kỳ quan trọng. Dù cho ăn ít hay quá nhiều cũng làm ảnh hưởng đến ấu trùng, có thể dẫn đến chết. Trong quy trình, các tài liệu hướng dẫn mật độ tảo cho ăn tăng dần từ 3.000 – 15.000 tb/ml giai đoạn đầu. Giai đoạn xuống đáy 250.000 – 300.000 tb/ml… Tuy nhiên, trên thực tế, để dễ áp dụng, người nuôi nên cho ăn 1,5 lít tảo/bể (5 m3) (đối với tảo xanh màu tảo như màu lá chuối và màu trà đối với tảo khuê) trong 3 ngày đầu sau đó tăng lên 2 – 3 lít.
Chế độ thay nước: Hạn chế thay nước trong giai đoạn ấu trùng sống trôi nổi. Tuy nhiên, nếu phát hiện nước có dấu hiệu chuyển màu đục nước gạo thì tiến hành lọc ấu trùng chuyển sang bể khác.

Cho ấu trùng xuống đáy: Khi ấu trùng đến cuối hậu kỳ (đối với tu hài, sò, điệp, móng tay…) nên thử nước mới. Để tránh ấu trùng bị sốc nước nên trộn lẫn 50% nước mới và 50% nước trong bể nuôi ấu trùng, sau đó lọc ấu trùng sang.

Nguồn: ThS Trần Trung Thành – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III 

Gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ copefloc cho năng suất cao

Copefloc sử dụng copepods (giáp xác chân chèo), các hạt biofloc và các động vật thân mềm sống đáy (giun nhiều tơ,…) như là một nguồn thức ăn chính yếu cho tôm nuôi và hoàn toàn không sử dụng thức ăn viên công nghiệp.

Công nghệ Copefloc – công nghệ gây nuôi thức ăn tự nhiên

Để gây nuôi thức ăn tự nhiên theo công nghệ Copefloc cho năng suất cao, sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1.2 – 1.5 m, tiến hành gây nuôi copepods, các loài phiêu sinh động vật, giáp xác nhỏ khác (krill) và động vật thân mềm sống đáy (barnacle, giun nhiều tơ, các loài hai mảnh vỏ, và các loài động vật thân mềm sống đáy khác) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học (probiotics).

Tuyệt đối không cung cấp nguồn copepods hay các sinh vật khác từ bên ngoài vào ao nuôi để tránh trường hợp chúng mang mầm bệnh vào ao nuôi, tất cả các loài thức ăn tự nhiên có trong hệ thống nuôi tự nó sẽ phát triển khi có các điều kiện thích hợp. Cám gạo được cho vào trong chậu (bể) lớn, cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 – 48 giờ.

        Giun nhiều tơ và các loài động vật thân mềm sống đáy trong ao nuôi copefloc

Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài (dạng giống như ống bơm nước), chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men với probiotic lan tỏa khắp ao nuôi. Ao nuôi được sụt khí liên tục trong thời gian từ 7 – 10 ngày trước khi thả giống tôm.

Sử dụng cám gạo lên men ban đầu với liều lượng khoảng 300 kg hoặc 30 ppm trên 1 hecta để gây tạo thức ăn tự nhiên trong ao. Cám gạo lên men sẽ là nguồn thức ăn cho copepod, động vật thân mềm và các loài sinh vật khác trong ao.

Trong quá trình nuôi không cần cho ăn; thay vào đó người nuôi phải quản lý, duy trì quần thể và mật độ thức ăn tự nhiên, lượng biofloc trong ao nuôi. Thu mẫu và tính toán mật độ copepod hằng ngày bằng cách dùng xô, chậu lấy 50 – 100 lít nước ở các vị trí khác nhau trong ao nuôi.

     Đây là nguồn dinh dưỡng tự nhiên rất tốt cho tôm nuôi. 

Sau đó lọc qua lưới phiêu sinh, kích thước mắt lưới 50 – 70 µm, cho vào lọ 60 ml, cố định bằng formol 2 – 4%. Dùng pipet lấy 1 ml và đếm dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 10X, 40X, bằng phương pháp di chuyển buồng đếm theo tọa độ. Từ đó tính toán được mật độ của copepod và điều chỉnh lượng chế phẩm sinh học bón xuống ao làm thức ăn cho copepod và sinh vật trong ao nuôi.

Để kích thích sự hình thành và duy trì tính ổn định của biofloc, cần bổ sung biofloc mồi và bổ sung nguồn cacbon vào hệ thống nuôi. Có rất nhiều nguồn cung cấp cacbon: bột ngũ cốc, mật rỉ đường, bột bã mía, rơm, cỏ. Duy trì hàm lượng biofloc < 1 ml/l trong suốt chu kỳ nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam