Từ bỏ đánh bắt tận diệt, chuyển sang nuôi Ghẹ lột cho thu nhập cao

Từ nhiều năm nay, anh Trần Sáu (xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế) không còn lặn lội mưa gió đi đánh bắt cá tôm trên Phá Tam Giang nữa mà đã chuyển sang nuôi ghẹ lột, mô hình này không chỉ mang lại cho gia đình anh nguồn thu nhập ổn định mà còn góp phần làm đa dạng đối tượng nuôi trồng để phát triển sản xuất bền vững.

Ghẹ lột

Trò chuyện với chúng tôi, anh Sáu cho biết “Trước khi chuyển sang nuôi ghẹ lột, thu nhập của gia đình tôi chủ yếu dựa vào việc đánh bắt tôm cá, kiểu khai thác của tôi bị chính quyền cấm vì gây ảnh hưởng đến các loại thủy sản. Sau khi UBND huyện Phú Vang có chủ trương sắp xếp lại nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai trong đó có địa bàn xã Phú Diên tôi quyết định chuyển đổi nghề đánh bắt sang nuôi ghẹ lột thưởng phẩm”.

Trải qua thời gian dài học hỏi, nghiên cứu cách nuôi ghẹ lột, anh Sáu bắt tay thực hiện. Từ chổ nuôi thử nghiệm vài lồng, đên nay mô hình của anh đã mở rộng lên thành 20 lồng. Vào mùa thu hoạch, số lồng nuôi này có thể xuất hơn 50 kg ghẹ lột thương phẩm/ngày, với giá dao động từ 180.000 đồng/kg. Bình quân thu hoach cho lãi gần 80 triệu đồng mùa.

Anh Sáu cho biết thêm, tháng 2/2017, phòng Nông nghiệp huyện Phú Vang đã hỗ trợ 50 triệu để nhân rộng mô hình. Tuy nhiên, lo ngại nhất hiện nay là việc nguồn nước bị ngọt hóa đột ngột. Ghẹ sẽ chết sạch trong vòng 24 giờ vì không chịu được nước ngọt. Ngoài lo sợ đó ra thì điều kiện tự nhiên vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai rất thích hợp để nuôi ghẹ lột, không có đường lỗ nếu như nguồn nước đảm bảo.

“Những năm gần đây thị trường tiêu thụ ghẹ lột ngày càng mở rộng, con ghẹ lột có thịt chắc và ngọt nên người tiêu dùng rất thích. Mỗi lần xuất bán đều có 2-3 công ty về tận đầm thu mua, đầu ra khá ổn định. Từ khi nuôi con này kinh tế gia đình cải thiện rõ rệt, tôi không còn đi bắt tôm cá kiểu như trước nữa.”, Anh Sáu phấn khởi.

Theo đánh giá của Ông Hoàng Trọng Đoài – Phó Chủ tịch UBND xã Phú Diên “sự thành công của mô hình không chỉ mang lại kinh tế trực tiếp cho người nuôi, hạn chế ô nhiễm môi trường, ổn định đời sống của người dân mà còn hướng tới việc phát triển đa dạng đối tượng nuôi nhằm ổn định, phát triển sản xuất bền vững. Xã cũng tạo điều kiện cho hộ nuôi tổ chức các khâu sản xuất phù hợp, khắc phục những nhược điểm tồn tại, tăng hiệu quả sản xuất và quản lý chất lượng sản phẩm”.

Nguồn: moitruong.net.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi Ghẹ xanh trên biển

Xã Nhơn Hải (TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) đang thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng hải sản: tôm hùm thương phẩm, tôm hùm giống, ốc hương…

Năm 2014, phát triển một mô hình nuôi trồng hải sản mới: nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển.

Giá trị lớn

Ghẹ xanh (Portunus pelagicus), còn gọi là ghẹ hoa, có vỏ màu xanh và các chấm trắng trên lưng. Ghẹ xanh được khai thác quanh năm, có sản lượng khá nhiều ở Bình Định nói riêng và khắp vùng biển từ Bắc vào Nam nói chung. Với sản lượng khai thác tự nhiên như hiện nay, một số hộ ngư dân đã nuôi ghẹ xanh thương phẩm trong ao, hồ, đầm, vịnh, đìa; thả đăng, thả lồng nuôi trên biển… để xuất bán; ngoài ra còn nuôi ghẹ lột vỏ.

Ghẹ xanh có giá trị dinh dưỡng cao

Mùa vụ thả nuôi ghẹ xanh từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch hằng năm. Thức ăn của ghẹ xanh là cá, mực nhuyễn thể… Nguồn ghẹ cỡ nhỏ dồi dào có trong tự nhiên lâu nay được ngư dân đánh bắt và bán cho thương lái, bán ở các chợ, với giá 40.000 – 50.000 đồng/kg. Một kg ghẹ ban đầu có thể tăng trọng lượng 1,3 – 1,5 kg, sau khi đưa vào nuôi thành ghẹ lột. Ghẹ lột là đặc sản ngon, bổ dưỡng và hiếm, có giá trị kinh tế nên giá đầu ra cao gấp 3 – 4 lần so với sản phẩm thô ban đầu.

Hướng đi hiệu quả mới

Trong khuôn khổ dự án nuôi trồng thủy sản thực hiện theo đề án xây dựng nông thôn mới xã Nhơn Hải, giai đoạn 2011 – 2020, Tổ hợp tác nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển do Hội Cựu chiến binh (CCB) xã Nhơn Hải chủ trì đã thả nuôi hơn 2.500 con ghẹ xanh giống, trên diện tích hơn 300 m2 (nuôi bằng hình thức thả đăng) tại đảo Hòn Khô. Trong đó, nguồn vốn nhà nước hỗ trợ 75 triệu đồng, Tổ hợp tác Hội CCB xã gồm 7 thành viên tham gia nuôi ghẹ xanh bỏ vốn 10 triệu đồng/người, thời gian thực hiện mô hình là 3 năm. Nguồn ghẹ giống ngư dân đánh bắt trong tự nhiên được mua tại TP Quy Nhơn về thả nuôi. Giá ghẹ giống 28.000 – 35.000 đồng/kg (khoảng 40 – 50 con/kg). Nuôi thương phẩm 3 tháng thì xuất bán. Giá ghẹ xanh thương phẩm trên thị thường hiện nay 180.000 – 250.000 đồng/kg.

Nuôi ghẹ xanh trên biển là hướng đi mới cho ngư dân

Đây là mô hình nuôi ghẹ xanh thương phẩm đầu tiên ở địa phương, bên cạnh nhiều mô hình nuôi hải sản (tôm hùm thương phẩm, tôm hùm giống, ốc hương thương phẩm, cá bóp…). Cùng đó, ngành nghề đánh bắt, khai thác thủy hải sản là những ngành kinh tế mũi nhọn ở địa phương, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, công tác an sinh – xã hội được bảo đảm, an ninh chính trị được giữ vững, hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn. Mô hình nuôi ghẹ xanh thương phẩm trên biển hướng đến sự phát triển mới với nhiều mô hình trong nuôi trồng hải sản ở Bình Định. Thị trường tiêu thụ ghẹ xanh đang khá mạnh, mở ra một hướng sản xuất mới cho người nuôi trồng.

Ông Nguyễn Văn Chín, Chủ tịch Hội CCB xã Nhơn Hải, Tổ trưởng tổ hợp tác nuôi ghẹ xanh, cho biết: Dự án nuôi ghẹ xanh trên biển được triển khai nhằm tạo công ăn việc làm để hội viên CCB phát triển kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hội viên, đồng thời thực hiện công cuộc xây dựng nông thôn mới xã Nhơn Hải. Từ đó, nhân rộng mô hình ra cho hội viên và ngư dân trong xã để tham gia nuôi trồng thủy sản, phát triển kinh tế gia đình.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Ghẹ xanh lột thương phẩm

Ghẹ xanh là đối tượng khai thác rất lớn ở vùng biển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đặc biệt là vùng biển Phước Hải. Sản lượng khai thác không chỉ nhiều mà chất lượng thịt ghẹ cũng rất ngon cho nên thương hiệu ghẹ Phước Hải đã được người tiêu dùng nhiều nơi biết đến.

Ghẹ lột

Tuy nhiên, nguồn ghẹ thịt dồi dào có trong tự nhiên lâu nay chỉ bán ở các chợ hoặc bán cho lái buôn với giá 50.000 -100.000 đồng/kg. Trong khi đó, ghẹ lột là loại hàng thương phẩm có giá trị cao về kinh tế và dinh dưỡng, được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng. Giá ghẹ lột có thể cao gấp 2-3 lần so với giá ghẹ thô ban đầu nên hiện nay nghề nuôi ghẹ lột thương phẩm trở thành nghề mang lại thu nhập cao.

1. Thiết kế bể nuôi ghẹ xanh lột

–   Nuôi trong bể xi măng 5×5= 25 m2, có che bớt ánh sáng bằng lưới chắn để nhiệt độ trong bể nuôi không quá 300C

–    Các yếu tố thủy lý, thủy hóa: nhiệt độ nước dao động 25-300C, độ muối duy trì 30– 33 %o oxy hoà tan 6,2 – 6,5mg/l và pH khoảng 7,8-8

–    Bể nuôi phải được sục khí liên tục 24/24 giờ và thay nước 100%/ngày

2. Hướng dẫn cách chọn ghẹ xanh làm ghẹ giống

Ghẹ xanh nuôi lột chọn cỡ từ 15 – 20 con/kg, trọng lượng từ 50 – 70g/con. Chọn những con chắc thịt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đủ chân càng và mai yếm không bị dập nứt. Trường hợp những con hình thành lớp vỏ mới chuẩn bị lột xác, khỏe mạnh có đủ chân càng nuôi riêng.

Kỹ thuật xử lý để ghẹ lột đồng loạt      

Để ghẹ xanh lột vỏ đồng loạt có thể áp dụng biện pháp cắt mắt và trộn chất Chitosan 1% vào thức ăn cho ghẹ ăn.

Sau khi tuyển ghẹ nuôi lột, cho ghẹ vào bể có sục khí nuôi lưu từ 10-12 h để ghẹ hồi sức và ổn định. Bổ sung Vitamin C vào bể nuôi để tăng thêm sức đề kháng cho ghẹ.

Khi kiểm tra ghẹ đã khỏe mạnh, giảm nhiệt độ nước xuống còn 20-220C và thực hiện cắt mắt. Dùng kéo đã khử trùng để cắt mắt ghẹ.

– Cắt mắt: Đốt nóng kéo hoặc dùng cồn khử trùng kéo cắt. Một người cầm giữ ghẹ, một người cắt, vết cắt tính từ gốc mắt ra là 2-3 mm. Sau khi cắt mắt tiếp tục nuôi thêm 10-12 h trong bể để ghẹ ổn định. Khi trời mát cho ghẹ vào bể nuôi lột.

– Cho ăn thuốc: Cá tươi rửa sạch trộn với chất kích thích lột vỏ của giáp xác là chất Chitosan với nồng độ 1%, có thể dùng dầu mực bao thức ăn để tăng khả năng của thuốc. Ghẹ cắt mắt sử dụng chất Chitosan trong vòng 14 ngày ghẹ lột vỏ đồng loạt, tỷ lệ 70 – 80%.

3. Hướng dẫn cách chăm sóc và quản lý ao nuôi ghẹ xanh lột

Thức ăn cho ghẹ lột là cá tạp tươi cắt thành miếng nhỏ, rửa sạch và rải đều khắp bể cho ghẹ ăn. Lượng thức ăn hàng ngày từ 10-20% trọng lượng thân và tùy thuộc vào sức ăn của ghẹ.

Ngày cho ghẹ ăn 2 lần vào buổi sáng (5-6h) và chiều (17-18h), cho ghẹ ăn lúc mới thay nước và tránh cho ăn lúc nhiệt độ cao. Những ngày đầu ghẹ ăn nhiều, sau ngày thứ 9, 10 trở đi sức ăn của ghẹ giảm và bắt đầu lột.

Kiểm tra: Sau từ 9 đến 14 ngày nuôi, một số ghẹ đã chuyển sang giai đoạn chuẩn bị lột. Người nuôi dùng ngón tay ấn nhẹ vào mép dưới mai ghẹ sẽ nghe thấy tiếng gãy của mai. Tách riêng những con chuẩn bị lột sang bể nuôi mới, thay nước để kích thích ghẹ lột, thay 100% nước hàng ngày và giữ nhiệt độ nước ổn định từ 28 – 30ºC. Ghẹ sắp lột vỏ không cho ăn, 2 – 3 giờ kiểm tra 1 lần, chú ý thay nước sạch cho ghẹ lột nhanh.

Cách nhận biết ghẹ chuẩn bị lột: Màu sắc trên lưng ghẹ chuyển từ màu xanh sau khi cắt mắt sang màu xanh hơi đỏ và chuyển tiếp sang màu xanh nâu hơi đậm.

Công việc lọc ghẹ lột được thực hiện liên tục vì sau khi lột vỏ hoàn toàn phải tiến hành thu hoạch và bảo quản ngay vì chỉ 2 giờ sau khi lột vỏ ghẹ đã cứng lại

Thời gian ghẹ lột nhiều nhất từ 17 giờ đến 5 giờ sáng ngày hôm sau.

4. Cách thu hoạch ghẹ xanh lột Ghẹ vừa lột được rửa sạch bằng nước ngọt ở nhiệt độ 150C, đem ghẹ lên cắt yếm, cắt ruột và gói vào bao nilon, sau đó xếp từng con vào trong vỉ, bảo quản lạnh và chuyển đến nơi tiêu thụ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Ghẹ xanh lột

Ghẹ xanh là đối tượng khai thác rất lớn ở vùng biển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đặc biệt là vùng biển Phước Hải.

Ghẹ xanh

Ghẹ xanh là đối tượng khai thác rất lớn ở vùng biển của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đặc biệt là vùng biển Phước Hải. Sản lượng khai thác không chỉ nhiều mà chất lượng thịt ghẹ cũng rất ngon cho nên thương hiệu ghẹ Phước Hải đã được người tiêu dùng nhiều nơi biết đến.Tuy nhiên, nguồn ghẹ thịt dồi dào có trong tự nhiên lâu nay chỉ bán ở các chợ hoặc bán cho lái buôn với giá 50.000 -100.000 đồng/kg.

Trong khi đó, ghẹ lột là loại hàng thương phẩm có giá trị cao về kinh tế và dinh dưỡng, được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng. Giá ghẹ lột có thể cao gấp 2-3 lần so với giá ghẹ thô ban đầu nên hiện nay nghề nuôi ghẹ lột thương phẩm trở thành nghề mang lại thu nhập cao.

1. Thiết kế bể nuôi

Nuôi trong bể xi măng 5×5= 25 m2, có che bớt ánh sáng bằng lưới chắn để nhiệt độ trong bể nuôi không quá 300C

Các yếu tố thủy lý, thủy hóa: nhiệt độ nước dao động 25-300C, độ muối duy trì 30 – 33 %o oxy hoà tan 6,2 – 6,5mg/l và pH khoảng 7,8-8

Bể nuôi phải được sục khí liên tục 24/24 giờ và thay nước 100%/ngày

 2. Chọn giống

Ghẹ xanh nuôi lột chọn cỡ từ 15 – 20 con/kg, trọng lượng từ 50 – 70g/con. Chọn những con chắc thịt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đủ chân càng và mai yếm không bị dập nứt. Trường hợp những con hình thành lớp vỏ mới chuẩn bị lột xác, khỏe mạnh có đủ chân càng nuôi riêng.

 Kỹ thuật xử lý để ghẹ lột đồng loạt

Để ghẹ xanh lột vỏ đồng loạt có thể áp dụng biện pháp cắt mắt và trộn chất Chitosan 1% vào thức ăn cho ghẹ ăn.

Sau khi tuyển ghẹ nuôi lột, cho ghẹ vào bể có sục khí nuôi lưu từ 10-12 h để ghẹ hồi sức và ổn định. Bổ sung Vitamin C vào bể nuôi để tăng thêm sức đề kháng cho ghẹ.

Khi kiểm tra ghẹ đã khỏe mạnh, giảm nhiệt độ nước xuống còn 20-220C và thực hiện cắt mắt. Dùng kéo đã khử trùng để cắt mắt ghẹ.

Cắt mắt: Đốt nóng kéo hoặc dùng cồn khử trùng kéo cắt. Một người cầm giữ ghẹ, một người cắt, vết cắt tính từ gốc mắt ra là 2-3 mm. Sau khi cắt mắt tiếp tục nuôi thêm 10-12 h trong bể để ghẹ ổn định. Khi trời mát cho ghẹ vào bể nuôi lột.

Cho ăn thuốc: Cá tươi rửa sạch trộn với chất kích thích lột vỏ của giáp xác là chất Chitosan với nồng độ 1%, có thể dùng dầu mực bao thức ăn để tăng khả năng của thuốc. Ghẹ cắt mắt sử dụng chất Chitosan trong vòng 14 ngày ghẹ lột vỏ đồng loạt, tỷ lệ 70 – 80%.

3. Chăm sóc, quản lý

Thức ăn cho ghẹ lột là cá tạp tươi cắt thành miếng nhỏ, rửa sạch và rải đều khắp bể cho ghẹ ăn. Lượng thức ăn hàng ngày từ 10-20% trọng lượng thân và tùy thuộc vào sức ăn của ghẹ.

Ngày cho ghẹ ăn 2 lần vào buổi sáng (5-6h) và chiều (17-18h), cho ghẹ ăn lúc mới thay nước và tránh cho ăn lúc nhiệt độ cao. Những ngày đầu ghẹ ăn nhiều, sau ngày thứ 9, 10 trở đi sức ăn của ghẹ giảm và bắt đầu lột

Kiểm tra: Sau từ 9 đến 14 ngày nuôi, một số ghẹ đã chuyển sang giai đoạn chuẩn bị lột. Người nuôi dùng ngón tay ấn nhẹ vào mép dưới mai ghẹ sẽ nghe thấy tiếng gãy của mai. Tách riêng những con chuẩn bị lột sang bể nuôi mới, thay nước để kích thích ghẹ lột, thay 100% nước hàng ngày và giữ nhiệt độ nước ổn định từ 28 – 300C.

Ghẹ sắp lột vỏ không cho ăn, 2 – 3 giờ kiểm tra 1 lần, chú ý thay nước sạch cho ghẹ lột nhanh.

Cách nhận biết ghẹ chuẩn bị lột: Màu sắc trên lưng ghẹ chuyển từ màu xanh sau khi cắt mắt sang màu xanh hơi đỏ và chuyển tiếp sang màu xanh nâu hơi đậm.

Công việc lọc ghẹ lột được thực hiện liên tục vì sau khi lột vỏ hoàn toàn phải tiến hành thu hoạch và bảo quản ngay vì chỉ 2 giờ sau khi lột vỏ ghẹ đã cứng lại

Thời gian ghẹ lột nhiều nhất từ 17 giờ đến 5 giờ sáng ngày hôm sau.

4. Thu hoạch

Ghẹ vừa lột được rửa sạch bằng nước ngọt ở nhiệt độ 150C, đem ghẹ lên cắt yếm, cắt ruột và gói vào bao nilon, sau đó xếp từng con vào trong vỉ, bảo quản lạnh và chuyển đến nơi tiêu thụ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kiếm bộn tiền nhờ vào nuôi Ghẹ lột

Hơn chục năm qua, người dân xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang phát triển mô hình nuôi ghẹ lột cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước.

Ghẹ lột có giá trị dinh dưỡng rất cao

Xã Bình An là một trong những nơi được các chuyên gia Nhật Bản chuyển giao kỹ thuật nuôi ghẹ lột hơn chục năm trước ở tỉnh Kiên Giang. Hiện, nghề này đã và đang giúp người dân kiếm khá nhiều tiền. Thậm chí, nhiều hộ dân còn sáng tạo ra cách nuôi ghẹ trong lồng bè dưới biển, giúp giảm công thay nước và đảm bảo môi trường tự nhiên cho ghẹ mau lớn, lột.

Một trong những hộ dân ở Bình An thành công khi đưa con ghẹ từ nuôi trong bể xuống nuôi dưới biển là anh Mai Nguyên Bằng. Ngoài việc nuôi ghẹ lột để cung ứng sản phẩm ghẹ lột đông lạnh cho thị trường, anh Bằng còn hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ dân có nhu cầu và chịu trách nhiệm thu gom sản phẩm trong xã.

Theo anh Bằng, trước năm 2000, dân xã Bình An chưa biết nhiều đến kỹ thuật nuôi ghẹ lột. Hầu hết ghẹ sau khi đánh bắt về được bán cho các chủ vựa, thương lái. Sau đó, có chuyên gia Nhật Bản đến hướng dẫn kỹ thuật nuôi ghẹ lột, anh và nhiều hộ dân khác đã quyết tâm thực hiện mô hình.

Ban đầu với 10kg ghẹ tự nhiên, anh thử nuôi trong bể xi măng, nhưng do thiếu kinh nghiệm nên thất bại. Không nản chí, anh tiếp tục tìm tòi, học hỏi, cuối cùng nảy sinh sáng kiến không nuôi ghẹ trong bể mà nuôi trong lồng bè ngay dưới biển. Và rồi anh thành công ngay từ lần đầu.

Anh Bằng cho biết: “Nuôi ghẹ lột dưới biển được nhiều cái lợi, từ việc không mất công thay nước cho ghẹ, đến việc vệ sinh bể, lo ngại môi trường nước ô nhiễm… Trong khi đó, nuôi trong lồng bè, ghẹ vừa có không gian rộng hơn lại vừa được ở trong môi trường tự nhiên nên phát triển rất tốt”.

Cũng theo anh, quan trọng nhất là khâu canh ghẹ lột để bắt ra ngay không quá 15 phút và lập tức cho vào ngâm đá để giữ chất lượng, bằng không ghẹ sẽ cứng vỏ và chất lượng thịt kém đi nhiều.

Bí quyết thành công của anh Bằng khi nuôi ghẹ lột là sau khi chọn con giống thì cắt bỏ mắt của ghẹ trước khi thả xuống bè. Sau đó, cho ghẹ ăn cá băm nhỏ từ 5 – 10 ngày để ghẹ mau lớn và lột. “Ghẹ được bắt lên sau khi lột, ngâm đá thì tiến hành sơ chế rồi cho ghẹ vào đông lạnh ở -35 độ C. Sau đó cho vào tủ đông để bảo quản trước khi xuất ra thị trường” – anh chia sẻ.

Ghẹ lột tiêu thụ mạnh nhất là loại từ 50-100gram/con. Ở trọng lượng này, ghẹ lột có giá 200.000 đồng/kg. Với uy tín hơn chục năm trong nghề, sản phẩm của anh Bằng rất được ưa chượng. Thị trường chính của anh là TP Hồ Chí Minh và ở nước ngoài.

Hiện, xã Bình An có trên 10 hộ nuôi ghẹ lột, trung bình mỗi ngày bán ra thị trường từ 400 – 500kg ghẹ lột thương phẩm. Theo những người nuôi, nghề này vẫn giúp người dân kiếm ra khá bộn tiền.

Một tín hiệu vui cho bà con nuôi ghẹ lột tại xã Bình An, mới đây Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang hướng dẫn địa phương làm các thủ tục đăng ký nhãn hiệu tập thể. Khi thành công, sản phẩm ghẹ lột xã Bình An sẽ được quảng bá thương hiệu nhiều hơn đến người tiêu dùng. Qua đó, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ và giúp nghề này duy trì, phát triển ổn định hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi Ghẹ xanh lãi lớn

Kỹ thuật nuôi ghẹ xanh khâu giống rất quan trọng, quyết định sự thành bại. Loài này cũng là sản phẩm có giá trị xuất khẩu.

Ghẹ xanh có giá trị dinh dưỡng cao

Ghẹ xanh phân bố rộng ở miền đông châu Phi, Đông Nam Á, Nhật Bản, Australia và New Zealand. Ghẹ đực có vỏ màu lam sáng với các đốm trắng và các càng dài đặc trưng, trong khi ghẹ cái có màu nâu/lục xỉn màu hơn và mai thuôn tròn hơn. Mai của chúng có thể rộng tới 20 cm.

Phần lớn thời gian chúng ẩn nấp dưới cát hay bùn, cụ thể là trong thời gian ban ngày và mùa đông. Chúng đi kiếm ăn khi thủy triều lên. Thức ăn của chúng khá đa dạng, từ các động vật hai mảnh vỏ, cá và ít hơn là các loại tảo lớn. Chúng bơi lội rất tốt, chủ yếu là do các cặp chân dẹp tựa như các mái chèo. Loài này cũng không thể sống một thời gian dài mà không có nước. Loài này được đánh giá cao do thịt của nó ngọt như thịt cua xanh Đại Tây Dương.

Thiết kế môi trường nuôi

Nước biển sử dụng để sản xuất giống phải trong sạch, độ mặn ổn định 30-34‰, các chỉ tiêu lý, hóa phù hợp với điều kiện sống của các loài thủy sinh vật. Nước ngọt phục vụ quá trình sản xuất giống cũng cần trong sạch, không ô nhiễm.

Chọn vị trí xây trại có cấu tạo địa chất ổn định, địa hình bằng phẳng; hệ thống cấp, thoát nước thuận lợi. Vị trí xây dựng trại phải thuận lợi về giao thông và có thể sử dụng điện lưới quốc gia. Nhà trại phải đảm bảo thoáng mát trong mùa hè, ấm vào mùa đông.

Số lượng và diện tích bể trong trại phụ thuộc vào công suất và quy mô sản xuất, tuy nhiên cần đảm bảo: Bể lắng và xử lý nước biển: thường dùng bể xi măng có thể tích 300-500m3/bể; Bể lọc là bể xi măng, thể tích 15-25m3/bể; Bể nuôi giữ ghẹ mẹ: bể xi măng hoặc bể composit.

Bể xi măng phải bảm đảm khi sục khí không tạo ra các “góc chết”, thể tích 3-5m3/bể. Bể composit có dạng hình bán cầu, thể tích 1-2m3/bể. Bể nuôi artemia sinh khối: bể xi măng hoặc composit, thể tích 1-1,5m3/bể. Đảm bảo đủ máy bơm, máy sục khí, kính hiển vi, tủ lạnh, que đun điện xô, chậu, vợt các loại…

Thả và ương nuôi ghẹ

Khi thả ghẹ bột xuống đìa cần phải kiểm tra độ muối và nhiệt độ ở trong đìa và nước trong thùng vận chuyển ghẹ. Cấp nước từ từ trong đìa vào thùng vận chuyển trong khoảng 20 đến 40 phút để ghẹ bột làm quen với môi trường sống, sau đó thả ghẹ vào đìa. Mật độ thả là 5-6 con/m2.

Trong 20 ngày đầu: Thức ăn ương ghẹ bột gồm các loại cá, ruốc, tôm nhỏ hấp chín và cà qua rổ nhựa, sau đó hòa đều với nước tạt khắp đìa.

Quản lý và chăm sóc ghẹ nuôi

Trong 3 tháng nuôi, cần phải chú ý quản lý và chăm sóc đìa nuôi ghẹ theo các yêu cầu: Giữ đìa nuôi có màu tảo lục hoặc tảo khuê (độ trong khoảng 25 – 30 cm); Trong 1 tháng đầu ương ghẹ bột, chú ý không được cấp nước trực tiếp vào đìa nuôi; Trong 2 tháng nuôi tiếp theo, chú ý chọn con nước sạch khi thay nước cho đìa nuôi

Thức ăn cho ghẹ ăn phải tươi và phải được rửa sạch trước khi cho ăn. Kiểm tra khối lượng ghẹ nuôi 15 ngày/ lần bằng cân đĩa nh

Có nhật ký để ghi chép và theo dõi ghẹ nuôi hàng ngày (ghi chép các chi phí, lượng thức ăn hàng ngày, tình trạng sức khỏe của ghẹ nuôi, các sự cố và biện pháp xử lý)

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.