Phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm

Thực tế cho thấy, thời tiết bất thường hiện nay làm cho tôm có dấu hiệu chuyển bệnh một cách nhanh chóng. Sau đây là cách phòng trị một số bệnh thường gặp ở tôm, mời bà con theo dõi:

1.Bệnh do vi khuẩn Vibrio

  • Dấu hiệu:

Đứt râu, thối mang, đen mang, thối đuôi, đốm đen.

Tôm bẩn mình, bẩn mang, cơ thể chuyển màu hồng đỏ, tôm yếu, bỏ ăn rồi chết.

Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ…

  • Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân chính gây ra các bệnh trên là vi khuẩn thuộc giống Vibrio.

Vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao nuôi theo: nguồn nước, tôm giống, thức ăn, từ đáy ao nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.

  •  Phòng – trị bệnh:

Áp dụng tổng hợp các biện pháp để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn:

Giữ chất lượng nước ao nuôi tốt.

Không nuôi mật độ quá cao.

Tránh làm tôm bị tổn thương.

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ trong ao nuôi.

Giảm độ mặn nước xuống 15 – 20 ‰ có thể hạn chế vi khuẩn Vibrio phát triển.

Tăng sức đề kháng bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E.

Bệnh vi khuẩn thường xảy ra khi nước ao bẩn, tôm yếu, vì vậy nên áp dụng đồng thời các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung vitamin C vào thức ăn.

Sử dụng dầu mực bao gói thức ăn: 5-10ml/kg thức ăn

Kích thích lột xác bằng Saponine 10-15g/m3

2. Bệnh do vi khuẩn dạng sợi

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Mang tôm biến đen hoặc biến màu nâu, các chân ngực và chân bơi có màu xám bám đầy lông tơ.

Bệnh nặng thì mang chuyển sang màu vàng, màu xám hoặc màu xanh bám nhiều lông tơ làm ảnh hưởng đến hô hấp. Tôm thường nổi đầu, dạt vào bờ và chết rải rác.

Nghiêm trọng hơn làm tôm không lột xác được.

Bệnh thường gặp ở ao nuôi có hàm lượng chất hữu cơ cao, mật độ nuôi dày.

  • Tác nhân gây bệnh:

Chủ yếu là Vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor, ngoài ra có thể do một số vi khuẩn dạng sợi khác: Cytophagr sp, Flexibacter sp, Thiothrix sp…Chúng có thể độc lập hay phối hợp với nhau gây bệnh ở mang, thân và các phụ bộ của tôm.

Các vi khuẩn dạng sợi này sống hoại sinh trong nước biển, cửa sông và có thể bám lên bề mặt ngoài của tôm gây bệnh, có khả năng phân giải kitin, xenlulose và nhiều hợp chất hữu cơ khác.

  • Phòng – trị bệnh:

Cải thiện môi trường: thay nước, quạt nước

Cải thiện điều kiện môi trường và diệt vi khuẩn trong cơ thể: siphon đáy, thay nước mới để làm giảm mật độ vi khuẩn trong nước. Sử dụng các sản phẩm trong danh mục cho phép của Bộ NN và theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Tăng sức để kháng cho tôm: Bổ sung vitamin C

Không nuôi mật độ quá cao

Tránh làm tôm bị tổn thương

Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh để giảm hàm lượng chất hữu cơ. Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung vitamin C, A, E, và betaglucan.

Ao đã bị bệnh thì dùng 1-2mg/m3 Saponine hoặc bột hạt chè phun đều khắp ao kích thích tôm lột xác. Lột xác xong lại thêm nước để giảm nồng độ Saponine, hoặc dùng 2-5mg/m3 KMnO4 ( thuốc tím) phun khắp ao sau 4 giờ thì thay nuớc.

3.Bệnh đóng rong hay mảng bám

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Các sinh vật bám vào chân, mắt, vỏ giáp thành một lớp lông tơ có màu đen (xem kính hiển vi rất rõ).

Tôm bị bệnh thường tách đàn nổi lên mặt nước bơi lờ đờ hay bám thành bờ, phản ứng chậm chạp, kém ăn, không lột xác được.

Bệnh nặng, các sinh vật bám phát triển bám vào mang làm tôm không thở được tôm bị thiếu ôxy nên chết.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do các sinh vật bám gây ra:

Động vật nguyên sinh như Epistylis, Vorticella, Acineta, Ephelota.

Tảo lam như Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola; tảo lục như Enteromorpha sp; tảo khuê Amphora sp, Nitszchia sp.

  • Phòng – trị bệnh:

Bệnh sinh vật bám ở tôm xảy ra khi nước ao bẩn, có nhiều tảo bám, nhiều nguyên sinh động vật (trùng loa kèn) nên phải áp dụng các biện pháp:

Cải thiện điều kiện môi trường:

Duy trì độ trong thích hợp, ổn định tảo trong ao.

Tăng cường thay nước sạch (10 – 20% nước/lần) để làm giảm sinh vật bám trong ao, cải thiện môi trường

Tăng cường quạt nước để tăng hàm lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi

Cho ăn đúng mức để tránh ô nhiễm đáy ao.

Vớt tảo nổi trên bề mặt.

Xử lý nước ao bằng chế phẩm vi sinh để hấp thu khí độc NH3 và phân hủy chất hữu cơ, hạn chế sự phát triển của tảo.

Tăng sức đề kháng cho tôm: bổ sung Vitamin C vào thức ăn để giúp tôm giảm stress, tăng sức khỏe cho tôm.

Kích thích tôm lột xác: thay nước hoặc dùng Saponin 10-15g/m3 tạt khắp ao giúp tôm lột xác đồng đều.

Diệt sinh vật bám: nếu tỷ lệ tôm nhiễm bệnh cao có thể sử dụng hóa chất diệt bớt sinh vật bám như formol (25ml/m3) hoặc CuSO4.

4.Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm nuôi thương phẩm bị bệnh mềm vỏ thường có dấu hiệu bệnh lý:

Tôm có màu xỉn, vỏ bị mềm có khi rất mềm, vỏ rời thịt.

Những con mềm vỏ thường yếu, kém hoạt động, dễ bị con khác ăn thịt hoặc dễ bị các sinh vật gây bệnh tấn công, dễ bị mắc các bệnh bẩn mình bẩn mang, chết rải rác.

Tôm bị mềm vỏ thường chậm lớn, giảm giá trị thương phẩm và dễ mắc các bệnh cơ hội. Bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.

  • Tác nhân gây bệnh:

Bệnh mềm vỏ ở tôm thẻ chân trắng có liên quan đến môi trường và dinh dưỡng. Do thiếu dinh dưỡng, thức ăn thiếu Canxi và phốt pho. Độ cứng thấp.

Nước ao nuôi nhiễm thuốc trừ sâu.

Hàm lượng lân trong nước thấp.

  • Phòng – trị bệnh:

Quản lý môi trường có độ kiềm từ 80-160mg/l bằng cách: bón vôi CaCO3 hay Dolomite (CaMg(CO3)2) định kỳ một tuần một lần cho ao nuôi.

Quản lý môi trường ao nuôi thích hợp và ổn định tránh gây sốc cho tôm.

Bổ sung thêm khoáng thích hợp vào khẩu phần thức ăn như: Canxi/phos, Premix.

5.Bệnh thiếu vitamin C

  • Dấu hiệu bệnh lý:

Tôm bị bệnh thiếu vitamin C thường có các dấu hiệu bệnh lý:

Xuất hiện các vùng cơ màu đen dưới lớp vỏ ở mặt lưng của phần bụng, ở các chân bơi, chân bò, trên mang tôm cũng có các vệt đen.

Tôm ăn ít hoặc bỏ ăn, sức đề kháng giảm, khả năng chịu sốc kém, dễ bị các tác nhân gây bệnh cơ hội tấn công tôm sinh trưởng chậm, chết rải rác 1-5% hàng ngày (tỷ lệ hao hụt tổng cộng rất cao 80-90%).

Bệnh thường gặp trong ao nuôi thâm canh, đặc biệt trong những ao tảo kém phát triển.

  • Tác nhân gây bệnh:

Do khẩu phần ăn của tôm bị thiếu vitamin C

  • Phòng – trị bệnh:

Sử dụng thuốc và biện pháp trị bệnh như sau:

Bổ sung một lượng vitamin C thích hợp vào khẩu phần thức ăn cho đến khi khỏi bệnh.

Cho tôm ăn thường xuyên vitamin C với các ao nuôi bằng thức ăn công nghiệp, môi trường ao nuôi thiếu tảo.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Nâng chất lượng tôm giống

Mới đây, tại Ninh Thuận, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức diễn đàn Khuyến nông @ công nghệ với chủ đề “Nâng cao chất lượng tôm giống gắn với vùng SX tôm thương phẩm.

Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phát biểu tại hội nghị

Đây là cơ hội để các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý về lĩnh vực thủy sản và DN nuôi tôm cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; tìm giải pháp hữu hiệu để hạn chế dịch bệnh, nâng cao chất lượng SX tôm giống nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao trước sự cạnh tranh thương mại ngày càng khốc liệt.

Theo Tổng cục Thủy sản, cuối năm 2018, cả nước có 2.457 cơ sở SX giống tôm nước lợ; trong đó có 1.855 cơ sở SX tôm sú và hơn 600 cơ sở SX giống tôm thẻ chân trắng, với sản lượng 120 tỷ con (tăng hơn 10% so với năm 2017). Khu vực sản xuất tôm giống trọng điểm là các tỉnh khu vực Nam Trung bộ gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Hằng năm, các cơ sở ở khu vực này cung cấp khoảng 56% số lượng giống tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước.

Ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, tôm giống có vai trò hết sức quan trọng đối với ngành tôm, nhưng nước ta vẫn chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ chọn tạo, gia hóa, chưa thể chủ động cung ứng giống. Mỗi năm vẫn phải nhập khẩu từ 200.000 – 250.000 con tôm chân trắng bố mẹ (khoảng 90% phải ngoại nhập). Trong khi đó, một phần tôm sú bố mẹ vẫn phải thu gom từ tự nhiên. Hiện tại nước ta chỉ có giống tôm sạch bệnh phục vụ nuôi công nghiệp, chưa có con giống kháng bệnh phục vụ nuôi quảng canh.

Bên cạnh đó, giá thành SX tôm ở nước ta vẫn cao hơn các nước trong khu vực. Nguyên nhân do thức ăn nuôi tôm chiếm tỷ lệ cao trong giá thành SX (khoảng 65 – 70%); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa được đầu tư đồng bộ, dễ dẫn đến ô nhiễm; công nghệ nuôi chưa được cải tiến nên năng suất thấp. Đó chưa kể tình trạng lạm dụng thuốc, hóa chất, bơm chích tạm chất vào tôm nguyên liệu còn xảy ra ở các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, làm ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam.

Ngoài ra, thị trường xuất khẩu tôm vẫn gặp khó khăn về các loại rào cản như thuế chống bán phá giá; chương trình SIMP của Mỹ; giá tôm nhập khẩu từ Ấn Độ thấp; các thị trường ngày càng tăng cường kiểm soát chặt chẽ về an toàn và chất lượng thực phẩm…

Thời gian qua việc quản lý giống tôm nước lợ được Bộ NN-PTNT, Tổng cục Thủy sản và các địa phương rất quan tâm và chỉ đạo quyết liệt. Tổng cục Thủy sản yêu cầu Chi cục Thủy sản các tỉnh tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử lý vi phạm trong SXKD tôm giống.

Để xử lý triệt để các cơ sở vi phạm, sau mỗi đợt kiểm tra, Tổng cục Thủy sản đều công khai cơ sở vi phạm trên các phương tiên thông tin đại chúng; đồng thời gửi văn bản cho các tỉnh/thành, các ngành có liên quan để chấn chỉnh, có hướng xử lý đúng, góp phần nâng cao chất lượng giống tôm gắn với nuôi trồng.

Các đại biểu tìm hiểu mô hình nuôi tôm công nghệ cao

 

Bạc Liêu sẽ trở thành “thủ phủ” ngành tôm

Chính phủ đã quyết định thành lập “Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu” rộng hơn 400 ha, tại ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu.

Nuôi tôm công nghiệp ở Bạc Liêu

Theo TTXVN, ngày 6/1, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Dương Thành Trung cho biết Bạc Liêu được Chính phủ quyết định cho thành lập “ Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu” rộng hơn 400 ha, tại ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu.

Đến nay, tỉnh đã giao cho Tập đoàn Việt- Úc 315 ha, còn lại hơn 100 ha vùng lõi khu công nghệ cao, tỉnh đã chấp thuận cho 6 doanh nghiệp hàng đầu về ngành tôm vào đầu tư, trình diễn các mô hình mới về sản xuất tôm.

Cũng theo Chủ tịch UBND tỉnh, hiện nay, ngoài 7 doanh nghiệp đang sản xuất theo mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao siêu thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp trên cũng đã chuyển giao kỹ thuật tiến bộ này cho hơn 100 hộ nông dân áp dụng. Qua thực tế khảo sát cho thấy, mô hình này đang được lan tỏa trong cộng đồng người nuôi tôm trên địa bàn, người dân rất háo hức, phấn khởi áp dụng sản xuất.

Đặc biệt, với “Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu”, sau hơn một năm từ ngày Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định thành lập, đến nay tất cả các hồ sơ, thủ tục, các điều kiện liên quan đã được tỉnh chuẩn bị hoàn tất, dự kiến sẽ tiến hành khởi công xây dựng trong giữa đầu Quí I năm nay.

Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu bày tỏ mong muốn, trong thời gian tới các cơ quan thông tấn, báo chí và các doanh nghiệp tiếp tục đồng hành cùng tỉnh để Bạc Liêu xây dựng và phát triển thành công mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao và hướng đến “Bạc Liêu sớm trở thành thủ phủ của ngành tôm Việt Nam” đúng như kỳ vọng của Thủ tướng Chính phủ.

Theo báo Đại biểu nhân dân, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu Lê Minh Khái cho biết: Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, lãnh đạo tỉnh đã ban hành Đề án tái cơ cấu ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ đẩy mạnh liên kết hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân trong việc đầu tư xây dựng những cánh đồng tôm theo mô hình cánh đồng mẫu lớn.

Đặc biệt, xây dựng khu sản xuất, nuôi tôm công nghệ cao và phát triển mạnh mô hình thực hành thủy sản tốt có chứng nhận (VietGAP, GlobalGAP, ASC hoặc Organic) với quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu đưa con tôm thẳng tiến “từ ao, đầm trực tiếp đến bàn ăn”.

Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thương hiệu con tôm Bạc Liêu, giữ vững thị trường xuất khẩu truyền thống như: Nhật Bản, Mỹ, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, phát triển và mở rộng thêm thị trường tiềm năng như: Hong Kong, Trung Đông, Đông Âu, ASEAN, Liên minh kinh tế Á – Âu và với các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)…

Nguồn: TTXVN được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thái Bình áp dụng nhiều mô hình nuôi tôm đem lại hiệu quả cao

Nuôi tôm theo mô hình VietGAP hay theo phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính được tỉnh Thái Bình áp dụng giúp giảm rủi ro, dịch bệnh, đem lại lợi nhuận cao.

Nhiều phương thức nuôi tôm mới được tỉnh Thái Bình áp dụng

Nhằm hạn chế dịch bệnh, tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, mô hình “Nuôi tôm Thẻ chân trắng theo quy phạm VietGAP” đã được tỉnh Thái Bình đưa vào áp dụng. Sau thời gian ngắn triển khai mô hình đã có những kết quả về chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và những tiêu chí VietGAP được chứng nhận. Đối với mô hình nuôi theo qui phạm thực hành VietGAP môi trường ao nuôi ổn định. Sản phẩm nuôi đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, dễ tiêu thụ và giá bán cao hơn.

Ngoài ra phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính cũng được tỉnh Thái Bình áp dụng. Sau thời gian triển khai, các chủ “Ao nuôi liên kết” khẳng định, phương thức nuôi tôm trong nhà kính theo hướng ứng dụng công nghệ cao là phương thức nuôi chắc ăn, rất ít rủi ro, dịch bệnh và có thể mang lại suất lợi nhuận cao gấp 4 đến 5 lần, thậm chí còn cao hơn nữa so phương thức nuôi truyền thống.

Với việc ứng dụng công nghệ nuôi trồng trong nhà kính kết hợp phương thức “nuôi liên hoàn từ bể ương ra ao nuôi thương phẩm” để giảm bớt thời gian giai đoạn nuôi ao, công nghệ nuôi tôm nhà kính của Doanh nghiệp Phương Nam đã đưa từ 2 vụ nuôi/năm (nuôi cổ truyền) lên 4 vụ nuôi/năm, đưa năng suất nuôi trồng từ khoảng 1 kg/m2 (nuôi cổ truyền) lên trên 2 kg/m2 và đưa trọng lượng tôm thương phẩm từ 70-75 con/kg (nuôi cổ truyền) lên 30-35 con/kg chỉ sau 105 ngày nuôi.

Phương thức “nuôi tôm liên kết” trong nhà kính cũng được tỉnh Thái Bình áp dụng

Việc đưa từ 2 vụ lên 4 vụ nuôi/năm không chỉ đơn thuần mang lại hiệu quả kinh tế cao nhờ việc tăng hệ số quay vòng ao nuôi, quay vòng vốn, rút ngắn thời gian khấu hao ao nuôi, sớm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ao nuôi… mà điều quan trọng là, 2 vụ nuôi tăng thêm thực chất là 2 vụ nuôi trái vụ nên đã tránh được tình trạng “được mùa thì rớt giá” trong sản xuất. Đặc biệt, trong điều kiện thời tiết đông giá, các tỉnh phía Bắc không thể nuôi tôm theo phương thức cổ truyền, việc nuôi theo công nghệ mới này giúp có tôm xuất bán vào dịp Tết Nguyên đán là hết sức có ý nghĩa.

Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất cho phương thức nuôi trồng này là vốn đầu tư ban đầu cao (8-9 tỷ đồng/ha) và để thực hiện nuôi trồng độc lập thì “hộ nuôi trồng” phải có đủ kiến thức chuyên môn cần thiết.

Nguồn: VietQT được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kinh ngạc: Nuôi tôm trong mùa Đông vẫn lãi tiền tỉ

 Bằng kinh nghiệm và sáng tạo nhiều nông dân đã thành công trong nuôi tâm vụ Đông, đáp ứng nhu cầu thị trường cuối năm. Nhiều hộ nuôi tôm vụ Đông thu về lợi nhuận hàng tỉ đồng.

Kiểm tra mô hình nuôi tôm vụ Đông có mái che chóp nón tại Ninh Bình

Đắm mình với tôm vụ Đông

Là người thành công với trang trại nuôi tôm trong mùa Đông, ngày nào, anh Vũ Thanh Trường cũng trực tiếp lội xuống ao tôm. Anh bảo, phải đắm mình vào ao để cùng làm bạn với tôm, gắn bó với đồng tiền khúc ruột của mình để có được sự điều chỉnh sát về mức nhiệt, quạt, thức ăn, gom bọt sủi… Hãy làm như thế để mình yêu công việc của mình hơn và cũng để anh em công nhân say mê có trách nhiệm với công việc.

Đối với mái che hình chóp nón này, khi có mưa bão việc người đi lại để chỉnh sửa, chằng chéo không mấy khó khăn. Việc che chắn này sẽ cách ly môi trường bên ngoài (trung gian truyền bệnh). Nó không làm thay đổi nhiều và đột xuất nhiệt độ vì thế tôm thích nghi rất tốt. Khác với nuôi tôm không có mái che, khi nhiệt độ thay đổi đột ngột tôm dễ bỏ ăn, phát sinh dịch bệnh.

“Hiện sản phẩm làm ra chỉ mới cung ứng trong nội địa. Tới đây, chúng tôi sẽ xây dựng nhà máy để tiêu thụ sản phẩm cho những hộ nuôi khác”, anh Trường cho biết.

Đáng chú ý, trong kỹ thuật nuôi tôm vụ Đông là phải giữ được nhiệt bên trong ao, nhất là nhiệt độ của nước phải đảm bảo nếu không tôm sẽ chết vì lạnh. Chính vì thế, các ao tôm chóp nón được phủ bạt (khác với bạt ni lông che mạ mùa đông) vì nó có khả năng hấp thụ năng lượng ánh sáng mặt trời.

“Đây được xem là một dạng của hiệu ứng nhà kính trong ao tôm che chóp nón, nhiệt độ bên trong và ngoài chênh lệch 7 – 8 độ C. Nhiệt dưới nước vào khoảng 27 – 32 độ C đảm bảo thích nghi của tôm”, anh Trường cho biết.

Lý giải về việc vì sao lại hình thành nên những ao tôm có mái che chóp nón, anh Vũ Thanh Trường cho hay, vùng biển Ninh Bình hàng năm đón nhiều cơn bão. Việc đầu tư nhà 2 mái che như rạp đám cưới sẽ khó giữ được mỗi khi có gió bão, đặc biệt rất khó có thể trèo lên chằng chéo mái che. Qua nghiên cứu các mô hình, nhận thấy mái che chóp nón hướng đón gió ít, thoát gió, chi phí đầu tư rẻ hơn.

Đã có nhiều nông dân ở Cà Mau ra đây tìm hiểu, nhận thấy giá tôm ở đây cao hơn nhiều so với miền trong. Cụ thể, ở đây, thường 28 – 30 con/kg giá bán 320.000 – 350.000đ/kg, trong khi ở miền trong có nơi bán 70 con/kg được 170.000 đồng. Mặc dù điều kiện nuôi tôm ở miền Bắc khắc nghiệt hơn miền Nam.

Lãi tiền tỉ nhờ sản xuất tôm mùa Đông

Từ xa, chúng tôi thấy thấp thoáng những chóp nón đó là các ao nuôi tôm. Trực tiếp chứng kiến và nghe người nuôi tôm kể, chúng tôi thực sự thấm thía sự thông minh sáng tạo của người nông dân. Ông Vũ Hải Đường, một trong những chủ nuôi tôm vùng bãi cát Bình Minh tâm sự, có được thành quả như hôm nay là cả một quãng thời gian dài vật lộn vớn thiên tai bão bùng, nắng gió và cả đau đớn trước những vụ tôm thất bát.

Có mái che “hiệu ứng nhà kính” nhiệt độ nước luôn ổn định nên tôm nuôi 4 vụ/năm phát triển tốt

“Khi một phần đất của Cty TNHH MTV Bình Minh cho khai thác, tôi cùng một hộ dân nữa thuê lại và triển khai nuôi tôm”, ông Đường bắt đầu câu chuyện. Theo đó, 5 năm trước mô hình nuôi tôm thẻ quảng canh của ông Đường không mấy hiệu quả. Cũng từ đó ông khát khao thay đổi cách làm để không bể nợ.

Theo ông Vũ Hải Đường, với khí hậu miền Bắc, tôm quảng canh chỉ nuôi được 1 vụ chính, 1 vụ phụ trong đó vụ phụ bấp bênh vì thường vào mùa mưa bão. Nuôi tôm quảng canh mật độ thả tôm giống thưa, chi phí thấp, nhân công tận dụng. Sản lượng bấp bênh do chịu tác động lớn bởi thời tiết. Nếu một ao nuôi 5.000 m2 thì chi phí đầu tư khoảng 10 triệu, thu nhập chỉ đạt đến 20 triệu đồng.

“Điều này khác hẳn so với nuôi tôm có mai che. Vì nuôi tôm có mái che sản xuất được 4 vụ trong năm. Mật độ thả tôm giống cao, thường 200 con/m2. Sản lượng đạt 20 – 22 tấn/ha. Với giá bán hiện nay, thu 20 tấn x 200 triệu đồng/tấn đạt 4 tỷ đồng, trừ chi phí 50% thì phần lãi đạt được là tiền tỷ (2 tỷ đồng) chứ không gói gọn trong mấy chục triệu”, ông Đường nói.

Cũng theo ông Đường, trong nuôi tôm có mái che là người nuôi chủ động thời vụ, chủ động đưa sản phẩm ra thị trường. Ví dụ, trước và sau Tết hoặc vào các dịp lễ, hội thì nhu cầu tôm ở miền Bắc sẽ cao. Muốn có nguồn cung kịp thời, chủ động thì chỉ có tôm nuôi mái che mới đáp ứng chứ ao quảng canh không thể.

Đề cập đến tồn tại, hạn chế của nuôi tôm hiện nay, theo những người nuôi tôm chuyên nghiệp ở Ninh Bình đó chính là chúng ta chưa chủ động được nguồn giống. Phần lớn phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài, trong đó Tập đoàn CP của Thái Lan chiếm tỷ lệ lớn. Vì thế, nếu DN nước ngoài cho ra đời mẻ tôm giống tốt thì người nuôi trong nước được nhờ, ngược lại là khổ sở. Một khi tôm giống kém chất lượng thì tôm nuôi sẽ còi cọc, mang mầm bệnh, kéo dài thời gian nuôi, tốn chi phí, giá bán thương phẩm cũng thấp hơn.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, một số mô hình tôm nuôi có mái che như của ông Đường, anh Trường đều đặt hàng tôm going của CP với những điều kiện gắt gao hơn, sẵn sàng trả phí cao hơn; đồng thời sử dụng thức ăn chế phẩm sinh học để có sản phẩm tôm sạch, đảm bảo chất lượng.

Thị trường tôm vụ Đông rất lớn

Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Trần Đình Luân, trước đây người nuôi tôm đã đầu tư khá lớn về vốn và công sức cho hai vụ tôm trong năm. Có nơi nhờ dự án nuôi tôm công nghiệp đã mở rộng quy mô sản xuất. Thế nhưng dịp Tết Nguyên đán và khoảng cuối tháng 3, tháng 4 người tiêu dùng vẫn khan hiếm tôm.

Bằng thực tiễn trải nghiệm và quá trình tìm tòi nghiên cứu, mô hình nuôi tôm vụ Đông đã được triển khai ở Quảng Ninh, Hải Phòng và gần đây là Ninh Bình. Trên những bãi cát hoang vu hay các đầm tôm quảng canh tiêu điều dần được thay thế bởi những ao nuôi hình tròn chóp nón đáp ứng điều kiện sống của tôm vụ đông phía Bắc. Chính cách làm này, nhiều địa phương phía Bắc đã chủ động sản xuất được tôm vụ đông, nâng sản xuất từ 2 vụ lên 4 vụ/năm, doanh thu tăng gấp 3 – 4 lần so với các năm trước.

Bằng quyết tâm đó, ông Đường cùng người góp vốn đã vào miền Nam tìm hiểu, ra Quảng Ninh, Hải Phòng học hỏi rồi về đầu tư vốn liếng hình thành nên 11 ao nuôi có mái che chóp nón, trong đó có 8 ao nuôi, mỗi ao rộng 1.800 m2; các ao còn lại rộng từ 500 – 800 m2.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản rất ấn tượng nuôi tôm vụ đông của ông Vũ Hải Đường (trái)

Không chỉ đam mê với con tôm, “cay cú” với những lần thất bại và món nợ ngân hàng quá hạn, mà cái chính là ông Đường đã nhìn nhận được tiềm năng thị trường tôm vụ Đông ở phía Bắc là rất lớn. Đây chính là động lực thôi thúc ông dốc sức vào đầu tư sản xuất nuôi tôm vụ đông. Ông khẳng định, miền Bắc, nếu không làm ao có mái che sẽ không nuôi được tôm vụ đông.

Đây cũng là quan điểm của nhóm thanh niên ở xã Kim Đông, huyện Kim Sơn. Từ một bãi cát được bồi lên sau dự án nạo vét sông Đáy người ta đầu tư dự án nuôi bò sữa thất bại, 5 thanh niên trong làng đã mạnh dạn góp vốn với một quyết tâm biến đồng cát bạc thành vùng tôm trù phú. Nhanh chóng 37ha đất này đã được cấp có thẩm quyền hoàn tất thủ tục cho họ thuê để nuôi tôm.

Anh Vũ Thanh Trường, một trong 5 thanh niên góp vốn chia sẻ, xác định nuôi tôm là phải có điện lưới. Trong khi chờ đợi nhà nước hỗ trợ, chúng tôi đã kéo lưới điện cao thế để đáp ứng nhu cầu cung ứng điện năng cho cả vùng nuôi.

Nguồn: Báo nông nghiệp được kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam.

Người dân tập trung chăm sóc ao nuôi tôm sau bão

Theo số liệu của Chi cục Thủy sản Sóc Trăng, toàn tỉnh còn hơn 3.500 ha nuôi tôm chưa thu hoạch. Do ảnh hưởng của bão làm môi trường ao nuôi biến động. Sau bão, người nuôi tôm đang khẩn trương xử lý, ổn định môi trường ao nuôi.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn khoảng 3.516ha nuôi tôm trên đồng và không có loại hình nuôi lồng, bè.

Gần 3.000 mét vuông nuôi tôm thẻ của gia đình anh Ngô Thanh Tuấn ở xã Hòa Đông đã được 50 ngày, dự kiến Tết nguyên đán sẽ thu hoạch. Để chủ động ứng phó với bão, trước đó anh đã giảm mực nước trong ao phòng khi mưa lớn. Tuy nhiên, cơn mưa kéo dài trong ngày và đêm 25/12, đã làm giảm độ mặn, độ kiềm và độ PH trong ao. Để ổn định lại môi trường, anh đã bổ sung vôi và khoáng để tôm lấy lại sức, giúp tôm đã lột cứng vỏ, phục hồi nhanh. Ông Dương Hoàng Vĩnh, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Đông cho biết: Toàn xã còn 500 ha tôm chưa thu hoạch, trong đó 50% diện tích trên 75 ngày tuổi. Trong thời gian bão, mưa nhiều làm đục ao nuôi, xã đã cử cán bộ xuống hộ dân hướng dẫn bà con xử lý ao.

Ngoài sự chủ động của địa phương, ngành nông nghiệp tỉnh đã chỉ đạo cán bộ trực tiếp đến hỗ trợ, hướng dẫn bà con cách xử lý để ổn định ao nuôi, giúp tôm phát triển tốt. Trong 3.500 ha tôm chưa thu hoạch trong tỉnh tập trung ở xã Vĩnh Tân, Lai Hòa và Hòa Đông của thị xã Vĩnh Châu. Thời tiết nắng tốt trở lại, các hộ tập trung chăm sóc ao tôm, mong là sẽ có vụ nuôi thắng lợi .

Rãi vôi xử lý nước ao nuôi tôm sau bão

Chi cục Thủy sản cũng có lưu ý đến bà con nuôi tôm, để quản lý tốt các yếu tố môi trường ao nuôi cần: dự trữ nước ao lắng để lấy nước đã được xử lý bằng phương pháp sinh học (cá rô phi, vi sinh…) để thường xuyên cấp bổ sung cho ao nuôi nhằm duy trì độ sâu và ổn định chất lượng nước cho ao nuôi; vận hành phần cống xả tràn để ổn định mức nước của ao nuôi, tăng cường sử dụng quạt nước để tránh phân tán nhiệt độ, tăng hàm lượng oxy và giảm độc tố của các khí độc như H2S, NH3… nhất là vào ban đêm; phối hợp với việc sử dụng vi sinh có chất lượng trong quá trình nuôi; kiểm soát lượng bùn đáy trong ao để hạn chế phát sinh độc tố và mầm bệnh.

Đối với việc quản lý cho ăn, cần theo dõi sự biến động môi trường nhất là pH, nhiệt độ… lưu ý khi nhiệt độ nước trong ao dưới 24ºC nên giảm thức ăn hoặc thậm chí không cho ăn khi thời điểm nhiệt độ xuống thấp, nên cho ăn bằng sàn nhằm điều chỉnh, bổ sung các khoáng chất và vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho tôm. Riêng đối với diện tích chuẩn bị cho vụ mới, người nuôi cần chuẩn bị theo quy trình kỹ thuật nuôi và chờ thông báo của lịch khung thời vụ.

Nguồn:  Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cử nhân nuôi tôm siêu lợi nhuận trên vùng đất mỏ

Với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi tôm sú và các loại cá…. mang lại thu nhập hàng tỉ đồng/năm, chàng trai Nguyễn Văn Long, sinh năm 1979, trú tại khu 6B phường Hà Phong, TP.Hạ Long (Quảng Ninh) được nhiều người biết đến là tấm gương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi.

Anh Long quăng chài vớt tôm kiểm tra dịch bệnh.

Cử nhân mê tôm

Hiện nay anh Long đang là chủ sở hữu của gần 100ha diện tích ao nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, các loại cá như cá vược, cá song…. Xuất phát điểm không phải học về thủy sản, mà là cử nhân chuyên ngành kinh tế và quản trị kinh doanh, nhưng với sự đam mê, và mong muốn nối nghiệp của gia đình nên sau khi tốt nghiệp đại học, anh Long đã về giúp bố quản lý khu ao đầm nuôi tôm của gia đình.

Nhiều đoàn công tác, người nuôi tôm đến thăm quan, học hỏi tại khu đầm của anh Long.

Long tự nhận mình là “thằng dân chài”, một người nông dân thực thụ. Anh bộc bạch: “Mình làm nghề này khác gì một người nông dân đâu, ngày ngày ngoài đầm mà”. Long cho biết, gia đình anh bắt đầu nuôi tôm từ năm 1985, ban đầu chủ yếu nuôi tôm sú với diện tích nhỏ hẹp nhưng tôm thường mắc dịch bệnh dẫn đến hiệu quả thấp. Nhận thấy nhu cầu thị trường của loại tôm thẻ chân trắng, nên gia đình anh quyết định chuyển sang nuôi loại tôm cho giá trị đặc biệt này.

Hiện gia đình anh Long phát triển mô hình nuôi theo hướng công nghiệp. Cứ 1ha diện tích nuôi trồng anh Long đầu tư hơn 10 tỉ đồng với hệ thống máy quạt khí hiện đại. Các ao nuôi khi xây dựng cũng được lót bạt ở dưới, có hệ thống ống hơi và thoát khí ngầm. “Để có được những vụ tôm có chất lượng tốt cần có kỹ thuật cao, con giống tốt, đầu tư tốt về cơ sở hạ tầng”, anh Long chia sẻ.

Cho tôm ăn bằng máy tự động.

Lắm lời, lắm rủi ro…

“Ngành thủy sản là một ngành siêu lợi nhuận, nhưng rủi ro gặp phải cũng khủng khiếp. Nếu nuôi thủy sản trong hai năm mà không gặp bất kỳ rủi ro hay sự cố gì thì lợi nhuận từ nó mang lại rất lớn”, anh Long chia sẻ.

Để tránh rủi ro chủ yếu do dịch bệnh mang lại, Nguyễn Văn Long thường hay thu mua của người dân cây Diệp Hạ Châu (dân gian gọi là cây chó đẻ) đem giã lấy nước trộn với thức ăn để phòng bệnh gan cho tôm. Đây là một “bí kíp”, một kinh nghiệm dân gian anh học được từ những người đi trước, từ các mô hình nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh lân cận. Theo anh Long, nên chia các ao nuôi với diện tích lớn nhỏ khác nhau để giảm thiệt hại khi có sự cố xảy ra.

Đến vụ thu hoạch, tôm của gia đình anh được bán cho các nhà hàng, các chợ trên địa bàn và các tỉnh lân cận, đồng thời bán cho các công ty đông lạnh để xuất khẩu. Sau khi thu hoạch sẽ tiến hành kiểm tra lại hệ thống ao nuôi và lựa chọn con giống cho vụ tiếp theo. Con giống chủ yếu được anh mua của Tập đoàn Việt – Úc và một số công ty sản xuất giống trong nước ở Nha Trang (Khánh Hòa).

Bên cạnh tạo thu nhập ổn định cho gia đình, hàng năm mô hình nuôi trồng thủy sản của anh Long còn tạo công ăn việc làm cho 20 lao động với mức thu nhập 6 triệu đồng/tháng

Với kết quả nổi bật trong quá trình phát triển sản xuất, nuôi trồng thủy sản anh đã vinh dự được nhận Bằng khen của Bộ NN&PTNT, Bằng khen của HND tỉnh… Mô hình của anh cũng được mọi người trong tỉnh cũng như các tỉnh lân cận đến tham khảo, học tập và áp dụng.

Nguồn: Danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm khi trời lạnh bất thường

Tôm là loài động vật bậc thấp, thân nhiệt thay đổi theo môi trường, nhiệt độ thích hợp cho tôm sinh trưởng 27 – 32 độ C. Do vậy, khi nhiệt độ nước hạ thấp đột ngột sẽ tác động tiêu cực tới tăng trưởng của tôm, nên trong quá trình nuôi cần lưu ý một số vấn đề.

Chuẩn bị ao

Ao cũng được cải tạo và vệ sinh như ao nuôi tôm bình thường, nhưng lưu ý thời gian phơi đáy dài hơn (do trời ít nắng), không lấy nước vào ao nuôi trong những ngày gió mùa. Nếu cần nên lấy vào ao lắng trong 4 – 6 ngày để lắng và ổn định môi trường, sau đó mới cấp vào ao. Mực nước trong ao đạt 1,4 – 1,6 m, xử lý nước sau 2 ngày cần gây màu nước ngay, dùng phân NPK, urê, đậu nành, cám gạo… kết hợp cấy vi sinh. Bổ sung thêm vôi dolomite, vôi nông nghiệp để nâng độ kiềm và ổn định màu nước. Lắp đặt quạt nước để cung cấp ôxy hòa tan cho ao nuôi, lưu ý vào thời điểm sáng sớm và đêm khuya. Nước có màu xanh nâu, vàng nâu. Đảm bảo chất lượng nước khi thả giống: ôxy hòa tan > 4 mg/l; pH 7,5 – 8; độ kiềm > 80 mg CaCO3/l.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nuôi tôm giai đoạn đầu khi nhiệt độ thấp là thiết kế ương tôm trong bể, ao nhỏ trải bạt (50 – 200 m2) trong nhà lán quây kín bằng nilon lắp đặt hệ thống sục khí 24/24, nhằm ổn định nhiệt độ và cùng các yếu tố khác như pH, độ kiềm, khí độc… trong ngưỡng cho phép và xiphông đáy hàng ngày. Thả tôm mật độ cao (200 – 400 con/m3 nước), sử dụng công nghệ Biofloc để ương tôm trong tháng đầu, sau đó chuyển ra ao để nuôi tiếp. Biện pháp này vừa giảm được hao hụt và hạn chế dịch bệnh chết sớm trên tôm (EMS). Nếu trường hợp xấu nhất xảy ra (tôm bị bệnh) thì sẽ loại bỏ và vệ sinh nhanh chóng ao, bể để ương lứa mới, tiết kiệm được nhân lực, thời gian và chi phí.

Thả giống và quản lý

Những hộ nuôi không có điều kiện đầu tư nhà bạt ương tôm, khi nhiệt độ nước dưới 200C thì không thả giống với bất kỳ lý do gì, bởi khi thả giống, nhiệt độ nước thấp, tôm ngừng ăn, tỷ lệ hao hụt sẽ rất lớn. Do vậy, chỉ thả giống khi nhiệt độ trên 230C và thả giống TTCT là phù hợp nhất bởi vì ngưỡng chịu đựng nhiệt độ của TTCT lớn hơn tôm sú.

Thả tôm giống vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối, trời mát – Ảnh: Phan Thanh Cường
Trước khi thả giống 30 phút nên chạy máy quạt khí để tăng cường ôxy hòa tan và nhiệt độ được đảo đều giữa các tầng nước ao, tránh tôm bị sốc. Cần chọn thời điểm thả có nhiệt độ nước ấm nhất trong ngày(12 – 14 giờ). Ngâm bao tôm trong nước 15 phút khi thả. Sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp cho tôm ăn, cần trộn thêm dầu mực, vitamine và khoáng để tăng sức đề kháng của tôm. Ở thời điểm nhiệt độ cao trong ngày (11 – 15 giờ) nên cho ăn tăng và giảm lượng thức ăn vào ban đêm. Ao, bể ương tôm trong nhà bạt khi chuyển tôm ra ao nuôi cần chọn ngày nắng ấm, tránh gió mùa.
TTCT sẽ chết nếu nhiệt độ nước dưới 150C trong 24 giờ hoặc lâu hơn. Tôm ngừng sinh trưởng và ngạt nếu nhiệt độ 15 – 200C. TTCT phân bố và hoạt động ở tất cả các tầng nước nên tác động của sự phân tầng nước sẽ ảnh hưởng lớn đến tôm. Vì vậy, việc duy trì quạt khí để đảo đều nước trên mặt và đáy là cần thiết. Cần đo nhiệt độ trên mặt ao và tầng nước đáy vào sáng sớm và chiều tối.

Khi nhiệt độ thấp cùng với trời ít nắng sẽ giảm sự phát triển của tảo, ao khó gây màu nước. Khi trời nắng, tảo đáy sẽ phát triển cản trở hoạt động của tôm, cạnh tranh ôxy với tôm, hấp thụ các chất dinh dưỡng trong nước làm ao khó gây màu, gây biến động môi trường nước như pH, ôxy… Để ngăn chặn sự phát triển của rong đáy, khi cải tạo ao cần tuân thủ kỹ thuật, luôn giữ mực nước cao, gây màu đảm bảo độ trong 35 – 40 cm, đồng thời, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nền đáy và nước ao.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Rau sam và dâu tằm: thảo mộc kích thích sự lột xác của tôm

Rau sam và dâu tằm có tác dụng kích thích tôm lột xác bằng hoạt chất Phytoecdysteroid tự nhiên. Qua đó mở ra một hướng đi mới nhằm nâng cao năng suất cho nuôi tôm nhờ kích thích quá trình lột xác.

Vấn đề nan giải của nghề nuôi tôm gặp phải là sự chậm lại của quá trình lột xác của tôm.

Hormon Ecdysteroid đã được báo cáo là có tác dụng để kích thích việc lột xác của tôm sú. Nghiên cứu này nhằm mục đích sử dụng chiết xuất một hormone Ecdysteroid từ các loài thảo mộc như vạn tuế (Cycas revoluta), rau sam (Portulaca oleracea) và dâu tằm (Morus sp.).

Sau đó đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với thời kỳ lột xác, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm sú (Peunaeus monodon).

Việc chiết xuất Ecdysteroid từ lá của ba loài thảo mộc trên được thực hiện bằng phương pháp giã nhuyễn. Sau đó chiết xuất Ecdysteroid bằng thiết bị sử dụng sắc ký (TLC).

Dâu tằm (Morus sp.)

Thí nghiệm

Đánh giá hiệu quả của hormone tạo Phytoecdysteroid trong thời kỳ lột xác, tăng trưởng và tỉ lệ sống của tôm được thực hiện bằng cách tiêm 100 μL phytoecdyasterod (27,5 μg/tôm) ở đốt bụng thứ nhất. So sánh với ecdysteroid thương mại (kiểm soát dương tính) và dung dịch muối vô trùng (kiểm soát âm tính) cũng được tiêm ở liều 8,6 μg/tôm và 0 μg/tôm tương ứng.

Rau sam (Portulaca oleracea)

Kết quả

Kết quả cho thấy tỷ lệ lột xác cao nhất của Phytoecdysteroid thu được ở cây rau sam (Portulaca oleracea), tiếp theo là dâu tằm (Morus sp.) và vân tuế (Cycas revoluta) với hàm lượng ecdysteroid lần lượt là 0,43%, 0,22% và 0,09%.

Triacodoids được phân lập từ 3 cây này có thể rút ngắn thời gian lột vỏ tôm thành 4, 4, 2, và 5 ngày trước đó đối với thảo mộc Portulaca oleracea, Morus sp., Cycas revoluta và kiểm soát dương tính, so với kiểm soát âm tính.

Tỷ lệ sống và tăng trưởng cao nhất đạt được khi điều trị bằng rau sam (Portulaca oleracea), tiếp theo là dâu tằm (Morus sp.) và vạn tuế (Cycas revoluta) với tỷ lệ sống là 86%, 75% và 25%, tăng chiều dài là 4,42%, 2,26% và 2,16%, tăng trọng lần lượt là 15,90%, 10,55% và 8,73%.

Kết luận

Các kết quả phân tích trên của các nhà khoa học cho thấy hai loài thảo mộc rau sam và dâu tằm có tác dụng kích thích tôm lột xác bằng hoạt chất Phytoecdysteroid tự nhiên. Việc kích thích lột vỏ bằng thảo mộc cũng chứng minh rằng nó góp phần rút ngắn thời gian lột vỏ, tăng tỉ lệ sống và tăng trọng cho tôm.

Nguồn: Indonesian Aquaculture journal được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đánh giá sức khỏe tôm tại ao

Việc làm này giúp người nuôi phát hiện sớm nguy cơ dịch bệnh từ đó có biện pháp điều trị kịp thời.

Quan sát dấu hiệu bất thường

Thông thường, người nuôi nên kiểm tra toàn bộ hoạt động của tôm trong ao 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều, quan sát một số dấu hiệu như: tôm thiếu ôxy, thức ăn dư thừa, màu sắc nước ao. Các dấu hiệu quan sát được là thông tin quan trọng đánh giá về hiện trạng sức khỏe tôm cũng như môi trường ao nuôi.

Tôm chết: trong mọi trường hợp, tôm chết cho thấy tình trạng ao nuôi đang xấu, sức khỏe tôm rất yếu.

Tôm bơi trên mặt nước: tôm có thể bị sốc do hàm lượng ôxy hòa tan thấp hoặc nhiệt độ cao hay bệnh.

Tôm hoạt động gần bờ: có thể do thiếu thức ăn.

Màu nước: thay đổi đột ngột hoặc đậm màu.

Mùi: Mùi phổ biến thường gặp là mùi tanh và mùi tảo. Mùi tanh là mùi đặc trưng của nhớt do tôm lột xác đồng loạt hoặc mùi thức ăn khi cho tôm ăn lượng lớn. Tảo nở hoa sẽ gây ra mùi, tảo lục thường là mùi bùn, tảo lam là mùi của thuốc kháng sinh. Ngoài ra, chất hữu cơ phân hủy trong tình trạng yếm khí cũng sinh ra mùi hôi thối.

Có cá bống bơi hỗn loạn hoặc tập trung gần bờ: Dấu hiệu cho thấy ôxy hòa tan thấp, có kèm khí độc cao, thường thấy ở những ao nhiều ngày tuổi. Đối với những ao này nên thu càng sớm càng tốt, để lâu theo phản ứng bình thường tôm sẽ lột xác nhưng không cứng vỏ và chết.

Ở một vài ao khi xuất hiện cua còng bò lên bờ, phản ứng chậm chứng tỏ nước ao nuôi bị ô nhiễm, khí độc cao và lượng ôxy hòa tan thấp… chỉ một tuần sau tôm sẽ rớt đáy. Một dấu hiệu nhận biết khác là ốc bò ra khỏi mặt nước thì lúc đó ao nhiều khí độc, đáy ao yếm khí…

Bọt khí nổi: Do hàm lượng hữu cơ trong nước ao cao.

Quan sát tôm ở sàng ăn

Hàng ngày kiểm tra tôm trong sàng ăn. Tôm khỏe là tôm có màu sắc bóng đẹp, phụ bộ đầy đủ không bị tổn thương, tôm búng mạnh, bơi nhanh, đường ruột đầy thức ăn và liên tục, tuyến gan tụy có màu nâu sáng, kích thước bình thường. Phân tôm mạnh khỏe sẽ có màu của thức ăn. Phân tôm có màu khác hoặc nhớt là dấu hiệu bất ổn. Khi thấy phân tôm của một vài con có màu đỏ, thường là trong ao đã có tôm chết.

Chài tôm kiểm tra sức khỏe

Tôm bị bệnh có biểu hiện: mềm vỏ, trống ruột. Ngã nghiêng (nằm nghiêng) nhanh chóng sau khi chài lên. Đục cơ trước 10 phút (khi chài lên) và thường xuyên xuất hiện đục cơ tại ao.

Sau khi chài tôm lên, cho vào một thau chứa lượng nước vừa đủ để tiện quan sát. Khi đã ổn định, tiến hành quan sát toàn thể mẫu tôm. Ba chỉ tiêu quan trọng nhất cần quan sát lúc này là độ đồng đều, tình trạng ruột và màu sắc gan tụy. Đây là những chỉ tiêu dễ quan sát và phản ánh trực tiếp hiện trạng sức khỏe tôm nuôi.

Kích cỡ tôm

Đánh giá độ đồng đều, mức độ phát triển của đàn tôm theo ngày tuổi từ đó đưa ra nhận định ban đầu về tình trạng sức khỏe của tôm. Nếu tôm quá nhỏ so với bình thường có thể đưa ra các giả định tôm bị nhiễm các bệnh gây chậm lớn. Nếu tôm lệch cỡ nhiều, có thể đưa ra giả thuyết tôm thiếu dinh dưỡng (thiếu khoáng hoặc thiếu thức ăn) hoặc nhiễm các bệnh gây lệch cỡ.

Kiểm tra gan: Tôm bình thường gan có màu nâu vàng hoặc vàng cam. Khi bóp gan ra, có dịch màu nâu vàng sệt, không chảy. Có mùi tanh đặc trưng.

Kiểm tra ruột

Quan sát và đánh giá khi tôm còn sống

Điểm trung bình < 1,6: tôm bị thiếu ăn hoặc bệnh

Nếu đã cho ăn > 80% tổng lượng thức ăn khuyến cáo và ít nhất 3 lần/ngày mà ruột < 1,6 là tôm bệnh.

Một số thay đổi bên ngoài

Vỏ: Tôm khỏe có vỏ bóng, khá dày chắc trong khi tôm bệnh vỏ thường lồi lõm. Vỏ tôm mỏng hoặc do lột xác không cứng vỏ thường cho thấy môi trường nước xấu và tôm sốc rất nặng. Nếu trong chài có số lượng tôm mỏng vỏ nhiều hơn 5% thì cần có biện pháp để khắc phục.

Hình dạng bất thường: tình trạng dị hình (do một số bệnh thường gặp như ASDD hoặc IHHNV), gãy gai chủy, đứt râu, mòn cụt chân bơi, chân bò (do đáy ao bị ô nhiễm); vỏ có các chấm đốm đen, đốm nâu, đốm trắng (nhiễm khuẩn hoặc hội chứng Taura)

Cong thân: có thể bị tác động bởi các yếu tố như sốc do nhiệt độ cao, nhiễm khuẩn Vibrio, mất cân bằng khoáng chất, độc tố trong môi trường ao nuôi. Tỷ lệ tôm bị cong thân có thể chấp nhận được trong ao tôm là < 5%

Đốm đen: Những đốm đen trên vỏ có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, như nhóm vi khuẩn Vibrio, Taura syndrome virus (TSV), những tổn thương vật lý (Lightner, 1996). Những đốm đen do vi khuẩn Vibrio gây ra với nguyên nhân khởi phát là chất lượng nước xấu, thường không gây chết tôm nếu như nó không làm tổn thương vỏ quá sâu vào bên trong phần cơ thịt tôm. Trong ao tôm, tỷ lệ vỏ tôm có đốm đen có thể chấp nhận được ở mức 5 – 10% trong chu kỳ nuôi, nhưng cần nhỏ hơn 2% vào giai đoạn thu hoạch tôm.

Mang: bình thường mang có màu trong suốt. Mang đổi màu sang vàng, nâu hay đen thường do đáy ao bị ô nhiễm, chất hữu cơ trong nước nhiều. Ngoài ra, các vùng trắng như tuyết trên mang có thể là mang bị hoại tử do bão hòa khí trong nước.

Phụ bộ: sưng phồng hay gãy phụ bộ thường do nhiễm khuẩn từ những vùng đáy ao bị ô nhiễm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.