Trồng Đậu Tương hè thu lấy giống

Theo Cục Trồng trọt, dự kiến diện tích gieo trồng đậu tương vụ đông năm nay của các tỉnh khu vực phía Bắc sẽ tăng cao, khả năng thiếu giống, đặc biệt là các giống chất lượng cao.

Khuyến cáo của các nhà chuyên môn là, các địa phương cần khẩn trương thu hoạch đậu tương xuân và tranh thủ các chân đất tốt, điều kiện tưới tiêu thuận lợi để tiếp tục gieo trồng thêm vụ đậu tương hè thu nhằm cung cấp đủ giống cho vụ sản xuất đậu tương đông sắp tới.

Đậu tương (đậu nành)

Xin giới thiệu “Quy trình tóm tắt sản xuất đậu tương giống vụ hè thu” của Viện Di truyền Nông nghiệp để bà con và các địa phương tham khảo, áp dụng.

– Giống: Bà con có thể sử dụng các giống DT 84, DT 96, DT 2001 nguyên chủng do cơ quan tác giả – Viện Di truyền Nông nghiệp hoặc của các công ty, cơ quan có thẩm quyền sản xuất giống nguyên chủng cung cấp để gieo trồng trong vụ hè thu nhằm lấy giống cho sản xuất vụ đông sắp tới.

Đây là các giống đậu tương có tiềm năng năng suất cao, có tính thích ứng rộng, có thể trồng được cả 3 vụ xuân, hè, đông (vụ hè giảm 1/2 lượng đạm, chỉ nên tập trung cho bón lót, nếu đất tốt không cần bón đạm, tiết kiệm chi phí). Ngoài ra, có thể sử dụng các giống đậu tương khác như: DT 76, DT 80, DT 83, DT 92, DT 93, DT 94, DT 99, TL 75, HL 92, HL 2, AK 06, DT 2000…

– Tiêu chuẩn hạt giống: Hạt giống phải lấy ở cây khỏe mạnh, thuần chủng, đúng giống, nhiều quả có 2-3 hạt, khi chín ít bị tách vỏ. Chọn hạt mẩy, không sâu bệnh, độ nẩy mầm phải đạt >90%. Trước khi gieo bà con nên phơi lại bằng các dụng cụ đựng như nong, nia, cót; tránh phơi trên sân gạch hoặc sàn xi măng dưới nắng gắt sẽ làm hạt chảy dầu, giảm sức nẩy mầm.

– Thời vụ: Gieo từ 15-6 đến 15-7.

– Chọn và làm đất, gieo hạt: Chọn các chân đất tốt, chủ động tưới tiêu, cát pha, ít chua. Với vụ hè, hè thu, gặt và giải phóng lúa xuân trước 26-5 đến 6/6 dương lịch; ngô xuân phải giải phóng trước 1/7. Có thể làm đất toàn diện (cày bừa với đất khô) hoặc làm đất tối thiểu (với đất ướt) nhưng phải cày thành luống để thoát nước nhanh, tránh bị ngập úng.

Gieo thưa với mật độ 20-25 cây/m2 để tránh đổ trong vụ hè. Số hạt thừa nên gieo thêm 0,5-1m2 mạ ở đầu bờ để dặm sau 7 ngày, khi cây con chưa có lá nhặm. Gieo xong phủ một lớp rơm rạ, bẹ ngô vừa để giữ ẩm, vừa chống mưa to xói trôi hạt giống. Sau khi gieo nếu gặp mưa to, ngày hôm sau dùng bàn cào cào nhẹ để phá váng giúp cho hạt không bị chầm dưới đất ẩm.

– Bón phân, chăm sóc: Lượng phân bón cần cho 1 sào (360m2): 300 kg phân chuồng hoai mục + 4 kg đạm +15 kg phân lân + 5 kg phân kali + 10 kg vôi bột (nếu đất chua). Với đất khô, bón lót toàn bộ phân chuồng + lân hoặc NPK vào rạch, lấp nhẹ, gieo hạt bên cạnh, cách phân 5cm, lấp hạt sâu 1-2cm.

Trường hợp đất ướt, bón toàn bộ phân chuồng được trộn thêm trấu và đất bột theo tỷ lệ 1:1 để lấp hạt. Xới xáo làm cỏ lúc cây mới có 3 lá thật, xới xáo kết hợp bón thúc toàn bộ lượng đạm và phân kali còn lại hoặc NPK và vun cao gốc lúc cây có 5-6 lá thật. Nếu cây phát triển kém do bị úng, hạn cần pha nước phân chuồng ngâm với lân và đạm urê pha loãng tưới 2-3 lần.

– Thu hoạch, để giống: – Khử lẫn để loại bỏ cây khác dạng vào 3 giai đoạn lúc cây 8 ngày tuổi, khi ra hoa rộ và trước khi thu hoạch.

– Thu hoạch lúc 1/2 số quả có vỏ đã chuyển sang khô. Thu hoạch vào những ngày nắng ráo. Có thể xử lý cho rụng lá trước khi thu hoạch 1 tuần bằng các biện pháp như: ngâm nước, phun ethrel hoặc nước muối, phân kali…

Cắt gốc, rải trên sân phơi 1 nắng, đưa vào nơi khô ráo, xếp dựng cây đứng không được đắp đống cao trên 0,5m, ngày thứ 3 đem phơi tiếp 1 nắng rồi đập lấy hạt đợt 1 để làm giống. Số còn lại ủ tiếp 2 ngày, đập lấy hạt, phơi khô còn độ thủy phần 10-13% đem vào cất giữ, bảo quản làm đậu thương phẩm.

Nguồn: nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Chăm sóc Đậu Tương đông

Đến thời điểm này cây đậu tương đông đã được trên dưới 1 tháng (tuỳ theo địa phương, tuỳ theo giống…), hiện đang bước vào giai đoạn chuẩn bị ra hoa, do đó chúng tôi chỉ đề cập đến một số điểm chính trong kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch để bà con tham khảo, áp dụng.

Cây đậu tương non

Với các tỉnh phía Bắc đậu tương có thể trồng được 2 vụ chính cho hiệu quả cao: Xuân hè và vụ đông do đó bà con có thể tham khảo thêm các tài liệu về giống, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh v.v… được đăng tải thường xuyên trên báo Nông nghiệp Việt Nam và các báo địa phương trước khi vào vụ hoặc thông qua các Phòng Nông nghiệp, Trạm Khuyến nông huyện, Sở Nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông và Chi cục BVTV các tỉnh để được cung cấp tài liệu và tư vấn thêm về kỹ thuật. Do khuôn khổ bài báo có hạn, chúng tôi giới thiệu một số kinh nghiệm của bà con Hà Tây trong những năm gần đây thông qua tài liệu của TT Khuyến nông Hà Tây và Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam:

Chăm sóc

Do gieo vãi nên cây mọc không đều, bà con nhổ bớt những chỗ mọc dày để trồng dặm lại những chỗ thưa nhằm đảm bảo mật độ (45-55 cây/m2 với các giống trung ngày, 55-65 cây/m2 với các giống ngắn ngày) sẽ cho năng suất cao nhất. Công việc cấy dặm lại phải xong trước 15 ngày sau gieo. Dặm xong cắt rạ phủ kín gốc và tưới nước đủ ẩm. Thường xuyên dẫn nước tưới đủ ẩm cho đậu sinh trưởng, phát triển tốt, nhất là thời kỳ ra hoa, nuôi quả lớn. Chú ý khơi thông mương rãnh để thoát nhanh nước sau mưa to, không để ruộng bị úng ngập.

Lượng phân bón tính cho 1 sào Bắc bộ gồm: 200kg phân chuồng hoai mục, 3kg urê, 10kg phân lân, 3kg phân kali. Phân chuồng ngâm vào hố ở góc ruộng để pha tưới dần cùng với phân hoá học. Bón thúc lần 1 khi đậu có 1 lá thật (là lá đầu tiên bên trên 2 lá mầm) bằng cách pha 5kg lân + 1,5kg đạm + nước phân chuồng hoà đều để tưới vào gốc. Thúc lần 2 khi đậu có 3-4 lá: Pha 5kg lân + 1,5kg đạm + 1,5kg kali + nước phân chuồng hoà đều để tưới. Thúc lần 3 khi đậu có 5-6 lá: Pha 1,5kg kali còn lại + nước phân chuồng hoà đều để tưới. Chú ý các đợt bón thúc phải kết thúc xong 23 ngày sau khi mọc, không bón quá muộn làm ảnh hưởng đến việc ra hoa, đậu quả và chất lượng hạt sau này.

Phòng trừ sâu bệnh

Vụ đông ít sâu bệnh hơn vụ xuân hè, tuy nhiên cần chú ý phát hiện và phòng trừ kịp thời một số đối tượng sau: Sau khi gieo 9 ngày (5 ngày sau mọc) pha Dipterex 2/1.000 cộng với 1/1.000 Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex + 1g Padan) phun kỹ để chống dòi đục thân. Sau 3-5 ngày phun kép lần 2 (cây có 7-8 lá thật) để trừ sâu ăn lá, có thể kết hợp phun thêm các chế phẩm phân bón qua lá để tăng năng suất hạt.. Khi đã tắt hoa phun trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox, Regent… nồng độ 2/1.000. Dùng thuốc Zineb, Tilsupper để phòng trị bệnh rỉ sắt, sương mai, đốm nâu hại lá. Dùng Validamicin để trị bệnh lở cổ rễ khi cây còn nhỏ. Ngoài ra chú ý diệt trừ sâu khoang hại lá, hại hoa bằng cách bắt bằng tay hoặc đặt các bẫy Pheromone, bẫy chua ngọt có pha thuốc trừ sâu và chuột đồng hại quả vào cuối vụ.

Thu hoạch

Khi thấy lá đậu đã vàng, một số rụng xuống gốc, quả khô là thu hoạch được. Nếu đậu đã già mà lá xanh còn nhiều thì có thể phun nước muối, phun ethrel hoặc xả nước vào ngâm chân 2-3 hôm rồi rút cạn nước cho lá rụng hết dễ thu hoạch.

Đậu tương sắp được thu hoạch

Chọn ngày nắng ráo cắt sát gốc, phơi tại ruộng cho khô bớt rồi vận chuyển về phơi trong nong, nia, vải bạt đập lấy hạt. Cũng có thể dùng máy tuốt lúa để tuốt lấy hạt, phơi khô (độ thuỷ phần khoảng 13%), quạt sạch đem bảo quản nơi khô mát hoặc đem tiêu thụ.

Nguồn: Khoahoc.tv được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh hại sâu và thuốc trừ sâu vi sinh áp dụng cho ruộng trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Bệnh hại sâu là một thành phần chính trong thiên địch tự nhiên. Thiên địch tự nhiên gồm loài ăn thịt và loài ký sinh. Loài thiên địch đóng vai trò rất quan trọng, nó luôn giữ sâu hại ở dưới ngưỡng tổn thất kinh tế. Bệnh hại sâu đặc biệt rất hiệu quả trong phòng trừ sâu bộ cánh vảy (Lepidoptera).

Nấm ký sinh rất phổ biến trên diện tích trồng đậu tương, trong đó Nomuraea rileyi (Farlow) là loại phổ biến nhất. Nấm này thường ký sinh gây dịch hại đối với sâu non của sâu xanh, sâu đo, sâu xanh hại ngô và sâu róm. Sâu bị chết lúc đầu có màu trắng sau đó chuyển sang xanh với nhiều bào tử. Nấm Entomophthora gammae Weiser ký sinh trên sâu non của sâu đo. Sâu bị chết có hai dạng, một dạng mất màu, nhăn nheo, một dạng màu đen và cứng.

Phòng bệnh hại cây đậu tương là một trong những yếu tố quan trọng để bảo vệ, chăm sóc đậu tương phát triển tốt

Vi khuẩn Bacillus thuringiensis:

Berliner là một loại thuốc trừ sâu vi sinh (microbial insectiside) có ích, dùng để phòng trừ sâu xanh, sâu đo và sâu róm. Tuy nhiên sau khi phun thuốc từ hai hoặc nhiều ngày sau mới chết, cho nên nông dân ít dùng. Một vài loại virus như virus đa diện (Nucleo polyhedrosis NPVS) có hiệu quả trong phòng trừ các loại sâu bọ cánh vảy: sâu đo, sâu róm, sâu đục quả.

Thiên địch ăn thịt và ký sinh:

Thiên địch tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc giữ mật độ sâu ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Không có chúng ta phải dùng thuốc nhiều lần để kiềm chế sâu ở dưới ngưỡng gây tổn thất kinh tế. Những năm gần đây, nhiều nước đã quan tâm đến sử dụng thiên địch tự nhiên, hạn chế sử dụng thuốc hoá học. Ở nước ta ngay từ những năm 1980 đã nghiên cứu và sử dụng ong mắt đỏ trong phòng trừ sâu hại và gần đây là các loại thuốc trừ sâu vi sinh.

Loài ăn thịt ở đậu tương là loài đa thực, nó ăn nhiều loại sâu khác nhau. Nó thường ăn trứng và sâu non trước khi chúng gây hại. Reed và cộng sự (1984) thấy rằng 25% trứng sâu xanh ngô bị loài ăn thịt ăn sau khi đẻ trên lá đậu tương ở ngoài đồng một ngày (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Loài ăn thịt chủ yếu là con trưởng thành của Notoxus monodon (F) và Lebia analis (Dejean) và sâu chưa trưởng thành của một số loài thuộc bộ cánh cứng.

Biện pháp canh tác cây đậu tương (đậu nành):

Nhiều biện pháp canh tác như thời gian gieo trồng, sinh trưởng của cây, khoảng cách mật độ cây…có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng trừ sâu hại. Ở Mỹ gieo trồng sớm các giống thuộc nhóm V, có thể tránh được sâu xanh ngô hại đậu tương ở vùng Bắc Carolina. Ngược lại ở Nam Carolina, gieo trồng giống thuộc nhóm V hoặc Vi thường bị sâu xanh ngô hại nặng. Trong khi đó, những giống gieo muộn thì ít khi đùng thuốc. Khoảng cách trồng có tác dụng điều khiển sâu xanh ngô bởi vì sâu trưởng thành thích đẻ trứng ở trong ruộng đậu tương tán thoáng. Như vậy, trồng dày sẽ hạn chế sâu xanh ngô. Mật độ sâu xanh tăng nếu trồng xen ngô với đậu tương, bởi vì thế hệ đầu sâu ăn ngô, sau đó chuyển sang đậu. Sâu đo đậu tương thường không gây hại nghiêm trọng đối với đậu tương ở vùng không có bông, nếu có bông bướm sâu đo do hút mật ở hoa bông và đẻ trứng tới mức tối đa. Sâu nở ra sẽ sang hại đậu tương trồng bên cạnh. Giảm cày bừa tăng vụ có thể ảnh hưởng tới bọ cánh cứng Mêhicô, châu chấu chân đỏ và các loại sâu khác. Dùng bẫy bằng giống dễ mẫm cảm có tác dụng thu hút sâu bệnh và hạn chế ảnh hưởng với giống chính.

Dùng giống đậu tương (đậu nành) kháng sâu bệnh:

Dùng giống kháng sâu bệnh là biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất trong quản lý sâu hại đậu tương. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định mức đề kháng nhiều loại sâu hại đậu tương. Lông đậu tương có tác dụng chống bọ nhảy (Empoasca fabae). Lông gây khó khăn cho đẻ trứng và ăn hại của sâu. Lông cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của loài chân đốt trên đậu tương.

Chương trình chọn giống chống sâu gần đây được đẩy mạnh hơn, các nguồn gen chống sâu xanh ngô, cánh cứng, sâu đo đậu tương, sâu đo bắp cải hại đậu (Trichoplusiani Hubner), rệp và ruồi trắng khoai lang (Bemisia tabaci) đã được xác định để phục vụ cho chương trình chọn tạo giống.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) trên cây Đậu Tương (đậu nành)

Quản lý sâu hại tổng hợp là kết hợp các phương pháp hoặc chiến thuật vào chiến lược phòng trừ thích hợp cho từng vùng. Hiện nay, chương trình phòng trừ sâu bệnh ở đậu tương chủ yếu là vào diệt trừ tạm thời việc bùng nổ của sâu hại mà nó đã đạt được hoặc vượt ngưỡng gây hại kinh tế. Điều này có thể thực hiện hoặc sử dụng thuốc trừ sâu.

Đậu tương (đậu nành)

Phương pháp này yêu cầu xác định mật độ sâu trên đồng ruộng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây và đồng thời đánh giá mức hại do sâu đã gây ra. Thông tin này có được qua các phương pháp theo dõi. Dựa trên kết quả theo dõi, người quản lý dùng ngưỡng và sơ đồ quy định để xác định việc phun thuốc hay không. Thuốc trừ sâu phải dùng ở mức độ thấp nhất và chỉ khi mật độ sâu đến mức gây thiệt hại kinh tế. Để có biện pháp phòng trừ sâu thích hợp, thì phương pháp theo dõi, phương pháp dự đoán và kế hoạch rất cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra quyết định trong việc phòng trừ sâu hại.

Theo dõi cây ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau. Để xác định được lịch theo dõi hợp lý, ta cần hiểu đặc điểm phát sinh và gây hại của chúng. Thí dụ nếu sâu hại chính trong vùng là rệp thì chú ý theo dõi từ giai đoạn hình thành quả, vì rệp ít khi xâm nhập vào đồng ruộng trước giai đoạn hình thành quả. Theo dõi để cung cấp một số thông tin sau:

– Mật độ của sâu hại và trạng thái của tác nhân tự nhiên phòng trừ chúng (ký sinh, loài ăn thịt, bệnh, khí hậu, thời tiết).

– Số liệu về trạng thái cây trồng và mức độ gây hại hiện tại.  Cần phải đánh giá quần thể sâu hại:

Có nhiều phương pháp để đánh giá mật độ sâu, nhưng không một phương pháp nào cho hiệu quả như nhau đối với tất cả các loại sâu ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng cây. Có nhiều tài liệu nói về các phương pháp lấy mẫu đối với sâu hại đậu tương, nhưng phương pháp thực tế nhất áp dụng trong chương trình IPM là theo dõi trực tiếp, để xác định trực tiếp và mức độ gây hại từ khi cây mọc tới giai đoạn bốn lá (V4) hoặc năm lá (V5) sau đó dùng phương pháp lưới vét để đánh giá chính xác mật độ.

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

 

Điều tra và theo dõi đồng ruộng đậu tương ở những giai đoạn sinh trưởng khác nhau

Trong kế hoạch cần có thông tin về thiên địch tự nhiên và đặc biệt khả năng bị bệnh. Công việc này có thể khó khăn bởi vì nó cần xác định thiên địch tự nhiên hoặc ở ngoài đồng ruộng, hoặc ở trong phòng thí nghiệm.  Để có kế hoạch phòng trừ cần có những số liệu về cây trồng. Mức hại trên đồng ruộng là chỉ tiêu cuối cùng khó theo dõi nhất. Chẳng hạn khó đánh giá mức độ lá rụng. Phương pháp mang tính thực tiễn nhất là đánh giá bằng mắt. Tuy nhiên, phương pháp này biến động nhiều giữa những người đánh giá. Những người đánh giá phải được huấn luyện kỹ. Để làm được việc này, cây hoặc từng lá chết, với mức độ rụng lá được đo trước một cách cẩn thận và dùng để so sánh bằng mắt với mẫu lấy ngẫu nhiên ngoài đồng ruộng.

Dự báo tình hình sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Theo dõi là biện pháp quan trọng quản lý sâu ở đậu tương. Tuy nhiên cuối cùng việc chấp thuận chương trình quản lý của người nông dân tuỳ thuộc vào hiệu quả của các biện pháp theo dõi, đánh giá và sự đơn giản của phương pháp. Ở hầu hết các diện tích trồng đậu tương, sâu hại xuất hiện rải rác cả về thời gian, không gian và có nhiều năm không cần dùng thuốc sâu. Nhìn chung, cải tiến khả năng dự báo cung cấp cho người trồng ngay từ đầu vụ những thông tin về khả năng sâu hại, sẽ thúc đẩy người nông dân chấp nhận các phương pháp theo dõi và quản lý sâu bệnh. Dự báo dựa trên mô hình nhưng bắt đầu xây dựng mô hình cần thu thập số liệu về mật độ diễn biến sâu hại theo vùng.

Xác định biện pháp phòng trừ sâu hại trên ruộng trồng đậu tương (đậu nành):

Sau khi theo dõi, người ta có thể đưa ra một số tiêu chuẩn để xác định chiến lược phù hợp cho phòng trừ sâu hại ở điều kiện nào đó. Hầu hết các chương trình quản lý sâu bệnh này sử dụng mức độ tổn hại kinh tế và áp dụng liều lượng và thuốc trừ sâu tối thiểu có ích, qua cái gọi là mô hình quyết định tĩnh, nó thường gồm sơ đồ sử dụng dễ dàng cho nông dân.

Tuy nhiên, nếu nông nghiệp hiện đại ngày nay yêu cầu xác định một cách chính xác các thông số cần thiết cho việc đưa ra một quyết định kinh tế đúng. Điều này có thể được qua sử dụng một mô hình cơ động gồm quần thể sâu bệnh và giai đoạn sinh trưởng cây.

Mô hình bao gồm tác dụng tổng hợp của thuốc sâu, bệnh và thiên địch tự nhiên. Thông tin càng nhiều, mô hình càng trở nên hiện thực, và sẽ giúp cho việc xây dựng một kế hoạch thực hiện tốt hơn. Phòng trừ sâu hại đậu tương hiện nay chủ yếu là ngăn chặn tạm thời sự bùng nổ của sâu bệnh khi chúng đạt tới mức hoặc vượt ngưỡng kinh tế. Để có kết quả, việc phòng trừ cần kết hợp tất cả các thông tin về mật độ sâu.

Thuốc hoá học phòng trị sâu hại đậu tương (đậu nành):

Thuốc hoá học chỉ là phương tiện tạm thời ngăn chặn sự bùng nổ của sâu lá, việc dùng thuốc đúng liều lượng, theo đúng hướng dẫn của chuyên môn thì nó không có hại tới người dùng và môi trường. Hiện nay, thuốc sâu là xương sống của hệ thống phòng trừ tổng hợp và nó vẫn tiếp tục như vậy cho tới khi một phương pháp phòng trừ mới ra đời.

Mặc dù, hầu hết thuốc hoá học được sử dụng hợp lý và an toàn. Song cũng có một vài trường hợp lạm dụng thuốc quá nhiều, ở liều lượng cao gây ảnh hưởng đến môi trường và con người, đôi khi còn tăng thêm mật độ sâu do quen thuốc. Những kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở nồng độ thuốc thấp cũng đủ để phòng trừ sâu hại và cho phép các thiên địch tự nhiên có lợi sinh sống bình thường.

Nghiên cứu thuốc trừ sâu đậu tương phải khuyến khích nghiên cứu về loại mới và phương pháp sử dụng trong hệ thống phòng trừ tổng hợp để bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên địch tự nhiên. Hiện nay có rất nhiều loại thuốc trừ sâu hại đậu tương như: Dipterex, Ofatox, Sutin 5EC, Tanggo 800WG, Azodin, Basudin, Dimecron, Match 050EC, để phun phòng trừ (Bộ NN & PTNT, 2002; Trần Văn Hùng, 1992).

Thông thường sau khi cây mọc được 5 ngày, nên dùng Dipterex 2‰ cộng với l‰ Padan 95SP (bình bơm 10 lít pha 2g Dipterex +lg Padan) phun kỹ để chống đối đục thân. Khi cây có 7 – 8 lá thật để trừ sâu hại lá phun kép lần 2 thuốc Dipterex 2‰ cộng với 1‰ Padan 95SP. Lần phun này có thể phun thêm các chế phẩm phân bón và chất kích thích qua lá để tăng năng suất hạt. Khi cây tắt hoa phun thuốc trừ sâu đục quả bằng thuốc Ofatox hoặc Regent với nồng độ 2‰.

Nguồn: camnangcaytrong.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Xác định thời vụ gieo trồng Đậu Tương (Đậu Nành)

Đậu tương (đậu nành) là một trong những cây trồng lý tưởng trong việc luân canh, xen canh và gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhằm khai thác một cách hiệu quả tiềm năng của đất đai, lao động vật tư, công cụ lao động… lại vừa góp phần cải tạo và bồi dưỡng đất, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích. Nhiều bà con dân tộc vùng núi từ lâu đã có tập quán trồng nhiều cây đậu nành (đậu tương) xen canh với cây sắn, nhãn, vải và các cây khác như cây ngô vừa giải quyết được lương thực vừa có đậu nành (đậu tương) cung cấp dinh dưỡng lại có tác dụng bảo vệ và cải tạo đất rất tốt, chống xói mòn, rửa trôi.

Đậu tương (đậu nành)

Những vùng có tập quán canh tác hai vụ lúa, một vụ đậu nành (đậu tương) đông thì vụ lúa mùa sớm cần thu hoạch trước 15 – 20/9 để bà con kịp thời vụ đậu nành (đậu tương) đông. Ngược lại những vùng có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa hai vụ lúa cần thu hoạch lúa xuân sớm để có thể gieo trồng đậu nành (đậu tương) vào cuối tháng 5 đầu tháng 6.

Các thời vụ trồng đậu tương (đậu nành):

1. Vụ xuân

* Vùng đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc

Gieo trồng từ 15/1 đến 15/3 không nên gieo muộn để tránh khi đậu nành (đậu tương) làm quả gặp mưa và nắng to.

* Vùng khu 4 cũ

Do nhiệt độ thường ẩm hơn nên gieo từ 20/1 đến 10/2 để tránh gió Tây cuối tháng 4.

* Vùng Tây Bắc Bắc Bộ

Thường bị rét kéo dài và kết thúc muộn hơn nên gieo từ 1/3 đến 20/3

* Vùng từ Quảng Bình đến Bình Thuận

Có thể gieo từ 10/1 đến 30/1

* Vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Gieo cuối tháng 2 đầu tháng 3

2. Vụ hè

* Ở các tỉnh phía Bắc

– Trên đất màu gieo từ 25/5 đến 20/6 đối với giống ngắn ngày. đối với một số tỉnh có tập quán trồng đậu nành (đậu tương) hè giữa 2 vụ lúa thì thời vụ gieo phải gieo từ 15/5 đến 15/6, nên sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn như: ĐT12, DT99…

* Các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Gieo từ 25/4 đến 10/5.

3. Vụ hè thu

* Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc

Đây là vụ đậu nành (đậu tương) chính gieo từ 10/7 đến 25/7 vì không ảnh hưởng đến cây trồng sau.

* Đối với các tỉnh Quảng Bình, Quảng trị, Thừa thiên- Huế

Gieo từ 15/6 đến 10/7

* Đối với các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Tranh thủ gieo trong mùa mưa gieo từ 1/8 đến 15/8 thu hoạch cuối tháng 10 đầu tháng 11, ở thời điểm này trùng với thời tiết khô hanh nên rất thuận lợi cho việc thu hoạch.

* Vùng Tây Nguyên Nam Bộ

Gieo từ 15/5 đến 31/5

4. Vụ đông

* Đối với các tỉnh đồng bắng sông Hồng

Gieo từ 20/9 đến 5/10, nếu sử dụng các giống trung ngày chịu rét có thể gieo đến 10/10. Gặt lúa mùa xong tranh thủ gieo đậu nành (đậu tương) ngay để tận dụng những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, ẩm độ của đầu vụ. Đậu nành (đậu tương) đông càng gieo muộn cây sinh trưởng càng kém và năng suất càng thấp.

* Các tỉnh Duyên hải miền Trung

– Đối với đất chuyên trồng màu và đất bãi ven sông sau khi nước rút có thể trồng sớm từ 15/9 đến 20/9.

– Trên đất ruộng cao nên gieo kết thúc trong tháng 10.

* Vùng đồng bằng sông Cửu Long

Gieo chủ yếu vào mùa khô gieo trong thàng 12 thu hoạch vào tháng 2.

Căn cứ vào đặc điểm và cơ cấu cây trồng xác định mùa vụ trồng thích hợp để cây đạt được năng suất tối ưu. Chúc bà con thành công!

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Đậu Tương ở miền núi

Cây đậu tương được trồng rộng rãi ở các vùng sinh thái khác nhau. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, cây đậu tương được trồng với diện tích lớn như Bắc Giang (8.700 ha), Sơn La (8000 ha), Cao Bằng (7.500 ha). Tuy nhiên, diện tích trồng cây đậu tương có thể phát triển nhiều hơn nữa trên nhiều loại đất khác nhau của miền núi (đồi, gò, nương rẫy…) có thể trồng xen với cây ăn quả, cây rừng chưa khép tán, cây công nghiệp ngắn ngày như mía và trồng luân canh với cây lương thực như  ngô, lúa nương.

Đậu tương

Một số giống đậu tương có khả năng phát triển tốt ở miền núi:

Giống đậu tương ĐT80

Giống đậu tương ĐT80 có thời gian sinh trưởng 90-100 ngày, hoa màu tím, chống đổ tốt, ít phân cành, chịu hạn khá. Khối lượng 100 hạt đạt từ 12-13 kg, có thể đạt năng suất 21,0-22,5 tạ/ha, thích hợp cho vụ Hè ở miền núi.

Giống đậu tương ĐT84

Giống đậu tương ĐT84 có thời gian sinh trưởng 80-85 ngày, cây sinh trưởng khoẻ, cây cao 40-50 cm, ít phân cành, hoa màu tím, khối lượng 1.000 hạt 180-220 g màu vàng sáng, năng suất trung bình từ 13-18 tạ/ha, năng suất cao có thể đạt 25 tạ/ha. Thích hợp cho vụ Xuân muộn và Hè-Thu ở miền núi.

Giống đậu tương VX9-3

Giống đậu tương VX9-3 có thời gian sinh trưởng 90-95 ngày, cây cao 40-45 cm, thân to khoẻ phân cành mạnh, khối lượng 1.000 hạt đạt 150-160 g, năng suất đạt 18-25 tạ/ha. VX93 chịu hạn, úng và bệnh trung bình, chịu rét khá, ưa thâm canh. ở Trùng Khánh, Cao Bằng cho năng suất từ 2,5-3,0 tạ/ha.

Giống đậu tương AK05

Cây sinh trưởng khoẻ, cây cao 50-60 cm, thời gian sinh trưởng 90-95 ngày, hoa màu trắng, hạt vàng sáng đẹp, khối lượng 1.000 hạt đạt 130-140 g, năng suất trung bình 13-15 tạ/ha. Khả năng chống bệnh trung bình, chịu rét khá, chịu hạn trung bình.

Giống đậu TL57

Thời gian sinh trưởng vụ Xuân 100-110 ngày, vụ Hè, Đông 95-100 ngày, cây cao 40-70 cm, bản lá to, xanh đậm, cây cứng có khả năng chống đổ tốt, hoa màu trắng, hạt vàng sáng, rôn hạt màu nâu nhạt, số quả trên cây 20-30 quả. Khối lượng 100 hạt đạt 15-16 g. Năng suất trung bình 15-20 tạ/ha, nhiễm nhẹ bệnh gỉ sắt.

Giống đậu tương ĐT93

Giống ĐT93 sinh trưởng tốt trong cả 3 vụ Xuân, Hè, Đông, cây cao 45-60 cm, thời gian sinh trưởng 75-85 ngày. Hoa màu tím, hạt dạng tròn hơi bầu, màu vàng sáng, khối lượng 1.000 hạt đạt 130-140 g, năng suất trung bình 12-14 tạ/ha. ĐT93 là giống nhiễm gỉ sắt trung bình, có khả năng chịu nhiệt, chịu hạn và chịu lạnh khá.

Quy trình kỹ thuật sản xuất chung cho các giống đậu tương:

Thời vụ

Vụ Xuân: Gieo hạt khi có mưa xuân thường từ ngày 15/2-15/3.

Vụ Hè-Thu: Gieo hạt từ ngày 10/6 đến 5/8, tuỳ thuộc từng vùng để có thời vụ thu hoạch vào lúc nắng ráo.

Phân bón và cách bón

Bón lót: 350-400kg supe lân ủ với 5-6 tấn phân chuồng để bón cho 1 ha.

Bón thúc lần 1: 60-70kg đạm urê và 100-120kg kali cho 1 ha vào lúc cây có 2-3 lá kép kết hợp xới lần 1 và vun nhẹ.

Bón thúc lần 2: 200kg vôi bột cho 1 ha lúc cây chớm ra hoa, vun đất cao 10-12cm.

Chuẩn bị hạt giống và mật độ gieo

Lượng giống cần cho 1 ha: Do không có sự chênh lệch lớn về kích cỡ hạt giữa các giống nên lượng giống khuyến cáo chung đủ trồng cho 1 ha là 60kg.

Về chất lượng giống: Trước khi gieo phải kiểm tra lại tỷ lệ nảy mầm, ít nhất phải đạt 85%, hạt đồng đều về kích cỡ và màu sắc, đảm bảo độ thuần, hạt không bị mọt và sâu bệnh.

Chọn hạt giống có khả năng nảy mầm tốt

Vụ Xuân: Mật độ gieo 35-40 cây/m2 (hàng cách hàng 35-40cm, cây cách cây 7-8cm).

Vụ Hè-Thu: Đảm bảo mật độ 30-35 cây/m2 (hàng cách hàng 35-40cm và cây cách cây 7-10cm).

Chăm sóc

Xới cỏ lần 1 khi cây có 2-3 lá kép kết hợp bón thuốc đạm và kali. Vun nhẹ đất vào gốc.

Xới cỏ lần 2 khi cây chớm ra hoa, kết hợp bón bổ sung vôi bột và vun cao đất.

Tưới nước: Ngoài độ ẩm cần thiết khi gieo hạt, vào mùa khô nếu có điều kiện thì tưới vào hai thời kỳ chính là trước khi ra hoa và làm quả.

Phòng trừ dòi đục lá, thân, quả, sâu cuốn lá, sâu khoang, rệp bằng Sumicidin 0,2%, trừ bọ xít bằng Bassa 0,1% + Dipterex.

Phun định kỳ lúc cây 2 lá đơn, 4-5 lá kép (lá thật), trước ra hoa, khi làm quả, phun thuốc có hiệu quả tốt nhất vào lúc chiều mát.

Thu hoạch và bảo quản

Thu hoạch khi 2/3 số quả chuyển sang mầu nâu sẫm. Thu hoạch vào những ngày nắng ráo, sau đó phơi khô đến khi tách hạt thì đập lấy hạt, làm sạch hạt, phơi khô đến khi cắn tách dọc hạt được dễ dàng.

Hạt sau khi phơi để nguội rồi vào bảo quản trong chum kín hay bao nilon 2 lớp.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Đậu Tương

Đậu tương hay đỗ tương, đậu nành (tên khoa học Glycine max) là loại cây họ Đậu (Fabaceae), là loài bản địa của Đông Á. Loài này giàu hàm lượng chất đạm protein, được trồng để làm thức ăn cho người và gia súc.

Cây đậu tương

Cây đậu tương là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành, okara… đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.

1. Cơ cấu giống

Căn cứ trình độ thâm canh và đặc điểm sinh thái của mỗi vùng để lựa chọn bộ giống thích hợp cho từng địa phương.

– Các giống chín sớm và trung bình như: DT84, DT92, DT96, DT99….Lượng giống sử dụng 50-60 kg/ha.

– Tất cả các giống trước khi gieo phải thử sức nảy mầm (hạt giống đủ tiêu chuẩn phải có tỷ lệ nảy mầm trên 70%).

2. Thời vụ

– Căn cứ đặc điểm thời gian sinh trưởng của từng giống mà bố trí thời vụ thích hợp để đậu tương sinh trưởng phát triển thuận lợi (lưu ý đến yếu tố thời tiết vào thời kỳ ra hoa – đậu quả). Tại ĐBSCL, cây đậu nành có thể trồng trên nhiều vùng đất khác nhau và được sản xuất quanh năm, nhưng thời điểm xuống giống thuận lợi nhất là vụ Đông Xuân và Xuân Hè, phổ biến nhất là trong vụ Xuân Hè. Thông thường, vào khoảng giữa tháng 2 dương lịch, sau khi thu hoạch xong vụ lúa Đông Xuân, bà con tiến hành dọn sạch cỏ, cắt gốc rạ và dọn đất để xuống giống đậu nành.

– Nên luân canh, xen canh đậu tương với cây trồng khác họ (không trồng đậu tương qua nhiều vụ trên cùng một chân đất hoặc vụ trước đã trồng cây họ đậu).

3. Đất trồng

– Đậu tương là cây không kén đất, nhưng để có năng suất cao nên ưu tiên đất có thành phần cơ giới nhẹ hoặc trung bình, giữ ẩm và thoát nước tốt: đất thịt nhẹ, đất cát pha, phù sa ven sông,…

– Đất phải được cày bừa kỹ, sạch cỏ dại; Đất dốc phải thiết kế thành băng chống sói mòn. Đất phải lên luống tạo rãnh thoát nước kịp thời khi mưa to (mặt luống rộng 1,0-1,2 m, cao 15-20 cm, rãnh rộng 25-30 cm).

4. Mật độ, khoảng cách trồng

– Lượng giống gieo/ sào (360m2): Đậu tương 2,0 – 2,2kg.

– Khoảng cách gieo: Hàng cách hàng 60 – 65cm. Cây cách cây 15cm. Mật độ 3.600 – 4.000 khóm/sào.

– Cách gieo: Chọc lỗ sâu 1,5 – 2cm, bỏ hạt, lấp đất; gieo 2 hạt/hốc, khoảng cách hốc 15cm. Thông thường có 03 cách gieo hạt giống:

+Phương pháp gieo vãi: Thông thường gieo vãi áp dụng với ruộng cao, đất chỉ cần cày lên là có thể gieo vãi. Mật độ gieo 3kg/sào gieo đều là đảm bảo.

+Phương pháp tra rạch: Gặt sát gốc rạ, sau gặt tạo rãnh thoát nước bằng cày, cuốc, các rãnh cách nhau 1,5m (bằng bề ngang luống). Sau đó dùng nông cụ tạo rạch ngang luống sâu 2-3cm, các rạch cách nhau 30-35cm và tra hạt vào rạch, hạt cách hạt 3-5cm.

+Phương pháp tra gốc rạ: Thu hoạch lúa xong tạo rãnh thoát nước như trường hợp gieo vãi. Dùng tay gạt nghiêng gốc rạ, tra mỗi gốc rạ 1-2 hạt vào kẽ, tiếp xúc giữa đất và gốc rạ, tuyệt đối không tra vào giữa gốc rạ hạt đậu sẽ không hút được ẩm để nảy mầm

Chú ý: Không gieo hạt vào những ngày mưa to, hạt bị trương nước làm giảm sức nảy mầm; Phơi lại hạt giống trước khi gieo, phơi trên nong, nia, dưới nắng nhẹ để kích thích nảy mầm.

5. Chăm sóc

Trừ cỏ:

– Trước gieo đậu 5 – 7 ngày, cần làm sạch cỏ dại, cắt bỏ các lá khô, lá vàng, lá sâu bệnh và lá già khuất sáng trên cây ngô, gom hủy tàn dư thực vật, tạo sự thông thoáng trong ruộng ngô, kết hợp phun thuốc phòng trừ cỏ dại. Có thể sử dụng 1 trong các loại thuốc trừ cỏ như Cariza 5EC, Gromoxone 20SL, Wisdom 12 EC…

– Khi cây có 1 – 2 lá thật, kiểm tra tỉa bỏ các cây còi cọc, cây sâu bệnh… chỉ để lại 1 – 2 cây đậu khỏe/khóm.

Bón phân:

– Bón đủ phân hữu cơ hoai mục (nếu không có phân chuồng hoặc phân rác hoai mục có thể thay thế bằng phân hữu cơ vi sinh), bón cân đối N-P-K và đủ lượng canxi.

Toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, vôi bột nên trộn đều, rồi ủ vài ngày trước khi bón để tăng hiệu quả sử dụng phân.

– Không cần bón phân qua rễ. Vì, cây đậu dưới 3 lá thật, có thể sinh trưởng, phát triển tốt nhờ dư lượng phân bón trong đất từ cây trồng trước đó. Đậu tương từ 4 – 5 lá thật trở lên, sẽ tự tổng hợp được dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng của cây thông qua hệ vi khuẩn nốt sần hình thành trên rễ.

– Phun bón lá kết hợp với chế phẩm tăng ra hoa đậu quả 6 lần: Trước, trong thời gian ra hoa. Sau đó, cứ 7 ngày 1 lần phun nhắc lại. Có thể sử dụng một số phân bón lá, chế phẩm đậu quả như: Atonik 1.8 DD, Grow more, Agriseed-Mg, thuốc đậu quả Bo TRS-108…

Lưu ý:  Những vùng đất chua nên bón phân lân nung chảy.

Phòng trừ sâu bệnh:

– Sau khi gieo, cần kiểm tra để lấp kín toàn bộ hạt.

– Các lần bón thúc cho đậu tương, cần kết hợp với xới xáo làm cỏ, tạo độ thoáng khí để vi khuẩn nốt sần hoạt động tốt, đậu tương phân cành sớm. Đặc biệt sau khi mưa rào phải xáo phá váng ngay, giúp bộ rễ phát triển thuận lợi.

– Khi cây đậu tương bắt đầu ra hoa có thể phun các loại phân bón qua lá để bổ sung vi lượng cho cây.

– Giai đoạn từ khi cây mọc đến khi đậu tương phân cành cần chú ý sự xuất hiện và gây hại của sâu xám, dòi đục thân, bệnh lở cổ rễ.

– Giai đoạn từ khi cây ra hoa đến cuối vụ cần chú ý: dòi đục hoa, sâu đục quả, sâu cuốn lá, bệnh gỉ sắt,…

+ Phòng trừ dòi đục thân, sâu khoang, sâu xám…: Rải Regent 3G trên mặt luống 2 lần (khi gieo đậu và sau cây mọc 5 – 7 ngày)

+ Phòng trừ sâu cuốn lá, đục quả: Sử dụng thuốc Sherpa 2%, Motox 5 EC… Phun 3 lần (kết hợp với phân bón lá): Trước ra hoa 5 – 7 ngày, trong giai đoạn cây ra hoa, sau hoa rộ lần đầu 5 – 7 ngày (cây đậu tương sau hoa rộ 5 – 7 ngày). Nếu sâu hại phát sinh gia tăng, cần tăng số lần phun thuốc.

6. Thu hoạch

– Thu hoạch khi có 2/3 số quả trên cây chuyển màu nâu, bộ lá chuyển màu vàng và rụng dần từ dưới lên (sau trồng 80 – 90 ngày). Nên thu hoạch vào ngày thời tiết nắng ráo để tiện vận chuyển và phơi. Không thu đậu vào lúc mưa, hạt dễ bị thối, mốc.

– Cắt gom cây rải phơi trên sân gạch/bê tông 3 – 4 nắng, tuốt lấy hạt trên máy tuốt lúa đạp chân, sàng, sảy.

– Phân loại: những cây chín nhiều (khô) phơi riêng, cây còn nhiều quả xanh có thể ủ thêm 2-3 ngày cho chín tiếp. Cây khô đập tách lấy hạt, phân loại để bảo quản hoặc tiêu thụ.

– Nếu bảo quản dài ngày, cần phơi khô hạt trên nong, nia, cót, bạt,… tới thủy phần 14% (cắn hạt không dính răng, nghe tiếng kêu giòn cốp là được). Không phơi hạt trực tiếp trên nền xi măng, nền gạch. Gom lại hạt đậu, để nơi thoáng mát 4 – 6 giờ cho nguội, đóng bao bì, bảo quản nơi khô ráo và chủ động biện pháp phòng trừ mọt đục hạt.

7. Để giống

– Chọn những ruộng tốt, không bị bệnh, năng suất cao, đúng giống thu riêng và phơi riêng cho đến khô (đến khi độ ẩm của hạt ≤12%), quạt sạch vỏ, loại bỏ hạt xấu, hạt bị sâu bệnh. Bảo quản trong chum, vò, lọ sành, sứ, đáy và miệng lọ lót một lớp lá xoan khô hoặc tro bếp dày 2 – 3cm, đậy nắp kín, cất nơi khô ráo, thoáng mát.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.