Trồng sắn xen lạc, nông dân thu lợi nhuận gấp đôi

Trung tâm Khuyến nông (KN) tỉnh vừa triển khai thành công mô hình canh tác sắn xen lạc tại các huyện Hướng Hóa và Cam Lộ. Theo đánh giá của nông dân, mô hình này không chỉ tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích mà còn hạn chế hiện tượng xói mòn đất, góp phần đảm bảo canh tác sắn bền vững.

Mô hình trồng sắn xen lạc mang lại hiệu quả cao ở xã Cam Tuyền, Cam Lộ

Mô hình được triển khai trong vụ đông xuân 2016 – 2017 trên diện tích 6 ha tại các xã Tân Lập, Hướng Tân (huyện Hướng Hóa) và Cam Tuyền (huyện Cam Lộ) với giống lạc L 14 trồng xen giống sắn KM 94 theo quy cách giữa 2 hàng sắn trồng xen 2 hàng lạc. Theo các hộ tham gia thực hiện mô hình, khi canh tác theo phương thức sắn xen lạc không những nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả kinh tế được tăng lên, mà còn góp phần cải tạo đất. Ông Trần Văn Bình ở tại thôn Tân Quang, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, một trong những hộ tham gia thực hiện mô hình cho biết, gia đình ông có 3 sào đất thực hiện mô hình trồng sắn xen lạc.

Hiện cây lạc đã bắt đầu cho thu hoạch. Theo tính toán của ông, trung bình 1 sào lạc trồng xen với sắn cho năng suất khoảng 1 tạ lạc/sào, với giá bán hiện nay từ 30.000 – 32.000 đồng/kg thì với 3 sào đất trồng sắn xen lạc đã mang lại cho ông hơn 9 triệu đồng. Sau khi thu hoạch lạc, phần thân và lá được dùng để che phủ gốc sắn nhằm duy trì độ ẩm và tăng chất hữu cơ cho đất. Theo ông Bình, thế mạnh của mô hình này là trên cùng một diện tích canh tác, nông dân thu hoạch được 2 lần, hiệu quả kinh tế mang lại gấp đôi so với trước đây. Theo kỹ sư Dương Hồng Phong, Phó Trạm trưởng Trạm KN huyện Cam Lộ, kết quả việc trồng sắn xen với lạc cho thấy cả 2 loại cây trồng này đều sinh trưởng, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh gây hại, ít cỏ dại hơn.

Trong mô hình trồng xen 2 hàng lạc giữa 2 hàng sắn với mật độ 45 cây/m2. Nhờ được hưởng lợi thế khoảng không gian của cây sắn thời kỳ đầu chưa khép tán nên cây lạc có số hạt chắc/cây cao, năng suất thực thu tương đương so với trồng thuần lạc. Trong khi đó nhờ được trồng sớm, cây sắn có đủ thời gian tích lũy (11 – 12 tháng) nên sẽ cho năng suất và hàm lượng tinh bột cao hơn. Chính vì thế thu nhập cao hơn so với mô hình luân canh lạc (đông xuân) – sắn (hè thu) hoặc trồng thuần sắn. Bên cạnh đó, sau khi thu hoạch lạc xong, toàn bộ thân, cành, lá, gốc, rễ của lạc sẽ được vùi lấp xuống đất làm phân xanh, đất sẽ giàu mùn và tơi xốp hơn, độ phì và khả năng giữ ẩm cũng tăng lên, nhất là với đất dốc bạc màu, đất sét pha cát tại các huyện trung du, miền núi.

Qua đánh giá thực tế tại các mô hình trồng sắn xen lạc này, tại huyện Hướng Hóa năng suất lạc đạt từ 12,4 – 13,4 tạ/ha, năng suất sắn đạt từ 25 – 28,7 tấn/ha; còn tại huyện Cam Lộ cây lạc đạt năng suất từ 15 – 20 tạ/ha, năng suất cây sắn dự kiến đạt khoảng 25 – 30 tấn/ha. Như vậy với giá lạc (30.000 – 32.000 đồng/kg) và sắn (1.000 đồng/ kg) như hiện nay, ước tính mỗi héc ta trồng sắn xen lạc cho thu nhập trên 70 triệu đồng, cao gấp 2 – 2,5 lần so với trồng thuần lạc hoặc sắn trên cùng chân đất. Tuy nhiên để trồng lạc xen sắn đạt hiệu quả cao, nông dân cần lưu ý làm đất kỹ, bón phân đầy đủ, nhất là bón lót, lên luống để trồng với khoảng cách và mật độ thích hợp, sao cho mỗi cây trồng đều tận dụng được không gian dinh dưỡng (ánh sáng, không khí, đất) để sinh trưởng và phát triển đạt năng suất cao, chất lượng tốt.

Ông Nguyễn Trung Hậu, Giám đốc Trung tâm KN tỉnh cho biết: “Là một trong bảy loại cây trồng chủ lực của tỉnh, hiện cây sắn không còn là cây lương thực mà đã trở thành nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến. Với diện tích trên 11.000 ha trồng tập trung chủ yếu tại các địa bàn miền núi, trung du như Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Vĩnh Linh… cây sắn không chỉ là cây xóa đói giảm nghèo mà còn là cây làm giàu cho nhiều hộ gia đình, trong đó có nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, năng suất bình quân sắn ở tỉnh chưa cao (khoảng 19 tấn/ha), chất lượng củ thấp và độ đồng đều không cao; nguy cơ bạc màu, xói mòn rửa trôi đất trồng vẫn tiềm ẩn, sản xuất thiếu bền vững, mà nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật canh tác, đầu tư thâm canh, độ phì đất, giá bán giao động lớn.

Vì vậy với mô hình trồng sắn xen lạc này, ngoài hiệu quả kinh tế thu được, mô hình còn làm thay đổi quan điểm của nông dân về kỹ thuật trồng lạc xen sắn trên vùng đất đồi núi chỉ nhờ nước trời, sử dụng giống lạc có chất lượng cao, có bón phân lân, vôi cho lạc. Bên cạnh đó còn hạn chế xói mòn đất, góp phần bảo vệ tài nguyên đất, giúp quá trình canh tác bền vững hơn. Trên cơ sở này, trong thời gian chúng tôi sẽ tiếp tục tuyên truyền, nhân rộng mô hình này ra các vùng trồng sắn trong tỉnh nhằm tạo ra vùng nguyên liệu sắn củ tươi cho các nhà máy trên địa bàn, hạn chế thoái hóa đất, bảo vệ môi trường sinh thái và tăng hiệu quả sản xuất cho người trồng sắn”.

Nguồn: Báo Quảng Trị được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng sắn trên đất dốc

Miền bắc chủ yếu trồng sắn trên các vùng đất dốc, và kỹ thuật canh tác còn đơn giản nên năng suất sắn đạt rất thấp, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã chọn tạo thành công một số giống sắn mới có khả năng khắc phục được hạn chế trên.

Một số giống sắn thích hợp

Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành chọn tạo và nghiên cứu ra nhiều giống sắn mới phù hợp với điều kiện đất đai này như KM94, KM98-7, KM21-10 và KM21-12.
Trong số các giống sắn trên, KM94 là giống đã được ứng dụng rộng rãi tại nhiều địa phương. KM94 có nguồn gốc từ tập đoàn giống nhập nội CIAT/Thái-lan, thân xanh, hơi cong, ngọn tím, không phân nhánh. Năng suất củ tươi đạt 30-40 tấn/ha, tỷ lệ chất khô trong sắn cao 39-40%, hàm lượng tinh bột 29-30%.

Sắn KM94 rất dễ trồng, thời gian sinh trưởng trung bình (7-12 tháng sau trồng đã có thể thu hoạch). Một trong những giống sắn có nhiều triển vọng khác đang trong quá trình khảo nghiệm hiện nay là giống KM98-7. Đây là giống sắn đa dụng vừa có thể sử dụng ăn tươi, vừa dùng vào chế biến thành tinh bột. Ưu điểm nổi bật của KM98-7 là tính chịu hạn cao, điều này rất phù hợp với khí hậu tại miền núi phía bắc thường hay rơi vào tình trạng khô hạn kéo dài.

KM98-7 có dạng cây đẹp, cao, mầu nâu, lá nhỏ, thích hợp với đất đồi sỏi đá. Thời gian thu hoạch sắn tương đối ngắn (7-8 tháng sau trồng), nhưng năng suất, chất lượng củ vẫn tương đương KM94…

Kỹ thuật canh tác sắn trên vùng đất dốc

Trồng sắn trên đất dốc nếu không có biện pháp chống xói mòn, đất trồng sắn sẽ trở thành đất trống đồi núi trọc, dẫn đến đất mất khả năng sản xuất, năng suất chất lượng giảm. Trước thực tế này, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã đưa ra một số quy trình kỹ thuật cơ bản khi trồng sắn trên đất dốc như sau:

Khâu đầu tiên, phải thiết kế các băng chống xói mòn như cốt khí, cỏ vetiver, cỏ paspalum, dứa… vì những loại cây này có tác dụng giữ đất rất tốt. Nếu đất dốc dưới 15 độ, khoảng cách giữa các băng cây xanh là 8-10m, đất dốc 15-20 độ, khoảng cách dày hơn từ 4-6m.

Các biện pháp kỹ thuật chủ yếu

– Làm đất: ở vùng đất bằng hoặc có độ dốc thấp, cày và lên luống theo đường đồng mức, luống cách luống 1,0m.

– Thời vụ trồng: Thời gian trồng thích hợp nhất khoảng từ tháng 2 đến 15-3 (miền bắc), từ tháng 4 đến tháng 8 (miền nam).Mật độ: Tùy thuộc vào từng loại đất, đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày, bảo đảm khoảng cách trung bình 1,0 x 0,8 x 1,0m, tức mật độ cây từ 10.000 – 12.500 cây/ha.

– Bón phân: Lượng phân bón cho 1 ha khoảng 10-15 tấn phân chuồng, 110-160kg đạm ure, 220-270kg supe lân, 160-250kg kali, 180 kg phân tổng hợp NPK theo tỷ lệ 60kg N, 40kg P2O5, 80kg K2O. Cách bón, bon lót toàn bộ phân chuồng và phân lân. Bón thúc lần 1 (sau trồng 45 ngày) 50% đạm + 50% kali. Bón thúc lần 2 (sau trồng 3 tháng) toàn bộ lượng phân còn lại kết hợp làm cỏ và vun cao.

Một trong những biện pháp khá hiệu quả chống xói mòn cho đất là trồng xen với các cây họ đậu như lạc, đậu xanh, đậu đen, đậu tương. Kỹ thuật trồng xen tốt nhất là trồng xen hai hàng đậu vào giữa hai hàng sắn, khoảng cách sắn vẫn giữ nguyên. Khi sử dụng biện pháp trồng xen, lượng phân bón cho cây xen cần thiết là 70% lân + 20% đạm + 30% kali trong tổng số phân bón cho sắn cộng thêm 300kg vôi bột để diệt trừ sâu, bệnh.
Phương pháp này hiện đã được ứng dụng ở nhiều nơi như Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Tây, Hòa Bình. Kết quả, lượng đất bị xói mòn đã giảm tới 68-96% so với các chân đất không băng chắn. Năng suất tăng cao hơn, cải tạo cơ bản được độ phì nhiêu của đất.

Nguồn: Vietlinh.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hướng dẫn kỹ thuật trồng cây Sắn (khoai mì)

Sắn là cây quen thuộc với bà con nông dân bởi vai trò quan trọng trong chăn nuôi và góp phần cải thiện kinh tế. Sau đây, Fman xin giới thiệu cho bà con nông dân kỹ thuật trồng sắn (khoai mì)

1. Thời vụ trồng khoai mì

– Sắn là cây trồng của vùng nhiệt đới ẩm. Sắn cần ánh sáng ngày ngắn để tạo củ. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho sắn từ 23 – 27 độ C. Lượng mưa trung bình năm thích hợp đối với sắn trong khoảng 1.000 – 2.000 mm. Thời vụ trồng sắn tùy thuộc nông lịch cụ thể của từng địa phương. Các giống sắn công nghiệp trồng để lấy bột thường thu hoạch 8 – 12 tháng sau trồng. Các giống sắn ngọt trồng để ăn tươi thì có thể thu hoạch rải rác từ 6 – 9 tháng.

– Ở miền Bắc nước ta, sắn trồng tốt nhất là trong tháng 2 vì lúc này có mưa xuân ẩm, trời bắt đầu ấm, thích hợp cho cây sinh trưởng, hình thành và phát triển củ. Trồng muộn vào tháng 4, trời đã nóng, cây sinh trưởng mạnh nhưng không đủ thời gian cho củ phát triển.

– Vùng ven biển miền Trung, sắn được trồng từ tháng 1 đến tháng 2 trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao và có mưa ẩm, thu hoạch vào tháng 9, tháng 10 để né tránh bão lụt gây đổ ngã và thối củ ngoài đồng.

– Vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đất núi Đồng bằng Sông Cửu Long, sắn được trồng vụ chính (70%) từ giữa tháng 4 đến cuối tháng 5 và vụ phụ (30%) từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 11. Tục ngữ Việt Nam có câu “nhất thì, nhì thục”. Thời vụ trồng thích hợp là rất quan trọng đối với cây sắn.

2. Chuẩn bị đất trồng khoai mì

– Kỹ thuật làm đất cần phù hợp với từng loại đất: Thông thường, đất được dọn sạch cỏ, cày 1 – 2 lần sâu 20 – 25 cm, bừa 1 – 2 lượt, sau đó lên luống hoặc trồng bằng tùy điều kiện cụ thể và tập quán canh tác của vùng. Đất có độ dốc cao nên cuốc hốc trồng trực tiếp theo đường đồng mức xen các băng cây cốt khí, anh đào, bình linh hoặc cỏ vertiver để chống xói mòn. Đất có độ dốc thấp hoặc đất bằng nên trồng luống cách nhau 1,0 m theo đường đồng mức và chỉ nên cày sâu vừa phải để không làm đảo “tầng đế cày” lên mặt đất. Đất nâu vàng và đất đỏ nên cày sâu 25 – 30 cm để cây sinh trưởng tốt hơn và cho năng suất cao hơn.

– Cày đất bằng xe cơ giới:

+ Lần 1: 3 đĩa cày ở độ sâu càng nhiều càng tốt để cho đất thông thoáng và cây mì phát triển củ

+ Lần 2: 7 đĩa sau cày lần 1 khoảng 10 ngày cho cây cỏ mọc lên sau đó cày lần 2 giúp giảm việc diệt cỏ

+ Lần 3: Tạo luống để trồng, sau khi tạo luống nên trồng mì ngay vì đất đang có độ ẩm phù hợp.

* Lưu ý: trong thời gian chuẩn bị đất nên bón phân chuồng hoặc phân hữu cơ để giúp cải thiện hữu cơ trong đất 3. Chọn giống và xử lý hom giống Cần chọn giống mì phù hợp với vùng đất, yêu cầu sản xuất và thị trường tiêu thụ cũng như thời gian thu hoạch. Mỗi 2 – 3 năm nên đổi giống hoặc mua giống nguyên chủng từ trung tâm để hạn chế việc lây lan và dịch bệnh.

a) Hom giống sắn và kỹ thuật trồng cây khoai mì

– Cần lưu ý chọn giống như: Giống phải khỏe, không bị bệnh (để an toàn bà con nông dân đem giống đi kiểm nghiệm tại các trung tâm có uy tín trước khi sử dụng, để tránh cho cây mì bị nhiễm bệnh bà con cần thay đổi sang giống thuần chủng sau khi trồng được 2 – 3 vụ).

+ Cây có tuổi từ 10 – 14 tháng

+ Cây không nên để quá 45 ngày và đường kính thân 1,5 – 2 cm cắt hom giống.

+ Cây giống cắt bỏ phần ngọn và gốc cây 20 cm (sử dụng phần giữa).

+ Cắt hom thẳng sẽ làm rễ mọc xung quanh và nhiều hơn.

+ Dao cắt phải sắc. + Chiều dài hom 20 – 30 cm. – Xử lý hom giống:

+ Sử dụng chế phẩm ROOT 555 để xử lý hom giống giúp hạn chế lây nhiễm bệnh có sẵn trên cây giống, tăng khả năng sống của cây giống, rễ của cây giống mọc nhanh hơn, nhiều hơn và có năng suất cao hơn, cây trồng hấp thu được tốt hơn và hiệu quả hơn chất dinh dưỡng trong đất, cung cấp một số Amoni acid và vi lượng cần thiết cho cây giống, giúp cây giống phát triển tốt và có sức đề kháng cao.

+ Xử lý ngâm hom từ 20 – 25 phút trước khi trồng.

b. Khoảng cách và mật độ trồng cây khoai mì

– Khoảng cách và mật độ trồng sắn tuỳ theo đất với nguyên tắc chung là “đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày”.

+ Đất tốt: Khoảng cách trồng 1,20 m x 0,80 m, mật độ 10.417 cây/ha.

+ Đất trung bình: Khoảng cách trồng 1,00 m x 0,80 m, mật độ 12.500 cây/ha.

+ Đất nghèo: Khoảng cách trồng 1,00 m x 0,70 m, mật độ 16.286 cây/ha.

– Khoảng cách trồng 0,80 m x 0,80 m, mật độ 15.620 cây/ha.

– Khi trồng cắm hom thẳng đứng và sâu 10 – 15cm.

– Sau khi cắm hom xong nên phun thuốc diệt cỏ ngay (đối với ruộng xuất hiện cỏ nhiều).

– Khi cây mì được 2 tháng tuổi nên sử dụng thuốc cỏ 1 lần nữa trước khi bón phân. Thời gian này rất quan trọng phải xử lý cỏ triệt để vì nếu không xử lý được cỏ sẽ tranh thức ăn và phân bón của cây mì làm cho năng suất thấp.

– Sau khi xử lý cỏ xong bón phân và giữ độ ẩm phù hợp, bón phân theo gốc cây và lấp lại đất, lượng bón 20g/ cây (liều lượng bón: 200 – 350kg/ ha). 4. Dinh dưỡng khoáng và bón phân cho cây khoai mì

– Để cây mì đạt năng suất cao Công ty Sitto Việt Nam khuyến cáo bà con nông dân áp dụng theo quy trình chăm sóc sau:

+ Bón lót: . PP1: Toàn bộ phân chuồng 2 tấn + 150kg super lân/ha, bón khi cày bừa hoặc bón theo hàng hay hốc trước khi trồng. . PP2: Bón phân hữu cơ chuyên dùng cho khoai mì cùng với 100kg Super lân và 250kg Sitto Phat 16-8-16-12SiO2+TE/ha

+ Bón thúc: Bón một lần duy nhất vào giai đoạn sau trồng 45 – 60 ngày: 300kg Sitto Phat 16-8-16-12SiO2+TE

* Lưu ý: Để phù hợp việc cung cấp dinh dưỡng cho cây mì bà con cần phải mang đất đi phân tích hàm lượng dinh dưỡng để có cách bón phù hợp nhất (vì mỗi năm trên ruộng canh tác của bà con lượng dinh dưỡng trong đất luôn thay đổi).

5. Thu hoạch củ và bảo quản cây sắn

– Thời gian thu hoạch sắn thích hợp trong khoảng 8 – 11 tháng sau trồng (tùy giống). Thu hoạch xong phải vận chuyển ngay đến cơ sở chế biến, tránh phơi nắng lâu ngoài đồng sẽ giảm chất lượng bột.

– Bà con nông dân sau khi thu hoạch xong cần trồng cây họ đậu, họ….. để cải tạo lại đất (để bổ sung lượng N và phân xanh cho đất, tăng độ tơi xốp đất cho vụ sau)..

Nguồn: Tiepthinongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.