Lạc che phủ nilon năng suất cao

Huyện Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển của cây lạc.

Tham quan mô hình trồng lạc che phủ nilon tại xã Phúc Sơn

Cây lạc đã được người dân nơi đây trồng từ nhiều năm nay, tuy nhiên đa số diện tích lạc được trồng thường theo kiểu rạch hàng, gieo hạt… nên năng suất chưa cao.

Vụ Đông 2018, huyện Chiêm Hóa đã triển khai mô hình trồng lạc che phủ nilon, nhằm từng bước thay đổi tập quán canh tác cũ bằng biện pháp canh tác tiên tiến, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho nông dân.

Mô hình trồng lạc theo phương pháp tiên tiến bằng giống L14 nguyên chủng với diện tích trên 53 ha tại 4 xã: Tân Mỹ, Phúc Sơn, Minh Quang và Yên Nguyên. Các hộ thực hiện được hỗ trợ tiền mua nilon và một phần tiền giống, thuê máy làm đất và được cán bộ kỹ thuật trực tiếp theo dõi, hướng dẫn.

Kết quả cho thấy, việc che phủ nilon cho lạc làm tăng nhiệt độ đất, giúp cây phát triển nhanh ở giai đoạn mọc mầm; giữ ẩm đất, tạo điều kiện cho cây phát triển thuận lợi ở các giai đoạn sau; hạn chế cỏ dại, sự rửa trôi chất dinh dưỡng nên năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn.

Ông Quan Vân Trường, thôn Bản Chỏn, xã Phúc Sơn là một trong những hộ được chọn thực hiện mô hình cho biết, vụ Đông 2018, gia đình ông thực hiện che phủ nilon cho 2.300 m2 đất trồng lạc. Qua thực hiện cho thấy so với trồng lạc theo phương pháp thông thường thì trồng lạc che phủ nilon có ưu thế vượt trội như tỷ lệ mọc cao, giảm được công làm cỏ, chăm sóc, cây phát triển tốt, củ lạc chắc, không bị thối… năng suất cũng cao hơn từ 20 – 30% so với trồng lạc theo cách truyền thống trước đây.

Chị Quan Thị Hằng – cán bộ Trạm Khuyến nông huyện cho biết, qua theo dõi quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lạc tại các hộ dân tại xã Phúc Sơn cho thấy, các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của diện tích lạc che phủ nilon ngắn hơn so với không che phủ nilon từ thời gian mọc, giai đoạn cây con, thời kỳ ra hoa… Theo đó, cũng hạn chế được những rủi ro như sâu bệnh nhiều, thối rễ, chết cây do mưa, còn nắng thì làm cây héo rũ, kém phát triển.

Theo tính toán của các hộ tham gia mô hình, vụ lạc này cho năng suất 4 tấn củ tươi/ha. Với giá thu mua của Hợp tác xã Phúc Sơn là 12.000 đồng/kg củ tươi, sau khi trừ chi phí, người trồng lạc lãi trên 30 triệu đồng/ha.

Ngay sau khi thu hoạch, huyện tiếp tục hỗ trợ nilon để bà con nông dân mở rộng diện tích trồng lạc che phủ ni lon nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng giá trị trên một đơn vị đất canh tác, tăng thêm thu nhập.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Kỹ thuật trồng bông vải xen đậu phộng

Một hai năm trở lại đây mô hình trồng bông xen đậu phộng đã và đang được thực hiện trên vùng đất cát nội đồng, bước đầu đem lại hiệu kinh tế cao. Sau đây là quy trình kỹ thuật trồng bông xen đậu phộng.

1. Chọn đất và làm đất:

Chọn vùng đất có điều kiện thoát nước, tưới nước một cách chủ động. Đất được cày bừa, sau đó lên luống để dễ tưới và tiêu nước.

2. Thời vụ gieo:

Bông được trồng từ cuối tháng 11 đến cuối tháng 3 (dương lịch) năm sau, tùy thuộc vào thời vụ của đậu phộng. Gieo sớm sẽ tránh được hạn, tiết kiệm nước tưới và năng suất bông cao hơn.

3. Phương thức gieo:

Gieo theo phương thức bông hàng kép: Mật độ và khoảng cách gieo bông: (160cm + 60cm) x 20 – 25cm x 1 cây, giữa xen 4 – 5 hàng đậu phộng. Mật độ bông khoảng 2.000 – 2.250 cây/sào. Sử dụng 250g hạt giống để gieo cho một sào (500m2).

Tùy chân đất, lên luống cao vừa phải (khoảng 15 – 20cm), bề rộng mặt líp 180 – 200cm, mặt rãnh 20 – 30cm. Gieo hàng bông cách mép rãnh 20cm. Trên hàng bông, gieo các hốc bông cách nhau 20 – 25cm, mỗi hốc gieo một hạt, gieo hạt bông thật cạn (khoảng 1,5cm). Gieo 4 – 5 hàng lạc trên mặt luống. Hàng đậu phộng phải cách hàng bông ít nhất 30cm. Phương thức gieo bông hàng kép xen lạc, với việc lên luống giúp thoát nước khi mưa nhiều ở đầu vụ và giúp tưới được nước cho bông vào lúc gặp hạn, hay lúc đậu phộng đã già phải bỏ nước, vẫn tưới được cho bông mà không gây ảnh hưởng đến lạc. Làm bông bầu trước 10 – 15 ngày, để trồng cùng lúc gieo đậu phộng là biện pháp thâm canh tốt nhất. Sau khi gieo bông xong, nên làm thêm khoảng 10% bầu dùng để dặm.

4. Giống bông và giống đậu phộng:

Cây bông vải giống VN01 – 2, VN15, VN01 – 4, GL03 (kháng sâu). Nên sử dụng giống đậu phộng MĐ7, L14 (kháng bệnh chết ẻo)

5. Chăm sóc – bón phân – tưới nước:

Bón lót phân chuồng + 7 – 8kg NPK tỷ lệ 16:16:8 hoặc DAP + 20 – 25kg vôi cho mỗi sào trước khi gieo bông. Nếu ruộng có nhiều sâu đất phải rải Basudin 10H hoặc Furadan 3H (1kg/sào). Không để phân dính vào hạt bông để tránh thối hạt. Đối với đậu phộng cũng nên bón lót trước khi gieo với lượng phân: 8 – 10kg NPK + 20 – 25kg vôi/sào.

Phun thuốc trừ cỏ tiền mọc mầm sau khi gieo xong. Sử dụng Ronstar 25 EC 1,5 lít/ ha hoặc Alachlor 3,0 lít/ha phun đều lên mặt đất.

Phải phun Moceren hoặc Luster 1 – 2 lần (10ml/sào/lần) vào gốc cây bông con, ngay sau khi bông mới mọc để phòng trừ bệnh chết cây con.

Dặm: Tiến hành dặm bông sớm, khoảng 5 – 7 ngày sau khi gieo. Dặm bằng hạt hay dặm bằng bầu.

Bón thúc lần 1: 8 – 10kg NPK/sào, khi bông có 6 – 7 lá thật (khoảng 30 – 35 ngày sau khi gieo). Đối với đậu phộng bón 5 – 7kg NPK/sào. Phun PIX lần 1 (pha một gói 5g PIX phun cho 2 sào, phun cả cho bông và đậu phộng).

Khi bông được 60 ngày thì phun PIX lần 2 (pha một gói PIX, kết hợp trộn với 1 gói KNO3 (200g) phun cho một sào, phun cho cả bông và đậu phộng.

Sau khi nhổ lạc: Bón 5kg Ure + 7 – 8 kg SA + 3kg Kali/sào. Nên phơi héo thân cây đậu phộng vùi vào giữa hai hàng kép, sau đó vun luống thật cao, tưới nước thật đẫm. Phun PIX lần 3 (pha 1 gói PIX và một gói KNO3 (200g) phun cho một sào.

Tưới nước: Nếu trời không mưa, khi thấy bông héo lá ngọn vào giữa trưa, thì phải tưới nước, nhất là lúc cây đang ra hoa, ra quả.

Khi cây bông đã có 15 – 16 cành quả (cành mọc ngang), bấm ngọn cây bông để cây ra nhiều quả tầng ngọn.

6. Phòng trừ sâu bệnh (hạn chế phun thuốc trừ sâu)

Chỉ nên phun phòng trừ bệnh và rầy, rệp, bọ trĩ. Ngay sau khi bông mọc, phun 1 – 2 lần Monceren hoặc Luster vào gốc cây với liều lượng 10ml/sào/lần, phun thật đúng kỹ thuật (nén hơi và mở bét bình phun vừa phải để hạt thuốc không quá tơi, phun gần như tưới vào gốc cây bông con). Nếu có sâu đất phải rải thuốc Basudin 10H hoặc Furadan 3H với liều lượng 1kg/sào khi gieo hạt. Sau 80 ngày, khi thấy rầy xanh, rệp hoặc bọ trĩ xuất hiện với mật độ cao có khả năng gây hại thì phun Admire 0,4 lít/ha. Các trường hợp khác, chỉ được phun thuốc khi có hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.

7. Thu hoạch:

Khoảng 115 – 120 ngày, bông bắt đầu nở quả. Từ ngày 125 có thể hái bông. Để 5 – 7 ngày thu 1 lần. Hái bông về phải phơi khô, khi cắn thử thấy hạt kêu giòn là được. Vụ bông chính thu hoạch 3 lần, bông tái sinh thu thêm 1 – 2 lần nữa.
Khi hái bông, phơi và tồn trữ phải để riêng bông loại 1(nở tốt, trắng) và bông loại hai 2 (nở kém, hơi ố vàng). Không được để lẫn dây ny lông và bông hư thối.

8. Bông tái sinh:

Ngay sau khi hái bông xong, cắt bỏ 1/2 hoặc 1/3 thân cây bông và cành bông. Bón phân, xới xáo, vun gốc và tưới nước thì cây bông tái sinh mạnh. Nên bón thêm 5kg NPK + 5kg Urea + 2kg Kali/sào. Nếu chăm sóc tốt sẽ cho 1 – 2 đợt thu hoạch.

9. Các lưu ý đặc biệt:

a. Không để bông bị chết cây con, ruộng bông đồng đều và có đủ cây (2000 – 2500 cây/sào). Bón phân, tưới nước đầy đủ. Không dừng tưới nước cho bông khi thu hoạch đậu phộng. Bông đang thu hoạch, vẫn cần được tưới nước khi gặp khô hạn.

b. Khi phun PIX, phải phun ướt đều cây bông và không được phun lặp lại (phun xong còn thừa thuốc không được phun trở lại). Sau khi phun PIX khoảng 3 ngày, lá bông sẽ chuyển màu xanh đậm, dễ nhầm lẫn là bông đủ phân, no nước. Thật ra, không phải như vậy. Khi phun PIX, cần phải tăng cường bón phân, tưới nước thì mới có hiệu quả cao.

Nguồn: Hội nông dân Cần Thơ được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cách để Lạc mọc đều

Lạc là cây công nghiệp ngắn ngày, dễ trồng, dễ chăm sóc, có thể gieo trồng được nhiều vụ trong năm nên cho hiệu quả kinh tế cao đồng thời còn là loại cây góp phần cải tạo đất rất tốt.

Bộ rễ lạc có nhiều nốt sần có thể tổng hợp được đạm từ không khí kết hợp với lượng chất xanh từ thân, lá là nguồn phân hữu cơ giàu đạm cung cấp thêm cho đất, nhất là với những vùng đất bạc màu.

Kỹ thuật trồng lạc thì nhà nông ai cũng biết, tuy nhiên để cho lạc nẩy mầm đều, cây sinh trưởng khỏe, cho nhiều quả, đạt năng suất cao thì không phải nhiều người đều hay. Thời vụ gieo trồng lạc thu đông sắp đến, chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm của một số trồng lạc (đậu phộng) giỏi ở xã Hải Xuân, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định để bà con các nơi tham khảo, áp dụng:

– Chọn hạt giống để gieo:

Chọn hạt to, mẩy, đều, màu sắc còn tươi sáng, đúng giống theo yêu cầu thời vụ để gieo. Vì lạc đông cơ bản lấy giống từ nguồn lạc trồng vụ xuân, thu hoạch trong điều kiện thời tiết nóng và ẩm, hạt có chứa nhiều tinh dầu nên rất dễ mất sức nẩy mầm, thường chỉ đạt 70-75% do đó nên kiểm tra lại tỷ lệ nẩy mầm trước khi gieo bằng 2 cách: gieo thử trong cát ẩm hoặc tách nhân hạt để quan sát phôi và 2 lá mầm của giống. Nếu thấy phôi còn màu trắng hồng, lá mầm không có biểu hiện xỉn mốc là hạt còn tốt.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo:

Trước khi tách hạt khỏi vỏ nên phơi lại 1-2 nắng nhẹ (30-32oC) để “đánh thức” và tăng thêm sức nẩy mầm cho hạt giống. Ngâm hạt giống cho hút no nước rồi để ráo, ủ cho nứt nanh rồi chọn hạt tốt để gieo.

Kết quả theo dõi của các nhà khoa học Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải miền Trung cho thấy, các loại thuốc bảo quản hạt giống đã ngăn trở các vi khuẩn trong các nốt sần ở rễ tạo đạm từ khí trời để cung cấp thêm cho cây và đất nên thường cho năng suất thấp hơn là những lô hạt giống không có chất bảo quản chống nấm mốc. Do đó, với hạt giống có xử lý hóa chất chống nấm trong quá trình bảo quản, nên ngâm, rửa, thay nước vài lần trước khi ủ nhằm loại bỏ hết các thuốc chống nấm trước khi gieo.

– Trong trường hợp gieo hạt khô không qua ngâm ủ, nên thử lại tỷ lệ nẩy mầm (đạt trên 90%) và nên gieo 1-2 hạt/hốc, chỉ lấp một lớp đất mỏng 3-4cm. Có thể tưới nhẹ đạt độ ẩm đất 65-70% trước hoặc sau khi gieo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hạt nẩy mầm nhanh và đều.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thu hoạch và bảo quản Lạc làm giống

Lạc (đậu phộng) là cây lấy dầu ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên để thu hoạch và bảo quản lạc giống tốt, đảm bảo được tỷ lệ nảy mầm cho vụ sau cần làm tốt các yêu cầu kỹ thuật sau:

1. Thu hoạch

– Xác định thời điểm thu hoạch là một khâu quan trọng vì nó ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng hạt giống.

– Khi kiểm tra thấy lá vàng, vỏ quả cứng, chắc, ít quả lép, 70-75% quả chín sinh lí (với dạng cây phân cành liên tục tỷ lệ này còn có thể thấp hơn). Thu hoạch lạc để giống không nên thu quá già. Thu sớm hơn 7 – 10 ngày so với sản phẩm sử dụng để tiêu dùng và bán.

Sở dĩ thu hoạch sớm hơn vì:

-Lúc này hạt lạc ở vào giai đoạn chín sinh lý, các chất dinh dưỡng đạt cao nhất.

– Khi phơi khô, hạt lạc không bị nứt.

– Chủ động phơi sấy, không bị lẫn với các thứ khác khi phơi.

Sau khi nhổ, cây nên rải ra thành hàng để khử lẫn lần cuối. Bất cứ cây khác dạng nào và cây có quả bị bệnh nên loại bỏ, những quả rơi rụng không nên giữ làm giống.

Chú ý: + nếu trời nắng, vặt quả, phân loại chọn quả già, không dập nát, không có vết bệnh (màu nâu, đen, thối …) trên vỏ quả.

+ Nếu trời mưa: Nếu gặp trời mưa, phát hiện lạc nẩy mầm 3 – 5 % nên thu hoạch ngay, rửa sạch đất cát và đem về nhà, không vặt quả ngay mà nên treo hoặc làm giàn để trải ra cho thật thoáng, không dồn đè lên nhau, nhằm giúp không khí lưu thông, dễ thoát nước.

2. Làm khô giống

Các giống lạc hiện nay hầu hết không có tỉnh ngủ tươi nên có thể nảy mầm ngay tại ruộng hoặc khi đã thu hoạch nhưng không làm khô kịp thời. Vì vậy cần làm khô quả lạc bằng cách:

– Phơi ngay tại ruộng nếu trời nắng to, ruộng khô ráo hoặc treo phơi dưới hiên.

– Cũng có thể vặt quả ra phơi dưới sân gạch hoặc phơi trong nia, mẹt tránh phơi trên sân bê tông nhiệt độ quá cao làm ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống.

Khi phơi: gặp trường hợp nắng gắt, nên phơi trong bóng râm (hay dưới ánh sáng tán xạ) một hai lần. Khi lạc đã khô sau 1 – 2 nắng nhẹ và lúc này được phép phơi ngoài nắng trực tiếp để lạc nhanh khô (sao cho khi bóc vỏ dùng tay chà mạnh thấy cho tróc vỏ lụa). Sau khi phơi khô nên để nguội qua một đêm rồi mới đem bảo quản.

3. Phương pháp bảo quản lạc giống dạng quả:

Tỷ lệ nảy mầm của giống phụ thuộc rất nhiều vào quá trình bảo quản. Nếu bảo quản bằng kho lạnh 12 0C thì sau 12 tháng tỷ lệ nảy mầm vẫn đạt 95,6%, màu sắc vỏ lụa ít bị biến đổi. Nếu bảo quản kín trong phòng thì sau 6 tháng tỷ lệ nảy mầm đạt 89,5%, sau 8 tháng đạt 76,1% nhưng nếu để từ 9-12 tháng thì tỷ lệ nảy mầm giảm mạnh còn trên dưới 50 %. Có các phương pháp bảo quản sau:

Phương pháp 1: Bảo quản trong bao tải, chum vại, thùng phuy, gỗ … cách ly:

Lạc giống thật khô (khi hạt tách khỏi vỏ, lắc thấy long là được), sạch được đóng gói trong bao tải có túi nilon, chum vại, thùng phuy, gỗ, …. có lót lớp vôi dưới đáy và bịt chặt bằng nilon trên đầu túi cho vào bao tải, thùng phuy, gỗ… Cũng có thể cho lạc vào chum vại (có lót lớp vôi dưới đáy) rồi phủ lên trên 1 ít lá xoan, sau đó buộc nilon… Lạc giống không nên giữ quá 1 năm.

Phương pháp 2: Bảo quản lạc trong thùng xốp dày 15cm cách ly:

Sau khi thu hoạch lạc, phơi khô, để nguội rồi mới bỏ vào trong thùng xốp (Thùng xốp có bề dày 15cm, tùy theo số lượng giống cất giữ mà chọn thùng xốp to hay nhỏ) sau đó đậy nắp lại và dùng băng keo dán kín không cho không khí bên ngoài và bên trong trao đổi với nhau. Thùng xốp được đựng trong khung sắt được bao quanh bằng lưới mắt cáo để không cho chuột phá hoại.

Phương pháp 3: Bảo quản trong can nhựa cách ly chôn dưới đất sâu 1m:

Sau khi thu hoạch lạc, phơi khô, để nguội rồi mới bỏ vào can nhựa, tùy theo lượng giống mà chọn can nhựa lớn hay nhỏ. Sau khi bỏ vào can nhựa đậy nắp can lại và dùng băng keo bịt kín không cho nước vào. Theo kinh nghiệm cất giữ giống thì cần bỏ can nhựa vào túi ni lon buộc chặt rồi chôn xuống đất sâu khoảng 1m.

Phương pháp 4: Bảo quản lạc ngoài đồng ruộng (Gieo lại vụ Hè-Thu năm sau)

(Áp dụng cho lạc vụ Đông-Xuân)

Bảo quản lạc ngoài đồng ruộng: Sau khi thu hoạch Lạc Đông Xuân, những nơi có điều kiện nước tưới có thể gieo lạc vụ Hè Thu để làm giống cho vụ Đông Xuân năm sau.

Nếu bảo quản theo các phương pháp trên thì có thể bảo quản giống lạc từ 5-6 tháng mà tỷ lệ nảy mầm đạt 80-92%.

Nguồn: khuyennongqnam.gov.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số bệnh phổ biến trên cây Lạc

Lạc cũng được coi là một mặt hàng nông sản chủ lực bên cạnh các cây lương thực khác như lúa, ngô, khoai, sắn (mì)…

Dưới đây là một số bệnh liên quan đến cây lạc thường hay gặp phải:

Sâu hại Biểu hiện Cách phòng trừ
Sâu xám Là đối tượng gây hại chính ở thời kỳ cây con, sâu thường cắn trụi lá đến cắn đứt ngang cây lạc lúc vừa mới mọc làm đứt khoảng, giảm mật độ lạc trên ruộng. Bà con bắt bằng tay.

Hoặc bà con sử dụng các loại thuốc hoá học như Dylan, Map Winner, Sherpa 25 EC, Basudin 10H (rãi) …

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Sâu khoang Phát sinh gây hại trong suốt qúa trình sinh trưởng của lạc, ở thời kỳ đầu vụ mật độ sâu cao, cắn khuyết đến trụi lá làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của lạc, sâu hại nặng ở giai đoạn lạc ra hoa bói trở đi, cắn trụi lá.
 + Luân canh cây trồng và vệ sinh đồng ruộng.

+ Dùng bả chua ngọt để diệt trừ.

+ Bắt diệt bằng thủ công khi mật độ thấp.

+ Khi mật độ cao, bà con có thể dùng thuốc Ofatox 40EC, Fastac, Dylan, Map Winner,…

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Rệp hại lạc Rệp tập trung thành đám bám vào phần lá non, đọt non của lạc chích hút dịch cây làm lạc sinh trưởng kém, quăn queo, ra hoa đâm tia kém. Rệp phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết có mưa phùn, ruộng lạc ẩm ướt, rậm rạp.

 + Vệ sinh đồng ruộng và bón phân cân đối.

+ Dùng thiên địch để diệt trừ.

(Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Sâu cuốn lá Sâu cuốn lá lạc gặm ăn hết biểu bì để lại lá non màu trắng, nếu mật độ cao làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất lạc.

Bà con bắt sâu bằng tay.

Khi rệp phát triển nhiều thì dùng Ofatox 50EC, Trebon 10EC,… để diệt rệp. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuấ

Thối rễ và củ Cây con bị thối rễ và chết.

Lá cây bị héo vàng, cây còi cọc.

Rễ cái, củ non bị thối.

Phòng ngừa bằng các loại thuốc đặc hiệu như Amistar 250SC với các hoạt chất Hexaconazole, Difenoconazole… (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).
Thối gốc, mốc trắng Hạch nấm tròn nhỏ màu nâu và sợi nấm màu trắng trên gốc cây. + Phòng mầm bị thối bằng cách không gieo hạt quá sâu. Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc trừ nấm Dithan-M, Carbenzim, Rovral.

+ Biện pháp phòng bệnh là thu dọn tàn dư cây trồng, cày lật đất sớm. Nhổ bỏ cây bị bệnh nặng. Có thể phòng bằng các thuốc Hexin, Monceren, Rovral… vào thân và gốc cây. Ruộng lạc (đậu phộng) bị bệnh nặng cần luân canh cây khác. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Gỉ sắt Trên lá có những vết màu vàng đỏ.
Khi bệnh chớm xuất hiện trên lạc vụ thu, vụ xuân có thể phòng trừ bằng cách phun các loại thuốc Manage 15WP, Nustar 40EC hoặc Bavistin, Score 250EC, v.v….Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Đốm lá Trên lá có vết màu nâu đậm.
– Vệ sinh đồng ruộng trước và sau vụ trồng, nhằm hạn chế lây lan.

– Gieo tỉa với mật độ trung bình.

– Phun phòng và trị bệnh bằng thuốc các thuốc trừ sâu sinh học gốc đồng. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

Khảm lá Cây không phát triển, lùn do các lóng thân phát triển kém.
– Ruộng sản xuất giống nên được trồng sớm và bố trí cách ly với ruộng sản xuất đại trà.

– Dùng hạt giống tốt, đầy đặn, chống bệnh hoặc từ ruộng không bị bệnh. Khử hạt trước khi gieo như đối với bệnh đốm phấn.

– Cần phát hiện bệnh sớm và tiêu hủy cây bệnh. Vệ sinh đồng ruộng, trừ cỏ dại.

– Phun thuốc trừ sâu sinh học phòng trừ côn trùng mang truyền mầm bệnh. (Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

 

Kỹ thuật trồng lạc cho năng suất cao trong vụ xuân

Cây lạc (đậu phộng) là cây thân thảo thuộc họ Đậu, bộ rễ có khả năng cải tạo đất trồng.

Nhiệt độ thích hợp cho cây lạc sinh trưởng là 25 – 30 oC, cây lạc trưởng thành có thể cao từ 30 – 50 cm. Một vụ lạc kéo dài khoảng 100 – 130 ngày, cho năng suất trung bình đạt 35 – 40 tạ củ/ha. Giá lạc trên thị trường trung bình khoảng 20 nghìn đồng một kg. Lạc cũng được coi là một mặt hàng nông sản chủ lực bên cạnh các cây lương thực khác như lúa, ngô, khoai, sắn (mì)… Củ lạc có giá trị dinh dưỡng cao, thường được sử dụng trong bữa ăn gia đình. Ngoài ra, củ lạc còn được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất dầu thực vật, bánh, kẹo. Phần thân lạc sau khi thu hoạch sẽ được tận dụng làm thức ăn cho đàn gia súc, gia cầm rất hiệu quả.

1. Yêu cầu về đất trồng lạc (đậu phộng)

Chọn đất: Chọn đất có thành phần cơ giới cát pha hoặc thịt nhẹ, thoát nước tốt, không có nguồn bệnh héo xanh vi khuẩn. Vùng có t­ới chọn những khu đất có hệ thống t­ới tiêu chủ động, có chế độ luân canh với cây trồng nước.

Làm đất: cày sâu, bừa nhỏ, tơi xốp và nhặt sạch cỏ dại tr­ớc khi lên luống.

Độ ẩm: Đất trước khi gieo hạt phải đạt độ ẩm khoảng 70-75%, nếu đất khô phải t­ới ẩm rồi mới gieo.

2. Chuẩn bị giống lạc (đậu phộng)

* Bộ giống: Vùng có t­ới chọn các loại giống thâm canh nh­ L17, L15, L23, L24 và L18. Vùng khô hạn chọn giống L12, L17, L16, L20, L23 và L25. Vùng chuyên canh trồng lạc xuất khẩu chọn giống LO8.

* Lượng giống: Tuỳ thuộc vào kích cỡ hạt và chất Lượng hạt giống. Nếu sử dụng giống lạc Đông thì lượng dùng 200 đến 250 kg giống cho 1 ha.

* Xử lý hạt giống: trước khi gieo trồng bằng Rovral 50wp (2-3gam/kg hạt), Carbedazin 75 BTM 3 g/kg hạt, Thiram 3 g/kg hạt…

3. Thời vụ gieo đậu phộng

Thời vụ gieo từ 25/1 đến 5/2 hàng năm, tốt nhất là 5/2. Khi nhiệt độ không khí lớn hơn 13 0C là gieo được, không nên gieo sớm quá nhiệt độ thấp tỷ lệ nảy mầm của lạc kém, ảnh hưởng đến năng suất. Cũng không nên gieo muộn quá, thời gian sinh trưởng của lạc bị rút ngắn, lạc dễ bị sâu bệnh phá hại và gặp lụt tiểu mãn ảnh hưởng tới năng suất chất lượng.

4. Phân bón cho cây lạc (đậu phộng)

* Một ha cả 2 vùng dùng phân chuồng mục 10 tấn/ha (500kg/sào), vôi bột 400kg/ ha chia làm 2 đợt bón: đợt 1 bón lúc cày bừa làm đất 200 kg/ha; đợt hai 200kg/ha, vãi trực tiếp trên cây khi lạc ra hoa được 15-20 ngày.

* Vùng có t­ới bón phối hợp NPK với Lượng 45 kgN + 135 kg P2O5 + 90 kg K2O/ha. Hoặc có thể dùng phân hỗn hợp NPK tỷ lệ 3:9:6 với Lượng 1500 kg/ha.

* Vùng khô hạn bón phối hợp NPK với Lượng 30 kgN + 90kg P2O5 + 60 kg K2O/ha. Hoặc có thể dùng phân hỗn hợp NPK tỷ lệ 3:9:6 với Lượng 1000 kg/ha.

5. Mật độ và khoảng cách trồng lạc

Cả 2 vùng gieo khoảng cách 33 x 10 x 1 hạt với mật độ 33 cây/m2.

Ruộng thí nghiệm mật độ trồng lạc

Ruộng thí nghiệm mật độ trồng lạc

6. Chăm sóc đậu phộng

– Xới phá váng khi cây có 2 lá thật lúc này cần chú ý bới thoáng gốc để cho 2 lá mầm lộ ra, tạo điều kiện cho cặp cành cấp 1 phát triển tốt, phun đa vi Lượng đợt 1.

– Xới cỏ lần 2 khi cây có 7 – 8 lá thật (sau mọc 30 – 35 ngày) lần này nên sới sâu giữa hàng tạo điều kiện cho đất thoáng khí.

– Xới cỏ lần 3 kết hợp với vun gốc, bón vôi thúc sau khi ra hoa rộ 10 ngày.

– Vùng có t­ới: T­ới nước t­ới vào 2 thời kỳ quan trọng tr­ớc khi ra hoa và thời kỳ làm quả nếu thời tiết khô hạn. T­ơí vào rãnh ngập 2/3 luống, để nước ngấm đều rồi tháo cạn là ph­ơng pháp t­ới tốt nhất. Trong tr­ờng hợp khó khăn về nước có thể t­ới phun để tiết kiệm nước. Chú ý nếu lạc sinh trưởng kém lúc bói hoa có thể phun đa vi Lượng đợt 2.

– Phun thuốc phòng trừ sâu bệnh:

+ Phòng trừ bệnh lá: Daconil 15- 17 g/10lít nước; Tiltsuper 300ND 0,1-0,2 lít/ha; Topan 70ƯP 0,3- 0,5 kg/ha. Đối với giống nhiễm cần phun tr­ớc ra hoa và sau tắt hoa 10-15 ngày.

+ Phòng trừ bệnh hại quả và hạt (mốc vàng, đốm xám vỏ hạt, đốm đen quả); Xử lý hạt, đất tr­ớc khi gieo, tránh tổn th­ơng cho cây và quả trong quá trình chăm sóc. Thu hoạch đúng độ chín vào ngày nắng ráom phơi ngay sau khi thu hoạch.

+ Phòng trừ sâu hại chủ yếu (Sâu khoang, sâu xanh, sâu cuốn lá, sâu xám, sâu chích hút) Sử dụng cây hướng dương làm cây dẫn dụ để thu hút các loài sâu khoang, sâu xanh đến đẻ trứng. Định kỳ kiểm tra để diệt các ổ trứng và sâu non trên lá hướng dương. Có thể ngâm no nước hạt hướng dương rồi gieo cùng với gieo lạc. mật độ hướng dương 2 cây/ 10 m2.

+ Ngưỡng phòng trừ sâu hại nh­ư sau:

* Bọ trĩ: 5 con/búp ở giai đoạn 30-40 ngày sau mọc

* Sâu khoang: 20 – 25% diện tích lá bị hại ở 30-40 ngày sau mọc

* Rầy xanh: 5 con / cây ở giai đoạn 30 ngày sau mọc

* Các loại sâu khác: 20 – 25% diện tích lá bị hại ở 40-50 ngày sau mọc

– Chống chuột: Quy vùng lạc, có biện pháp đánh chuột đồng bộ toàn dân hoặc quây nilon nếu có thể.

7. Thu hoạch lạc (đậu phộng)

Thu hoạch khi quả già đạt khoảng 80 – 85% tổng số quả/cây sau khi nhổ, vặt quả, rửa sạch, phơi d­ới nắng nhẹ đến khi vỏ lụa tróc là được.

Nguồn: Cẩm nang cây trồng được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng sắn xen lạc, nông dân thu lợi nhuận gấp đôi

Trung tâm Khuyến nông (KN) tỉnh vừa triển khai thành công mô hình canh tác sắn xen lạc tại các huyện Hướng Hóa và Cam Lộ. Theo đánh giá của nông dân, mô hình này không chỉ tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích mà còn hạn chế hiện tượng xói mòn đất, góp phần đảm bảo canh tác sắn bền vững.

Mô hình trồng sắn xen lạc mang lại hiệu quả cao ở xã Cam Tuyền, Cam Lộ

Mô hình được triển khai trong vụ đông xuân 2016 – 2017 trên diện tích 6 ha tại các xã Tân Lập, Hướng Tân (huyện Hướng Hóa) và Cam Tuyền (huyện Cam Lộ) với giống lạc L 14 trồng xen giống sắn KM 94 theo quy cách giữa 2 hàng sắn trồng xen 2 hàng lạc. Theo các hộ tham gia thực hiện mô hình, khi canh tác theo phương thức sắn xen lạc không những nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả kinh tế được tăng lên, mà còn góp phần cải tạo đất. Ông Trần Văn Bình ở tại thôn Tân Quang, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, một trong những hộ tham gia thực hiện mô hình cho biết, gia đình ông có 3 sào đất thực hiện mô hình trồng sắn xen lạc.

Hiện cây lạc đã bắt đầu cho thu hoạch. Theo tính toán của ông, trung bình 1 sào lạc trồng xen với sắn cho năng suất khoảng 1 tạ lạc/sào, với giá bán hiện nay từ 30.000 – 32.000 đồng/kg thì với 3 sào đất trồng sắn xen lạc đã mang lại cho ông hơn 9 triệu đồng. Sau khi thu hoạch lạc, phần thân và lá được dùng để che phủ gốc sắn nhằm duy trì độ ẩm và tăng chất hữu cơ cho đất. Theo ông Bình, thế mạnh của mô hình này là trên cùng một diện tích canh tác, nông dân thu hoạch được 2 lần, hiệu quả kinh tế mang lại gấp đôi so với trước đây. Theo kỹ sư Dương Hồng Phong, Phó Trạm trưởng Trạm KN huyện Cam Lộ, kết quả việc trồng sắn xen với lạc cho thấy cả 2 loại cây trồng này đều sinh trưởng, phát triển tốt, ít bị sâu bệnh gây hại, ít cỏ dại hơn.

Trong mô hình trồng xen 2 hàng lạc giữa 2 hàng sắn với mật độ 45 cây/m2. Nhờ được hưởng lợi thế khoảng không gian của cây sắn thời kỳ đầu chưa khép tán nên cây lạc có số hạt chắc/cây cao, năng suất thực thu tương đương so với trồng thuần lạc. Trong khi đó nhờ được trồng sớm, cây sắn có đủ thời gian tích lũy (11 – 12 tháng) nên sẽ cho năng suất và hàm lượng tinh bột cao hơn. Chính vì thế thu nhập cao hơn so với mô hình luân canh lạc (đông xuân) – sắn (hè thu) hoặc trồng thuần sắn. Bên cạnh đó, sau khi thu hoạch lạc xong, toàn bộ thân, cành, lá, gốc, rễ của lạc sẽ được vùi lấp xuống đất làm phân xanh, đất sẽ giàu mùn và tơi xốp hơn, độ phì và khả năng giữ ẩm cũng tăng lên, nhất là với đất dốc bạc màu, đất sét pha cát tại các huyện trung du, miền núi.

Qua đánh giá thực tế tại các mô hình trồng sắn xen lạc này, tại huyện Hướng Hóa năng suất lạc đạt từ 12,4 – 13,4 tạ/ha, năng suất sắn đạt từ 25 – 28,7 tấn/ha; còn tại huyện Cam Lộ cây lạc đạt năng suất từ 15 – 20 tạ/ha, năng suất cây sắn dự kiến đạt khoảng 25 – 30 tấn/ha. Như vậy với giá lạc (30.000 – 32.000 đồng/kg) và sắn (1.000 đồng/ kg) như hiện nay, ước tính mỗi héc ta trồng sắn xen lạc cho thu nhập trên 70 triệu đồng, cao gấp 2 – 2,5 lần so với trồng thuần lạc hoặc sắn trên cùng chân đất. Tuy nhiên để trồng lạc xen sắn đạt hiệu quả cao, nông dân cần lưu ý làm đất kỹ, bón phân đầy đủ, nhất là bón lót, lên luống để trồng với khoảng cách và mật độ thích hợp, sao cho mỗi cây trồng đều tận dụng được không gian dinh dưỡng (ánh sáng, không khí, đất) để sinh trưởng và phát triển đạt năng suất cao, chất lượng tốt.

Ông Nguyễn Trung Hậu, Giám đốc Trung tâm KN tỉnh cho biết: “Là một trong bảy loại cây trồng chủ lực của tỉnh, hiện cây sắn không còn là cây lương thực mà đã trở thành nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến. Với diện tích trên 11.000 ha trồng tập trung chủ yếu tại các địa bàn miền núi, trung du như Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Vĩnh Linh… cây sắn không chỉ là cây xóa đói giảm nghèo mà còn là cây làm giàu cho nhiều hộ gia đình, trong đó có nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, năng suất bình quân sắn ở tỉnh chưa cao (khoảng 19 tấn/ha), chất lượng củ thấp và độ đồng đều không cao; nguy cơ bạc màu, xói mòn rửa trôi đất trồng vẫn tiềm ẩn, sản xuất thiếu bền vững, mà nguyên nhân chủ yếu là do kỹ thuật canh tác, đầu tư thâm canh, độ phì đất, giá bán giao động lớn.

Vì vậy với mô hình trồng sắn xen lạc này, ngoài hiệu quả kinh tế thu được, mô hình còn làm thay đổi quan điểm của nông dân về kỹ thuật trồng lạc xen sắn trên vùng đất đồi núi chỉ nhờ nước trời, sử dụng giống lạc có chất lượng cao, có bón phân lân, vôi cho lạc. Bên cạnh đó còn hạn chế xói mòn đất, góp phần bảo vệ tài nguyên đất, giúp quá trình canh tác bền vững hơn. Trên cơ sở này, trong thời gian chúng tôi sẽ tiếp tục tuyên truyền, nhân rộng mô hình này ra các vùng trồng sắn trong tỉnh nhằm tạo ra vùng nguyên liệu sắn củ tươi cho các nhà máy trên địa bàn, hạn chế thoái hóa đất, bảo vệ môi trường sinh thái và tăng hiệu quả sản xuất cho người trồng sắn”.

Nguồn: Báo Quảng Trị được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng nghệ ‘mượn giống’

Củ nghệ giống (nghệ vàng) sau trồng 5 – 6 tháng, có thể bới gốc lấy lại củ vốn làm nghệ thương phẩm, được coi là “mượn giống”.

Đất trồng: Chọn chân ruộng đất cát pha, chủ động tưới tiêu. Đất phù sa non (bãi ven đê) trồng nghệ là tốt nhất. Ruộng cày 2 lần tới độ sâu 35 – 40cm thì dừng. Phơi đất ải kiệt. Lên luống rộng 1,3m, cao 15 – 20cm, rãnh luống rộng 25 – 30cm.

Ruộng nghệ xen canh lạc

Chọn giống và ra giống:

Tiêu chuẩn củ giống: Phải đủ 12 tháng tuổi, không sâu bệnh, không trầy xước và bầm giập. Khóm nghệ sau thu hoạch tách lấy 2 má củ (cạnh bên khóm) dùng làm giống. Củ giống càng to càng tốt, trung bình khoảng 300gr/1 củ. Mỗi củ có 1 nhánh cái và 2 – 5 củ nhánh cấp 1; 2.

Lượng giống trồng/1 sào 360m2: 250 – 300kg.

Mật độ trồng: 970 – 1.000 cây. Trồng 2 hàng trên luống. Hàng cách hàng 45cm. Cây cách cây 50cm.

Khơi hốc so le nanh sấu. Củ giống trồng sâu 7 – 10cm. Lấp đất kín củ. Không để củ giống tiếp xúc trực tiếp với phân bón. Đặt trồng sao cho các củ cái qoay đều về một hướng trên luống, để tiện thu hồi củ vốn sau này.

Bón phân:

Lượng phân: Tro bếp 300kg. Đỗ tương nghiền 100kg. Đạm urê 20 – 25kg. Kalisunfat 30kg (có thế dùng kaliclorua). Phân hữu cơ vi sinh Sông Gianh 300kg. Lân supe 15 – 20kg.

Bón lót: Bón sâu 50% lượng phân hữu cơ vi sinh + 30% lượng đỗ tương nghiền + 100% số phân lân. Bón mặt luống 200kg tro bếp và vét rãnh lấp tro.

Bón thúc lần 1 (cây 2 – 3 lá): 4 – 5kg urê pha nước tưới.

Lần 2 (khi thu hồi củ vốn): Bón sâu hết số phân hữu cơ vi sinh và đỗ tương còn lại. Bón mặt nối số tro bếp và vét rãnh lấp tro.

Lần 3 (cuối tháng 7): 10kg đạm urê + 10kg kali, kết hợp vun gốc.

Lần 4 (cuối tháng 8): 15kg đạm urê + 20kg phân kali.

Ngoài ra, cần căn cứ thực tế sinh trưởng của ruộng nghệ để tăng giảm lượng phân bón cho hợp lý. Kiểm tra nếu cây nghệ sinh trưởng chậm, thân còi cọc, lá hẹp nhỏ, mỏng, mép lá hơi quăn, cần bón bổ sung đạm urê và phân hữu cơ vi sinh. Ruộng nghệ quá tốt, thân cây xanh mập mềm yếu, lá lả lướt, cẩn bón bổ sung phân kali…

Cần thường xuyên nhổ bỏ cỏ dại, dưỡng nước đủ ẩm cho ruộng nghệ, để cây sinh trưởng phát triển tốt.

Phòng trừ sâu bệnh: Cây nghệ ít nhiễm sâu bệnh. Tuy nhiên ở những ruộng nghệ thâm canh cao lâu năm, đã xuất hiện bệnh thối cây thối củ, hiện chưa có thuốc trừ đặc hiệu. Cần áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp như, chọn củ giống sạch bệnh, phơi đất ải kiệt, bón phân cân đối, chăm bón kịp thời để tăng sức đề kháng, luân canh nghệ với cây trồng khác họ gừng. Khi ruộng nghệ có những cây bị thối thân, cần nhổ bỏ cả khóm củ đưa đi tiêu hủy.

Thu hoạch:

– Thu hồi củ vốn: Khi mỗi bụi nghệ phát triển được 2 – 3 cây, mỗi cây có 5 – 6 lá, có thể tiến hành thu hồi củ vốn. Dùng dầm khơi nhẹ đất hướng trồng củ cái trước đó, tách nhẹ lấy củ vốn dùng làm nghệ thương phẩm (lượng củ vốn thu hồi được trên 80%).

– Thu củ khơi đất nhẹ nhàng, tránh chạm vào khóm củ gây trầy xước bầm giập. Sau đó nhắc cả bụi cây, cắt bỏ thân lá, rũ sạch đất mà không rửa củ, bán ngay cho thương lái hoặc đóng bao tiêu thụ dần.

Kỹ thuật trồng xen:

Củ nghệ sau trồng 2,5 – 3 tháng mầm cây mới vươn khỏi mặt đất, trong gian này có thể trồng xen một số cây rau màu ngắn ngày để tăng thu nhập. Nên trồng xen nghệ với lạc hoặc đậu tương để vừa có sản phẩm thu hoạch, vừa có tác dụng bồi dục đất, bổ sung dinh dưỡng thúc đẩy nghệ sinh trưởng tốt.

– Trồng xen lạc: Dùng cuốc rạch 1 hàng giữa luống, sâu 7 – 10cm. Rải lân supe xuống rạch (7 – 10kg/sào). Lấp đất kín phân. Cách 12 – 15cm gieo 1 – 2 hạt, sau gieo phủ đất kín hạt. Dùng rơm rạ, cỏ khô phủ luống giữ ẩm đất. Khi lạc ra hoa rắc vôi bột xung quanh gốc lạc (7 – 8kg/sào).

– Xen đậu tương: Gieo 2 hàng đậu giữa luống. Hàng cách hàng 35cm. Cây cách cây 7 – 8cm. Bón thúc 3 – 4kg urê/sào, chia 2 lần, khi cây có 2 – 3 lá thật và 4 – 5 lá thật.

– Phòng trừ sâu bệnh theo khuyến cáo của cán bộ chuyên ngành địa phương.

Sau thu hoạch các cây họ đậu, cần để lại thân lá trên luống nghệ làm phân bón hữu cơ cải tạo đất.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.