Vỗ béo cừu bằng “hèm bia”

Ninh Thuận từ lâu đã nổi tiếng với nghề chăn nuôi cừu. Tuy nhiên, nắng hạn kéo dài ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi cừu do thiếu thức ăn và nước uống.

Để tránh tình trạng cừu chết do thiếu thức ăn, nhiều người chăn nuôi đã chủ động chuyển đổi diện tích trồng lúa và một số cây trồng kém hiệu quả khác sang trồng cỏ phục vụ chăn nuôi, đồng thời, tìm cách bổ sung thức ăn tinh nhằm giúp tăng trọng lượng cừu.

Chăn nuôi cừu vỗ béo từ hèm bia của anh Huỳnh Nguyên Đăng ở xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận được xem là mô hình mang tính đột phá, giúp cừu phát triển tốt, tăng trọng cao ngay trong mùa hạn.

Nuôi cừu bằng hèm bia

Từ lâu, hèm bia được sử dụng trong chăn nuôi bò, heo, giúp giảm chi phí đầu tư và đàn bò, heo phát triển tốt, tăng trọng nhanh. Trên cơ sở đó, anh Huỳnh Nguyên Đăng ở Ninh Thuận đã áp dụng việc sử dụng hèm bia để chăn nuôi cừu vỗ béo. Ban đầu, anh nuôi 150 con cừu vỗ béo theo cách cho ăn cỏ kết hợp hèm bia. Sau 3 tháng nuôi thử nghiệm, đàn cừu của anh phát triển tốt, ít bị bệnh, trọng lượng tăng từ 3 – 4kg so với cách nuôi truyền thống.

Từ thành công ban đầu, anh Đăng tiếp tục mở rộng trang trại và tăng số lượng cừu từ 150 con lên 700 con. Hướng đến, anh sẽ xây dựng một trang trại chăn nuôi cừu vỗ béo từ hèm bia khoảng 3.000 con, nhằm ổn định đầu ra và giải quyết việc làm cho lao động địa phương.

Anh Huỳnh Nguyên Đăng cho biết, nếu điều kiện thuận lợi thì sẽ mở rộng mô hình nuôi cừu lên khoảng 3.000 con để ổn định nguồn cung ra thị trường. Để thức ăn thừa của cừu, anh Đăng làm hai ao cá để lúc nào trong chuồng cừu cũng có máng thức ăn sạch, thức ăn thừa sẽ dùng để nuôi gà, vịt… Bên cạnh đó, lượng phân cừu sẽ được dùng để trồng rau sạch…

Cừu vẫn khỏe mạnh khi được vỗ béo hèm bia

Theo anh Huỳnh Nguyên Đăng, việc nuôi cừu vỗ béo từ hèm bia sẽ giúp người chăn nuôi ít phụ thuộc vào thời tiết; giảm 50 – 70% chi phí thuê nhân công cắt cỏ và mua thức ăn tinh; đồng thời, trọng lượng cừu tăng từ 20 – 30% so với cách nuôi truyền thống; lông bóng đẹp và hệ tiêu hóa phát triển tốt nên ít bị dịch bệnh. Từ thành công của mô hình này, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước đang dự kiến nhân rộng ra địa bàn xã để bà con nông dân học tập, làm theo.

Ông Lê Văn Duông, cán bộ nông nghiệp xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước- Ninh Thuận cho rằng, nếu nhân rộng mô hình nuôi cừu từ hèm bia thì có thể tiết kiệm diện tích cỏ rất nhiều.

Việc sử dụng hèm bia trong chăn nuôi cừu vỗ béo của anh Huỳnh Nguyên Đăng được xem là một hướng đi mới, tận dụng nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, có giá thành thấp, giảm phụ thuộc vào thức ăn xanh, nhưng cừu vẫn phát triển tốt, tăng trọng nhanh, qua đó, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.

Nguồn vov.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Phương pháp phát hiện sớm bệnh trên tôm với chi phí rẻ

Một công ty công nghệ sinh học Nhật Bản đang hợp tác với các nhà nghiên cứu tại Đại học Tohoku để phát triển một giải pháp có thể phát hiện nguyên nhân gây hội chứng tử vong sớm (EMS) ở tôm nuôi và các bệnh khác trên tôm. Được thực hiện tại ao, nhanh chóng và chính xác nhưng chi phí cực kỳ hợp lý.

Tohoku Bio-Array, còn được gọi là Công ty TBT và Đại học Tohoku ở thành phố Sendai, Nhật Bản, sẽ cùng nhau phát triển xét nghiệm di truyền để cho phép phát hiện sớm các bệnh truyền nhiễm trong tôm nuôi, được báo cáo trên Nippon Keizai Shimbun vào ngày 5/6 vừa qua. Mục đích chính của phương pháp này là nhanh chóng phát hiện ngay tại ao nuôi tôm.

Để sử dụng bộ kit, tôm được nghiền sau đó pha trộn rồi đưa qua phản ứng PCR được gắn nhãn để khuếch đại gen của virut. PCR là một kỹ thuật sao chép một vài bản sao của một đoạn DNA, để sản xuất hàng ngàn (hoặc hàng triệu bản sao). Sau đó, một dải thử nghiệm – một màng có dãy DNA in trên nó – được nhúng trong dung dịch, và một đường màu xanh xuất hiện nếu kết quả dương tính, và có thể được xác nhận trực quan. Các xét nghiệm cho ba hoặc bốn bệnh, bao gồm cả EMS, có thể được bao gồm bằng 1 xét nghiệm duy nhất.

Một máy xử lý là cần thiết để khuếch đại gen, nhưng giá mỗi lần xét nghiệm dự kiến sẽ chỉ khoảng 5-10 USD (từ 4,50 đến 9 EUR). Việc chẩn đoán có thể được thực hiện trong khoảng một giờ để nông dân có cơ hội thu hoạch ao sớm hoặc dừng ao nuôi mới nhằm giảm tổn thất nếu có kết quả dương tính.

Xét nghiệm di truyền chuẩn đoán bệnh trên tôm không phải là mới. Nó đã có thể được thực hiện với chi phí cao hơn một chút so với các thử nghiệm này. Và phương pháp thông thường vận chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm để thử nghiệm thì nông dân phải đợi ít nhất vài ngày mới có kết quả.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Cá tai tượng – loài cá phát tài

Cá tai tượng – một loài cá xương nước ngọt thuộc họ Osphronemidae, sống ở vùng nước lặng, nơi có nhiều cây thuỷ sinh. Đây là loài cá đặc trưng cho vùng nhiệt đới, phân bố ở vùng đồng bằng Nam Bộ Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào.

Tại Việt Nam cá tai tượng phân bố tự nhiên ở sông Đồng Nai. Đây là loài cá có khả năng thích nghi đặc biệt với điều kiện khắc nghiệt của môi trường.

Cá tai tượng

1. Môi trường sống của cá tai tượng

Cá tai tượng sống ở ao hồ, đầm nước ngọt cá có cơ quan hô hấp nên cá sống được ở nước tù, thiếu oxy.

Cá cũng sống được ở nước lợ, ngưỡng nhiệt độ 16 – 42 °C, sinh trưởng tốt ở 25 – 30 °C  ở nhiệt độ thấp hơn cá thường hay bị bệnh. Độ PH thích hợp là 5. Chúng có thể sống được trong môi trường nước ao dơ bẩn, thiếu oxy nhờ cơ quan hô hấp phụ nằm ở cung mang thứ nhất

Cá tai tượng được nuôi trong hồ kiếng

So với cá sặc rằn và cá rô phi thì khả năng chịu lạnh của cá tai tượng kém hơn, nhưng khả năng chịu nóng lại cao hơn.

2. Đặc tính sinh sản

Nên có sẵn một hồ kiếng khá rộng cho một cặp cá Tai Tượng Phi Châu vào đẻ. Trong hồ ta nên đặt sẵn một cục gạch thẻ theo thế đứng để làm ổ cho cá đẻ lên đó.

Cặp cá mái Tai Tượng thả vào hồ chúng có thể bơi lội nhởn nhơ bình thường. Nhưng một lúc nào đó ta thấy hai con trượt đuổi nhau, cắn mổ nhau, húc đầu vào nhau, cá trống tìm cách khống chế cá mái bắt cá mái phải phục tùng… đó là dấu hiệu báo cho ta biết cá sắp đẻ trứng.

Khi đẻ, trứng nằm theo từng hàng trên viên gạch, không đẻ một lần liên tục mà chia ra nhiều lần. Mỗi lần cá mái thở là nó lại đẻ tiếp một đợt trứng. Có cái khéo léo là các trứng không nằm đè lên nhau. Khi cá mái đẻ xong, cá trống liền tới thụ tinh cho ổ trứng, nó rưới lên trứng một chất nhão đó là tinh trùng…

Và cũng như thói quen của cá Dĩa, trống mái Tai Tượng cũng lẩn quẩn quanh ổ trứng vừa canh trứng vừa dùng vi quạt trứng như một hình thức ấp trứng để nước dao động quanh trứng, cung cấp dưỡng khí cho trứng…

Khoảng một ngày sau đó trứng nở. Cá con vẫn bám chặt vào ổ như vậy suốt ba bốn ngày. Và trong thời gian này, cá cha mẹ vẫn siêng năng ở bên cạnh để canh giữ

Nuôi dưỡng cá con: Mới ra đời, cá con chưa biết ăn, chúng sống được nhờ thức ăn dự trữ trong thân chúng. Sau bốn ngày tuổi, cá con mới rời ra khỏi ổ trứng và lúc này mới biết bơi. Cá con Tai Tượng Phi Châu mới nở rất lớn và ăn các loại thức ăn nhỏ như lòng đỏ trứng gà…… Sau khoảng một tuần cá có thể ăn trùn chỉ,cám..

3. Tập tính của cá Tai Tượng

Cá tai tượng có thể ăn bất cứ gì mà người nuôi cho vào cho chúng ăn. Cá rất tham ăn vì thế các bạn lưu ý cho cá ăn vừa phải tránh cá bị sình bụng do ăn quá nhiều

Cá tai tượng rất tham ăn

Cá Tai Tượng có thể ăn các loại cá con vì thế tránh nuôi cá tai tượng chung với các loại cá nhỏ khác trong cùng một hồ nuôi. Cá khá dữ và hay đánh cũng như ăn thịt các loại cá cảnh khác trong cùng một bể chỉ nuôi cá với các loại cá có tập tính tương đương như Hồng két, đầu bò hoặc nuôi riêng lẻ.

4. Thị trường mua bán, giá bán cá tai tượng

– Giá trung bình (VND/con):20000
– Giá bán min – max (VND/con):10.000 – 4.000.000

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi dưỡng và chăm sóc thỏ cái sinh sản

Từ xưa đến nay nuôi thỏ sinh sản thì việc chăm sóc thỏ cái là một điều hết sức quan trọng. Bởi thỏ cái khỏe mạnh thì mới đủ khả năng sinh ra thỏ con khỏe mạnh.

Tỷ lệ thỏ đực/cái ở các cơ sở giống

Một đực giống tốt có thể phụ trách phối giống cho 5-6 con cái. Nhưng tại các gia đình có đàn cái quy mô nhỏ hoặc ở cơ sở nhân giống thuần quy mô lớn thì nên ghép một đực với 4-5 cái. Như vậy tạo điều kiện phối giống kịp thời, không lỡ kỳ động dục của thỏ cái. Tiện cho việc cai sữa, chăm sóc và xuất bán sản phẩm đồng loạt.

Tuổi động dục và phối giống lần đầu của thỏ cái

Thỏ cái bắt đầu động dục và có thể chịu đực lúc 4-5 tháng tuổi. Đối với thỏ ngoại tuổi phối giống thích hợp là lúc khối lượng cơ thể đạt 3kg trở lên, thỏ lại đạt trên 2,6kg (5,5 – 6 tháng tuổi). Nếu cho phối sớm trước 5 tháng tuổi thì đàn con sinh ra yêu, kém phát triển và đời giống của bố mẹ ngắn hơn, bởi vì cơ thể thỏ trước 5 tháng tuổi chưa phát triển hoàn chỉnh.

Chu kỳ động dục của thỏ thường là 10 – 16 ngày,thời gian động dục kéo dài 3 – 5 ngày. Thỏ cái động dục sớm hay muộn, đúng kỳ hay không là do thể lực, trạng thái sức khỏe, chế độ dinh dưỡng và môi trường khí hậu  quyết định. Có những con thỏ mẹ béo quá, hoặc mắc bệnh gầy yếu, mùa hè nóng kéo dài, mùa đông rét buốt, khi thỏ thay lông, thức ăn thiếu khoáng, thiếu sinh tố… đều là nguyên nhân làm thỏ không động dục hoặc ít hưng phấn chịu đực. Khi thấy lâu ngày không động dục không phối giống được thì phải kiểm tra xác định yếu tố nào gây ảnh hưởng để có biện pháp khắc phục kịp thời.

Biểu hiện của thỏ động dục

Nếu phát hiện động dục qua quan sát bằng mắt thì rất khó, mà chủ yếu kiểm tra niêm mạc âm hộ của chúng. Bình thường niêm mạc âm hộ của chúng có màu hồng nhạt, nếu động dục thì chuyển sang màu đỏ tươi, sưng tấy lên, khi thỏ cái có biểu hiện động dục đến ô chuồng thỏ đực thì chịu đực: mông và đuôi cong lên, chờ thỏ đực giao phối. Khi niêm mạc âm hộ chuyển sang màu đỏ thẫm, tím bầm là kết thúc kỳ động dục, thỏ không chịu đực nữa.

Kiểm tra niêm mạc âm hộ của thỏ động dục

Ở cơ sở giống thương phẩm thì con cái nên phối hai lần liền với hai con đực khác nhau, con đực trước già hơn con đực sau, để tinh trùng thỏ trẻ tăng cường hoạt lực cho tinh trùng thỏ già phối được trước. Còn ở cơ sở nhân giống thuần chủng thì chỉ được phối lặp lại, lần sau phải cách lần trước 4 – 6 giờ để tăng tỷ lệ thụ thai và thêm số con sơ sinh. Khi giao phối, nếu thỏ đực tốt thì đến gần con cái làm quen, ngửi con cái một lát rồi nhảy. Nếu con cái động dục thì chạy quanh lồng mấy vòng rồi dừng lại nâng mông cho thỏ đực nhảy.

Có một số con cái động dục nhưng do sợ hãi cũng không cho con đực phối, trường hợp đó ta cần kéo con cái ra giữa lồng và luồng tay xuống dưới bụng nhẹ ngàng nâng mông thỏ cái lên cho con đực nhảy. Nếu gia đình có đàn thỏ giống tốt, khỏe mạnh, nuôi dưỡng đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho chúng thì có thể cho đẻ liên tục, tức là sau khi đẻ 36 – 48 giờ thì cho giao phối giống ngay. Nếu không chửa ở chu kỳ động dục đồng thì phải phối giống vào chu kỳ động dục sau.

Khám thai cho thỏ

Mục đích là xác định được thỏ có chửa hay không để có kế hoạch chuẩn bị cho ổ đẻ vào lồng. Nêu thỏ không chửa thì tiếp tục kiểm tra động dục để kịp thời cho phối lại, không cần phải chờ đến kỳ đẻ mới phát hiện, sẽ lỡ mất chu kỳ động dục. Có thể khám thai vào ngày thứ 10 sau khi phối giống bằng cách nắn vuốt thai nhẹ nhàng trong tử cung qua thành bụng ở vùng xương chậu, gần cột sống. Nếu thỏ chửa thì thấy thai mềm ở dạng hòn cục nhỏ bằng đầu ngón tay cái hoặc ngón chân di chuyển qua  lại trong tử cung.

Chuẩn bị thỏ đẻ Nếu thỏ có chửa thì đến ngày thứ 28 sau khi phối phải đặt ổ đẻ vào lồng, ổ đẻ phải có đồ lót là cỏ khô, rơm hoặc vỏ bào mềm, sạch, không mốc, thỏ sẽ vào ổ đẻ và cào bới đồ lót, cắp thức ăn thô vào ổ, ăn cả một phần đồ lót.

Thỏ mẹ và thỏ con

Theo caytrongvatnuoi.com được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Những khoáng chất nào cần cho tôm?

Khoáng có vai trò hết sức quan trọng đối với động vật thủy sản, vì nó tham gia trực tiếp vào các quá trình sinh tổng hợp diễn ra bên trong cơ thể vật nuôi.

Do đó, làm thế nào để giúp động vật thủy sản hấp thu đủ lượng khoáng, luôn là vấn đề quan tâm của người nuôi. Khoáng là một nhóm các chất cần thiết và vật nuôi chỉ cần một lượng nhỏ, nhưng nếu thiếu chúng sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh trưởng và phát triển của vật nuôi. Hiện nay, người ta đã xác định được 16 nguyên tố khoáng đa lượng (Cu, Fe, Mn, Zn, Sn…) và 6 nguyên tố khoáng vi lượng (Ca, Mg, P, Na, K, Cl). Do động vật thủy sản sống trong môi trường nước, có thể hấp thu khoáng qua mang hoặc da, nên rất khó xác định chính xác nhu cầu khoáng. Tuy nhiên, nhu cầu khoáng của động vật thủy sản phụ thuộc vào 3 yếu tố:

• Tình trạng dinh dưỡng  của vật nuôi

• Thành phần và hàm lượng khoáng trong thức ăn

• Nồng độ khoáng trong môi trường nước.

Vai trò một số nguyên tố  Khoáng đối với động vật thủy sản

Trong nuôi trồng thủy sản, nhu cầu về các nguyên tố khoáng Sắt (Fe), Đồng (Cu), Kẽm (Zn), Canxin (Ca), Magie (Mg), Phosphorus (P) được quan tâm nhiều hơn.

Fe

Là thành phần cấu tạo nên Hemoglobin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên cá. Cá có thể hấp thu Fe qua môi trường, còn nếu bổ sung nên chọn muối có chứa ion Fe 2+ vì sẽ giúp cá dễ  hấp thu hơn. Thiếu sắt sẽ làm số lượng tế bào hồng cầu giảm, gan cá bị vàng. Các loại muối Fe được dùng phổ biến là Sắt (II) choloride (FeCl2), Sắt (II) Sulfat (FeSO4).

Cu

Là thành phần cấu tạo nên Hemocyanin, đóng vai trò vận chuyển máu và hô hấp trên Tôm, góp phần hình thành nên sắc tố melanin.Thiếu Cu tôm sẽ giảm sinh trưởng, giảm lượng Cu trong máu và gan tụy. Tôm có thể hấp thu Cu qua môi trường nước và trong bột cá. Loại muối bổ sung Cu được dùng phổ biến là CuSO4.

Zn

Kẽm giúp tăng khả năng vận chuyển CO2 trên động vật thủy sản, kích thích tiết acid chlohyride (HCl). Thiếu kẽm vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Loại muối thường dùng để bổ sung Zn là ZnSO4.

Ca

Là thành phần chủ yếu hình thành nên khung xương cá , duy trì áp suất thẩm thấu, tham gia cấu tạo vào chất dẫn truyền thần kinh. Cá có thể hấp thu Ca từ nước qua mang da, thiếu Ca sẽ làm giảm chức năng sinh sản trên cá. Cùng với Mg, Ca tham gia vào quá trình lột xác của tôm, nếu thiếu thì sẽ dẫn đến tôm không lột xác được, chậm lớn. Các muối thường dùng để bổ sung Ca là Calcium lactate (C6H10O6), Tri basic Calcium phosphate (Ca3(PO4)2), Calcium Cacbonate (CaCO3)…

Mg

Là chất xúc tác trong một số phản ứng quan trọng trong hệ thống enzyme. Tôm cá biển dễ hấp Mg từ môi trường nước. Thiếu Mg vật nuôi sẽ giảm ăn, tỉ lệ chết cao. Người ta sử dụng các muối MgSO4.7H2O, K2SO4.2MgSO4 để bổ sung khoáng cho vật nuôi.

P

Tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng, sinh trưởng, sinh sản và duy trì sự ổn định của pH trong ao nuôi. Cá tôm không thể hấp thu P qua môi trường nước mà hấp thu trực tiếp từ thức ăn. Khi thiếu P, vật nuôi sẽ giảm sinh trưởng, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, và làm tôm bị mềm vỏ. Do đó người nuôi hết sức lưu ý để bổ sung đủ lượng P cho tôm, cá. Các muối thường dùng để bổ sung P là: KH2PO4, NaH2PO4.

Kết luận

Tùy vào từng giai đoạn phát triển của vật nuôi mà nhu cầu khoáng cho từng giai đoạn sẽ khác nhau. Người nuôi cần chú ý sử dụng các muối có chứa các nguyên tố khoáng ở dạng dễ tan, để giúp vật nuôi hấp thu tốt hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Viet Nam.

Thức ăn của cừu

Cừu vốn là loài ăn tạp. Hầu như các loại cỏ lá cừu đều ăn được cả. Ngay cả cỏ khô, lá khô và nhiều loại củ quả, các phế phẩm nông nghiệp nó cũng không chê. Cừu có thể tìm kiếm thức ăn cả ngày, khi no bụng thì tìm một nơi yên tĩnh để nhai cỏ. Mỗi ngày cừu ăn một lượng thức ăn bằng 15% thể trọng của nó.

Cừu vốn là loài ăn tạp

Thức ăn của cừu thuộc các nhóm sau:

Thức ăn thô

Gồm các loại cỏ như cỏ chỉ, cỏ gà, cỏ lá tre, cỏ mần trầu thậm chí cả cỏ tranh (non), không đủ cỏ tươi cừu cũng ăn cả cỏ khô và thấy chung ăn cũng ngon miệng. Ngoài cỏ ra cừu cũng ăn được các loại lá như lá tre, lá bắp, lá mía, lá dâm bụt, lá soan, lá mướp, lá vông và cả lá cây cà phê…

Tận dụng dây khoai lang cho cừu

Nó cũng ăn được cả thân cây như cây bắp (non), cây cao lương, lá và dây khoai lang… Đốì với cây họ đậu như đậu ván, cây đậu rồng, cây đậu ma, đậu lông, đậu nành, đậu cô ve, sắn dây, đậu phộng, su hào… là những món cừu rất khoái khẩu…

Cừu ăn cỏ xanh

Thức ăn củ quả

Cừu cũng thích ăn các loại củ quả, như lúa, bắp, khoai lang, khoai tây, cà rốt, bí đỏ, mít non… Các phụ phế phẩm nông công nghiệp: vỏ chuối, xơ mít, vỏ thơm, bã đậu nành, xác mì, hèm rượu bia….

Thức ăn tinh

Nuôi cừu cũng cần đến thức ăn tinh, nhất là vào những tháng nắng hạn thiếu cỏ cho chúng ăn no. Đặc biệt đối với cừu mang thai, cừu đang nuôi con, và cả cừu đực giống cần thường xuyên cho ăn thức ăn tinh. Trung bình mỗi ngày ta chỉ cung cấp cho mỗi con cừu vài ba trăm gờ ram là đủ.

Thức ăn giàu khoáng và Vitamin

Loại thức ăn này rất cần đối với cừu mang thai, cừu đang nuôi con, và các cừu khác. Trong khẩu phần ăn của cừu nên bổ sung chất khoáng như calxi, phosphore, muối ăn và các loại vitaminc A-D-E cần thiết cho sức khỏe và hoạt động sinh sản của cừu.

Tóm lại, cừu ăn được hầu hết các loại cỏ, lá kể cả rơm. Thế nhưng, có điều này ta cần lưu ý: không nên cho cừu ăn cỏ ướt. Ăn cỏ ướt cừu dễ mắc bệnh đường tiêu hóa. Với những người nuôi cừu lâu năm, nhiều kinh nghiệm, họ không bao giờ thả cừu đi ăn vào lúc sáng sớm, khi cỏ trên đồng còn đẫm hơi sương. Họ phải chờ khi mặt trời đã lên cao, khoảng 8 giờ sáng trở đi, mới lùa cừu ra đồng ăn cỏ. Có người còn cẩn thận, ra đến bãi ăn, họ còn dùng bàn chân của mình quét lên đám cỏ xem chân có còn ướt hay không, nếu cỏ đã khô họ mới lùa cừu đến đó.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Con đường lây lan của dịch bệnh đốm trắng trên tôm

Những nghiên cứu cho thấy WSSV lây lan theo chiều ngang theo môi trường nước bởi sinh vật mang mầm bệnh (carriers) như: Vi tảo (microalgae), giun nhiều tơ (polychaete worms) và trứng của luân trùng (rotifer eggs).

1. Nghiên cứu của Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ (CIBA-ICAR) Ấn Độ

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên về giun nhiều tơ (Polychaete worms) là một vector thụ động của hội chứng đốm trắng cho tôm Sú bố mẹ (Penaeus monodon).

Nghiên cứu dựa trên những con giun nhiều tơ sống, Marphysa spp., Thu được từ các nhà cung cấp, ngư dân, cũng như các mẫu thu thập được từ 8 trạm trên bờ biển phía bắc của Tamilnadu (Ấn Độ). Tôm Sú bố mẹ với buồng trứng không phát triển, được thí nghiệm lây nhiễm WSSV bằng cách cho ăn giun nhiều tơ, loài này đã mang WSSV trước đó.

50% giun nhiều tơ có được từ các nhà cung cấp giun được phát hiện là dương tính WSSV bằng PCR 2 bước. Trong số 8 trạm nghiên cứu, 5 con giun dương tính với WSSV với tỷ lệ nhiễm từ 16,7 đến 75%. Giun nhiều tơ thu được từ các khu vực gần các trang trại nuôi tôm cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm cao hơn.

Các thí nghiệm thử thách trong phòng thí nghiệm đã khẳng định các quan sát được > 60% giun nhiều tơ tiếp xúc với WSSV được chứng minh là dương tính WSSV sau 7 ngày tiếp xúc. Người ta cũng xác nhận rằng tôm bố mẹ có thể bị nhiễm WSSV bởi thức ăn giun nhiều tơ mang mầm bệnh WSSV. Mặc dù nghiên cứu này chỉ cho thấy sự lây nhiễm ở mức độ thấp ở các loài thực vật hoang dã hoang dã nhưng các thí nghiệm này cũng cho thấy rõ ràng khả năng chuyển WSSV từ thức ăn sống sang tôm bố mẹ, giun nhiều tơ có thể đóng một vai trò trong dịch tễ học của WSSV.

Một số sinh vật mang mầm bệnh WSSV khác 

2. Nghiên cứu của Trường Đại học Thủy sản, Trung Quốc

Virus hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bởi phương pháp PCR trong luân trùng và trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích ao nuôi tôm.

Vi rút hội chứng đốm trắng (WSSV) được phát hiện bằng phương pháp PCR-dot blot hybridization trong trứng nghỉ luân trùng từ trầm tích tôm nuôi tôm He Trung Quốc (Penaeus chinensis). Nó cũng được phát hiện trong luân trùng được nở từ những quả trứng đó. Kết quả cho thấy trứng nghỉ có thể là một vật mang cho WSSV trong ao nuôi tôm.

3. Thí nghiệm của Viện Hải dương học, Học viện Khoa học Trung Quốc

Nghiên cứu về sự lây lan của WSSV (virus hội chứng đốm trắng) ở tôm he Nhật Bản (Marsupenaeus japonicus) thông qua vi tảo biển.

Để chứng minh được khả năng vi tảo biển biển mang WSSV, 6 loài vi tảo biển (Isochrysis galbana, Skeletonema costatum, Chlorella sp., Heterosigma akashiwo, Scrippsiella trochoidea, Dunaliella salina) đã được nuôi cấy với tôm he Nhật Bản trưởng thành (Marsupenaeus japonicus). WSSV được khảo sát hàng ngày bằng PC-nested để nghiên cứu liệu chúng có thể mang WSSV hay không. Các thí nghiệm tiếp theo đã được tiến hành để điều tra xem vi khuẩn có mang vi khuẩn có thể tái nhiễm trên tôm con. Kết quả cho thấy rằng tất cả các vi tảo biển thực nghiệm, ngoại trừ H. akashiwo còn lại có thể mang WSSV, và trong số đó, Chlorella sp. và S. trochoidea có khả năng mang WSSV mạnh nhất. Không giống như những sinh vật mang không xương sống khác của WSSV, các phát hiện của WSSV trong vi tảo biển, có kết quả dương tính sau 1 và 3 ngày, âm tính sau 10 ngày nuôi cấy.

Kết quả phát hiện WSSV ở tôm M. japonicus cho thấy tôm đã bị lây nhiễm từ Chlorella sp. Mặc dù tôm M. japonicuschỉ mang một lượng WSSV nhỏ đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi nested-PCR. Kết quả của thí nghiệm này cho thấy vi tảo có thể là một con đường truyền tải ngang có thể cho WSSV. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về các yếu tố khả năng mang khác nhau và các cơ chế mang vi rút của các loài vi tảo khác nhau.

Nguồn: Aquaculture được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vỏ nhuyễn thể nguồn vật liệu sinh học bền vững

Hơn 7 triệu tấn vỏ nhuyễn thể bị bỏ đi bởi ngành công nghiệp hải sản mỗi năm, phần lớn đều vứt trong bãi rác hoặc đổ xuống biển.

Các nhà nghiên cứu đang xem xét các lựa chọn bền vững về mặt môi trường và kinh tế cho các vật liệu sinh học này. Tiến sĩ Morris cho biết “Hầu hết vỏ các loài nhuyễn thể được đánh bắt hoặc khai thác bởi ngành công nghiệp hải sản, chúng được xem là chất thải khó xử lý và phần lớn phải xử lý ở các bãi chôn lấp. Đây không chỉ là thực tế tốn kém màn còn có hại cho môi trường sinh thái và gây ra sự lãng phí khổng lồ các vật liệu sinh học hữu ích.

Một trong những ứng dụng thú vị nhất được đề xuất bởi tiến sĩ Morris là sử dụng phế thải để khôi phục các rạn san hô bị hư hỏng và nuôi dưỡng sự phát triển của những con hàu mới. Việc khôi phục các rạn san hô này chỉ đòi hỏi ít tiền và công sức, nhưng có thể có những lợi thế sinh thái rất lớn. Tiến sĩ Morris giải thích “Những quần thể động vật có vỏ có sức khoẻ có thể có nhiều lợi ích cho môi trường: làm sạch nước, cung cấp ngôi nhà cho các sinh vật khác, và cũng đóng vai trò như là một cấu trúc bảo vệ bờ biển.

Sử dụng vỏ sò làm thức ăn cho gà

Vỏ nhuyễn thể bao gồm hơn 95% canxi cacbonat, được sử dụng trong nhiều ứng dụng nông nghiệp và kỹ thuật. Các vỏ nghiền được dùng trong nông nghiệp và thủy sản để kiểm soát độ acid của đất hoặc làm thức ăn cho gà đẻ trứng như một chất bổ sung canxi. Canxi cacbonat cũng là một thành phần phổ biến trong hỗn hợp xi măng và đã tìm ra cách sử dụng bổ sung để xử lý hiệu quả nước thải. Thật không may, phần lớn canxi cacbon trên thế giới xuất phát từ khai thác đá vôi có hại về mặt sinh thái và không bền vững.

“Tái sử dụng vỏ nhuyễn thể là một ví dụ hoàn hảo của nền kinh tế , đặc biệt là vỏ sò là một vật liệu sinh học có giá trị, nó không chỉ cải thiện tính bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản mà còn chuyển tiếp trở lại, nhưng nó cũng có thể mang lại lợi ích kinh tế thứ cấp cho người nuôi trồng và chế biến , “Tiến sĩ Morris nói.

Bằng cách nghiên cứu cách các vỏ nhuyễn thể có thể hoạt động như một nguồn canxi cacbonat thứ cấp, Tiến sĩ Morris và nhóm của ông hy vọng sẽ đưa ra một phương pháp thay thế bền vững hơn đối với đá vôi được khai thác. Ông hy vọng công việc của ông sẽ nhấn mạnh đến giá trị kinh tế của việc tái chế những vỏ thải bỏ này trở lại sử dụng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Phân biệt cây mật gấu nam và cây mật gấu bắc

Cây mật gấu là thảo dược tự nhiên được biết đến như một trong những vị thuốc quý của dân tộc. Tuy nhiên, hiện nay việc lựa chọn cây mật gấu đúng chuẩn, chất lượng cũng như cách dùng, công dụng của loại dược liệu này đang trở thành mối quan tâm của rất nhiều người. Bài viết này sẽ cung cấp cho bà con một cái nhìn toàn diện nhất về loại cây mật gấu.

Nhiều người cứ nghĩ rằng cây mật gấu có hai loại là mật gấu nam và mật gấu bắc. Cái tên mật gấu nam mà mọi người hay gọi chỉ là do địa điểm trồng mà ra, thực chất nó chính là kim thất tai (cây lá đắng). Cây mật gấu Bắc và kim thất tai thực tế là 2 loại, công dụng điều trị cũng như sử dụng cũng khác nhau, do đó chúng ta cần biết phân biệt để áp dụng cho đúng tình trạng bệnh của mình, tránh nhầm lẫn dẫn tới việc điều trị không hiệu quả.

Sự khác nhau giữa cây mật gấu nam và bắc

Cây mật gấu chính là cây hoàng liên ô rô, mọc ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, một loại cây thân gỗ thuộc họ hoàng liên cao khoảng 1,5m trở nên. Chính vì thế, loài cây thân mềm, lá đắng như mọi người vẫn hay gọi là mật gấu nam thực chất là không đúng. Cách phân biệt cũng như hoạt tính 2 loại này như sau:

Cây kim thất tai (cây lá đắng)

  • Tên gọi khác: cây lá đắng, săm gan, mật gấu nam bộ, cây cơm kìa, cây bầu đất, thiên đắc địa hồng… Trung Quốc còn gọi là Nam Phi Diệp.
  • Đặc điểm nhận biết: Cây nhỏ thân thảo, mềm giống như cây dâu tằm, dạng bụi, cao từ 1 – 2m, cành thẳng, gốc phân nhánh. Lá kim thất tai có đường kính khoảng 2 – 4cm, mềm mại, có lông tơ, phiến lá dày răng cưa, đầu lá nhọn, to và hơi tù, cuống lá dài khoảng 2cm, khi già lá nhẵn bóng. Hoa kim thất tai mọc ở đầu cành thành từng chùm.
  • Bộ phận sử dụng: Lá cây. Lá cây kim thất tai có vị đắng nên thường được gọi là cây lá đắng. Dân gian thường dùng lá cây để nhai sống chữa bệnh, nấu canh hoặc pha trà uống. Vì thuộc họ Cúc nên lá kim thất tai có tác dụng tiêu viêm, phong ngứa, tiêu thũng, bình nhiệt…
  • Hỗ trợ chữa bệnh: Đau nhức buốt lưng, sưng đau do trật đả, đau thần kinh do phong thấp, sưng đau, đau vai gáy, bệnh trĩ, viêm gan, mát gan, mỡ máu, giã rượu, mẩn ngứa… Nhiều người truyền tai nhau hình ảnh tờ báo nói cây lá đắng trị tiểu đường, nhưng thực tế chưa có nhà nghiên cứu nào chứng minh công dụng này, vì thế tốt nhất người bệnh nên tham khảo ý kiến bác sĩ, tránh để lại tác hại không may.

Cây kim thất tai 

Hoàng liên ô rô

Lâu nay, cây mật gấu Bắc vẫn bị nép vế hơn so với kim thất tai, cũng bởi những thông tin sai lệch trôi nổi trên mạng. Nhưng chính xác thì, hoàng liên ô rô mới thực chất là cây mật gấu chuẩn. Hiện nay, mật gấu Bắc chủ yếu được tìm thấy và trồng tại các vùng núi cao của phía Bắc như Lai Châu, Sơn La và một số viện dược liệu Hà Giang, Cao Bằng.

  • Tên gọi khác: Vì có tác dụng như vị hoàng liên, lá lại răng cưa như ô rô nên các nhà nghiên cứu đã đặt tên loài cây này là Hoàng liên ô rô, nhưng dân gian quen gọi với cái tên mật gấu Bắc hơn. Tên khoa học là Mahania annamica Gagne.
  • Đặc điểm nhận biết: Là loài cây thân nhỏ, cao khoảng 3 – 4m, thân gỗ màu vàng, cành không có gai. Lá cây mật gấu Bắc rất dễ nhận biết, dạng kép hình lồng chim sẻ, mọc so le dài 20 – 40cm, đầu sắc nhọn, có 2 gai ở phía cuống lá, cuống tròn rộng 25 – 40mm, dài khoảng 7 – 10cm, mỗi bên có khoảng 4-8 răng… Hoa mọc thành cụm, màu vàng nhạt, phân cành phía dưới. Quả mọng màu xanh, hình cầu.

Theo nghiên cứu thì một cây hoàng liên ô rô có khoảng 0,3% ancaloit (bao gồm becbamin, oxyacanthin, magnoflorin, jatrorrhizin, panmatin, becberin…). Quả cũng chứa jatrorrhhizin và berberin. Rễ chứa neprotin và umbellatin. Riêng thân cây có 0,35 – 2,5% becberin, chính vì thế thân cây đem lại nhiều dược tính có lợi và thường được sử dụng nhất.

  • Bộ phận sử dụng: Khác với kim thất tai, mật gấu Bắc sử dụng thân cây là chủ yếu. Tính đắng và mát của hoàng liên ô rô sẽ công vào 4 kinh thận, can, phế, vị… giúp thanh nhiệt, giải độc, làm se, tiêu viêm.

Cây hoàng liên ô rô

 

Như vậy có nghĩa kim thất tai và mật gấu không phải là một, mỗi loại lại cho công dụng riêng. Nói thế không có nghĩa cây kim thất tai mà mọi người hay gọi là cây mật gấu Nam không tốt, ngược lại nó cho hiệu quả chữa bệnh đáng nể. Tuy nhiên, việc phân biệt là vô cùng cần thiết, chúng ta nên gọi cho chính xác để tìm mua và sử dụng đúng cách.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi cá theo công nghệ ‘tạo sông trong ao’ thu tiền tỷ ở Nghệ An

Anh Đậu Đức Kính ở xã Quỳnh Văn là người đầu tiên đưa công nghệ “tạo sông trong ao nuôi cá” đầu tiên ở Quỳnh Lưu. Sau 2 năm xây dựng mô hình, anh có thu nhập ước tiền tỷ.

Gia đình anh Đậu Đức Kính có 10 ha ao nuôi chuyên canh các loại cá nước ngọt như rô phi, trắm, mè, chép, cá lóc… Mỗi năm, anh thả hàng triệu con giống các loại. Tuy nhiên, tỷ lệ cá chết khoảng 20% do nguồn nước trong ao quá nóng vào mùa hè, cá bị ngạt hơi do nước tù thiếu ô-xy, hoặc do nồng độ khí mê-tan quá cao do lượng phân thải ra của cá quá nhiều.

Mô hình nuôi cá theo công nghệ “tạo sông trong ao” của anh Đậu Đức Kính ở xã Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu). Ảnh: Như Thủy

Từ thực tế đó, qua các lần tham quan học hỏi đưa công nghệ mới vào chăn nuôi ở các tỉnh phía Nam, tháng 1/2016, anh Kính đã mạnh dạn đầu tư hơn 800 triệu đồng xây dựng mô hình “tạo sông trong ao” để nuôi cá. Trên diện tích ao rộng 2ha, anh ngăn và xây 4 bể xi măng giữa lòng ao theo hình thác, lắp đặt hệ thống súc khí, tạo dòng chảy mạnh và máy tự động hút phân thải của cá dẫn ra ngoài.

Sau khi hệ thống hoàn thiện, anh thả nuôi hơn 60.000 con cá rô phi Đường nghiệp, đây là giống cá có trọng lượng lớn từ 1- 2kg/con, thịt cá dày nên khi nuôi bằng hệ thống tạo sông sẽ giúp cá vận động nhiều theo dòng chảy, giúp chất lượng cá dai chắc, thơm ngon hơn.

Mỗi bể xi măng có 1 máy sục khí tạo sóng nước, hệ thống hút phân thải tự động dẫn ra mương tiêu giúp môi trường nước luôn sạch. Ảnh: Như Thủy

Đến nay, sau gần 2 năm thử nghiệm mô hình đã thành công. Năm đầu tiên anh Kính đã thu hồi vốn, năm thứ 2 có lãi gần 1 tỷ đồng/năm qua 3 vụ cá.

“Thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục đầu tư cải tạo 8 ha còn lại để đưa công nghệ tạo sông trong ao vào nuôi đại trà trên tất cả các giống cá, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế” – anh Kính cho hay.

Phân cá được hút vào 1 bể lắng lọc riêng có xử lý diệt khuẩn trước khi xả ra ngoài. Ảnh: Như Thủy

Theo ông Đậu Đức Năm – Trưởng Phòng NN & PTNT huyện Quỳnh Lưu, sau khi kiểm tra đánh giá mô hình tạo sông trong ao nuôi cá nước ngọt của anh Kính, huyện đánh giá đây là công nghệ mới, cho hiệu quả cao. Phương pháp này đã giải quyết được các khó khăn của người dân là giảm tỷ lệ cá chết do ô nhiễm nguồn nước, nâng cao chất lượng thịt; đặc biệt cá được nuôi thả liên tục, thường xuyên chứ không cần phải chờ xử lý ao nuôi. Sắp tới huyện sẽ tổ chức cho các hộ dân tham quan mô hình và nhân ra diện rộng.

Nguồn: Báo Nghệ An được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.