Công dụng kỳ diệu của hoa mào gà trắng

Mào gà trắng mọc hoang ở khắp mọi nơi, thường thấy ở ven đường và bãi đất hoang hóa. Từ lâu mào gà trắng được biết đến với vai trò là một vị thuốc cũng như món rau quen thuộc của một số đồng bào miền núi phía Bắc.

Hoa mào gà trắng

Theo kinh nghiệm của nhân dân để lại, mào gà trắng có vị đắng, tính hơi hàn, vào kinh tâm có tác dụng thanh can sáng mắt, thanh uế trọc, tiêu viêm, liễm hãm và cầm máu, an thần, hạ áp. Thường dùng trị các chứng bệnh gồm: Viêm kết mạc cấp và mạn tính, say nắng, tăng huyết áp, xuất huyết đường tiêu hóa, thổ huyết, chảy máu cam, xuất huyết tử cung, rong kinh, rong huyết, ỉa chảy, viêm đường tiết niệu, sa trực tràng và một số bệnh ngoài da như ghẻ, hắc lào…

Theo đánh giá của các chuyên gia dinh dưỡng, cứ 100g rau mào gà trắng có 88,5g nước, 4,4g protein; 2g gluxit; 4,85g carotene và 33mg vitamin C. Trong hạt có dầu béo, tinh bột, vitamin PP, nitrat, kali.

Canh rau mào gà trắng: Hằng năm vào tháng 4 – 7 thu hái ngọn và lá non trước lúc cây ra hoa, đem nấu canh như rau dền có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải khát, tiêu viêm thích dụng cho những người táo bón, háo khát, tăng huyết áp, nhức đầu, thiểu năng tuần hoàn não, phụ nữ tiền mạn kinh (bốc hỏa, hoa mắt, chóng mặt), tiểu bí, tiểu rắt và các chứng viêm, nhất là viêm đường tiết niệu…

Mào gà trắng có tác dụng cầm máu, tiêu viêm: Hạt mào gà trắng 10 – 15g, cây mào gà 20 – 25g sắc uống thay trà hằng ngày có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, khử phong nhiệt, thanh can hỏa, làm sáng mắt, thích dụng cho các chứng như viêm đường tiết niệu, viêm kết mạc, chảy máu cam, tử cung xuất huyết, bệnh về gan và mắt, hạ sốt, chảy máu do sốt nhiễm trùng, đại tiện ra máu, trĩ ra máu… Có thể kết hợp với các vị thuốc khác như cỏ chỉ thiên, huyết dụ thán hay thục địa, hoàng cầm…

Chú ý: Rau mào gà trắng có tính nê trệ, thu liễm nên những người có chứng ậm ạch khó tiêu, có tích trệ, huyết áp thấp, tăng nhãn áp, thận dương hư (sợ lạnh, lạnh tứ chi..) không nên dùng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Một số bệnh quan trọng trên cây Ớt

Dưới đây là một số bệnh hại trên cây ớt và biện pháp phòng trừ

1. Héo rũ gốc mốc trắng

– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Sclerotium rolfsii.

– Triệu chứng bệnh: Triệu chứng điển hình của bệnh được thể hiện rõ nhất từ khi cây ra hoa – hình thành quả – thu hoạch. Nấm xâm nhiễm vào phần thân cây sát mặt đất, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu tươi hơi lõm, về sau vết bệnh lan rộng có thể dài tới vài centimet bao quanh thân, gốc, lan rộng xuống tận cổ rễ dưới mặt đất. Mô vết bệnh dần dần bị phân hủy, các lá dưới gốc héo vàng và rụng trước, sau đó lan lên các lá phía trên, cuối cùng dẫn tới các lá héo rũ, cây khô toàn thân. Khi cây mới nhiễm bệnh thì rễ cây vẫn bình thường, sau đó rễ dần dần hóa nâu, thâm nâu và thối mục.

Trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, ẩm độ cao thì trên bề mặt vết bệnh sát mặt đất sẽ xuất hiện lớp nấm màu trắng phát triển mạnh, sợi nấm mọc đâm tia lan dần ra mặt đất chung quanh gốc cây, tạo thành một đốm tản nấm màu trắng xốp, một vài ngày sau trên tản nấm đó sẽ hình thành nhiều hạch nấm. Khi còn non hạch có màu trắng sau chuyển dần sang màu nâu giống hạt cải. Bệnh xuất hiện có thể rải rác hoặc từng vạt trên ruộng tùy theo điều kiện ngoại cảnh đất đai và quá trình chăm sóc.

– Đặc điểm phát sinh gây hại của bệnh

Đây là loại nấm đa thực gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau, phát sinh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ cao nhưng thích hợp nhất là nhiệt độ 25-30oc. Hạch nấm có thể tồn tại 5 năm trong đất khô nhưng chỉ tồn tại 2 năm trên đất ẩm. Sợi nấm chỉ sống được vài tuần và chết khi nguồn dinh dưỡng được sử dụng hết. Nấm gây bệnh được bảo tồn trong đất và các tàn dư cây trồng bằng hạch nấm hoặc sợi nấm, có khả năng sinh sống và nảy mầm ở độ sâu khoảng 5-8cm, nếu bị vùi lấp sâu hơn sẽ không có khả năng nảy mầm. Nấm không thể tồn tại trên đất bỏ hoang khoảng 2 năm. Sự có mặt của tàn dư cây trồng chưa bị phân hủy trên ruộng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và xâm nhiễm của nấm bệnh. Bệnh thường phát sinh nặng hơn khi lượng lá rụng trên ruộng tích tụ quá nhiều chung quanh gốc.

2. Héo rũ thối đen

Do nấm Phytophthora capsici. Bệnh gây hại trên cây ớt trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển. Tùy từng giai đoạn và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà mức độ gây hại của bệnh cũng khác nhau. Ở thời kỳ cây con, vết bệnh lúc đầu là là một chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen ở rễ gốc thân. Sau đó vết bệnh lan lên phía trên làm hại thân lá và lan xuống phía dưới gây hại rễ chính, gây thối rễ, cây chết gục. Khi gặp trời mưa độ ẩm cao toàn cây bị thối nhũn ra, bề mặt mô bệnh thường có một lớp nấm màu trắng.Trời hanh khô cây bệnh nâu đen héo và chết. Khi cây lớn, trên gốc thân có vết màu đen kéo dài về phía trên và dưới. Khi chẻ phần thân thấy lõi có màu nâu đến nâu đen, nhưng đặc điểm này không có ở những vị trí cao hơn.

– Đặc điểm phát sinh gây hại của nấm

Nấm phát sinh gây hại trong phổ nhiệt độ rộng 12-300c. Bệnh phát triển gây hại mạnh khi thời tiết nóng ẩm và đất ướt, lượng mưa lớn hay tưới nước quá mức, nhất là khi trên ruộng đã có cây bị bệnh thì đây là điều kiện để bệnh lây lan ra cả ruộng, vì du động bào tử của nấm gây bệnh có thể bơi được trong nước.

3. Bệnh héo xanh vi khuẩn

Bệnh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra. Bệnh héo xanh thường thể hiện triệu chứng ngay sau khi vi khuẩn xâm nhập vào rễ hoặc phần thân sát mặt đất. Ở cây bị bệnh ban ngày lá cây mất màu nhẵn bóng, tái xanh héo cụp xuống, về ban đêm có thể hồi phục lại. Sau 2-3 ngày lá cây bị bệnh không thể hồi phục được nữa, các lá gốc tiếp tục héo rũ và toàn cây bị héo rũ rồi chết, cắt ngang thân thấy bó mạch dẫn hóa nâu hoặc nâu đen, nhúng đoạn thân vào cốc nước sạch sẽ thấy dịch vi khuẩn chảy ra màu trắng sữa (đây là đặc điểm để phân biệt bệnh do vi khuẩn và các đối tượng gây hại khác). Trong điều kiện ẩm độ cao, thân cây bệnh dần thối mềm, gãy gục.

– Điều kiện phát sinh phát men của bệnh:

Bệnh gây hại mạnh trong điều kiện nóng ẩm, nhất là khi gặp nắng mưa xen kẽ.
Nguồn bệnh vi khuẩn có thể sống trong đất 5-6 năm, còn trên cây ký chủ và trong hạt giống là 7 tháng.

Vi khuẩn chủ yếu tồn tại trong đất, tàn dư cây bệnh để trở thành nguồn bệnh cho vụ sau, năm sau.

Bón đạm quá nhiều, tưới nước quá ẩm, nhất là khi trên ruộng có cây bị bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh lây lan và gây hại.

† Biện pháp quản lý bệnh các loại bệnh trên

+ Dọn sạch tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng.

+ Luân canh với cây không cùng ký chủ, tốt nhất là lúa nước.

+ Chọn hạt giống khỏe sạch bệnh để trồng, giống trên ruộng không bị bệnh.

+ Tránh gây tổn thương rễ trong quá rinh trồng trọt, chăm sóc.

+ Khi trồng cần lên luống cao sâu rộng để dễ thoát nước khi gặp mưa lớn.

+ Bón phân cân đối hợp lý tránh bón đạm quá nhiều.

+ Thường xuyên kiểm tra phát hiện cây bị héo rũ để nhổ bỏ kịp thời, phải hạn chế tưới nước, tránh bệnh lây lan trên ruộng.

+ Sử dụng giống chống chịu bệnh, giống ít bị bệnh.

+ Đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii có thể cày sâu 10-13 cm để vùi lấp hạch nấm và dùng một số loại nấm đối kháng như: Trichoderm, Gliocladium…

+ Biện pháp hóa học thường hiệu quả thấp do tác nhân gây bệnh tồn tại chủ yếu trong đất, xâm nhiễm gây hại ở bộ phận rễ, cổ rễ thân sát mặt đất. Tuy nhiên, trong những trường hợp thực sự cần thiết có thể dùng một số loại thuốc phun để tăng cường sức đề kháng cho cây và hạn chế bệnh lây lan như: Rovral, Viroval, Hạt vàng, Carbendazim, Benlat… (dùng đối với bệnh do nấm Sclerotium rolfsii); Aliette, Ridomil, Phosacide… (dùng đối với bệnh do nấm Phytophthora capsici); Streptomycine 50-200ppm, Kasamin, Starner… (dùng đối với bệnh do vi khuẩn).

4. Khi cây ớt bị chết nhanh

Bà con nông dân ở vùng rẫy Long Hồ và Bình Minh có nhiều kinh nghiệm trong phòng trị các bệnh cho cây ớt- cây có giá trị kinh tế cao trong mùa mưa lũ như hiện nay. Trong mùa này, thủy cấp trong nhiều vùng ở đồng bằng dâng cao do đang vào mùa lũ và ẩm độ trong không khí cũng cao (mưa nhiều xen kẽ với nắng), nên không thích hợp với sự phát triển của cây ớt, vì là loại cây thích đất xốp thông thoáng. Bệnh gây thiệt hại lớn thường gặp trong lúc này của cây ớt là bệnh héo rũ khiến cây chết rất nhanh.

Theo bà con, bệnh do nấm gây ra (nấm Pythium sp. Và Fusarium sp.).Mầm bệnh thường lưu tồn trong đất, bã thực vật, nhất là các loại cây có mang bệnh này ở vụ trước. Rẫy ớt bị bệnh này thường là các rẫy thoát nước không tốt và việc luân canh cây trồng không hợp lý, nhất là vụ trước cũng trồng ớt. Trong rẫy ớt bị bệnh, rải rác có những cây có hiện tượng sáng và chiều lá vẫn tươi, nhưng trưa lại héo. Sau đó vài ngày, các cây ớt này nhanh chóng héo hoàn toàn, lá rụng và trái ớt bị giảm kích thước đáng kể. Nhổ cây ớt lên sẽ thấy rễ bị thối và có màu nâu.

Khi phát hiện trong rẫy ớt có hiện thượng này, phải lập tức nhổ bỏ các cây bệnh và tiêu hủy ngay để diệt mầm bệnh, tránh lây lan qua cây khác và cả các loại cây của vụ rẫy sau. Phòng và trị bệnh cho cây ớt lúc này bằng cách phun cho cây các loại phân bón lá giàu Can-xi như Caltrac, BoroCa, Hợp trí CaSi,… và phun các loại thuốc có gốc Fosetyl Alumium, Metalaxyl theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì, kết hợp việc khai nước ra cho ruộng thông thoáng. Trong bón phân, chú ý dùng phân cân đối, nên tăng cường phân hữu cơ, phân hữu cơ sinh học như Super Humic… Sẽ hiệu quả hơn nếu kết hợp với sử dụng các sản phẩm có chứa nấm đối kháng Trichoderma, nhằm tiêu diệt mầm bệnh trên rẫy. Tuy nhiên, biện pháp hóa học không mang lại hiệu quả hữu hiệu nhất, mà phải dùng biện pháp tổng hợp nói trên, chú ý tuyệt đối không dùng hạt giống có mầm bệnh (lấy ở rẫy có cây bị bệnh) và xử lý đất trước khi xuống giống bằng các loại thuốc gốc đồng có bán nhiều trên thị trường.

5. Bệnh thối xám hại ớt

Trong vụ đông, khi nhiệt độ xuống thấp, kèm theo những đợt mưa phùn kéo dài, tạo nên độ ẩm cao là điều kiện thích hợp cho các loại nấm bệnh phát sinh và phát triển, làm cho cây trồng dễ mắc một số bệnh. Gần đây, qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy cây ớt ở một số vùng thuộc các địa phương như Hà Tây, Hải Phòng, Hải Dương đã bắt đầu bị nhiễm bệnh do một loại nấm mốc màu xám gây ra. Bệnh phát triển khá nhanh, ở vùng bãi ven sông có xu hướng nặng hơn ở nội đồng. Đó là bệnh thối xám (gray mold hay botrytis cinerea). Nếu không kịp thời phòng trừ, trong thời gian tới khi có những giai đoạn mưa phùn kéo dài, bệnh sẽ có nguy cơ phát triển trên diện rộng.

Triệu chứng: Có thể tìm thấy các triệu chứng bệnh xuất hiện trên hoa, quả (trái) non, thân và lá ớt, kể cả ở phần cuống quả và đoạn cuống còn sót lại sau thu hoạch. Ngay từ đầu, những cánh hoa nhiễm bệnh sẽ chuyển màu xám và thối. Sau đó những quả ớt non trong diện tiếp xúc với những cánh hoa này sẽ có màu nâu đậm và bắt đầu mềm rũ. Quả non mang bệnh có nhiều khả năng bị rụng sớm. Trong khi đó, những quả ớt lớn hơn cũng có thể bị bệnh thông qua phần cuống của vòi nhụỵ. Quả bị nấm bệnh một thời gian sẽ bị mềm nhũn ra, biến màu nâu và thối. Vết bệnh trên thân cây thường phát sinh từ phần cuống quả của già còn sót lại sau thu hoạch hay do những cánh hoa bị bệnh bay trong gió và rơi xuống. Nấm mốc màu xám xuất hiện trên hầu hết các vết bệnh, nhưng các vết trên thân và lá không có nhiều nấm này như ở cánh hoa và quả non.

Nguyên nhân và điều kiện phát bệnh:

Nguồn gây bệnh ban đầu là các sợi nấm bay tới từ các ruộng bị bệnh ở kế bên, nhất là đầu hướng gió thổi tới, hay của các vụ trước còn sót lại trong đất. Khi gặp điều kiện thuận lợi như đã nhắc tới ở trên, chúng hình thành các bào tử đính (conidia) và bắt đầu phát tán, đồng thời tạo ra các vết bệnh mới. Nhiệt độ thích hợp nhất cho bệnh bùng phát là vào khoảng 14-200C. Bệnh không chỉ gây hại cho cây trồng ngoài ruộng mà còn có thể tấn công cả cây trong nhà lưới hoặc nhà kính của các trung tâm rau sạch.

Phòng trừ:

Khi trồng cần làm đất sạch, tơi xốp, khô thoáng và chọn trồng những cây non khỏe mạnh, không mang bệnh. Trồng ớt với mật độ vừa phải, không nên quá dày. Khi cần tưới nước, chỉ tưới vào gốc, tránh tưới trên tán lá ớt để hạn chế độ ẩm cao. Nếu phun bổ sung phân bón lá thì nên phun vào buổi sáng của ngày nắng ấm để nước dễ bay hơi. Khi nhiệt độ không khí xuống thấp và độ ẩm cao cần lưu ý phun thuốc phòng bệnh. Tốt nhất, nên phun thuốc phòng tối thiểu một lần trước khi bệnh xuất hiện, điều này rất đáng lưu ý trong phòng trừ bệnh nói chung. Sau đó có thể phun từng đợt, cách nhau 7 đến 14 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và mật độ vết bệnh phát hiện trên ruộng. Khi cây đã bị bệnh, cần xử lý bằng thuốc trừ bệnh. (Báo NNVN đã có dịp giới thiệu về thuốc phòng và trừ bệnh hại cây trồng trên số 1607 ngày 1/4/2003). Nên sớm loại bỏ các lá, quả và thân cây bị nhiễm bệnh vì chúng chính là nguồn gây bệnh cho các cây khoẻ mạnh khác. Có thể kể ra một vài tên hoạt chất (active ingredient) của các thuốc hóa học thường dùng phòng trừ bệnh này như: Folpet, Metalaxyl, Daconil, Benomyl v.v.

6. Bệnh thán thư ớt (còn gọi là bệnh đốm trái – nổ trái)

Triệu chứng bệnh

Vết bệnh lúc đầu là một đốm nhỏ hơi lõm, trên bề mặt vỏ quả. Vết bệnh, thường có hình bầu dục hoặc hình thoi, mầu nâu đen hoặc màu vàng trắng bẩn, kích thước vết bệnh có thể trên dưới 1cm tuỳ thuộc vào giống ớt. Phần ranh giới giữa mô bệnh và mô khoẻ thường có một đường vạch màu đen chạy dọc theo vết bệnh. Trên bề mặt mô bệnh có những chấm nhỏ màu đen đó là đĩa cành của nấm gây bệnh.

Bệnh thán thư làm thối chồi non, chết cây con vườn ươm, đặt biệt làm thối quả, cây bệnh ít quả, kém năng suất và giá trị kinh tế, xuất khẩu. Đặc biệt bệnh thán thư hại ớt cả trong thời kỳ bảo quản sau thu hoạch làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng hạt giống.

Tác nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh thán thư do nhiều loài nấm thuộc loại Colletotrichum gây ra, trong đó hại phổ biến là 2 loài Colletotrichum nigrum Ell et Hals và C. capsici (Syd) Butler and Bisby. Cả 2 loài nấm này thường cùng phá hại làm thối quả ớt rất nhanh. Về đặc điểm hình thái và sinh học của 2 loài nấm trên có những khác biệt, song về điều kiện sinh thái, chúng đều sinh trưởng phát triển thích hợp ở nhiệt độ 28 – 30oC và ẩm độ cao. Đặc biệt bào tử nấm thán thư có sức sống cao, có khả năng chịu đựng khô hạn, dễ dàng phát tán nhờ gió và côn trùng. Nấm gây bệnh tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm và bào tử phân sinh trên tàn dư lá, thân cành, quả và hạt ớt bị nhiễm bệnh. Vì vậy tàn dư cây ớt bị nhiễm bệnh và hạt giống cũng là những con đường truyền lan bệnh chủ yếu trong tự nhiên.

Nếu vết bệnh có màu trắng trắng xám, bên trong có nhiều vòng đồng tâm nhô lên và có màu vàng nhạt, trên đó có những chấm nhỏ li ti màu vàng do nấm Colletotrichum spp. gây ra (Colletotrichum gloeosprioides; C. capsici; C. acutatum; C. coccodes).

Nếu vết bệnh có màu đen không có nhiều vòng đồng tâm, trong vết bệnh có nhiều chấm nhỏ li ti màu đen, và chỉ gây hại trên trái chín mà thôi, do nấm Volutella sp. gây ra.

Biện pháp phòng trị

– Xử lý hạt giống bằng KMnO4 (0,1%) trong 1 giờ hoặc xử lý nước nóng 52oC trong 2 giờ.
– Gieo trồng ớt ở mật độ thích hợp.

– Nấm tồn tại trong tàn dư thực vật, thu hái các trái bệnh đem thu huỷ.

– Luân canh, không trồng cây họ cà ớt trong vòng 2 – 3 năm.

– Chọn giống kháng bệnh, tăng cường bón thêm phân chuồng hoai mục cho ruộng ớt.

– Tránh trồng ớt trong mùa mưa. Nếu ớt gặp mùa mưa, xem cách chăm sóc và phòng trừ bệnh thán thư trên ớt trong mùa mưa.

– Phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 EC, Appencarb, FOLPAN 50SC, … nồng độ 0,2 – 0,5% khi bệnh gây hại.

– Bón cân đối NPK, đặc biệt để bổ sung đầy đủ nguyên tố vi lượng cho cây ớt có thể sử dụng chế phẩm Bayfolan khoáng chất 11 – 8 – 6 của Công ty Bayer với liều lượng 50ml/bình 16l. Chế phẩm Bayfolan dễ hấp thụ qua lá, thân, rễ cây, giúp cây ớt tăng sức đề kháng, tăng khả năng đậu quả, không rụng hoa và quả.

Trên cây ớt thường bị phá hại bởi các loại côn trùng, sâu ăn lá, sâu đục quả ớt, tạo các vết thương cơ giới rất thuận lợi cho nấm gây bệnh thán thư xâm nhập phá hại. Vì vậy có thể dùng thuốc Bulldock 025EC liều lượng 0,5 – 1lít/ha diệt sâu hại.

Để phòng trừ nấm gây bệnh thán thư ớt, cần sử dụng kịp thời một số thuốc trừ bệnh chủ yếu sau: Thuốc Antracol 70WP (liều lượng 2kg/ha) phun trực tiếp lên lá, cây hoặc quả khi bệnh mới xuất hiện. Thuốc Antracol 70WP ngoài tác dụng phòng trừ trực tiếp nấm gây bệnh thán thư còn có tác dụng bổ sung nguyên tố vi lượng kẽm (Zn++) tinh khiết cho cây ớt, làm tăng sức đề kháng, xanh và cứng cây, chống rụng hoa và quả, đồng thời làm quả ớt có màu sáng đẹp. Nhờ có vi lượng kẽm, thuốc Antracol 70WP còn phòng trừ rất tốt bệnh vàng lá.

Có thể phun luân phiên thuốc Antracol 70WP (1.5 – 2 kg/ha) với thuốc Nativo 750WG (liều lượng 0,12kg/ha), nhờ tác động kép giữa 2 hợp chất trừ bệnh của thuốc Nativo 750WG giúp cây ớt phòng trừ được tất cả các bệnh nấm hại cây và quả ớt kéo dài.

Ngoài 2 loại thuốc trên, người sản xuất cũng có thể dùng luân phiên với thuốc Melody DUO 66,75WP với liều lượng theo khuyến cáo (1kg/ha).

7. Bệnh chết cây con:

Nguyên nhân: Bệnh do nhiều loại nấm sinh sống và gây hại trong đất như Rhizoctonia solani, Pythium, Fusarium, Phytophthora spp. + Triệu chứng: Bệnh xảy ra trong giai đoạn cây con, triệu chứng dễ nhận diện do phần thân cây tiếp giáp với mặt đất bị thối khô có màu nâu đen, cây bị bệnh không đứng thẳng mà ngả sang một bên, lá rũ, còi cọc và chết. Bệnh chết cây con thường thấy khi ẩm độ và nhiệt độ cao. Bệnh thường xuất hiện khi gieo quá dày, tưới nước quá nhiều nhất là khi gieo hạt mùa mưa mà không có giàn che.Phòng trừ: – Không lập vườn nơi quá ẩm ướt không thoát nước tốt hay vườn tối, không đủ ánh sáng, nên làm giàn có mái che.

– Đất vườn ươm phải xử lý trước khi gieo như xử lý vôi, đốt rơm rạ, phơi nắng trước khi trồng…

– Nên bón phân hữu cơ đã hoai mục, hạn chế bón nhiều phân hóa học nhất là đạm.

– Luân canh với các cây trồng khác họ cà (cà, ớt, khoai tây…) để diệt nguồn bệnh.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo: Trộn 10 gr thuốc Carbenzim 50WP trong 1 kg hạt giống hay ngâm hạt vào dung dịch nước thuốc với nồng độ 0,1% (pha 1 gr thuốc/1 lít nước) trong 1 – 2 giờ

– Phun thuốc hoá học: Khi thấy cây chớm bệnh phải phun thuốc trừ bệnh ngay, có thể sử dụng các loại thuốc sau: Carbendazim 500 FL, Mexyl MZ 72WP, Alpine 80WP. Nếu cây nhiễm bệnh nặng 5 – 7 ngày phun một lần

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật lấy hạt giống cây Ớt

Ớt là một loài cây kỳ diệu. Loài cây thú vị này tạo ra nhiều giống ớt đến khó tin, với rất nhiều hình dạng, kích thước, màu sắc, và mức độ cay. Nếu thu hoạch đúng cách, quả ớt là một nguồn hạt giống khả dĩ. Những hạt giống này có thể được cất giữ, bảo quản để tạo ra những cây ớt mới từ các giống ớt ưa thích của bạn cho năm tới.

Chọn quả để lấy được hạt giống khỏe mạnh

Để đảm bảo có cơ hội tốt nhất để lấy được những hạt giống khỏe mạnh, bạn phải đảm bảo rằng quả ớt được chọn đã chín hẳn trước khi hái. Quả ớt có thể cần vài tháng để chín hẳn.

Quả ớt sẽ có màu sắc cuối cùng khi nó chín hẳn, và khi đó là lúc tốt nhất để hái quả lấy giống. Màu sắc cuối cùng thường là đỏ hay vàng, nhưng nhiều giống ớt còn có thể có màu nâu, trắng, hồng/cam, cam, hay màu ngà. Quả ớt còn có thể thay đổi sang những màu khác trong quá trình chín. Một quả ớt còn xanh không thể cung cấp hạt giống khỏe mạnh

Nên chờ đợi thêm vài tuần để quan sát. ớt chín sẽ được bảo quản trên cây ớt, trừ khi bị phá hại, trong một khoảng thời gian dài.

Những quả ớt có hình thức khỏe mạnh, cho dù méo mó hay cân đối một cách hoàn hảo, là một nguồn hạt giống khỏe mạnh. Những quả ớt bị gãy, biến màu, và bị sâu ăn có thể bị bệnh/thối và chỉ nên dùng làm phương sách cuối cùng. Tuy nhiên, nếu không bị bệnh thì chúng cũng có thể là một nguồn hạt giống khỏe mạnh. Nhận thức hiện hành về di truyền học là lấy hạt giống ớt từ quả ớt có hình dạng lạ, hay nhỏ bé hơn sẽ không có bất kỳ ảnh hưởng nào tới các thế hệ tương lai.

Tránh lấy hạt giống ớt từ những cây ớt bệnh, quả ớt bệnh, hay quả ớt bị mềm vì thối rữa hay bị mốc. Một số mầm bệnh/virut có thể được truyền sang thế hệ hạt ớt tiếp theo.

Chiết xuất và sấy khô hạt giống ớt

Cách sất khô hạt giống ớt rất quan trọng nến bạn muốn hạt giống của mình sống lâu và đảm bảo cây ớt tương lai được khỏe mạnh. Độ ẩm dư thừa còn lại trong hạt ớt khuyến khích sức sống của hạt và hạt giống sẽ chậm mất dưỡng chất và khỏe mạnh cho đến khi chết, hay đơn giản là thối rữa. Độ ẩm còn khuyến khích khuẩn mốc, mầm bệnh và nhiễm nấm và có thể truyền sang thế hệ cây tiếp theo nếu hạt giống không được sấy khô vừa đủ. Tài liệu khoa học về việc lấy hạt giống thường nêu ra rằng hạt giống phải được khử nước (sấy khô) cho đến khi lượng ẩm từ 8% trở xuống. Về thuật ngữ thực hành, nếu hạt giống không giòn sau khi sấy, chúng chưa đủ khô!

Hạt giống có thể được sấy khô bằng khí hoặc sấy khô bằng máy sấy. Cả hai phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế mặc dù theo quan điểm thực hành, cách thứ nhất là dễ dàng nhất đối với người trồng ớt nghiệp dư và do đó được mô tả chi tiết trong hướng dẫn này.

Quy trình lấy hạt giống:

Bước 1 – Lựa chọn.

Chỉ chọn những quả ớt chín khỏe mạnh

Bước 2 – Chiết hạt

Hãy cẩn thận chiết hạt ớt từ quả ớt và đặt chúng lên một miếng khăn ăn. Khăn ăn sẽ làm khô hạt ớt để khử ẩm và mọi mảnh vụn bám vào hạt. Hãy kiểm tra hạt ớt và loại bỏ bất cứ hạt nào bị gãy hay phai màu ở giai đoạn này.

Bước 3 – Sấy khô

Có thể sấy hạt ớt trong những cốc nhựa đặt trong ngăn hong bát đĩa trong một vài tuần. Hoặc bạn có thể sấy hạt trên một tờ khay giấy ở đâu đó ấm áp (và ngoài ánh nắng mặt trời) và ngoài tầm tay trẻ em. Hãy đảo hạt ớt vài ngày một lần để đảm bảo lớp dưới cùng của hạt ớt được tiếp xúc với không khí. Không khí thoáng đãng rất quan trọng để đảm bảo hạt ớt khô đều và ngăn ẩm lại.

Bước 4 – Kiểm tra

Sau một tuần hãy kiểm tra hạt giống ớt về độ ẩm. Theo quy luật chung, nếu bạn không thể uốn cong hạt ớt thì chúng chưa đủ khô. Hạt ớt khô phải khá giòn và sẽ không có vết răng khi bạn cắn thử.

Điều cốt yếu để bảo quản hạt giống ớt được khỏe mạnh là duy trì nhiệt độ đều đặn và loại trừ độ ẩm dư thừa. Hạt giống được bảo quản đúng cách có thể duy trì sức sống trong nhiều năm mặc dù khả năng nảy mầm có xu hướng giảm xuống qua thời gian. Vì hầu hết các hạt ớt đều giống nhau, nhãn mác rõ ràng là rất cần thiết. Cũng như tên giống, nên ghi chi tiết nguồn hạt giống, ngày lấy giống và tỷ lệ nảy mầm thành công (nếu lô hạt giống này đã được sử dụng trước đó).

Để duy trì khả năng phát triển của hạt ớt, chúng phải được bảo quản ở nơi tối, mát, khô, thích hợp nhất là từ 2-10oC. Một cách thức ưa thích để bảo quản hạt giống ớt là bảo quản ở đáy tủ lạnh. Các điều kiện mát, tối tương tự như tự nhiên giúp làm chậm sự trao đổi chất của hạt giống ớt. Xin nhắc lại, hãy đảm bảo hạt giống ớt được sấy đủ khô trước khi bảo quản trong tủ lạnh vì lượng nước/ẩm dư thừa có thể phá hoại thành tế bào và hạt giống sẽ chết!

Hoặc hạt giống có thể được bảo quản trong một hộp thủy tinh kín gió với một lượng vừa đủ tác nhân chống ẩm như keo Silic hay Gạo. Tránh bảo quản hạt hộp đựng giống ớt ở những chỗ có ánh nắng mặt trời, gần các vật bức xạ nhiệt hoặc ở những nơi có độ ẩm cao.

Nguồn: Trang ớt tiêu được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hoa tigon – Hoa đẹp độc đáo thu hút nhiều ánh nhìn

Hoa tigon leo giàn đẹp

Hoa tigon hay còn có tên gọi khác là hoa trái tim, hoa tim vỡ. Đây là một loại hoa đẹp được đưa vào nước ta từ khá lâu rồi, khoảng thế kỷ 17 nó xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội và hiện nay hoa tigon đã có mặt trên mọi nẻo đường của tổ quốc. Hoa nở rất đẹp, hình thái lạ mắt, hấp dẫn chính bởi thế cây đang rất được nhiều người ưa chuộng trồng nhiều để trang trí nhà.

Tên khoa học: Antigonon leptopus Hook.Et Arn

Họ: Polygonaceae (họ Rau Răm)

Nguồn gốc: từ Nam châu Mỹ (Mexico)

Hoa tigon (hoa tim vỡ)

Đặc điểm nổi bật của hoa tigon

Hoa tigon thuộc loại cây thân leo, có củ mọc sâu trong đất thân mảnh mai nhưng khả năng tăng trưởng tốt, chiều dài của cây tigon có thể lên tới 9-12m, nó sử dụng những tua cuốn để bán và leo lên trên cao. Vỏ thân có màu nâu đỏ có những chỗ màu xanh lục, khi già có thể trở thành màu nâu.
Lá tigon thuộc loại lá đơn, xếp xen kẽ nhau. Cuống lá dài từ 1-5cm. Lá có hình trái tim hay hình tam giác nhọn đầu khá lạ mắt, lá có màu xanh đậm có chiều dài khoảng 2,5-15cm và chiều rộng từ 2-10cm. Phiến lá có khi nhẵn, có lá lại có lông dọc theo mặt dưới của lá.

Hoa tigon thường nở rộ vào mùa hè. Hoa thường mọc thành cụm, những cụm hoa dài từ 4-20 cm. hoa có màu đẹp mắt từ trắng đến hồng có những bông hơi đỏ. Mỗi bông hoa có 5 cánh mỗi cánh dài từ 4-10mm. Mỗi bông có 8 nhụy hoa với một bầu nhụy, 3 vòi nhụy. Hoa tigon có thể nở quanh năm nhưng nở nhiều nhất vào tháng 4 và tháng 5.

Cây hoa tigon cũng có quả đó nhé, quả tigon có màu nâu bóng dạng nón hoặc có 3 góc. Quả lúc đầu ẩn trong những cánh hoa có màu hồng dần dần khi già quả chuyển sang màu nâu.

Tác dụng của hoa tigon

Cây hoa tigon cho hoa đẹp, lá xanh quanh năm chính bởi thế nó thường được trồng ở hàng rào, leo giàn hay vòm cổng vừa tạo bóng mát vừa che khuyết điểm cho những vị trí không được đẹp của ngôi nhà cho ngôi nhà thêm phần xinh đẹp, quyến rũ hơn. Đồng thời cây còn nhà khí oxi, hấp thụ những khí độc hại giúp môi trường thêm trong lành, bầu không khí mát mẻ hơn nữa nhé.

Cách trồng và chăm sóc cây hoa tigon

Cây tigon có thể mọc hoang dại nên đây là một loại hoa dễ trồng và sinh trưởng khá nhanh ở nhiều điều kiện khí hậu khác nhau. Chính bởi thế kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa tigon không quá khó, ta chỉ cần lưu ý một số điều kiện sau:

Cây tigon được nhân giống chủ yếu bằng cách giâm cành và gieo hạt. Ta có thể tách những mầm cây tigon từ cây mẹ sau đó giâm chúng xuống đất gặp điều kiện thích hợp thì một thời gian sau cây sẽ cho rễ và đâm mầm.

Nếu trồng cây trong chậu thì cần lưu ý đất trong chậu phải nhiều mùn, đã được diệt hết sâu bệnh, đất thoát nước tốt.

Hoa tigon nở rất đẹp khi được chăm sóc đúng kỹ thuật

Lúc mới trồng cây tigon cần chăm sóc cẩn thận, mỗi ngày tưới 2 lần nước vào sáng sớm và buổi tối đồng thời nếu buổi trưa nắng gắt quá ta cần che mát cho cây.
Hoa tigon có lá xanh quanh năm, nhưng khi lá già khô héo lại không hề rụng, làm cho lá non mới mọc xếp đè lên lá khô, giàn cây bị nặng và dầy, có tác dụngg che bóng nhiều nhưng lại dễ làm sập dàn. Vì thế vào cuối mùa khô hay đầu mùa xuân, đặc biệt là ở các tỉnh miền Bắc nước ta, cần lưu ý đến việc cắt tỉa các cành già thu gom lá khô để giàn cây được thoáng, cành non mọc ra nhiều hơn, cho hoa sai hơn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng ớt tại Việt Nam

Dưới đây là một số kiến thức cơ bản về các kỹ thuật canh tác cây ớt nói chung ở điều kiện môi trường khí hậu và thổ nhưỡng của Việt Nam.

1. Thời vụ trồng ớt:

– Ớt có thể trồng quanh năm ở những nơi có điều kiện thuận lợi;

– Ớt thích hợp nhiệt độ cao từ 25-30oC.

– Ớt có thể trồng được quanh năm nhưng thường tập trung vào 3 vụ chính:

– Ớt Thu Đông: Gieo vào tháng 9 thu hoạch từ tháng 1 đến tháng 3 năm sau.

– Ớt Đông Xuân: Gieo vào tháng 11- 12 thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 6 năm sau.- Ớt Xuân Hè: Gieo vào tháng 2-3 thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 8 tháng 9.

2. Giống ớt tại Việt Nam:

Một số giống ớt cay phổ biến đang trồng hiện nay: Ớt Sừng Trâu, Chỉ Thiên, Ớt lai TN 255, TN 256… Về phương pháp trồng ớt ngọt, xem hướng dẫn cụ thể.

3. Chuẩn bị đất trồng.

– Chọn đất để trồng ớt:

+ Đất thoát nước tốt, có cơ cấu thoáng xốp như: Đất cát pha, đất thịt pha sét, đất phù sa ven sông và đất canh tác lúa.

+ Đất không hoặc ít nhiễm phèn mặn, có hàm lượng dinh dưỡng khá, pH đất = 5,5-6,5.

+ Có nguồn nước tưới tốt và giao thông vận chuyển sản phẩm thuận tiện.

Đất chuẩn bị trồng phải được luân canh lúa, bắp, đậu… tối thiểu 3 năm, vụ trước không trồng cây thuộc họ cà như: ớt, cà chua, cà tím,… để phòng nấm bệnh trong đất truyền cho ớt. Đất phải được cày bừa tơi xốp, sạch cỏ và thoát nước tốt. Mùa mưa cần phải lên líp cao kích thước trung bình: mặt liếp rộng 1m, chiều cao 20 – 30cm và mương thoát rộng 40 cm. Nên sử dụng màng phủ nông nghiệp (Plastic) để trồng ớt rất tốt. Dùng màng phủ nông nghiệp chiều ngang 1,2m trồng hàng đôi, cách làm đất, bón lót, trải màng phủ giống như trải trồng dưa hấu.

– Kỹ thuật làm đất:  Làm đất kỹ, cày xới sâu 20- 25cm, phơi ải 10-15 ngày, lên luống cao 20cm, rộng 1m.(có thể cao hoặc rộng hơn tuỳ theo vùng đất)

4. Gieo hạt:

– Ngâm ủ hạt giống:

Lượng hạt giống cần cho 1 ha tùy thuộc vào giống và tỷ lệ nảy mầm, trung bình khoảng 150 – 200g/ha.

Ngâm hạt giống trong nước sạch không bị phèn mặn từ 6 – 8 giờ, sau đó ngâm ướt với thuốc trừ nấm Funomyl (1g thuốc pha với 1 lít nước) trong 30 phút, vớt lên rửa sạch để ráo nước, lấy khăn ẩm gói hạt lại và cho vào bao nylon cột kín miệng để hạn chế bốc thoát hơi nước. Sau cùng đem gói giống ủ ở nhiệt độ từ 27 – 280C. Hầu hết các giống ớt bắt đầu nảy mầm từ 48 giờ sau. Đem gieo những hạt đã nứt mầm, đừng để hạt ra rễ quá dài, cây mầm sẽ lên yếu và khi gieo dễ bị gãy mầm.

Chuẩn bị gieo hạt: Nên gieo hạt vào bầu đất, bầu thường làm bằng nylon hay lá chuối. Thành phần đất trong bầu thông thường có tỷ lệ như sau:

– Đất mặt tơi xốp: 60%

– Phân chuồng hoai mục: 29%

– Tro trấu: 10%

– Phân lân: 0,5 – 1%

– Vôi: 0,2 – 0,3%

Trộn đều các thành phần trên và sàng kỹ để loại bỏ rác và cục đất to trước khi cho vào bầu.

Sau khi gieo hạt vào bầu, rải một lớp mỏng phân chuồng hoai sàng kỹ để lấp kín hạt, rải một lượt thuốc Basudin hạt đề phòng kiến và dế, sâu đất phá hại. Tưới đẫm nước, giữ ẩm để hạt dễ nảy mầm. Chăm sóc cây con phải phòng trừ sâu bệnh tốt, nếu cây thiếu phân có thể tưới NPK, DAP và Urê hoặc phân vi sinh ra rễ Bảo Đắc.

Khi cây có từ 4-5 lá thật (25-35 ngày sau gieo), chọn những cây phát triển tốt, không bị nhiễm sâu bệnh, có thể tiến hành đem ra trồng. Mật độ khoảng cách trồng tùy thuộc vào giống, đất đai và khí hậu, mật độ cao cây sẽ có sự cạnh tranh ánh sáng, phân bón, nhiều sâu bệnh ảnh hưởng đến năng suất.

Khoảng cách trồng – mật độ:

+ Vào mùa khô: hàng đôi cách hàng đôi 1,2 – 1,4m, hàng cách hàng của hàng đôi 0,6 mét, cây cách cây trên hàng 0,6m. Mật độ trung bình từ 1.700 – 1.900 cây/1.000m2.

+ Vào mùa mưa: hàng cách hàng từ 1,2 – 1,4m, cây cách cây trên hàng 0,7m. Mật độ trung bình từ 1.400 – 1.500 cây/1.000m2.

Lưu ý:

– Phun thuốc phòng trừ sâu bệnh (như Thianmectin 0.5ME + Thane M 80WP ở liều nhẹ) 3 ngày trước khi đem trồng.

– Một ngày trước khi trồng phải cung cấp đủ nước để giúp cây con phát triển tốt ngoài đồng.

– Trồng cây con sao cho mặt bầu ngang bằng với mặt đất ngoài đồng. Sau khi trồng nên tưới phân vi sinh ra rễ Bảo Đắc để giúp cây ra rễ tốt và phòng bệnh chết cây con.

5. Chăm sóc ớt:

– Tưới nước: Mùa mưa cần đảm bảo thoát nước tốt, mùa nắng phải tưới nước đầy đủ. Tưới rãnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. (Chú ý: Khi trên ruộng có cây bị bệnh do các tác nhân gây bệnh ở trong đất thì hạn chế phương pháp tưới này mà chuyển sang tưới hốc hoặc tưới phun và giảm tối đa lượng nước tưới). Trong thời gian cây ra hoa và kết trái cần cung cấp đủ nước để ngăn ngừa rụng bông rụng trái. Tưới quá ẩm hay để quá khô hạn dễ xảy ra các trường hợp sau:

+ Rụng hoa, rụng trái

+ Cây phát triển kém

+ Giảm số bông, giảm chất lượng trái, năng suất thấp

– Tỉa nhánh: Tỉa bỏ các cành, lá dưới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng, hạn chế sâu bệnh phát triển – cho năng suất cao. Nên tỉa cành lúc nắng ráo.

– Làm giàn: Giàn được làm bằng cây hay dây ni lông. Giàn giữ cho cây đứng vững, dể thu trái, kéo dài thời gian thu hoạch, hạn chế trái bị sâu bệnh do đỗ ngã. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây lớn ở 2 đầu, dùng dây căng dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng.

Cây ớt mang nhiều trái gặp gió mạnh dễ đổ ngã, nên cắm le (cây le dài khoảng 1m) chống đỡ, mỗi cây ớt cắm một cây le, cắm xiên buộc vào thân chính, có thể dùng dây nylon giăng dọc theo hàng để đỡ cành mang trái, hạn chế cành bị gãy khi mang trái nặng.

Bón phân:

– Lượng phân bón (500m2):

+ Phân chuồng: 500 – 1.000kg + NPK: 27- 29kg

+ Phân lân: 25kg + Kali: 10kg

+ Vôi: 50kg + Urê: 10kg

+ Ca(N03)2: 6kg

– Cách bón:

Bón lót (Trước khi trồng): 50kg vôi và 500 -1.000kg phân chuồng hoai, 25kg super lân, 1,5kg Kali, 1kg Calcium nitrat, 5 – 7kg phân NPK (16-16-8). Sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân bón, nước tưới

Bón phân thúc: Phân nên chia làm 4 lần bón: (Có thể kéo dài hơn tuỳ theo thời gian thu hoạch).

+ Lần 1: 20 – 25 ngày sau khi trồng: 2kg Urê + 1,5kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1kg Calcium nitrat.

+ Lần 2: Khi ớt đã đậu trái đều: 3kg Urê + 2,5kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1kg Calcium nitrat.

+ Lần 3: Khi bắt đầu thu trái: 3kg Urê + 2,5kg Kali + 7kg NPK (16-16-8) + 1,5kg Calcium nitrat.

+ Lần 4: Khi thu hoạch rộ: 2kg Urê + 2kg Kali + 5kg NPK (16-16-8) + 1,5kg Calcium nitrat.

Chú ý: Trong giai đoạn nuôi trái, trái ớt thường bị thối đuôi do thiếu canxi. Vì vậy, cần phun bổ sung thêm Canxi, có thể bằng Clorua canxi (CaCl2) phun định kỳ 7-10 ngày/lần. Đồng thời, phun thêm phân vi lượng có Bo để ớt dễ đậu trái và ngừa trái bị sẹo.

Ghi chú:

– Kết hợp làm cỏ, lấp phân, vun gốc mỗi lần bón thúc phân. Rễ cây ớt rất mẫn cảm (dễ bị tổn thương) với phân bón do đó khi bón phân hóa học phải xa gốc, tưới phân và phun phân bón lá phải đúng liều lượng.

– Các lần bón thúc kế tiếp cứ cách 20 ngày bón 1 lần với loại, lượng phân như bón thúc lần 2 (trừ phân chuồng) (có thể ngâm phân, pha loãng với nước tưới gốc theo hàng).

– Lần bón thúc thứ 3 rải phân giữa 2 hàng đôi lấp phân.

– Lần bón thúc thứ 4, 5, 6… lặp lại thứ tự như lần bón thứ 2, 3 …

– Khi cây con còn nhỏ hoặc giữa 2 lần bón thúc, tưới NPK hoặc DAP với lượng pha loãng 2 – 3% với nước vào gần gốc nếu cần, kết hợp phun phân vi sinh phun lá Bảo đắc 15 ngày/lần.

– Khi trái ớt bắt đầu lớn, phun định kỳ CaCl2 khoảng 0,4% nửa tháng một lần để phòng bệnh thối đuôi trái.

6. Thu hoạch:

Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu – trước khi chín, thu trái già chuyển màu có vết đỏ (bắt đầu chín) làm cho kích thích ra hoa nhiều tạo năng suất cao hơn cho đợt sau. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch 35- 40 ngày sau khi trổ hoa. Ở các lứa rộ, thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần.
Thông thường từ 35 – 40 ngày sau khi đậu trái có thể bắt đầu chín và thu hoạch được. Nếu chăm sóc tốt, bón phân đầy đủ, ớt có thể cho nhiều đợt trái, năng suất có khả năng đạt trung bình từ 25 – 35 tấn/ha hoặc cao hơn.

Nguồn: Sites.google.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nghệ An: Trồng cà pháo phủ ni lông thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha

Bà con nông dân xã Chi Khê, huyện Con Cuông đang thu hoạch cà pháo. Bằng phương pháp trồng phủ nilong, chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật nên cà pháo cho năng suất bình quân 8 tấn/sào, thu nhập 40 triệu đồng/sào/vụ.

Bà con xã Chi Khuê cùng nhau trồng cà phủ nilong

Nguồn: baonghean.vn

Xã Chi Khê, huyện Con Cuông hiện có 15 ha trồng cà pháo, tập trung ở 2 thôn Tiến Thành và Quyết Tiến. Trong đó, hơn 8 ha ở thôn Tiến Thành được trồng theo phương pháp phủ nilong.

Theo các hộ dân ở đây, trồng cà bằng phương pháp phủ nilong mặc dù chi phí đầu tư lớn hơn so với phương pháp thường nhưng có ưu điểm vượt trội là duy trì được độ ẩm cho đất nên không phải tưới nước, sạch cỏ, khả năng chống chịu sâu bệnh cao, vì thế cà cho năng suất cao hơn và chất lượng quả đẹp hơn so với phương pháp thường.

Gia đình chị Trần Thị Xanh, thôn Tiến Thành, xã Chi Khê trồng 2,1 sào cà pháo, chị đã đầu tư gần 500 nghìn đồng để mua nilong phủ, cộng với phân bón, giống… tổng chi phí gần 2 triệu đồng.

 Với phương pháp trồng bằng phủ nilong như thế này gia đình chị không phải mất nhiều thời gian chăm sóc. Cà pháo cho thu hoạch quay vòng trong khoảng thời gian 6 tháng, mỗi tháng hái 4- 5 lần. Với giá bán trung bình 5.000 đồng/kg thì với diện tích cà này gia đình chị thu nhập trên 70 triệu đồng/vụ.

Bình quân mỗi sào cà pháo trồng bằng phương pháp thường cho năng suất 4 – 5 tấn/sào. Nay trồng bằng phương pháp phủ nilong cho năng suất cao gần gấp đôi, từ 7-8 tấn/sào, trừ chi phí mỗi sào cũng cho thu nhập gần 40 triệu đồng.

Thu hoạch cà pháo giòn tan, chất lượng

Cà pháo được thương lái tại địa phương và vùng lân cận đến thu mua tận chân ruộng nên người dân không lo về đầu ra của sản phẩm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng cà pháo giòn tan, 1 tuần thu về lời 1 triệu

Năm nào ông Nguyễn Văn Lâm, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) cũng dành 1 sào đất để trồng cà pháo. Chỉ tay về ruộng cà trĩu quả, ông Lâm cho hay, một tháng nay cà cho thu hoạch rộ. “Cứ 1 tuần tôi thuê người hái cà một lần, được trên dưới 2 tạ, với giá bán hiện tại là 6.500 – 7.000 đồng/kg, trừ chi phí còn lời khoảng 1 triệu đồng…”.

Trồng cà pháo ăn giòn tan, lãi 1 triệu đồng

Nhiều năm nay, thay vì bám vào các cây trồng kém hiệu quả, người dân ở xã Bình Hòa và Bình Hải, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) đã chuyển sang mô hình trồng cà pháo. Cà pháo dễ trồng, cho thu nhập cao, là loại cây trồng có đầu ra ổn định nhất trong các loại rau quả.

Mấy năm nay, người dân ở xóm Hải An, thôn Vạn Tường, xã Bình Hải đã dành một phần diện tích đất đồi trồng keo để trồng cây cà pháo. Hiện nông dân đang bước vào thu hoạch rộ cà pháo. Thôn Hải An cũng được gọi là “thủ phủ cà pháo” bởi có diện tích trồng cà pháo lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi.

Len lỏi trong rừng keo bạt ngàn, ruộng cà nhà ông Nguyễn Văn Lâm đang rộ quả, bốn chị em phụ nữ mỗi người mang theo một cái giỏ đi chợ đang lúi húi hái cà để chủ hộ kịp xuất bán cho thương lái. Gia đình ông Lâm có thâm niên trồng cà khoảng 10 năm nay.

Năm nào ông Lâm cũng dành 1 sào đất để trồng cà pháo. Bà con mua hạt về ươm giống và xuống giống khoảng tháng 11 âm lịch, 3 tháng sau, cà bắt đầu ra hoa, kết trái và cho thu hoạch lứa đầu tiên. Cà pháo cho thu hoạch liên tục trong khoảng thời gian 6 – 7 tháng.

Chỉ tay về ruộng cà trĩu quả, ông Lâm cho hay, một tháng nay cà cho thu hoạch rộ, cứ một tuần tôi thuê người hái cà một lần, được trên dưới 2 tạ, với giá bán hiện tại là 6.500 – 7.000 đồng/kg, trừ chi phí còn lại khoảng 1 triệu đồng. Sau mỗi lần thu hoạch chỉ cần tưới nước, bón phân, trái sẽ lớn nhanh một tuần sau lại tiếp tục thu hoạch.

Một sào cà chi phí đầu tư vài trăm nghìn đồng, nhưng lãi 7 – 8 triệu đồng. Nếu cất công chăm sóc tốt lợi nhuận có thể lên đến 10 triệu đồng hoặc gấp đôi nếu gặp năm cà được giá.

Ông Lâm nhẩm tính: Một sào bắp đặng mùa được 4 tạ, với giá bán 6.000 đồng/kg, cao lắm cũng lời chưa được 2 triệu đồng, còn cà pháo, mất mùa cũng được 2 tấn, gấp 4 – 5 lần, 1 vốn 10 lời. Có năm, giá cà lên đến 14.000 – 15.000 đồng/kg. So với cây ớt, dưa gặp thời điểm được giá vượt trội thì cà pháo không sánh bằng, nhưng nó là cây trồng có giá cả, đầu ra ổn định nhất.

Với ưu thế nổi trội của cây cà pháo, 2 năm nay, gia đình nông dân Phạm Văn Thuần, ở thôn 4, xã Bình Hòa cũng chuyển 2 sào đất chuyên trồng dưa sang trồng cà pháo.

“Cây cà ưa nắng, nó cần ánh sáng mạnh để ra hoa và cần nước để nuôi thân và trái. Thân cây càng cao lớn là lúc cà đạt năng suất cao nhất. Năm nay, thời tiết thường xuyên có mưa nên cà cho năng suất cao”- ông Thuần cho biết.

Theo ông Thuần, trồng dưa, ớt phập phồng, năm được năm mất, còn cà pháo giá cả ổn định, dễ trồng, ít sâu bệnh, dễ chăm sóc, ít tốn công, thỉnh thoáng cũng gặp bệnh quả cà vàng như cà kiểng nhưng không nhiều.

Bà con nông dân chia sẻ cách chăm sóc để cà pháo cho năng suất cao là từ lúc trồng đến lúc ra hoa, cà rất cần giữ độ ẩm nên bà con phải tưới nước thường xuyên. Lúc cà có quả non thì tưới nhiều hơn và xới đất để đất không đóng váng, tăng độ ẩm cho đất, thúc cho bộ rễ phát triển, chống đổ ngã cho cây.

Thời gian sinh trưởng cây cà mọc nhiều là xum xuê, là bị thiếu ánh sáng, vì vậy, cần tỉa lá để thoáng ánh sáng và gió, giúp cà ra nhiều quả. Vì chúng cho thu hoạch kéo dài trong thời gian 6 – 7 tháng nên tốn nhiều phân bón để nuôi cây, đặc biệt là phân chuồng.

Theo bà con nông dân, cà pháo có đầu ra ổn định nhất trong cây trồng hiện nay. Họ thu hoạch xong chở đến điểm thu mua, cân và nhận tiền liền, không phải lo đầu ra vì không phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc như dưa và ớt.

Thị trường tiêu thụ của cà pháo khắp nơi, mạnh nhất là các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và các tỉnh phía Bắc. Cà pháo được thu mua về, các thương lái sẽ bán cho các cơ sở chế biến cà muối.

Cà pháo là cây truyền thống, trước đây, nông dân thường chỉ trồng với diện tích ít ỏi để sử dụng trong gia đình. Nhưng vài năm trở lại đây, nhận thấy hiệu quả kinh tế từ loại cây trồng này, nhiều hộ nông dân ở xã Bình Hải, Bình Hòa đã chuyển từ trồng bắp, mì luân canh với cây keo trên đồi để trồng cà pháo. Đây là mô hình canh tác lấy ngắn nuôi dài hiệu quả, mang lại thu nhập không nhỏ cho người nông dân…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Ông “Trùm” nha đam

“Có những loài cây sống gần nhau thân mới thẳng…”. Và cũng có những loài cây mang sẵn trong mình giá trị, sống bên cạnh con người để gia tăng giá trị bản thân. Trong mối tương quan này, cây nha đam và doanh nhân Nguyễn Văn Thứ, Giám đốc Công ty GC Food đã “sống gần nhau” để mang lại giá trị cho nhau. Ông “trùm” nha đam Nguyễn Văn Thứ cũng chính là người chuyên cung cấp nguyên liệu nha đam cho các công ty sản xuất sữa và nước giải khát lớn của Việt Nam.

 

Ông Nguyễn Văn Thứ –  Giám đốc Công ty GC Food

Câu chuyện người và cây

Nghe ông Thứ say sưa nói về sự hữu dụng của cây nha đam, giống như đang nghe ông kể về một người bạn thân thiết đã thấu hiểu về nhau từ rất lâu. Theo ông, nha đam là một loài cây cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu.
“Cây có khả năng tự bảo vệ mình trước sự tấn công của sâu bệnh bằng cách tự tạo ra chất axit ở lớp bên ngoài của bẹ lá và thân cây, sâu bệnh không thể xâm hại được. Cây nha đam còn đem lại giá trị cho cuộc sống rất cao như làm mát cơ thể, chữa bệnh và có công dụng làm đẹp…làm trong lành không khí. Cây chịu được khô cằn, nhu cầu về thổ nhưỡng rất thấp, không phải bón phân nhiều. Chính vì thế, tôi đã chọn phát triển vùng nguyên liệu nha đam tại Phan Rang (Ninh Thuận), nơi đất khô cằn và khí hậu thuộc dạng khắc nghiệt nhất Việt Nam”, ông Thứ chia sẻ.
Hiện tại, GC Food đang hướng dẫn các hộ gia đình trồng nha đam theo một quy trình chặt chẽ để có được nguyên liệu đạt chất lượng chuẩn từ khâu trồng, chăm sóc và thu hoạch. Nha đam trồng từ 6 tháng đến 1 năm là có thể thu hoạch, kéo dài trong thời gian 5 – 6 năm. Một tháng thu hoạch một lần, mỗi sào thu được khoảng 3 tấn (bán trên dưới 1 triệu đồng/tấn). Theo ông Thứ, mỗi hộ trồng từ 3 – 5 sào nên đảm bảo thu nhập khá ổn định.
Tuy nhiên, thời gian đầu, nông dân từ chối cung cấp hàng cho GC Food vì chê thu mua ít mà đòi hỏi nhiều. “Tôi phải đến tận nơi đặt hàng và hướng dẫn nông dân trồng nha đam theo quy trình mới, ít bón phân và không phun thuốc nhưng vẫn đạt năng suất cao. Nhờ vậy, GC Food đã phát triển được vùng nguyên liệu hơn 30 ha nha đam theo quy trình VietGAP. Các hộ nông dân cũng đã tin vào doanh nghiệp, tin vào khả năng của một loài cây, gắn bó với cây nha đam và đảm bảo cho doanh nghiệp không bao giờ đứt nguồn nguyên liệu”, ông Thứ nói.
Thực tế, mối dây liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn không ít vấn đề. Chẳng hạn như tình trạng nông dân đốt mía, đổ sữa ra đường, hay đem thanh long và dưa hấu cho bò ăn… Với nha đam, ông Thứ đang cố gắng để không rơi vào những vết xe đổ như thế.
Hiện tại, GC Food kết hợp cùng nông dân tạo ra nguồn nguyên liệu khoảng 1.000 tấn nha đam/tháng. Ðây là thứ nguyên liệu có tiền muốn mua nhiều, trên thị trường cũng không có để bán. Để có nguyên liệu nha đam, phải được chuẩn bị trước ít nhất là 6 tháng. Trước tiên, GC Food sẽ làm việc với khách hàng. Sau khi có đơn hàng, Công ty làm việc với các hộ gia đình để phát triển thêm vùng nguyên liệu cho phù hợp với nhu cầu nhằm đảm bảo đầu ra cho nông dân. “Tôi không thể đặt người nông dân vào tình trạng dứt tình với cây trồng vật nuôi được”, ông Thứ khẳng định.
Theo vị đại diện GC Food, nhờ làm việc theo quy trình cụ thể với hộ gia đình về kế hoạch sản xuất bám sát kế hoạch của doanh nghiệp nên mối quan hệ doanh nghiệp – nông dân ngày càng gắn bó. Không chỉ có vậy, dù thị trường chưa có đơn vị nào chế biến nha đam số lượng lớn như GC Food, nhưng không vì thế mà Công ty ép nông dân về giá.
”Phải đảm bảo đời sống cho nông dân. Quan điểm của tôi phải là xem họ như nhân viên trong doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp và nông dân bàn chuyện làm ăn lâu dài trên cơ sở phát triển sản phẩm nông nghiệp bền vững, thì tình người và cây sẽ bền chặt và mãi nở hoa cho đời”, ông chiêm nghiệm.

Bí quyết nâng giá trị

Lợi thế cạnh tranh của GC Food không chỉ đến từ việc tổ chức được vùng nguyên liệu, mà còn nhờ vào hiệu quả của quy trình sản xuất. Ông Thứ tính toán, 1 bẹ nha đam nguyên liệu bị gãy thì tỷ lệ khấu hao tăng, công nhân cũng phải thao tác gấp đôi. Chính vì vậy, ở mọi công đoạn từ kiểm soát nguồn nguyên liệu đầu vào cho đến các khâu chế biến đều phải xây dựng thành quy trình chặt chẽ. GC Food cũng đưa ra phương châm “Hãy làm việc thông minh hơn thay vì làm việc vất vả hơn” và luôn tính toán đến từng chi tiết nhỏ để công nhân không có thao tác thừa trong suốt quá trình sản xuất.
Theo ông Thứ, nhà máy của GC Food luôn mở rộng cửa cho khách hàng đến tham quan, tìm hiểu về chất lượng sản phẩm. Ðó cũng là dịp để các tập đoàn, công ty lớn đặt ra những yêu cầu hơn cho GC Food, giúp Công ty tự hoàn thiện. “Ở đây, sự chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công nhân lao động đóng vai trò rất quan trọng. GC Food cũng đầu tư rất nhiều cho đội ngũ cán bộ học về quản lý sản xuất tinh gọn”, ông tiết lộ.
Mỗi ngày, GC Food sản xuất khoảng 50 tấn nguyên liệu nha đam, xuất khẩu và cung cấp cho các công ty sữa – nước giải khát như Vinamilk, Dalatmilk… Hiện nay, sản phẩm nước giải khát nha đam của GC Food do Công ty Cổ phần Fesdy chịu trách nhiệm xây dựng thương hiệu và tổ chức hệ thống phân phối. Sản phẩm nước giải khát nha đam Fesdy đã có mặt tại một số hệ thống siêu thị và xây dựng được mạng lưới tiêu thụ tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước.
Hiện tại, GC Food đã xuất khẩu sang một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Đây tuy đều là những thị trường khó tính, nhưng lại rất chuộng dòng sản phẩm từ nha đam.
Tại Việt Nam, GC Food hiện là nguồn cung lớn nhất về nha đam tinh chế; có nguồn nguyên liệu lớn nhất và quy trình chế biến quy mô, hiện đại. Ngoài ra, theo ông Thứ, người tiêu dùng ngày càng biết được giá trị của nha đam nên việc sử dụng trong đời sống hàng ngày sẽ phổ biến. “Ðó là cơ hội lớn nhất mà GC Food đang nắm trong tay”, ông nói.
Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng nha đam trong thùng xốp kiếm nửa triệu đồng/ngày

Từ những thùng xốp cũ các hộ dân ở xã Thạnh Hòa, huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) đã tận dụng để trồng nha đam quanh nhà. Nhờ vậy, sau gần 1 năm trồng nha nhiều hộ đã bắt đầu thu hoạch, trong đó có hộ kiếm nửa triệu đồng/ngày.

Từ vài bụi nha đam làm kiểng trước nhà, nhưng chị Trần Thị Mộng Tuyền ở ấp Phú Khởi, xã Thạnh Hòa đã nhân giống lên với số lượng hàng chục thùng, vì chị nhận thấy được hiệu quả kinh tế từ loài cây này.

Trồng nha đam trong thùng xốp có hiệu quả khá cao

Đang thu hoạch những bẹ nha đam xanh mướt giao cho thương lái, chị Tuyền cho biết: “Thu gom những thùng xốp đã qua sử dụng nhiều lần, sau đó mang đi đục lỗ phía dưới, cho đất nhuyễn, phân hữu cơ, bã dừa vào trong, rồi trồng 2 – 3 cây con vào. Sau khoảng hơn 10 tháng chăm sóc nha đam sẽ cho thu hoạch”.

Lý giải về việc trồng nha đam trong thùng xốp thay vì trồng trực tiếp xuống đất chị Tuyền nói: “Trồng nha đam trong thùng xốp sẽ nhẹ được công tưới nước và làm cỏ, chất lượng cao hơn so với trồng ngoài đất, đặc biệt trồng trong thùng sẽ không bị xảy ra tình trạng ngập úng, ít sâu bệnh nên lượng phân, thuốc giảm đáng kể, đặc biệt là tận dụng được diện tích quanh nhà, giá bán cao hơn từ 3.000 – 4.000 đồng, vì chất lượng thịt nha đam ngon”.

Được biết, hiện tại 30 thùng nha đam được chị Tuyền được thu hoạch mỗi ngày giao cho thương lái với giá từ 10.000 – 15.000 đồng/kg. Mỗi bụi cắt được từ 2 – 3 bẹ với trọng lượng từ 2kg, như vậy chị Tuyền có nguồn thu nhập từ khoảng hơn 150.000 – 200.000 đồng/lần thu hoạch. Thấy việc trồng nha đam nhẹ nhàng nhưng thu nhập cao nên chị Tuyền đang thu mua các thùng xốp cũ để chuẩn bị nâng cao số lượng thùng lên với số lượng hàng trăm.

Cách nhà chị Tuyền không xa là gia đình của ông Trịnh Văn Mỹ và bà Trần Thị Phương, nhận thấy được sự hút hàng từ nước uống nha đam nên vợ chồng ông Mỹ đã đầu tư mua hẳn máy xay và máy đóng nắp để tự chế biến nước uống nha đam.

Thu nhập khoảng 600.000 đồng/ngày với diện tích 500m² nha đam

Ông Mỹ cho biết: “Hơn một năm trước nhận thấy được nhu cầu từ nước uống nha đam, nên tôi quyết cất công tìm đến hội chợ ở TP. Hồ Chí Minh để mua cây giống về trồng. Sau gần 1 năm trồng và nhân rộng thì số lượng thùng nha đam đặt trên diện tích 500m2, cho thu nhập khoảng 600.000 đồng/ngày”.

Để cung ứng cho thị trường, sau khi nha đam được thu hoạch thì vợ chồng ông Mỹ tiến hành rửa, làm sạch vỏ, xay ra, sau đó nấu cùng với đường phèn và nước sạch, để nguội cho vào lon rồi đóng nắp, rồi đi giao hàng cho các căn tin trên địa bàn.

Nói về kinh tế từ nha đam mang lại, bà Phương (vợ ông Mỹ) chia sẻ: “Mỗi ngày, sau khi bán quần áo ở chợ xong, vợ chồng lại nấu nước và đóng nắp trên 200 lon nước nha đam, sau đó mang đi bỏ sỉ với giá 3.000 đồng/lon, sau khi trừ đi chi phí tiền đường, lon… khoảng 100.000 đồng thì lợi nhuận còn lại là 500.000 đồng/ngày”.

Ông Mỹ cho biết thêm, tới đây ông sẽ tăng thêm diện tích gieo trồng cũng như mở rộng quy mô sản xuất sẽ lớn hơn để đủ cung ứng cho thị trường và mong muốn sẽ trở thành những hộ nông dân đầu tiên của địa phương thành công với mô hình trồng nha đam trong thùng xốp. Vì ông cho rằng, đây là giống cây dễ trồng, ít công chăm sóc, trồng một lần là thu hoạch lâu dài không cần phải ươm lại cây giống.

Hiện nay, nhu cầu sử dụng nha đam ngày càng tăng, ngoài việc làm thức uống, nha đam còn được dùng trong việc chăm sóc sắc đẹp và là một dược liệu quý trong điều trị rất nhiều bệnh như: Gan, bệnh ngoài da, mỏi mắt…Rõ ràng, cây nha đam là một hướng đi mới trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, giúp giảm nghèo nên được nhiều nông dân ở Hậu Giang nhân rộng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Trồng cây chanh leo, lãi trăm triệu đồng/ha

Đầu tư khoảng 70-100 triệu đồng/ha, lãi thuần 500 – 700 triệu đồng/ha/năm, trồng chanh leo đang trở thành mô hình nông nghiệp siêu lợi nhuận ở Tây Nguyên, Nghệ An.

Là một trong những hộ đầu tiên trồng chanh leo ở xã Kdang, huyện Đak Đoa, Đak Lak, ông Trần Văn Lộng đã quyết định bán bán 6 sào đất và vay mượn thêm để hạ giống trên 3 ha cây chanh leo trong mùa đầu tiên vào năm 2011.

Sau 6 tháng tích cực chăm sóc đúng kĩ thuật, gia đình ông thu hoạch vụ đầu tiên với hơn 10 tấn quả. Giá bán tại vườn thời điểm đó từ 10.000 – 12.000 đồng/kg. Trừ chi phí gia đình ông cầm chắc trong tay hơn 100 triệu đồng. Sau 1 tháng, vườn chanh lại cho thu hoạch lứa tiếp theo. Tính cả năm, gia đình ông đã thu hoạch hơn 400 tấn chanh leo, bỏ túi cả tỷ đồng năm đó và ông Lộng cũng được bà con tặng cho biệt danh ‘ông vua’ chanh leo.

“Ông vua’ chanh leo Trần Văn Lộng

Mô hình trồng cây chanh leo của gia đình ông Lộng đã được dân làng và người dân ở các xã lân cận học tập áp dụng và phát triển rộng khắp.

Theo các chuyên gia, mỗi ha chanh leo đầu tư khoảng 100 triệu đồng, năng suất đạt từ 80 tấn đến 100 tấn mỗi năm. Cây chanh leo là loại cây dễ trồng, công chăm sóc lại ít chỉ cần tỉa cành, lá để quả nhận được ánh nắng mặt trời và tránh sâu bệnh. Sau khi cây đã leo lên giàn thì cỏ bên dưới không thể mọc được, chỉ việc phun thuốc trừ sâu và thuê công thu hoạch. Giống này nếu chăm sóc tốt cho năng suất bình quân 70 – 100 tấn/ha/năm, nếu giá thị trường ở mức 15.000 – 17.000 đ/kg, sau khi trừ chi phí thì người trồng chanh dây thu được lãi thuần từ 500 – 700 triệu đ/ha/năm, chu kỳ canh tác hiệu quả nhất không quá 2 năm.

Từ 2011 đến nay, cây chanh leo đã chứng minh năng suất và hiệu quả hơn hẳn cà phê và hồ tiêu và trở thành loại cây làm giàu của rất nhiều bà con tại Lâm Đồng nói chung các tỉnh như Gia Lai, Đăk Nông nói riêng.

Mới đây, loại cây trồng này cũng giúp bà con nông dân Quế Phong, Quỳ Hợp (Nghệ An) thu hàng trăm triệu đồng khi chuyển đổi trồng chanh leo trên đất trồng keo.

Tại Quế Phong, mô hình trồng chanh leo thử nghiệm từ 2011 với 2ha đã cho thu hoạch trên 50 tấn quả và doanh thu trên 400 triệu đồng. Từ đó, mô hình trồng chanh leo đã được nhân rộng trên những diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả, giúp đồng bào thoát nghèo. Từ Quế Phong, mô hình này đã lan sang các huyện Tam Hợp, Tương Dương và đang tiếp tục được nhân rộng.

Chị Hồ Thị Thủy xóm Tân Thành, Tam Hợp mạnh dạn chuyển đổi cây chanh leo thay thế cho cây keo trên diện tích đất đồi của gia đình. Đầu tư 100 triệu cho gần 1ha chanh leo từ tháng 2/2016, đến tháng 4/2017, cây chanh leo của gia đình chị Thủy đã bắt đầu cho thu quả. Mới trồng vụ đầu tiên nhưng gia đình đã thu được 15 tấn quả, bán tại vườn 15 ngàn/kg, tính ra được hơn 200 triệu đồng. Dự kiến vườn chanh leo của gia đình chị còn cho thu hoạch khoảng 15 tấn quả nữa.

Theo đánh giá của một trưởng bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tương Dương, Nghệ An: Cây chanh leo bước đầu cho thu nhập tốt nên người dân rất phân khởi. Có vườn chanh, người dân không phải đi rừng săn bắn nữa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.