Cách nuôi cá Ali cảnh theo chuẩn kĩ thuật nhất

Là một trong những loài thuộc họ thủy sinh, cá cảnh Ali đã khiến nhiều người chơi say mê bới những màu sắc thực sự nổi bật. Kỹ thuật nuôi cá Ali cũng không quá phức tạp nếu bạn tuân thủ đúng những quy tắc dưới đây. Hãy cùng tìm hiểu nhé !

Cá Ali là loài thuộc dòng thủy sinh nên cũng tương đối dễ nuôi

1. Đặc điểm sinh học trong cách nuôi cá Ali

– Chiều dài cá (cm): 20

– Nhiệt độ nước (C): 24 – 28. Đây là nhiệt độ thích hợp nhất cho cá cảnh Ali sinh trưởng và phát triển tốt. Ngoài ra, nhiệt độ còn giúp quản lý tính hung dữ của cá vì nhiệt độ cao thì vòng sinh học nhanh hơn, cá ăn nhiều, mau lớn nhưng cũng mạnh mẽ và hiếu chiến hơn. Nhiệt độ thấp thì ngược lại. Do vậy khi bạn muốn “bón thúc” cho cá mau lớn thì có thể cho thêm máy sưởi và khi chúng đã lớn có thể giảm nhiệt xuống ở mức độ trên.

– Độ cứng nước (dH): 10 – 25

– Độ pH: 7,6 – 8,8

– Tính ăn: Ăn động vật

– Hình thức sinh sản: Đẻ trứng

– Tầng nước ở: Giữa – đá

– Sinh sản: Tỉ lệ đực cái khi tham gia sinh sản là 1:3. Cá cái đẻ trứng lên giá thể cứng trong bể, cá đực thụ tinh ngoài, sau đó cá cái gắp trứng lên miệng để ấp. Thời gian cá cái ấp trứng và giữ con trong khoang miệng khoảng 3 tuần.

2. Cách nuôi cá Ali chuẩn kĩ thuật

– Chọn giống: Mặc dù cá Ali là loại cá khoẻ, dễ thích nghi, nhưng để giảm thiểu nguy cơ thất thoát cá trong quá trình nuôi vẫn cần lưu ý một số vấn đề. Khi chọn cá, bạn nên nghiên cứu kích thước tối đa của cá để tránh trường hợp bể trở nên quá chật chội về sau, lúc đó xử lý lại cũng rất khó. Khi chọn cá, cố gắng chọn cá cùng một hồ. Ở Hà Nội thì cá Ali phổ thông chủ yếu là Malawi. Vì mặc dù cá Ali dễ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài, nhưng nếu chúng ta tạo được môi trường gần nhất với môi trường tự nhiên thì chúng sẽ phát triển mạnh mẽ nhất.

– Kích thước bể cá: Cá Ali được cho là sinh động, hấp dẫn nhất khi chúng rượt bơi lôi, rượt đuổi nhau ở gần các đồ vật trang trí trong bể. Do vậy, với cùng một thể tích nước, các bạn cần cân đối các chiều với nhau, đặc biệt là chiều cao. Ví dụ, với kích thước ba chiều là 100x40x60, nếu là CxDxR thì rõ ràng không phù hợp, vì cá có rất ít không gian để di chuyển. Cũng với kích thước đó, nếu là DxRxC thì sẽ tốt hơn, bể bạn có đủ chiều dài cho cá rượt đuổi nhau. Nhưng bạn cũng đừng quên xem xét khả năng tuyệt vời hơn là DxCxR, khi đó bể cá có độ dài, tăng chiều sâu và độ cao vừa phải để bạn trang trí thêm các đồ trang trí…

Trong cách nuôi cá Ali, bạn cần chú ý cách chọn giống và kích thước bể

– Phông nền: Phông nền bạn nên chọn phông đồng nhất một màu hoặc ít nhất là có một mầu chủ đạo. Đừng chọn màu nào quá chói (đỏ, cam, vàng chanh) vì như vậy khi ngắm cá sẽ có cảm giác nhức mắt. Cũng không nên chọn phông phong cảnh quá phức tạp (dải san hô), cá sẽ bị lẫn vào phông nền, giảm bớt sự thích thú khi quan sát.. Nhiều người thường chọn màu xanh nước biển, dịu mắt và cũng làm nổi các đồ vật trang trí trong bể. Ngoài ra nếu tìm được những phông theo kiểu 3D và phù hợp với đồ vật trang trí trong bể của bạn thì cũng rất đẹp nhưng hơi kì công.

– Nền: Đặc tính của cá Ali là đặc biệt thích đào nền nên bạn có thể cho nền bằng cát, sỏi…nhưng cần phải lưu ý kích thước. Kích thước tối đa của sỏi không nên to quá miệng của cá vì thông thường cá đào nền bằng cách ngậm vào và thổi ra chỗ khác. Lưu ý nền càng nhỏ, càng khít thì càng đỡ được hiện tượng chất bẩn lọt xuống và lưu giữ ở bên dưới.

Màu của nền cũng ảnh hưởng đến màu của cá. Màu sáng khiến cho màu của cá có cảm giác bị bợt đi, màu tối giúp màu của cá sặc sỡ hơn. Do vậy bạn nên chọn màu sao cho tương phản với màu của đại đa số cá trong bể, lúc đó nhìn cá sẽ nổi bật trên màu nền. Có một lưu ý nhỏ nhỏ là trước khi rải nền các bạn nên có vật liệu lót ở dưới. Bạn nên thiết kế nền bể cá dày bởi cá Ali là loài đào bới rất khỏe

– Đèn: Với cá ali, vai trò của ánh sáng trong quá trình sinh trưởng không quan trọng tuyệt đối như quá trình lên màu của cá rồng hay cây thủy sinh do vậy chọn đèn chủ yếu để tăng thêm vẻ đẹp cho bể cá. Loại đèn phổ biến thường dùng là xanh và trắng vì đèn trắng bên trong để sáng bể, đèn xanh bên ngoài tạo cảm giác về màu. Đối với màu xanh có loại đèn actinic blue trông ánh sáng rất lung linh tuy nhiên giá cả cũng cao hơn chút. Một số tài liệu còn nói rằng nên kết hợp xanh và tím/hồng vì như vậy cá sẽ nổi bật còn bể sẽ có độ sâu.

– Đồ vật trang trí: Cá ali sống trong nước cứng, độ pH tương đối cao. Do vậy vật trang trí phù hợp nhất vẫn là đá và cũng phù hợp với môi trường tự nhiên của nó. Lũa cũng có khi được sử dụng vì đặc tính tạo nhiều hang hốc và nhẹ, nhưng lũa có thể làm giảm pH (do tiết ra acid hoà tan trong nước). Đá và lũa chính là hai loại đồ trang trí phổ biến nhất trong bể Ali.

Một số người thích sử dụng san hô (loại khối to) để mô phỏng cảnh biển cho giống hơn. Đây cũng là một ý tưởng hay vì với màu sắc sẵn có và sự lanh lợi của cá Ali, nếu kết hợp với san hô khối và ánh sáng phù hợp thì cảnh sắc sẽ không hề thua kém cảnh biển. Tuy nhiên lưu ý một điều là cá Ali rượt đuổi, chui rúc, liếc mình trên bề mặt khác rất nhiều nên nếu khối đá san hô quá gai góc thì có thể làm cá bị trầy xước khi bơi lội hoặc khi gặm rêu, từ đó dễ bị nấm và chết. Đối với những loại đồ vật trang trí nặng như đá lớn, cũng không nên đặt trực tiếp lên đáy bể mà nên có lớp lót để phân tán lực ra cho đều. Lớp lót này cũng nên chọn màu dễ nguỵ trang, vì trong quá trình nuôi thì trường hợp cá đào đến lộ cả lớp lót này là tương đối nhiều.

– Yêu cầu sục khí: Trung bình.

Cá Ali là loại cá phàm ăn nên bạn cần đầu tư hệ thống lọc tương đối một chút, ví như có một cái lọc tràn trên, vật liệu lọc sử dụng luôn san hô nếu được để giữ pH cao. Cá ali không thích luồng nước quá mạnh nên hãy cố gắng tìm cách xử lý luồng nước vào bể cho nhẹ nhàng.

– Yêu cầu lọc nước: Ít.

– Thức ăn: Cá Ali chủ yếu là ăn động vật như cá con, côn trùng, giáp xác, trùng chỉ, thức ăn viên …

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Hòa Bình mở rộng diện tích trồng cây có múi

Với lợi thế về điều kiện tiểu khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp, thời gian gần đây, diện tích cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ngày càng tăng, bước đầu hình thành những vùng sản xuất mang tính hàng hóa, góp phần nâng cao giá trị trên một đơn vị canh tác của người dân.

Hòa Bình thúc đẩy phát triển cây có múi

“Thủ phủ” cam Cao Phong

Có thể nói, thời gian gần đây, cây có múi, nhất là cây cam đã và đang khẳng định được thương hiệu, hiệu quả trên đồng đất Hòa Bình. Trong đó, huyện Cao Phong được biết đến là một trong những “thủ phủ” cam ở các tỉnh phía bắc. Riêng năm 2016, sản lượng cam đạt hơn 23.000 tấn, bình quân mỗi héc-ta cho thu hoạch khoảng 25 đến 30 tấn quả, với giá bán từ 25 nghìn đến 30 nghìn đồng/kg người dân thu lãi từ 400 đến 600 triệu đồng/ha.

Là một trong những gia đình trồng cam lâu năm và có kinh nghiệm sản xuất, hiện nay, gia đình anh Nguyễn Đức Thủy (khu 3 thị trấn Cao Phong) nổi tiếng là một trong những tỷ phú nhờ trồng cam. Anh Thủy chia sẻ: “Gia đình tôi trồng cam từ năm 1996, đến nay, đang trồng 10 ha cam, trong đó có 7 ha ở thời kỳ thu hoạch, còn lại 3 ha chuẩn bị cho quả. Vụ cam năm 2016, với 7 ha, gia đình thu khoảng 210 tấn quả, bình quân thu khoảng 780 triệu đồng/ha, lợi nhuận thu về 500 triệu đồng/ha”.

Cũng như nhiều hộ khác, anh Bùi Văn Đồng ở thị trấn Cao Phong, đang mở rộng diện tích trồng cam sau một thời gian canh tác mang lại hiệu quả kinh tế cao. Anh Đồng cho biết: “Trước đây, gia đình chỉ trồng 1 ha cam, sau một thời gian thấy hiệu quả, nên đã thuê thêm 2 ha để trồng. Hiện nay, 2 ha cam đã bước vào năm thứ 5 và cho bói năm trước được hai tấn quả. Dự kiến năm nay, 2 ha cam sẽ thu khoảng 20 tấn, với giá bán như hiện nay, chắc chắn sẽ thu lãi hàng trăm triệu đồng”.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hòa Bình Vương Đắc Hùng cho biết, đến nay diện tích cây có múi trên địa bàn khoảng 6.300 ha, trong đó, diện tích cam là 3.600 ha, bưởi 2.700 ha. Đặc biệt, cây cam hiện có mặt ở hầu khắp các huyện, nhưng chủ yếu vẫn tập trung nhiều nhất ở Cao Phong. Qua thống kê, bình quân mỗi héc-ta cam đạt năng suất 30 tấn quả, thu nhập từ 650 đến 700 triệu đồng/ha. Ngoài ra, hiện nay cây bưởi, chủ lực là cây bưởi đỏ cũng đang phát triển mạnh ở huyện Tân Lạc, với thu nhập từ 400 đến 450 triệu đồng/ha/năm. Trong đó, có những gia đình trồng bưởi đỏ hơn 10 năm, có cây cho thu hoạch khoảng 700 đến 800 quả, giá bán 25.000 đồng/quả, bình quân thu nhập hơn 18 triệu đồng/cây. Ngoài ra, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 117 ha cây ăn quả được cấp chứng nhận VietGAP.

Nhằm phát huy thế mạnh sẵn có của địa phương, tạo sản phẩm mang tính hàng hóa, nâng cao thu nhập cho người dân, tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ phát triển, trong đó chú trọng các loại cây ăn quả chủ lực. Đặc biệt, tỉnh triển khai hỗ trợ tiêu thụ nông sản hàng hóa; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Hiện nay, sản xuất cây ăn quả trên địa bàn đã hình thành các vùng sản xuất tập trung có giá trị kinh tế cao ở các huyện Cao Phong, Tân Lạc, Kim Bôi, Lạc Sơn… Từ các vùng sản xuất tập trung hình thành các hình thức liên kết sản xuất hợp tác xã, tổ hợp tác, câu lạc bộ, nhằm mục đích trao đổi kỹ thuật, hỗ trợ sản xuất.

Đẩy mạnh tiêu thụ

Điều đáng mừng là hiện nay cây cam, bưởi trên địa bàn Hòa Bình đang được tiêu thụ tốt do nhu cầu thị trường ngày càng tăng. Tuy nhiên, về lâu dài cây cam cần có giải pháp thúc đẩy chế biến tại chỗ cũng như tìm hướng xuất khẩu, tránh trường hợp phát triển nhiều sẽ gây bão hòa, cung nhiều hơn cầu gây khó khăn cho tiêu thụ.

Cũng như cam, mặc dù diện tích bưởi đỏ trên địa bàn đã tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng nhìn chung hầu hết người dân đều trồng tự phát, chưa được tập huấn kỹ thuật; diện tích trồng nhỏ lẻ, manh mún, chất lượng giống chưa bảo đảm, kỹ thuật trồng trọt chưa cao, ít có sự hỗ trợ để áp dụng sản xuất theo hướng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, an toàn (VietGAP).

Bưởi đỏ trên địa bàn đã tăng nhanh trong những năm gần đây

Bên cạnh đó, việc bảo quản hoàn toàn bằng thủ công; thời gian bảo quản ngắn chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường, dẫn đến tổn thất sau thu hoạch còn cao; việc tiêu thụ sản phẩm mang tính nhỏ lẻ, sức cạnh tranh thấp do chất lượng không ổn định, số lượng còn ít, giá trị sản phẩm chưa cao. Trong khi đó, theo mục tiêu tại Quyết định số 1178/QĐ-UBND ngày 29-4-2016 của UBND tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2016-2020, tỉnh xây dựng vùng sản xuất bưởi đỏ ổn định, tập trung quy mô 2.000 ha; phấn đấu giá trị thu nhập bình quân đạt hơn 500 triệu đồng/ha/năm.

Vì vậy để khắc phục tình trạng này, theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vương Đắc Hùng, cần có bộ quy chuẩn quốc gia về quản lý sản xuất, kinh doanh giống cây ăn quả, trong đó chú trọng giống cây ăn quả lâu năm để có cơ sở quản lý giống. Triển khai thực hiện các quy hoạch, đề án đã được phê duyệt trong sản xuất quả an toàn; hỗ trợ triển khai các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng khu sơ chế sản phẩm có công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích lưu thông, thu mua sản phẩm bảo đảm lợi ích người sản xuất, chú trọng liên kết bốn nhà trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; tăng cường tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, thâm canh cây ăn quả an toàn, nhất là cây có múi; hỗ trợ, xây dựng mạng lưới tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo tiêu chuẩn GAP; đẩy mạnh việc hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác và sản xuất theo hướng trang trại, gia trại quy mô tập trung để tạo sản phẩm lớn thu hút thị trường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Liều trồng chanh đào trái vụ, anh nông dân thu tiền tỷ vì sai quả

Anh Vũ Văn Thiết là người đầu tiên tại xã Quảng Thành, huyện Hải Hà (Quảng Ninh) trồng chanh đào. Nhờ chịu khó mày mò, anh đã tập trung thành công vào chanh đào trái vụ, trung bình mỗi cây cho khoảng 10kg quả, có cây ra tới 300 quả (khoảng 20kg). Anh cũng sản xuất thành công “si rô chanh đào”, mang lại thu nhập cả tỷ đồng/năm.

Anh Vũ Văn Thiết liều mình trồng cam trái mùa

Anh Thiết cho biết: Anh vốn là lái xe chở khách đường dài, công việc thì vất vả nhưng thu nhập không được bao nhiêu. Năm 2014 có người bạn khuyên anh về mở gia trại trồng chanh đào, bởi Quảng Thành có thuận lợi về quỹ đất, thích hợp với làm trang trại, gia trại. Thấy hợp lý, anh quyết định bỏ nghề lái xe, dốc hết số tiền bao năm tích cóp, vay mượn thêm anh em bạn bè, ngân hàng để trồng gần 3.000 cây chanh đào trên diện tích 2ha. Giống chanh 3 năm tuổi được mua từ Công ty CP Đầu tư phát triển kỹ thuật giống cây trồng Việt Nam (trụ sở tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Khi mua cây giống, anh còn được Công ty hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cây chanh đào.

Dù có nhiều lo lắng, nhưng ngay năm đầu tiên đã cho thấy cây chanh đào rất phù hợp với vùng đất ở đây, trung bình mỗi cây cho khoảng 10kg quả, có cây ra tới 300 quả (khoảng 20kg).

Qua gợi ý từ lãnh đạo xã Quảng Thành là nên thử làm si rô chanh đào. Chanh đào cũng có vị chua như chanh thường, nhưng công dụng vượt trội về chữa bệnh, nhiều người thích mua chanh ngâm với đường phèn, mật ong làm si rô trị ho rất hiệu quả. Cách này tiêu thụ được nhiều chanh hơn, giá trị kinh tế cao hơn. Người trồng chanh có thể bán si rô chanh quanh năm, tiêu thụ tốt nhất là vào dịp Tết.

ia đình anh Thiết có nghề truyền thống làm bánh kẹo, nên việc chế biến quả thành si rô không mấy khó khăn. Từ gợi ý của lãnh đạo xã, vụ thu hoạch chanh đào đầu tiên được 4 tấn quả, anh Thiết dành 1 tấn làm được 2.300 lọ si rô. Quả chanh đào tươi được thái lát ngâm với mật ong rừng. Toàn bộ sản phẩm si rô chanh của anh bán hết nhanh tại Hội chợ OCOP tỉnh tháng 4 năm 2016, giá 130.000 đồng/lọ, thu về gần 300 triệu đồng, trong khi 1 tấn chanh tươi bán chỉ được khoảng 30 triệu đồng lại khá khó khăn.

Sản phẩm mật ong chanh đào tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân

Từ kết quả này, hiện xã Quảng Thành đã có thêm 5 hộ nữa trồng chanh đào, diện tích 1ha. Anh Thiết nhận bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Vụ chanh năm nay, riêng hộ anh Thiết ước tính thu khoảng 6 tấn quả chanh đào.

Anh Thiết đã đầu tư mở rộng nhà xưởng rộng khoảng 150m2, cùng nhiều thiết bị máy móc để sản xuất si rô. Huyện Hải Hà đã quy hoạch trồng cây có múi, trong đó có cây chanh đào trên địa bàn 2 xã Quảng Thịnh và Quảng Thành với diện tích khoảng 340ha. Cây chanh đào đang cho hiệu quả kinh tế cao là hướng phát triển mới của huyện Hải Hà nhằm hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung cho giá trị kinh tế cao, đồng thời xây dựng thương hiệu cho những sản phẩm đặc trưng của địa phương.

Bí thư Đảng uỷ xã Hoàng Phi Trường đánh giá: Thành công của sản phẩm “Si rô chanh đào” không chỉ tạo cho xã sản phẩm OCOP trong chương trình xây dựng nông thôn mới, mà còn tạo thêm việc làm cho nông dân, cải tạo những khu ruộng xấu thành vườn cây ăn quả. Sản phẩm “Si rô chanh đào” cần lượng mật ong rất lớn để chế biến, điều này còn giúp cho nghề nuôi ong của huyện và một số địa phương khác trong tỉnh phát triển.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cao Phong (Hòa Bình): Niềm vui sau mùa quả ngọt

Thời điểm này, các nhà vườn ở huyện miền núi Cao Phong (Hòa Bình) đã bắt đầu bước vào vụ chăm sóc cam mới. Niên vụ 2016 – 2017 vừa qua, nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi nên năng suất, sản lượng cam, quýt của toàn huyện đã tăng hơn so với niên vụ trước.

Cam Cao Phong

Cùng với đó, giá thu mua của thương lái trong toàn bộ thời gian thu hoạch cũng tương đối cao và ổn định… Tất cả những điều đó đã mang đến cho người trồng cam ở Cao Phong một mùa quả ngọt với niềm vui no ấm, mạnh giàu…

Nằm ở trung tâm huyện Cao Phong, thị trấn Cao Phong hiện có khoảng trên 700 ha cam, quýt các loại, chiếm hơn 40% tổng diện tích cam, quýt của toàn huyện Cao Phong. Những năm qua, thực hiện Đề án phát triển cây ăn quả có múi của tỉnh Hòa Bình, thị trấn Cao Phong đã tập trung chỉ đạo nhân dân tích cực chuyển đổi những diện tích đất canh tác kém hiệu quả sang trồng các loại cây ăn quả có múi, tập trung nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Đồng chí Nguyễn Hồng Thủy, Chủ tịch UBND thị trấn Cao Phong cho biết: “Để nâng cao sản lượng và chất lượng cây ăn quả, thị trấn đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân đầu tư, phát triển diện tích cây ăn quả có múi; áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào cải tạo, chăm sóc để nâng cao chất lượng. Cùng với việc phát triển cây cam đúng theo quy hoạch, việc giữ gìn thương hiệu cam Cao Phong cũng được địa phương đặc biệt chú trọng. Hàng năm, 100% số hộ trồng và kinh doanh cam đều được tham gia ký cam kết chấp hành đúng quy định của pháp luật trong sản xuất, kinh doanh cam, quýt”.

Là hộ có thâm niên trồng cam, ông Tạ Đình Đào, Trưởng khu 5, thị trấn Cao Phong được nhiều người biết đến như là hộ tiên phong trong gắn bó và làm giàu cùng cây cam. Với tổng diện tích trồng cam gần 7 ha, niên vụ quả 2016 – 2017 vừa qua, gia đình ông Đào thu lãi được trên 3 tỷ đồng từ tiền bán cam. Bằng kinh nghiệm nhiều năm với cây cam trên vùng đất này, ông Tạ Đình Đào khẳng định, trồng cam không khó. Nhưng phải nắm vững và tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật từ khi lựa chọn vị trí trồng, lựa chọn cây giống cho đến việc sử dụng phân bón, phòng trừ dịch bệnh…, có như vậy cây cam mới cho năng suất cao và chất lượng quả thơm ngon.

Cũng theo Chủ tịch UBND thị trấn Cao Phong Nguyễn Hồng Thủy, để có những cây mới, năng suất và hiệu quả cao đưa vào sản xuất đại trà, UBND thị trấn đã phối hợp Công ty TNHH Một thành viên Cao Phong liên kết với nhiều viện nghiên cứu, ứng dụng thành công các giống cam, quýt mới có chất lượng quả tốt, năng suất cao và phù hợp với thổ nhưỡng Cao Phong. Điển hình như các giống: quýt ôn châu, cam CS1, chanh đào, bưởi đỏ, cam canh, cam V2,… Năm 2014, sản phẩm cam Cao Phong được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) công nhận chỉ dẫn địa lý. Từ đó đến nay, giá trị kinh tế từ cây cam mang lại cho người nông dân Cao Phong đã ngày càng tăng lên. Theo thống kê sơ bộ, niên vụ cam 2016 – 2017 vừa qua, thị trấn Cao Phong có khoảng trên 200 hộ đạt mức thu nhập từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ đồng, hơn 70 hộ đạt từ một tỷ đồng đến mười tỷ đồng từ việc bán cam, quýt. Thu nhập bình quân của thị trấn đạt 42 triệu đồng/người. Nhiều hộ dân còn mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, liên kết mở rộng diện tích trồng cam, quýt.

Không chỉ ở riêng thị trấn Cao Phong mà từ khoảng gần chục năm lại đây, diện tích cây cam nói riêng và các loại cây ăn quả có múi nói chung đã được người dân đầu tư phát triển mạnh ra nhiều xã khác của huyện Cao Phong. Đồng chí Nguyễn Văn Hiến, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cao Phong cho biết: Những năm gần đây, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất cùng với các biện pháp đồng bộ, cây cam ở Cao Phong đã và đang cho hiệu quả, năng suất chất lượng tương đối cao. Diện tích, sản lượng cam của huyện liên tục tăng qua các năm.

Năm 2010, diện tích cam, quýt 557 ha, sản lượng đạt 9.000 tấn; năm 2013, diện tích 920 ha, sản lượng đạt 16.000 tấn; năm 2014, diện tích 1.200 ha, sản lượng đạt hơn 17.000 tấn; năm 2015, diện tích là 1.500 ha, sản lượng 20.000 tấn. Năm 2016, với diện tich cam, quýt trên 1.700 ha, trong đó khoảng 900 ha đang trong thời kỳ kinh doanh, sản lượng trái cây có múi của Cao Phong đã đạt hơn 23.000 tấn. Cây cam đã trở thành cây chủ lực của huyện Cao Phong trong sản xuất hàng hóa; đồng thời cũng là “cây làm giàu” của hàng nghìn hộ dân trên địa bàn toàn huyện.

Theo thống kê, hiện tại bình quân 1 ha cam, quýt có sản lượng từ 20 – 30 tấn, giá trung bình 25.000 – 30.000 đồng/kg thì giá trị thu nhập của người trồng cam ở Cao Phong cũng vào khoảng từ 600 – 700 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí các loại, người nông dân vẫn có thể thu lãi khoảng 350 – 400 triệu đồng/ha/năm. Hàng năm, nguồn thu từ cam của toàn huyện Cao Phong ước đạt khoảng 600 tỷ đồng, con số đáng mơ ước đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở một huyện vùng cao.

Được biết, thời gian qua, huyện Cao Phong đã đẩy mạnh hướng dẫn, định hướng cho nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap, phát triển bền vững vùng cam hàng hóa, tổ chức liên kết hợp tác từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng trồng cam. Đồng thời, để nâng tầm giá trị của cây ăn quả có múi, đặc biệt là cam, quýt, các cơ quan chức năng trực tiếp là Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện còn tăng cường hỗ trợ người dân ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để hình thành những vùng hàng hóa như: cam lòng vàng, cam đường canh, cam V2, cam CS1, bưởi đỏ… gắn với xây dựng các vùng cam an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP.

Một mùa cam mới đang về với những người nông dân ở huyện miền núi Cao Phong. Với định hướng đúng đắn và sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp, tin tưởng việc đẩy mạnh phát triển cây cam nói riêng và các loại cây ăn quả có múi nói chung sẽ thực sự là hướng đi hiệu quả, giúp nông dân Cao Phong tăng thu nhập, phát triển đời sống.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tỷ phú từ cây cam

Những năm gần đây, Cam Cao Phong (Hòa Bình) đã trở thành thương hiệu lớn trên toàn quốc và là hình mẫu của nhiều địa phương về cách làm giàu từ nông nghiệp, cụ thể là trồng cây ăn quả.

Cam Cao Phong có giá trị dinh dưỡng rất cao

Theo kinh nghiệm của người dân ở đây, cam trồng càng lâu năm chất lượng càng ngon ngọt. Một hộ gia đình có Vườn cam 300 gốc có tuổi đời trên 10 năm cho biết, với vườn cam này, mỗi năm gia đình này lãi chừng 700 triệu đồng. Có nhiều thương lái đến mua đều phải tự tay cắt từng quả cam trong vườn, do số lượng quả nhiều.

Điển hình như hộ gia đình anh Nguyễn Văn Điệp, khu 3, thị trấn Cao Phong (Hòa Bình). Với diện tích 3 ha cam canh, cam V2 và cam lòng vàng, đồng thời tận dùng phần hàng rào trồng chanh đào. Nhờ trồng cam mà đời sống gia đình khấm khá hơn nhiều. Là khách hàng nhiều năm Trung tâm Cây giống Thôn Trang với nguồn giống chất lượng, được tư vấn quy trình chăm sóc hiệu quả, đến nay gia đình anh đã có thu nhập ổn định mỗi năm gần trên 1 tỷ đồng từ cam và chanh.

Dẫn chúng tôi thăm vườn đồi cam mới thấy hết được công sức anh chị trong việc tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật qua thông tin từ Trung tâm Thôn Trang và theo các chương trình khuyến nông, học hỏi từ bà con xung quanh, đồng thời vừa làm vừa rút kinh nghiệm kết hợp với đầu tư cải tạo phân bón, chăm sóc đúng kỹ thuật giúp cây phát triển tốt. Thấm thoát chẳng bao lâu sau vườn cam của gia đình cũng cho thu hoạch lứa quả đầu tiên.

Đến nay vườn cam của gia đình chị cũng vào năm thứ 5, chủ yếu là cam canh, cam V2 và cam lòng vàng. Năm 2015 gia đình anh thu khoảng hơn 30 tấn quả cam canh, 30 tấn quả cam lòng vàng với giá 20.000 – 25.000đồng/1kg giá buôn, trừ chi phí cho thu nhập gần 2 tỷ và ngoài ra còn thu được 200 triệu từ chanh đào. Là vùng có thương hiệu nên sản phẩm làm ra tới đâu tiêu thụ hết tới đó. Mỗi vụ thu hoạch là thương lái khắp các tỉnh thành tìm về các vườn để thu mua.

Để vườn cây được xanh tốt anh chị đã đầu tư phân chuồng ủ hoai mục để bón cho cây. Đồng thời giống cây này cũng hay bị bệnh nên chị thường xuyên cập nhất những loại thuốc đặc trị trên thị trường như sản phẩm chất lượng của Apolo, Biovina, Agriseeds mà Trung tâm Thôn Trang để phun nhằm phòng và trị bệnh.

Với sự chịu thương chịu khó, cùng tinh thần luôn học hỏi kèm theo sự tư vấn nhiệt tình, hiệu quả, khoa học của Trung tâm Cây giống Thôn Trang, bước đi của a Điệp là bước đi vững chắc cho việc làm giàu từ cây ăn quả.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Độc chiêu trị sâu bệnh cho cam: Dùng chanh đào ngâm mật ong 6 tháng

Áp dụng những “chiêu trò” như trồng cam “siêu phẩm” bằng phân bón là đậu tương xay mịn rồi ngâm ủ hay dùng chanh đào ngâm mật ong 6 tháng pha với chế phẩm sinh học để trị sâu bệnh cho cam, lão nông Vũ Văn Cường ở thôn Vũ Xá, xã Thất Hùng, huyện Kinh Môn, Hải Dương đã có thu nhập hàng tỉ đồng mỗi năm.

Gia đình ông Cường là hộ đầu tiên ở xã Thất Hùng vượt lập ruộng lúa để trồng cam. Dẫn chúng tôi thăm 2 ha cam, cây nào cây ấy sai trĩu, trái nào cũng to đều như nắm tay, ông Cường bộc bạch: “Nhiều năm trước, cuộc sống gia đình chỉ bám bíu vào mấy sào ruộng nên khó khăn vô cùng. Năm 2003, xem ti vi thấy nông dân ở Văn Giang (Hưng Yên) có thu nhập cao từ cam, tôi bèn đến tận nơi tìm hiểu”.

Gia đình ông Cường là hộ đầu tiên ở xã Thất Hùng trồng cam VietGAP thành công

Nhìn thấy những vườn cam chín đỏ rất đẹp mắt, rồi những chủ vườn cam lớn ở Văn Giang ai cũng nhà cửa khang trang, ăn vận đẹp đẽ ông Cường thích mê. Thế là ông về bàn với vợ cải tạo 2 sào vườn trồng cam với hy vọng đổi đời. Nhưng làm giàu đâu có dễ.

Theo ông Cường, dẫu cây cam hợp đất Thất Hùng lớn nhanh, xanh mơn mởn nhưng do chưa có kinh nghiệm chăm sóc nên vụ đầu tiên thu hoạch quả cam nhạt thếch, có bán cũng chả ai mua. Suốt 1 năm ròng sau đó, ông Cường miệt mài đi đến các vùng trồng cam nổi tiếng ở Cao Phong (Hòa Bình), cam Vinh Quỳ Hợp (Nghệ An)… để học hỏi kinh nghiệm trồng cam. Kết hợp với kinh nghiệm tích lũy của bản thân dần dà việc trồng cam của ông Cường thuận lợi hơn.

Hầu hết những vườn cam từ 3 đến hơn chục năm tuổi của ông Cường đều cho hiệu quả kinh tế cao, đạt trung bình 20 tấn quả/ha

Ông Cường cho biết, độ ngọt của cam ngoài phụ thuộc rất nhiều vào cách chăm sóc, trong đó việc bón phân cho cam rất quan trọng. Ông Cường thường dùng lân để bón giai đoạn ra hoa và kali bón giai đoạn nuôi quả. Đặc biệt để tăng độ ngọt cho cam, ông Cường tưới cam bằng nước đậu tương được xay nhỏ và ngâm ủ trong 5 tháng. “Một tháng tưới cho cam hai lần, duy trì như vậy liên tục trong 2 tháng đến khi cam xuất bán cam sẽ sai trĩu, quả đều tay, ngọt lừ. Bình quân 1 ha cam tôi dùng 10 tấn đậu tương mỗi năm”, ông Cường bộc bạch.

Mỗi năm ông Cường dùng 20 tấn đậu tương xay mịn rồi ngâm ủ trong 5 tháng để bón tăng độ ngọt cho 2 ha cam

Điều đáng chú ý, ông Cường là người đầu tiên ở Thất Hùng thực hiện quy trình sản xuất cam theo tiêu chuẩn VietGAP. Theo đó, trong quá trình chăm sóc cây, ông Cường đã áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật trồng cam thân thiện với môi trường.

Ông Cường cho biết công thức ngâm ủ đậu tương để bón cho cam như sau: 2 tạ đậu tương xay nhỏ + 1.000 lít nước + 1 kg nấm đối kháng ngâm trong 5 tháng. Lưu ý đổ nước ngâm từ từ, lúc đầu chỉ đổ 200 lít nước, 1 tuần sau cho thêm nước dần.

Đặc biệt để diệt trừ rầy, côn trùng trích hư, gây hại cho cam, ông Cường đã nghĩ ra “độc chiêu” bá đạo vô cùng hiệu quả và an toàn. Đó là dùng chanh ngâm với đường và mật ong sau đó pha cùng với chế phẩm sinh học để diệt trừ sâu bệnh gây hại trên cam. “Hơi mất công một tí nhưng trừ sâu bệnh cho cam cực hiệu quả. Sở  dĩ các loài côn trùng rất ưa thích mùi thơm và vị ngọt. Người xưa có câu “mật ngọt chết ruồi” là vì thế”, ông Cường vui vẻ giải thích.

Độc chiêu “mật ngọt chết ruồi” là dùng chanh ngâm mật ong và pha với chế phẩm sinh học để phòng trừ sâu bệnh cho cam, ông cường còn tự làm các bẫy diệt côn trùng

Về liều lượng ông Cường cho biết, ông thường dùng 3 kg chanh đào + 1kg đường + ¼ lít mật ong xịn cho vào bình sạch ngâm từ 5 – 7 tháng. Sau đó lấy 50 ml cốt nước chanh ngâm mật ong hòa với 16 lít nước và chế phẩm sinh học để phòng trừ sâu bệnh cho cam.

Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình trồng cam VietGAP, giá bán cam tại vườn của gia đình ông luôn cao hơn các hộ khác. Thương lái đến tận vườn đặt và hái quả. Vụ cam năm 2016, với giá bình quân 30.000 đồng/kg cam Vinh và 40.000 đồng/cam đường canh, ông Cường có doanh thu hơn 1 tỉ từ việc xuất bán hơn 40 tấn quả cam.

Theo danviet.vn được tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng và trị một số bệnh phổ biến trên cây Bông vải

Cây bông là cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao. Kỹ thuật trồng bông tương đối đơn giản. Khi trồng, ta cần chú ý để phòng trừ các loại bệnh sau đây:

1. Một số loại sâu hại chính trên cây bông:

Sâu xanh:

Sâu xanh là loại sâu đa thực, gây hại trên rất nhiều loại cây trồng. Trên cây bông nó được coi là loài sâu đục quả nguy hiểm nhất, làm giảm năng suất bông hạt.

Ngay từ khi sâu non mới nở đã nhanh chóng đục vào ngọn cây, nụ non, hoa, quả. Sức phá của chúng rất lớn, mỗi con có thể làm hại 15-20 nụ hoa trong đời của nó (13-15 ngày). Sâu tuổi nhỏ gây hại mạnh hơn sâu tuổi lớn, vì chúng di chuyển nhiều để tìm thức ăn.

Sâu xanh phát sinh quanh năm, thường mỗi tháng có 1 lứa. Những tháng không có bông chúng gây hại trên cây trồng khác như đậu đỏ, thuốc lá, cà chua, bắp cải,…

* Biện pháp phòng trừ :

Trong tự nhiên sâu xanh bị nhiều loại thiên định tấn công: ong mắt đỏ ký sinh trứng, ruồi ký sinh sâu non và nhộng, bọ rùa, bọ xít, bọ xít cổ ngỗng, bọ xít trắng vai nhọn,…

– Đa dạng hóa hệ thống cây trồng bằng cách trồng bông với các cây trồng khác.

– Bố trí thời vụ thích hợp tránh né giai đoạn bông ra nụ rộ trùng với thời điểm phát sinh của sâu.

– Trồng giống bông khánh sâu.

– Phun chế phẩm NPV – Ha với liều lượng 500 LE/ha hoặc Divicin – H, liều lượng 0,6-0,8 kg/ha.

– Phun thuốc hoá học: Chỉ nên phun thuốc ở giai đoạn 70-80 ngày sau gieo, khi mật độ sâu non 10-20 con/100 cây bằng các loại thuốc sau :

+ Karate 2,5 EC với liều lượng 0,8 – 1,0 lít / ha.

+ Lannate 40Wp với liều lượng 0,8 kg/ha

+ Sherpa 25EC liều lượng 0,3 – 0,4 lít /ha

+ Match 0,5 lít / ha

Sâu loang:

Sâu loang còn gọi là sâu gai. Trưởng thành đẻ trứng rải rác ở các bộ phận: búp non, kẽ nách nụ, hoa, quả non, cuống lá, mặt dưới lá non.

Sâu non gây hại nách cành, lá non, đục vào thân làm cho búp non, cành non bị héo rũ.

Khi bông lớn chúng đục vào nụ, hoa quả non làm nụ xòa, hoa rụng,… khi quả lớn chúng ăn hết quả này sang quả khác.

* Biện pháp phòng trừ:

– Sâu loang bị nhiều loại thiên định tấn công như ong mắt đỏ ký sinh trứng, ong kén nhỏ ký sinh sâu non.

– Tiêu hủy cây ký chủ sâu loang.

– Trồng giống bông kháng sâu.

– Phát hiện sớm và dùng thuốc Bt ngay khi sâu mới nở ,liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha .

– Dùng thuốc hóa học:

* Sherpa 25EC: 0,3 – 0,4 lít /ha

* Karate 2,5EC: 0,8 – 1,0 lít /ha

Sâu cuốn lá:

Sâu cuốn lá phát triển trong điều kiện ẩm ướt, âm u về thời tiết. Sâu non ở tuổi 1-3 thường tập trung, sau đó mới phân tán bằng cách nhả tơ để qua lá khác, chúng có tập tính cuốn lá, mỗi con có khả năng gây hại 2-3 lá.

* Biện pháp phòng trừ:

– Sử dụng giống kháng là biện pháp tốt nhất.

– Phun thuốc hóa học: Netoxin 95Wp, liều lượng 0,5 – 0,7kg/ha và một số loại thuốc khác có tác dụng tương tự.

Sâu hồng :

Sâu hồng là một trong những đối tượng kiểm dịch của thế giới và là một trong những loại sâu đục quả khó trị nhất. Sâu non không những phá hại trên đồng ruộng mà còn phá hại hạt trong kho.

Sâu non sau nở đục vào nụ, hoa, quả non. Sống kín đáo trọn đời trong đó. Khi đẫy sức sâu đục 1 lỗ chui ra khỏi quả, xuống đất hoá nhộng hoặc làm nhộng ngay trong quả.

Sâu làm cho hoa không nở được, đục quả, ăn hạt .

* Biện pháp phòng trừ:

– Thiên địch của sâu hồng là ong đa phôi ký sinh và vi khuẩn gây chết sâu non.

– Dọn sạch tàn dư cây trồng trước.

– Phun thuốc hóa học để phòng trừ các đối tượng khác gây hại bông cũng có tác dụng ngăn cản, diệt sâu hồng.

Sâu keo da láng:

Sâu non nở nằm tập trung dưới mặt lá, chúng ăn chất xanh để lại màng lá, sâu non ăn hết lá để lại phần gân lá. Chúng cũng ăn lá đài, nụ, hoa và quả non.

* Biện pháp phòng trừ:

– Sâu xanh da láng bị nhiều loại thiên định tấn công: ong ký sinh sâu non, bọ xít ăn thịt, virus gây bệnh ở giai đoạn sâu non.

– Phun chế phẩm NPV- Se với liều lượng 800-1000 LE /ha; Bt với liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha

– Phun thuốc hóa học: Atabron; mimic 20F; Match với liều lượng 0,5 – 0,8 lít/ha.

Rầy xanh:

Rầy xanh tập trung chích hút dịch cây, làm cho cây thiếu dinh dưỡng, còi cọc. Khi bị nhẹ mép lá có màu hơi vàng và cong lên, nặng chuyển màu nâu vàng, rồi đỏ, lá cong queo cháy từ mép lá vào trong. Lá, nụ và quả non bị rụng, làm quả chín ép, ảnh hưởng đến năng suất.

Ở nước ta rầy xanh gây hại quanh năm.

* Biện pháp phòng trừ:

– Thiên định của rầy không nhiều chủ yếu là các loại nhện bắt mồi và chuồn chuồn cỏ.

– Trồng giống bông có khả năng kháng rầy .

– Xử lý hạt giống bằng Gaucho 70WS liều lượng 5 – 7 g/1 kg hạt. Sau gieo 70-80 ngày, nếu rầy gây hại đến 30% số cây thì phun một trong các loại thuốc sau :

– Admire 25EC, liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha.

– Netoxin 95WP, liều lượng 0,7 kg/ha .

– Trebon 50EC, liều lượng 0,5 – 0,7 lít/ha .

– Karate 2,5EC, liều lượng 0,8 – 1,0 lít /ha .

Bọ trĩ :

Bọ trĩ thường tập trung gây hại dọc theo hai bên gân lá. Cả ấu trùng và trưởng thành đều trực tiếp gây hại bằng cách cứa, hút làm rách tế bào biểu bì lá, những lá bị hại chảy dịch tạo thành một lớp có màu nâu ánh bạc.

Cây bông bị hại sẽ cằn cõi với lá sù sì biến dạng; nụ, hoa, quả non bị rụng.

* Biện pháp phòng trừ :

– Trồng bông có màng phủ PE có tác dụng làm giảm bọ trĩ.

– Dùng thuốc hoá học: Dùng thuốc hoá học khi cây con có 1-2 con/lá và cây lớn có 5-10 con/lá.

– Confidor 100SL, liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha .

– Admire 50EC, liều lượng 0,6 – 0,8 lít/ha .

Rệp

Rệp có đặc tính đẻ con, cả rệp non và trưởng thành đều chích hút dịch cây làm cho lá co rút lại, cây sinh trưởng kém. Trong quá trình gây hại rệp thải ra chất mật dính tạo điều kiện cho nấm đen phát triển, làm ảnh hưởng quá trình quang hợp của cây. Gây hại vào giai đoạn cuối sẽ làm bẩn xơ bông.

Rệp là môi giới lây truyền bệnh xoắn lùn cho cây bông.

* Biện pháp phòng trừ :

– Rệp có khá nhiều thiên định : bọ rùa, chuồn chuồn cỏ, dòi ăn rệp và một số ong ký sinh.

– Trồng bông xen cây trồng khác như bắp, đậu nành,… tạo điều kiện cho thiên định của rệp cư trú.

– Xử lý hạt bằng Gauch 70WP, liều lượng 5g/1kg hạt.

– Phun thuốc hoá học

+ Admire 50 EC, liều lượng 0,6 lít/ha

+ Mospilan 3EC, liều lượng 0,3 lít/ha

2. Bệnh chủ yếu hại bông:

Bệnh xanh lùn:

– Xanh lùn là bệnh gây hại quan trọng cho cây bông. Tác nhân gây bệnh do virus và được lan truyền trong tự nhiên nhờ côn trùng môi giới là rệp bông.

– Cây bông có thể bị bệnh khi cây còn nhỏ đến khi cây già. Triệu chứng vết bệnh rìa lá cong xuống phía dười, lá giòn màu xanh đậm đồng nhất, các đốt thân, cành ngắn lại, cây lùn, khả năng ra hoa đậu quả kém, quả nhỏ, phẩm chất xơ giảm. Nếu cây bông bị bệnh trước 50 ngày sau khi gieo thì hầu như không cho thu hoạch.

– Bệnh này không lây truyền qua đất, hạt giống, cơ giới.

* Biện pháp phòng trừ :

– Kỹ thuật canh tác: Vệ sinh đồng ruộng tốt, luân canh cây trồng khác. Nhổ bỏ cây bệnh, chăm sóc bông kịp thời, luân xen canh, bón phân cân đối, gieo đúng thời vụ để cây khỏe mạnh,…

– Xử lý hạt giống bằng Gaucho 70WP với liều lượng 5g/1kg hạt bông.

– Phun trừ rệp cục bộ để tránh lây lan trong ruộng bông.

– Dùng giống ít bị nhiễm hay kháng rệp.

– Dùng các loại thuốc trừ rệp như đối với trừ rầy xanh.

Bệnh mốc trắng :

Tác nhân gây bệnh do nấm Ramulariopsis Gossypii gây ra.

Bệnh gây hại trên lá, tấn công từ lá già đến lá bánh tẻ. Cây bị bệnh nặng lá vàng và làm nụ, hoa, quả non bị rụng, quả chín ép, giảm năng suất.

Bệnh xâm nhiễm trong điều kiện lá có giọt nước, nhiệt độ từ 16-34oC, đặc biệt là vào cuối mùa mưa. Bệnh lây lan qua không khí, đất, nước tưới, giống,…

* Biện pháp phòng trừ:

– Biện pháp kỹ thuật canh tác: tiêu hủy tàn dư bông vụ trước, luân canh cây trồng khác, bón phân cân đối,…

– Dùng thuốc hóa học: nên phun phòng trước khi bệnh xuất hiện hay phun trừ bệnh khi xuất hiện đốm bệnh bằng một trong các loại thuốc sau :

+ Derosal 50SC (60WP) 1,0 – 1,5 lít kg/ha ( 1,2 kg/ha )

+ Topsin M70 WP 1,0 – 1,2 kg/ha .

+ Anvil 5 SC 1,0 – 1,5 lít/ha.

Bệnh đốm – cháy lá:

Bệnh xuất hiện trong mùa mưa, làm thối quả ở tầng dưới, làm giảm năng suất.
Tác nhân gây bệnh do nấm khi Rhizoctonia salani gây ra.

* Biện pháp phòng trừ:

– Vệ sinh đồng ruộng, luân canh cây trồng khác.

– Phun thuốc phòng bệnh

+ Thời kỳ cây con: Phun 1-2 lần vào lúc cây bông xòe hai lá mầm và khi cây bông được 10 ngày tuổi bằng các loại thuốc Monceren 250 SC liều lượng 0,4 – 0,6 lít/ha, Validacin 50EC liều lượng 0,5 lít/ha, Calidan 262.5 EW liều lượng 0,3 – 0,4 lít/ha.

+ Thời kỳ cây lớn: phun 1-2 lần khi bông bị hại bằng thuốc Moncerer 250 SC liều lượng 1-1,5 lít/ha; Anvil 5SC liều lượng 1-1,5 lít/ha.

Bệnh lở cổ rể:

Tác nhân gây bệnh do nấm và vi khuẩn như Rhizoctonia solani, pythium spp,…

Bệnh gây hại từ khi cây bông vừa nảy mầm đến giai đoạn 3-4 lá thật trong điều kiện nhiệt độ thấp và ẩm độ đất cao.

Triệu chứng là cây héo, ngọn rũ xuống. Cây bị bệnh rất dễ nhổ, vết bệnh ăn vòng quanh thân gần sát mặt đất, vết bệnh có màu mốc trắng, nâu hoặc đen.

* Biện pháp phòng trừ:

– Vệ sinh đồng ruộng, thu gom tàn dư cây trồng vụ trước.

– Cày bừa kỹ, san mặt ruộng cho bằng phẳng để đất thoáng và không đọng nước.

– Chỉ dùng hạt giống không bị bệnh. Không gieo hạt quá sâu, những vùng có bệnh phổ biến cần phải tăng lượng hạt giống gieo.

– Xử lý hạt giống bằng Rovral 50WP, liều lượng 3-5g/kg hạt hoặc Monceren 70WP với liều lượng 3-5g/kg hạt.

– Có thể phun thuốc sau khi bông mọc từ 1 đến 2 lần bằng Monceren 250 SC, liều lượng 0,4 – 0,6 lít/ha hay Monceren 70WP liều lượng 0,2kg/ha.

Nguồn: Hội nông dân Cần Thơ được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chanh đào ngâm mật ong, đường phèn

Miền Bắc đang vào mùa chanh đào, tại các chợ, các bà nội trợ nô nức mua chanh đào về ngâm cho mùa đông sắp tới. Nhiều người tiết lộ bài thuốc chanh đào ngâm mật ong, đường phèn là “tuyệt chiêu” trị ho, viêm họng.

Quả chanh đào

Việt Nam có khoảng 20 loài chanh khác nhau, trong đó giống chanh đào là một vị thuốc quý, rất được ưa chuộng. Chanh đào thường có từ tháng 8, 9 trong năm. Khi chín vỏ chanh mỏng, màu vàng hanh chứa nhiều tinh dầu, ruột hồng đào, rất thơm. Cũng có loại chanh đào ruột vàng nghệ.

Hiện nay, giá chanh đào dao động từ 40.000 đến 60.000 đồng một kg. Thông thường một kg chanh có từ 12 đến 20 quả. Nếu mua sẵn thì một bình chanh đào ngâm mật ong, đường phèn cũng có giá hơn 100.000 đồng trở lên tùy dung lượng.

Bài thuốc chanh đào ngâm rất dễ, ai cũng có thể thực hiện. Phổ biến nhất là chanh đào ngâm mật ong, đường phèn.

Chuẩn bị:

– Chanh đào: 1 kg, loại càng già càng tốt. Nên lựa những quả tươi, chín vàng, mỏng vỏ.

– Mật ong rừng: 1 lít.

– Đường phèn: 0,5 kg.

– Bình thủy tinh có nút đậy, vỉ nén bằng nan tre.

Cách 1: Ngâm chanh 3 tháng

– Chanh rửa sạch, pha một ít muối với nước sôi để nguội, ngâm 30 phút rồi vớt chanh ra để thật khô. Cắt chanh thành những miếng mỏng, ngâm cả hạt mới tốt.

– Đường phèn đập nhỏ, đổ một lớp đường vào lọ, đến một lớp chanh (làm lại cho đến hết.) Cuối cùng đổ mật ong vào. Lấy vỉ nan nén chanh xuống. Để khoảng 3 tháng sẽ dùng được.

Chanh đào chín có vỏ màu vàng hanh, ruột hồng đào, rất mọng nước. Từ lâu trong dân gian đã truyền nhau bài thuốc chanh đào ngâm mật ong trị ho, viêm họng

Trong cách ngâm này mọi người cũng có thể cho chanh đào, mật ong, đường phèn vào máy xay sinh tố, xay nhỏ làm siro chanh, mật ong, đường phèn. Khi cho trẻ uống nên lọc bỏ bã cặn.

Cách 2: Ngâm chanh 6 tháng

– Chanh rửa sạch, pha một ít muối với nước sôi để nguội, ngâm chanh 30 phút rồi vớt ra để ráo. Khía dọc quả chanh vài nhát.

– Rửa sạch bình thủy tinh, tráng qua nước sôi, để ráo nước. Đổ đường phèn vào lọ rồi đến một lớp chanh (làm như vậy đến hết), cuối cùng cho mật ong vào. Lấy vỉ nan nén chanh xuống. Để 6 tháng sau sẽ dùng được.

Lưu ý: Nên sử dụng bình thủy tinh. Mua bình to hơn lượng chanh ngâm một chút vì sau một thời gian bình sẽ lên men, nước chanh tiết ra nhiều. Cũng không nên bịt miệng bình quá chặt. Để bình ngâm ở chỗ mát (không cho vào tủ lạnh).

Thời gian đầu mới ngâm nên kiểm tra bình thường xuyên, nếu sau vài ngày thấy sủi bọt thì hớt đi. Không để chanh nổi lên khỏi vỉ vì sẽ dễ bị mốc, nổi váng. Sau vài 3 tuần là có thể dùng chanh ngâm mật ong, đường phèn rồi. Nên ngâm chanh càng lâu càng tốt, mới đầu chanh còn tươi thì ăn hơi đắng, nhưng sau một thời gian dài chanh đào ăn như ô mai, vừa tốt cho họng, vừa tăng cường sức khỏe.

Bài thuốc chanh đào ngâm rất dễ, ai cũng có thể thực hiện

Bài thuốc này thích hợp với mọi gia đình, nhất là nhà có con nhỏ từ 1,5 tuổi trở lên. Vào ngày trời lạnh hay khi trẻ mới chớm ho thì buổi sáng ngủ dậy lấy một thìa cho trẻ uống. Với người lớn, hãy cắt lát quả chanh ngâm, trộn đều với nước trong hộp, nhai rồi ngậm khoảng 15-20 phút, sau đó nuốt, ngày vài lần.

Có thể chanh đào hợp với người này nhưng không hợp với người khác, hoặc khi bị ho nặng mới dùng thì cũng không có tác dụng. Với người bị nhiệt miệng thì không nên dùng chanh đào ngâm mật ong. Thay vào đó, hãy ngâm chanh đào với muối, đường.

Về cơ bản cách làm cũng như trên, cứ một kg chanh thì một kg muối. Ngâm khoảng 3 tuần cho chanh mềm, đem phơi nắng đến khi trên vỏ chanh có một lớp muối trắng bám vào là được.

Bổ quả chanh làm tư (nếu thích có thể bỏ hạt cho đỡ đắng), rồi xếp chanh vào lọ. Đun đường (tùy sở thích) với 2 bát nước, cho gừng, cam thảo băm nhỏ vào. Nấu đến khi đường sánh như mật ong rồi bắc ra cho nguội. Đổ đường vào hũ chanh, đậy kín, ngâm 3 tháng nữa là có thể dùng được.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Một số giống Bông vải đang trồng phổ biến trong sản xuất hiện nay

Fman xin giới thiệu tới nhà nông một số giống bông vải đang trồng phổ biến trong sản xuất hiện nay

1 – Giống L18:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày.

– Ra hoa , đậu quả tập trung, quả to 4,5 – 5 g, năng suất cao.

– Tỷ lệ xơ 38-39%, chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Thích nghi rộng, chịu thâm canh, kháng rầy xanh yếu, ít nhiễm bệnh giác ban và nấm trắng cuối vụ.

2- Giống VN20:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày.

– Ra hoa, đậu quả tập trung, quả to trung bình 3,8 – 4,2 g.

– Tỷ lệ xơ 37-38%, chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Giống ổn định, thích nghi rộng, thích hợp đầu tư thâm canh cao, kháng rầy trung bình. Ít nhiễm bệnh giác ban và nấm trắng cuối vụ.

3-Giống VN35:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày.

– Cây sinh trưởng khoẻ , có 2-3 cành đực.

– Là giống chín trung bình , dạng hình cân đối .

– Qủa nặng 5,0 – 5,5 g,năng suất cao 30 -35 tạ/ha .

– Tỷ lệ xơ 37-38%, chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Giống ổn định, thích nghi rộng, chịu hạn tốt, tái sinh phục hồi năng suất cao, kháng rầy cao, ít nhiễm bệnh giác ban, xanh lùn, nhưng nhiễm bệnh nấm trắng cuối vụ.

4- Giống NH38:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày .

– Dạng cây gọn, cành ngắn, quả to, ra hoa và đậu quả tập trung.

– Tỷ lệ xơ 36-37%, chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Giống ổn định, thích nghi rộng, có khả năng trồng dầy tăng mật độ, thích hợp với đầu tư thâm canh, kháng rầy trung bình, ít nhiễm bệnh giác ban, xanh lùn và nấm trắng cuối vụ.

5-Giống VN15:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 –115 ngày.

– Là giống chín trung bình ,dạng hình cân đối , có 2 – 3 cành đực .

– Ra hoa và đậu quả tập trung, quả to trung bình 4,5 – 5,0 g.

– Năng suất cao 30 – 35 tạ/ha .

– Tỷ lệ xơ 36-37%, chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Giống ổn định, thích nghi rộng, kháng rầy trung bình, kháng sâu miệng nhai vì vậy rất thích hợp cho các vùng có áp lực sâu xanh cao.

6-Giống GL03:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày.

– Ra hoa, đậu qủa tập trung, qủa nặng 5,6 – 6,5 g.

– Tỉ lệ xơ 36 – 37 % ,chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1.

– Giống ổn định,thích nghi rộng, kháng rầy trung bình, kháng sâu miệng nhai, vì vậy rất thích hợp cho các vùng có áp lực sâu xanh cao .

7-Giống VN01-2:

– Thời gian sinh trưởng trung bình 100 – 115 ngày .

– Ra hoa và đậu qủa tập trung, qủa nặng trung bình 4 – 4,5 g .

– Tỷ lệ xơ 38 – 39 %,chất lượng xơ đạt tiêu chuẩn cấp 1 .

– Giống ổn định ,thích nghi rộng, kháng rầy tốt, kháng sâu miệng nhai, thích hợp cho các vùng thâm canh có áp lực sâu xanh cao

Nguồn: Hội nông dân Cần Thơ được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Bông vải năng suất cao (P2)

Ở phần trước chúng tôi đã giới thiệu về kỹ thuật trồng bông. Ở phần này Fman xin giới thiệu tiếp cho nhà nông về phần chăm sóc và thu hoạch cây bông vải

9. Chăm sóc – làm cỏ – xới xáo:

9.1 Dặm tỉa:

– Sau khi gieo 5-7 ngày kiểm tra thấy hốc nào không mọc hay mọc yếu thì phải trồng dặm ngay, nhằm đảm bảo mật độ cây để cho năng suất cao nhất.
– Có thể cùng lúc với gieo đại trà, nên gieo dự phòng 5-10% số cây trong bầu nylon, khi kiểm tra thấy hốc nào không mọc thì lấy cây trong bầu nylon dặm vào.
– Khi cây có 2-3 lá thật, tức khoảng 14-15 ngày sau khi gieo cần phải tỉa định cậy, chỉ để 1 cây/hốc.

9.2 Làm cỏ – xới xào:

– Chăm sóc thời kỳ cây con là rất quan trọng, cây khỏe sẽ cho năng suất cao. Khi cây bông đạt 15 ngày sau gieo cần phải xới xáo nhẹ xung quanh gốc nhằm phá váng tạo độ thoáng cho bộ rễ phát triển và trừ cỏ dại lấn át khi cây bông còn nhỏ.

Thời kỳ ra nụ cần tiến hành xới sâu để xúc tiến bộ rễ ăn sâu, độ sâu xới từ 10-15cm. Đồng thời kết hợp vun đất vào gốc cây nhằm chống đổ.

– Khi bông đã ra hoa, bộ rễ đã phát triển khá mạnh, lúc này không nên xới sâu làm tổn thương rễ. Chỉ nên xới nhẹ sau mưa hoặc sau khi tưới, đồng thời vun cao vào gốc để tránh cây bị đổ ngã.

– Biện pháp trồng xen cây trồng khác trong vườn bông cũng có tác dụng làm đất tơi xốp, chống cỏ dại.

– Các động tác xới xáo, làm cỏ thường nên kết hợp vơi các đợt bón phân cho cây bông.

– Ở một số vùng trồng bông với diện tích lớn việc làm cỏ bằng thủ công rất tốn kém, vì vậy cần phải áp dụng biện pháp phòng trừ cỏ dại bằng thuốc hoá học. biện pháp này đã được người trồng bông ở Đồng Nai, Đắc Lắc và nhiều nơi khác áp dụng:

• Thuốc trừ cỏ hậu nảy nầm Ametrex 80 WP, với liều lượng 2,0kg/ha, phun trước khi gieo hạt khoảng 10 ngày, có hiệu lực trừ cỏ cao trong thời gian dài từ 4 đến 6 tuần.

• Thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm như Dual 720 EC, Ronstar 25 EC với liều lượng 1,5 lít/ha hoặc Mizin 80 WP liều lượng 4,0 kg/ha, sau khi gieo bông.Vào giai đoạn 40 – 45 ngày sau gieo có thể dùng Round-up 480 ND liều lượng 1,5 lít/ha.

• Lượng nước phun từ 400 – 600 lít/ha, phun cách gốc 15 – 20 cm, không để thuốc dính vào lá bông.

Hầu hết các loại thuốc trừ cỏ được khuyến cáo hiện nay cho cây bông không ảnh hưởng đến tình hình sinh trưởng và phát triển của cây bông cũng như cây trồng xen.

10. Bấm ngọn, đánh cành, ngắt nụ sớm:

10.1 Bấm ngọn thân chính:

Bấm ngọn thân chính là kỹ thuật quan trọng trong toàn bộ kỹ chỉnh cành. Bấm ngọn đúng lúc sẽ hạn chế ưu thế phát triển về phía ngọn, làm cho nụ nhiều, quả nặng hơn, hạn chế chiều cao cây, và chín sớm.

Bấm ngọn bông phụ thuộc độ phì đất, chế độ chăm sóc, khí hậu, giống,… Bấm ngọn rút ngắn thời gian sinh trưởng và cho năng suất cao hơn không bấm ngọn. Nên bấm ngọn vào thời kỳ cây bông đã có khoảng 14-15 cành quả. Sau bấm ngọn thường xuyên đánh cành vượt.

10.2 Đánh cành gốc hoặc ngắt nụ sớm:

Đây là một kỹ thuật chỉnh cành sau khi đánh cành đực hoặc ngắt nụ sớm, cây bông có thể điều tiết ra quả tốt hơn, kỹ thuật này có ưu điểm:

• Giảm bớt số quả nở sớm và nhờ đó giảm quả thối, số múi bị đét (múi cau) khi gặp mưa, đồng thời giảm bớt hiện tượng suy nhược sớm.

• Tăng số quả nở vào giai đoạn khô hạn, tăng đậu quả ở cành sát thân chính.

• Xúc tiến bộ rễ phát dục và hoạt động, kéo dài thời kỳ hoạt động hữu hiệu của bộ lá, làm cho cây bông sinh trưởng khỏe mạnh.

Phương pháp này chỉ tiến hành ở ruộng bông tốt, có điều kiện thâm canh cao.

11. Tưới nước và tiêu nước :

– Bông là cây chịu hạn, nhưng không phải vì thế mà không cần nước, trái lại để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt cần phải cung cấp đầu đủ để cây sinh trưởng và phát triển.

– Về mùa khô, nếu có điều kiện thì tưới định kỳ 7-10 ngày/lần.

– Về mùa mưa, phải chủ động tiêu nước, bông vải rất sợ bị úng nước dù chỉ trong thời gian ngắn. Chú ý đào nương để nước thoát hoàn toàn, không được để cây bị úng hay đọng nước.

IV. Thu hoạch – Phân loại bông hạt:

1. Đặc điểm nở quả và tình hình thời tiết lúc thu hoạch:

Cây bông từ lúc gieo đến khi quả đầu tiên nở thường mất 100 – 115 ngày. Giống như trình tự nở hoa, đậu quả, quả bông chín từ cành dưới lên và từ trong ra ngoài. Thời kỳ đầu do đặc tính của cây và khí hậu còn ẩm do mưa, tốc độ nở quả thường chậm hơn một chút. Đợt thu hái đầu tiên khi cây có 2-3 quả nở và cách quả đầu tiên nở từ 10-15 ngày, những đợt sau chỉ cách đợt tr`ước khoảng 7-8 ngày.

Khi hết mưa, nắng chiều, nhiệt độ cao, gió lớn bông chín nhanh hơn.

2. Những sai sót thường gặp khi thu hoạch bông hạt:

– Thu bông chưa nở đầy đủ: Bông nở đầy đủ là những quả bông có các múi bông bung, xốp, toàn bộ bông phủ kín quả. Quả chưa chín đủ múi bông chưa bung, còn ở dạng múi cau, vỏ quả đang còn tươi, màu xanh. Những quả bông chưa nở hết thường xơ, hạt có độ ẩm cao, nếu không phơi kịp thì dễ bị mốc, làm giảm chất lượng.

– Thu lẫn bông múi cau, bông vàng ố, bông đen: Khi quả chín gặp mưa, bông sẽ bị thối dẫn đến múi bông không thu được, hạt bị thối lép, hoặc do ẩm nên bông bị mốc. Những loại bông này không được thu để chung với loại bông tốt vì nó sẽ làm giảm phẩm cấp bông hạt, nên để riêng.

– Để lẫn lá, tai quả, đất: Khi thu hái không cẩn thận, dễ bị dính đất, lá khô, tai quả vào bông hạt, nhất là thu hái về buổi trưa nắng, chiều, tai lá khô và giòn.

– Để lẫn vật lạ, nhất là sợi nylon: Khi để lẫn sợi nylon vào bông sẽ gây khó khăn lớn cho công đoạn nhộm màu công nghiệp, đây là vấn đề hết sức cẩn trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến phẩm cấp.

3. Dụng cụ thu hoạch – cách thu và phân loại khi thu hoạch:

Dụng cụ thu bông tốt nhất là bằng sọt tre, bao bố, bao vải. Thu bông tốt trước, bông múi cau, sâu bệnh thu đợt sau. Hoặc có thể mang 2 túi, một túi đựng bông tốt, một túi đựng bông xấu.

Nhất thiết phải phân loại ngay trong lúc thu hái bởi như vậy sẽ đỡ tốn công về nhà phân loại lại.

Thời gian thu tốt nhất là 8-11 giờ sáng và 3-6 giờ chiều.

Nếu thực hiện tốt nhất thì có đến 90% là bông loại 1 còn nếu để lẫn thì ngược lại có đến 90% là bông loại 2 và loại 3.

Bông thu hái về phải phơi ngay, chỉ cần phơi 2-3 nắng là khô (cắn hạt bông kêu là được).
Không nên để bông ở nhà nhiều vì bông công kềnh, chiếm diện tích trong nhà, vì vây bông khô nên đem đi bán ngay.

Nguồn: Hội nông dân Cần Thơ được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.