Nuôi cá bông lau trong ao đất, thu 17 tấn/ha, lãi 30.000đ/kg.

Nhiều hộ dân ở Cù Lao Dung (tỉnh tỉnh Sóc Trăng) đã thả nuôi cá bông lau trong ao đất mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Nuôi cá bông lau trong ao đất, thu 17 tấn/ha, bán 1 ký lời 30 ngàn.

Ông Lâm Thành Lâm (ở ấp An Quới, xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung) thả nuôi 4.000 con cá bông lau giống, năng suất đạt 15-17 tấn/ha, giá bán cá bông lau là 100.000 đồng/ký, bình quân mỗi ký cá bông lau bán ra người nuôi cá lời (lãi) 30 ngàn đồng.

Nếu như trước đây, cá bông lau được khai thác chủ yếu trong tự nhiên thì vài năm trở lại, nhiều hộ dân ở Cù Lao Dung (tỉnh tỉnh Sóc Trăng) đã phát triển nghề nuôi cá bông lau bằng nguồn giống được khai thác tại chỗ mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau 11 tháng nuôi, cá bông lau đạt trọng lượng trên 1kg/con, thương lái mua với giá 100.000 đồng/kg.

Theo đó, mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất sử dụng nguồn con giống nhân tạo được triển khai tại xã An Thạnh 3 (Cù Lao Dung) đã tạo điều kiện giúp người dân chủ động được nguồn cá giống cũng như góp phần phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở địa phương.

Với diện tích 2.000m², ông Lâm Thành Lâm ở ấp An Quới được hỗ trợ khoảng 4.000 con giống cá bông lau, thả nuôi với mật độ là 2 con/m².

Ông Lâm cho biết: “Cuối tháng 1.2018, tôi được hỗ trợ cá giống để thả nuôi. Khi đó, cá giống chỉ đạt kích cỡ 8 – 10cm (cỡ 160 con/kg). Sau khoảng 11 tháng nuôi, cá đã đạt trọng lượng từ 1 – 1,2kg/con, ước năng suất sau khi thu hoạch đạt khoảng 15 – 17 tấn/ha, qua đó lợi nhuận cũng khá”.

Cũng theo ông Lâm, nuôi cá bông lau trong ao đất, khâu quan trọng nhất và quyết định thành công cho vụ nuôi là việc thả giống. Thời điểm thả giống tốt nhất là vào buổi sáng, do nước đóng bao cá giống là nước ngọt nên trước khi thả ra ngoài, tháo miệng bao cho nước vào từ từ để thuần độ mặn cho cá vài phút sau đó để cá tự bơi ra. Đồng thời, khâu chọn cá giống cũng phải đặc biệt chú ý nên chọn giống cùng kích cỡ, không bị xây xát và không nhiễm bệnh.

Còn ông Lâm Vũ Linh cũng ở xã An Thạnh 3 góp lời: “Hiện nay, đàn cá bông lau của tôi đang phát triển rất tốt, trọng lượng trung bình đạt 1,2kg/con. Nuôi cá bông lau trong ao đất cũng như nuôi các loài thủy sản khác, trong quá trình nuôi thực hiện đúng quy trình kỹ thuật cũng như quản lý môi trường ao nuôi theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật là được”.

Với kinh nghiệm nuôi cá bông lau nhiều năm, ông Linh chia sẻ thêm: “Nuôi cá bông lau giống nhân tạo lớn nhanh hơn, kích cỡ cá nhân tạo ngắn so với giống cá tự nhiên. Đặc biệt, trong quá trình nuôi cần lưu ý: khi thời tiết thay đổi thất thường hay sau khi thay nước, cá có thể giảm ăn hoặc bỏ ăn. Hoặc là cá giảm ăn có thể do ký sinh trùng, nên khi cá nuôi có biểu hiện giảm ăn cần phải diệt bệnh ký sinh trùng trên cá, cá khỏi bệnh sau vài ngày là ăn bình thường trở lại”.

Cũng là hộ tham gia thực hiện mô hình, ông Trần Thanh Nhã ở ấp An Quới chân tình chia sẻ: “Điều kiện ở xã An Thạnh 3 rất thích hợp để nuôi cá bông lau. Sau 11 tháng nuôi, cá đã đạt trọng lượng trên 1kg/con và có thể thu hoạch bán được. Hiện thương lái đến thu mua giá 100.000 đồng/kg, tính ra nếu bán cá thương phẩm thì mỗi kg cá bông lau thu lãi được 30.000 đồng. Do chi phí nuôi cá đạt trọng lượng 1kg là hết 70.000 đồng”.

Nuôi cá bông lau trong ao đất tại huyện Cù Lao Dung đã được người dân nuôi khoảng 3 năm nay, chủ yếu là giống được đánh bắt từ tự nhiên. Năm 2018, từ nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ của tỉnh, Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Cần Thơ đã triển khai thực hiện dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất”.

Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung – Chủ nhiệm dự án cho biết: “Thực hiện dự án, đơn vị đã triển khai 3 mô hình thí điểm nuôi cá bông lau trong ao đất tại xã An Thạnh 3, với mật độ thả nuôi là 2 con/m² và 1 con/m². Sử dụng nguồn giống nhân tạo được sản xuất bởi Trung tâm Quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam Bộ (Cái Bè, Tiền Giang). Qua 11 tháng nuôi, cá sinh trưởng và phát triển tốt, phù hợp với độ mặn dao động từ 3‰ – 7‰. Đây là đặc điểm sinh thái của vùng đất An Thạnh 3 nên rất phù hợp với đặc tính sinh trưởng cá bông lau”.

Còn theo đánh giá của Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cù Lao Dung Đồ Văn Thừa, cá bông lau là đối tượng nuôi mới, phù hợp với nguồn nước lợ, mặn tại Cù Lao Dung. Nguồn giống cá bông lau nhân tạo sẽ có nhiều ưu thế để nhân rộng và cũng dần thay thế được nguồn cá tự nhiên có nguy cơ cạn kiệt do khai thác quá mức; đồng thời, góp phần bảo tồn nguồn lợi giống cá bông lau tự nhiên, đa dạng hóa các đối tượng nuôi và phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở địa phương.

“Hiện nay, đầu ra cá bông lau chưa thật ổn định. Vì vậy, người nuôi cần phải tính toán kỹ trước khi ồ ạt mở rộng diện tích nuôi, tránh tình trạng cung vượt cầu, rồi dẫm vào “vết xe đổ” như con cá tra trong những năm trước đây” – đồng chí Đồ Văn Thừa khuyến cáo.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Làm giàu bằng mô hình nuôi dê, ếch, mỗi năm thu trên nửa tỷ đồng.

Ông Nguyễn Thái, 53 tuổi, quê ở ấp Bình Điền, xã Bình Ninh, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long là một nông dân có ý chí vươn lên làm giàu từ chăn nuôi.

Khởi đầu ông xây chuồng trại nuôi dê. Sau vài năm phát triển, đàn dê từ 10 con đã tăng lên hàng trăm con, trong đó có 30 con sinh sản. Ông cho biết nhiều năm nay giá dê luôn ở mức ổn định, nhất là gần đây thịt dê lúc nào cũng hút hàng, giá cao giúp cho người nuôi phấn khởi. Bình quân mỗi tháng ông bán ra từ 7 – 10 con dê thịt với giá 110.000đ/kg dê đực và 80.000đ/kg dê cái. Trọng lượng bình quân mỗi con từ 30 – 40 kg. Ngoài ra ông còn bán dê giống với giá từ 1,4 triệu đến 2 triệu đồng/con 3 tháng tuổi.

Ông Nguyễn Thái bên hồ ếch giống.

Thuận lợi lớn nhất của ông là nhờ có 4 công đất nhà trồng cỏ voi, cỏ sữa cho dê ăn nên đàn dê tăng trưởng nhanh, trừ hết các chi phí, mỗi năm còn lời trên 200 triệu đồng.

Cuối năm 2017 ông lại phát triển mô hình nuôi ếch Thái Lan trong hồ lót bạt. Hiện ông đã đầu tư xây được 24 hồ, mỗi hồ rộng 4 x 5 mét để nuôi ếch giống, mỗi đơt 45 ngày xuất bán 40.000 con, giá mỗi con từ 800 – 1.100đ. Ngoài ra, ông còn nuôi thêm 50.000 con ếch thương phẩm, giá bán dao động từ 30.000 – 40.000đ/kg.

Ông khẳng định nuôi ếch tuy vất vả nhưng lợi nhuận hấp dẫn. Thành công lớn nhất của ông là tính cần cù, chịu khó học hỏi từ các cuộc hội thảo do Trạm Khuyến nông huyện tổ chức. Thứ hai là tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm.

Khi hỏi tại sao ông chọn con dê và con ếch để nuôi mà không chọn con khác? Ông trả lời một cách tự tin: Trước khi bắt tay vào xây dựng chuồng trại, tôi đã bám sát vào nhu cầu của thị trường. Hiện nay thịt dê đang hút, thịt ếch được nhiều người chọn lựa vì đây là hai con vật tương đối an toàn về vệ sinh thực phẩm.

Từ một nông dân nghèo, chỉ sau vài năm chọn mô hình đa con ông đã vươn lên làm giàu trên mảnh đất quê nhà, biến ước mơ thành hiện thực, mỗi năm thu nhập trên 500 triệu đồng khiến cho nhiều người thán phục.

Ngoài sản xuất kinh doanh giỏi, ông Thái còn là một nông dấn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với nhiều người, giúp nhiều hộ thoát nghèo và vươn lên khá giả từ nuôi dê và nuôi ếch.

Chưa dừng lại ở đây, lúc nào ông cũng tìm tòi, nghiên cứu chọn những vật nuôi có giá trị kinh tế cao để phát triển theo mô hình kinh doanh đa dạng. Hiện ông thả nuôi rắn ri cá trong vèo được 60 con đang trong thời kỳ sinh sản. Đây là một mô hình độc đáo mang lại hiệu quả rất cao.

Là người đi đầu trong phong trào phát triển kinh tế hộ gia đình, ông được nhiều bà con nông dân tín nhiềm bầu làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Khuyến nông xã Bình Ninh, gồm 19 thành viên, đa số là những người nhiệt tình và quyết tâm vươn lên làm giàu, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Ông Nguyễn Văn Thành, Trưởng trạm Khuyến nông huyện Tam Bình nhận xét ông Nguyễn Thái là một nông dân tiêu biểu về sản xuất kinh doanh giỏi, người đi đầu trong phong trào nuôi dê và nuôi ếch ở địa phương.

Ông đã hết lòng chia sẻ kinh nghiệm của mình đối với nhiều người nhằm nhân rộng các mô hình mang lại hiệu quả cao.

Ông Thái chăm sóc đàn dê.

Cũng từ thành quả trên, ông Thái đã nhận được nhiều giấy khen cũa xã và của huyện về thành tích sản xuất kinh doanh giỏi.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Trồng xen cây Hoài Sơn trong vườn tiêu cho lợi nhuận kép.

Cây Hoài Sơn (củ mài) dễ trồng, khi trồng xen trong vườn tiêu bón phân cho tiêu cũng là bón phân cho cây Hoài Sơn, lấy ngắn nuôi dài nếu có rủi ro về giá, tiết kiệm được chi phí đầu tư nhưng thu lợi nhuận kép.

Anh Nhâm giới thiệu cách trồng Hoài Sơn xen tiêu.

Khi giá tiêu ở mức thấp, thu không đủ bù chi khiến nhiều nông dân ở huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) không mặn mà đầu tư để giữ vườn tiêu. Tuy nhiên anh Lâm Ngọc Nhâm, Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp – Thương mại – Du lịch Bầu Mây (xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) lại có lãi nhờ trồng xen cây Hoài Sơn (củ mài).

Chúng tôi đến tham quan vườn tiêu 10 ha trồng xen với cây Hoài Sơn của anh Nhâm đang thời kỳ thu hoạch. Những trụ tiêu sai trái đang độ chín trên cao, mà trong lòng đất cũng đang lộ thiên những củ Hoài Sơn chờ thu hoạch. Anh Nhâm nói: Cách đây 3 năm (2015) khi giá hồ tiêu xuống thấp, Công ty đã thử nghiệm nhiều cây trồng cộng sinh trong vườn tiêu và thành công với cây Hoài Sơn.

Theo anh Nhâm, Hoài Sơn là cây mọc hoang dại tự nhiên dưới các tán lá cây trong rừng và có nhiều loài (khoảng 20 loài). Cây Hoài Sơn trồng tại vườn được lấy từ vùng núi Mây Tàu thuộc huyện Xuyên Mộc. Là loại cây thân leo, nhưng khi đưa vào trồng trong vườn tiêu, cây được điều khiển phát triển bò trên phần diện tích đất trống.

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây Hoài Sơn giữ độ ẩm cho đất, làm cho đất tơi xốp, vườn tiêu không phải làm cỏ. Thân rễ phình to thành củ ăn sâu xuống đất, có nhiều rễ con làm cho mặt đất nứt tạo độ thông thoáng và lưu dẫn nguồn nước thoát cho cây tiêu, chống xói mòn.

Lá cây Hoài Sơn phát triển tốt, là thức ăn của sâu nhưng vẫn không ảnh hưởng đến năng suất củ. Vì thế mà trên cây tiêu cũng giảm được các loài sâu và côn trùng, từ đó giảm được việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm công chăm sóc.

Với chiều cao cây tiêu 5 – 6 mét là môi trường lý tưởng cho cây Hoài Sơn phát triển. Sự sinh trưởng cộng sinh này không cạnh tranh về ánh sáng. Bón phân cho cho cây tiêu cũng là bón phân cây Hoài Sơn, tiết kiệm chi phí, tạo giá trị kinh tế tăng thêm trên cùng đơn vị diện tích canh tác.

Cây Hoài Sơn thường trồng vào đầu mùa mưa, một hàng tiêu trồng xen một hàng Hoài Sơn, cây cách cây 20 cm. Với diện tích 1 ha, trước khi trồng cần bón lót 15 tấn phân chuồng ủ hoai, 250kg phân NPK loại 16-16-8. Sau một tháng bón thúc tăng lượng phân NPK lên khoảng 500-700 kg/ha. Mỗi ha đất trồng tiêu, trồng xen khoảng 20.000 gốc cây.

Trong vòng sáu tháng là cây có thể cho thu hoạch củ. Mỗi cây cho một củ có trọng lượng khoảng từ 0,5-3kg. Mỗi ha trồng tiêu khi trồng xen cây Hoài Sơn nếu chọn được giống tốt, rõ nguồn gốc, bón phân cân đối, áp dụng kỹ thuật canh tác thì năng suất có thể cho từ 30-40 tấn củ.

Củ Hoài Sơn ( củ Mài ).

“Củ Hoài Sơn có giá trị kinh tế cao (khoảng 120-150 ngàn đồng/kg). Ngoài việc dùng để ăn, còn làm dược liệu điều chế thuốc quý chữa các bệnh như ăn uống khó tiêu, mồ hôi trộm, tiểu đường, giúp phụ nữ sau sinh ăn ngon miệng và hấp thu tốt. Chính những đặc tính ưu việt đó, sắp tới Công ty sẽ chế biến củ Hoài Sơn thành sản phẩm Sữa Hoài Sơn, đưa ra tiêu thụ thị trường trong nước và quốc tế”, anh Nhâm chia sẻ.

Cây Hoài Sơn dễ trồng, khi trồng xen trong vườn tiêu bón phân cho tiêu cũng là bón phân cho cây Hoài Sơn, lấy ngắn nuôi dài nếu có rủi ro về giá, tiết kiệm được chi phí đầu tư nhưng thu lợi nhuận kép.

Đây được xem là mô hình trồng xen cây cộng sinh điển hình, tạo điều kiện thuận lợi để canh tác vườn tiêu bền vững cần được khuyến khích nhân rộng trong bối cảnh giá tiêu không được thuận lợi như mong muốn của người dân.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi tôm.

Đó là khuyến cáo của Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản tỉnh Phú Yên khi kết quả quan trắc, cảnh báo môi trường nước đợt 2/2019 tại vùng nuôi huyện Đông Hòa cho thấy các chỉ tiêu môi trường nằm ngoài ngưỡng giới hạn cho phép.

Bà con bắt đầu thả nuôi đợt đầu.

Theo đó, chỉ tiêu độ mặn thấp, dao động từ 2 – 3‰ không phù hợp cho nuôi tôm tại Phước Giang, xã Hòa Tâm và cầu Ông Đại, xã Hòa Xuân Đông. Chỉ tiêu NH3 dao động 0,52 – 1,35mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép tại vùng nuôi Phước Long, Phước Giang, xã Hòa Tâm và cầu Ông Đại. Chỉ tiêu PO4 (dao động 0,21 – 0,47mg/l) cũng vượt ngưỡng giới hạn cho phép tại các vùng nuôi tại Bãi Ngọn, Vũng Tàu, thuộc xã Hòa Hiệp Nam và cầu Ông Đại.

Trong khi đó, hàm lượng DO dao động 0,21 – 0,47mg/l thấp hơn ngưỡng giới hạn cho phép tại vùng nuôi Bãi Ngọn, Vũng Tàu và cầu Ông Đại. Mật độ Vibrio spp dao động 1.030 – 3.580 CFU/ml vượt ngưỡng giới hạn cho phép tại vùng nuôi Bãi Ngọn và Vũng Tàu.

Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản Phú Yên lưu ý người nuôi cần xử lý trước khi cấp và lấy nước vào ao nuôi. Đối với những ao có mật độ Vibrio tổng số vượt ngưỡng có thể khử trùng nước ao nuôi bằng iodine.

Bên cạnh đó, xu hướng thời tiết hiện nay trong khu vực đêm không mưa, ngày nắng nên cần lưu ý duy trì mực nước trong ao nuôi trên 1,5m và duy trì quạt nước ao nuôi tránh hiện tượng phân tầng nhiệt và duy trì oxy trong ao nuôi. Định kỳ cần bổ sung vitamin, khoáng chất nhằm tăng sức đề kháng và chủ động phòng bệnh cho tôm nuôi.

Ngoài ra, để nuôi tôm được hiệu quả người nuôi nên triển khai phương pháp nuôi tôm 2 giai đoạn. Các hộ nuôi có điều kiện hoặc cần thiết xây dựng bể nổi ương tôm từ 15 – 30 ngày rồi mới thả vào ao nuôi thương phẩm nhằm hạn chế bệnh chết sớm trên tôm nuôi.

Tại vùng nuôi tôm nước lợ trên địa bàn huyện Đông Hòa, người nuôi đã bắt đầu thả đợt 1. Tuy nhiên theo người nuôi, do ảnh hưởng thời tiết cũng như môi trường nước chưa ổn nên việc thả giống chậm hơn mọi năm. Theo ông Đỗ Kim Đồng, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Đông Hòa, toàn huyện chỉ mới thả được 100/1.100 ha.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Kỹ thuật chăn nuôi lợn an toàn sinh học.

Trước diễn biến phức tạp của bệnh dịch tả lợn Châu Phi, gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi nước ta, song song với việc phòng chống dịch bệnh, người chăn nuôi cần thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học để tiếp tục duy trì, ổn định, phát triển đàn lợn…

Từ đó, đáp ứng yêu cầu cung cấp thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường.

Định kỳ phun thuốc sát trùng các dãy chuồng nuôi.

Chăn nuôi an toàn là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự tiếp xúc của vật nuôi với các mầm bệnh. Một số lưu ý về kỹ thuật chăn nuôi lợn an toàn sinh học như sau:

1. Yêu cầu về chuồng trại:

Vị trí xây dựng trang trại phải phù hợp với quy hoạch của địa phương, hoặc được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép. Khoảng cách từ trang trại đến trường học, bệnh viện, khu dân cư, nơi thường xuyên tập trung đông người, đường giao thông chính, nguồn nước mặt tối thiểu 100m; cách nhà máy chế biến, giết mổ lợn, chợ buôn bán lợn tối thiểu 1 km. Nơi xây dựng trang trại phải có nguồn nước sạch; đảm bảo điều kiện xử lý chất thải theo quy định.

Trại chăn nuôi phải có tường hoặc hàng rào bao quanh nhằm kiểm soát được người và động vật ra vào trại và phải bố trí riêng biệt các khu: khu chăn nuôi; khu vệ sinh, sát trùng thiết bị chăn nuôi; khu cách ly lợn ốm… Phải có hố khử trùng ở cổng ra vào trại chăn nuôi, khu chuồng nuôi và tại lối ra vào mỗi dãy chuồng nuôi.

Chuồng nuôi lợn phải bố trí hợp lý theo các kiểu chuồng về vị trí, hướng, kích thước, khoảng cách giữa các dãy chuồng. Nền chuồng phải đảm bảo không trơn trượt và phải có rãnh thoát nước, có độ dốc từ 3-5%.

Đường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến khu xử lý chất thải phải kín, đảm bảo dễ thoát nước và không trùng với đường thoát nước khác.

Các thiết bị, dụng cụ chứa thức ăn, nước uống phải đảm bảo không gây độc và dễ vệ sinh tẩy rửa. Các dụng cụ khác trong chuồng phải đảm bảo dễ vệ sinh, tẩy rửa sau mỗi lần sử dụng.

Các kho thức ăn, kho thuốc thú y, kho hoá chất và thuốc sát trùng, kho thiết bị, … phải được thiết kế đảm bảo thông thoáng, không ẩm thấp và dễ vệ sinh, tiêu độc khử trùng.

2. Yêu cầu về con giống:

Lợn giống mua về nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng, khoẻ mạnh, có đầy đủ giấy kiểm dịch và phải có bản công bố tiêu chuẩn chất lượng kèm theo. Trước khi nhập đàn, lợn phải được nuôi cách ly theo quy định hiện hành.

Lợn giống sản xuất tại cơ sở phải thực hiện công bố tiêu chuẩn. Chất lượng con giống phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn đã công bố. Lợn giống phải được quản lý và sử dụng phù hợp theo quy định hiện hành.

3. Yêu cầu về thức ăn, nước uống:

Thức ăn sử dụng cho chăn nuôi lợn phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn và khẩu phần ăn của các loại lợn.

Không sử dụng thức ăn thừa của đàn lợn đã xuất chuồng, thức ăn của đàn lợn đã bị dịch cho đàn lợn mới. Bao bì, dụng cụ đựng thức ăn của đàn lợn bị dịch bệnh phải được tiêu độc, khử trùng.

Nước dùng cho lợn uống phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng. Thành phần vô cơ (Asen, xianua, chì và thủy ngân), vi sinh vật (vi khuẩn hiếu khí và coliform tổng số) dưới mức cho phép.

4. Chăm sóc, nuôi dưỡng:

Các trại chăn nuôi phải áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với các loại lợn và giai đoạn sinh trưởng phát triển.

5. Yêu cầu về vệ sinh thú y:

Chất sát trùng tại các hố sát trùng ở cổng ra vào trại chăn nuôi, khu chăn nuôi và chuồng nuôi phải bổ sung hoặc thay hàng ngày.

Tất cả các phương tiện vận chuyển khi vào trại chăn nuôi, khu chăn nuôi phải đi qua hố khử trùng và phải được phun thuốc sát trùng. Mọi người trước khi vào khu chăn nuôi phải thay quần áo, giầy dép và mặc quần áo bảo hộ của trại.

Định kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, các chuồng nuôi ít nhất 2 tuần/1 lần; phun thuốc sát trùng lối đi trong khu chăn nuôi và các dãy chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần khi không có dịch bệnh, và ít nhất 1 lần/ngày khi có dịch bệnh; phun thuốc sát trùng trên lợn 1 lần/tuần khi có dịch bệnh bằng các dung dịch sát trùng thích hợp theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Định kỳ phát quang bụi rậm, khơi thông và vệ sinh cống rãnh trong khu chăn nuôi ít nhất 1 lần/tháng.

Không vận chuyển lợn, thức ăn, chất thải hay vật dụng khác chung một phương tiện; phải thực hiện sát trùng phương tiện vận chuyển trước và sau khi vận chuyển. Phải vệ sinh máng ăn, máng uống hàng ngày.

Có biện pháp để kiểm soát côn trùng, loài gặm nhấm và động vật khác (nếu có) trong khu chăn nuôi. Khi sử dụng bẫy, bả phải có biển thông báo và ghi sơ đồ chi tiết vị trí đặt bẫy, bả và thường xuyên kiểm tra thu gom để xử lý.

Thực hiện các quy định về tiêm phòng cho đàn lợn theo quy định. Trong trường hợp trại có dịch, phải thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành về chống dịch.

Áp dụng phương thức chăn nuôi “cùng vào cùng ra” theo thứ tự ưu tiên cả khu, từng dãy, từng chuồng, từng ô. Sau mỗi đợt nuôi phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa lợn mới đến. Trong trường hợp trại bị dịch, phải để trống chuồng ít nhất 21 ngày.

6. Xử lý chất thải và bảo vệ môi trường:

Các trại chăn nuôi bắt buộc phải có hệ thống xử lý chất thải trong quá trình chăn nuôi. Chất thải rắn phải được thu gom hàng ngày và xử lý bằng nhiệt, hoặc bằng hoá chất, hoặc bằng chế phẩm sinh học phù hợp. Chất thải rắn trước khi đưa ra ngoài phải được xử lý đảm bảo vệ sinh dịch tễ theo quy định hiện hành của thú y. Chất thải lỏng phải được xử lý bằng hoá chất hoặc bằng phương pháp xử lý sinh học phù hợp.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

“Nghệ thuật” trồng dưa kim.

Xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng có bề dày kinh nghiệm trồng dưa kim. Mỗi vụ diện tích trồng dưa kim của xã lên đến trên 50ha, năng suất đạt từ 8 tạ đến 1 tấn/sào (360m2), giá bán sản phẩm cũng luôn cao.

Kĩ thuật lên luống “mái nhà”, trồng dưa ở chính giữa cho bò sang hai bên của nông dân xã Tân Hưng.

Tham quan những cánh đồng dưa nơi đây chúng tôi học hỏi được nhiều điều bổ ích. Các biện pháp kĩ thuật như làm luống, bố trí mật độ trồng, đặt cây trên luống, định số nhánh, số lá trên thân là cả một “nghệ thuật” mà bà con dày công tôi luyện. Xin chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của họ để bạn đọc tham khảo.

Cách lên luống trồng cây: Không giống với thông thường khi lên luống trồng dưa hấu, dưa kim các nơi khác (luống san bằng phẳng), nông dân Tân Hưng lên luống trồng dưa kim theo kiểu mái nhà (cao ở giữa, thoải về hai bên mé luống). Vị trí đặt bầu cây cũng là chỗ cao nhất của luống (giữa luống), khác hẳn cách làm truyền thống (đặt cây vào mé luống để dưa bò dần ra giữa cho đến mé luống bên kia).

Chiều rộng của luống ở đây cũng để như thông thường (1,8-2m) nhưng mật độ trồng thì cao hơn. Cây cách cây 20-25cm (mật độ 500-550 cây/sào). Đặt cây vào giữa luống là cách làm hay để có thể tăng mật độ cho dưa kim, vì thông thường trồng vào phần mé luống thì mật độ chỉ đạt 420-450 cây/sào. Lên luống cao ở giữa (chỗ vị trí đặt cây) có tác dụng làm cho gốc cây sau này không bị thối hỏng do bị đọng nước sau mưa, vì vốn dĩ dưa kim có bộ rễ, thân gốc yếu hơn các loại dưa khác.

Cách định số nhánh, số lá/cây và định hướng bò cho dưa: Vì trồng ở giữa luống với mật độ dày hơn thông thường và để ngọn dưa bò sang hai bên như đan nên bà con không để nhánh dưa bò dài như truyền thống. Mỗi cây chỉ để 15-17 lá/thân chính và để thêm 3 chèo, mỗi chèo 1-2 lá. Tổng số lá/cây sẽ có khoảng 21-22 lá. Trên một gốc dưa thường chỉ để 1 thân.

Hai dây dưa liền nhau cho bò ngược chiều về hai phía (so le) để cây phủ kín luống và dây dưa không bị chồng chéo nhau. Hướng ngọn về hai bên giúp việc tuyển quả sau này được dễ dàng. Số quả/luống sẽ nằm dàn đều về hai phía chứ không cùng một hàng như phương pháp truyền thống. Quả nọ không tiếp giáp quả kia nên đầy đủ ánh sáng và to đều, dựng quả thuận lợi, màu quả đẹp hơn…

Nông dân Dương Văn Hùng cho biết: Ngay từ những vụ đầu tiên chuyển từ trồng dưa hấu sang dưa kim, nông dân nơi đây cũng làm luống, đặt cây giống như trồng dưa hấu. Song dưa kim được lai tạo và cùng dòng với dưa lê nên thân chính không cần bò dài. Vì vậy nhiều người đã mày mò trồng thử ra giữa luống như trồng dưa lê nhưng không làm luống cao giữa.

Quả dưa kim.

Việc định nhánh, định số lá/cây và hướng ngọn bò cho dưa kim cũng không được “nghệ thuật” như bây giờ. Sau khi gặp một số bất lợi (dưa hay bị thối gốc sau mưa, số lá um tùm làm quả không đẹp, không to, dây dưa chồng chéo khiến sâu bệnh gây hại nhiều…), bà con đã rút được ra kinh nghiệm và dần khắc phục được thông qua các biện pháp kĩ thuật đã làm như trên.

Với thân dưa để bò từ giữa luống ra 2 bên sẽ hạn chế về chiều dài hơn so với trồng vào một mé luống. Vậy việc tuyển quả sẽ như thế nào? Quả dưa sẽ phải lấy gần gốc hơn, vậy có đạt tiêu chuẩn?

Anh Hải, một đại lý chuyên cung ứng vật tư cho nông dân giải thích: Khác với trồng một mé, khi trồng ở giữa luống đòi hỏi vị trí tuyển quả sẽ phải gần gốc hơn. Nông dân lấy quả từ lá thứ 5-8 (khác trồng thông thường lấy quả từ lá 8-10). Song với cách để 3 chèo, mỗi chèo từ 1-2 lá nữa tổng số lá trên một cây đủ để quang hợp và nuôi quả để quả to, mã đẹp. Cuối vụ dưa vẫn phủ kín hết bề mặt luống là đủ để quả phát triển thuận lợi và chín ngọt.

Cách làm luống, trồng dưa kim của nông dân Tân Hưng giúp năng suất đạt cao nhất so với các vùng trồng dưa khác, chất lượng quả cũng luôn cao. Vụ thu đông vừa qua nhiều hộ đã thu lãi trên 100 triệu/mẫu. Vì thế cây dưa kim đã khẳng định vị thế trên “quê hương thuốc lào”.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Tận dụng 40m2 đất nuôi dế, chàng thanh niên thu lãi ròng cả chục triệu đồng.

Chỉ với diện tích hơn 40m2 bên hông nhà, anh Nguyễn Anh Tuấn ở thôn Thanh Lê, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong (Quảng Trị) đã tận dụng nuôi dế. Lứa đầu nuôi anh lãi khoảng 12 triệu.

Anh Tuấn bên trại dế của mình.

Đầu năm 2018 sau khi đi tìm hiểu thực tế, anh Tuấn đã mạnh dạn liên hệ mua giống ở Hà Nội để phát triển mô hình. Anh bố trí 14 hộc nuôi, với kích cỡ 2m2 mỗi hộc.
Anh Tuấn chia sẻ, thức ăn cho dế chủ yếu là bột ngô, cám gạo và một số loại rau, cỏ như xà lách, cải non, lá sắn, rau lang, cỏ voi… Dế là loài vật rất nhạy cảm với hóa chất và mùi lạ nên đòi hỏi môi trường sống phải sạch sẽ, thoáng mát, thức ăn phải sạch và không bị nhiễm thuốc hóa học.

Để chủ động nguồn thức ăn cho dế, anh Tuấn đã tận dụng khu đất sau vườn nhà trồng rau, cỏ. Vào mùa sinh sản anh làm màng lưới phủ lên nắp chuồng, tránh dế bay ra ngoài. Bố trí các khay cát đặt vào trong ô chuồng để dế đẻ.

Sau khi sơ chế cắt cánh dế thương phẩm, 1kg anh bán với giá 200 nghìn đồng. Lứa đầu nuôi anh lãi khoảng 12 triệu. Hiện anh cung cấp cả dế thương phẩm lẫn dế giống. Ngoài nuôi dế anh còn nuôi hơn 100 cặp bồ câu.

Tổng hợp và kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Nghề nuôi cá thát lát.

Cá thát lát là một trong những loài cá nước ngọt phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Với phẩm chất thịt ngon, được thị trường ưa chuộng, loài cá này đã và đang trở thành đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao.

Thành công từ mô hình nuôi cá thát lát.

Hiện nay, nguồn cá thát lát ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt do tình trạng khai thác bừa bãi, thiếu khoa học, trong khi nhu cầu trên thị trường ngày càng tăng nên giá bán cá thát lát cao hơn nhiều so với các loài cá nước ngọt khác. Vì thế, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, đồng thời đa dạng hóa các đối tượng thủy sản nuôi nước ngọt, bà con nông dân nên quan tâm đến mô hình nuôi cá thát lát.

Cá thát lát.

Đây là loài cá ăn tạp, thích nghi tốt với nhiều vùng sinh thái nước ngọt khác nhau như sông, rạch, ao, hồ, ruộng lúa… Cá có thể sống trong môi trường nước có hàm lượng oxy trên 4mg/lít, pH 7 – 8, khí Amoniac 0,0125mg/lít nước.

Anh Trần Ngọc Châu (ngụ số 1 đường 614, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi), hộ tham gia mô hình khuyến nông “Nuôi cá thát lát thương phẩm”, chia sẻ: Để mô hình đạt hiệu quả kinh tế, hạn chế tối đa rủi ro, người nuôi cần có những hiểu biết cơ bản về loài cá này, như kích cỡ cá thả nuôi phải khoảng 10cm/con, mật độ 5 – 10 con/m².

Thả cá lúc trời mát, trước khi thả cá phải ngâm bao chứa cá trong ao khoảng 15 phút để cân bằng nhiệt độ trong và ngoài bao cá, sau đó mở miệng bao cho nước ao vào bao để cá tự bơi ra.

Theo dõi cá ăn và điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày cho phù hợp, hạn chế thức ăn dư thừa vì sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng nước, tăng chi phí không cần thiết. Khi thay đổi sang một loại thức ăn mới, cần chuyển từ từ, mỗi lần cắt giảm thức ăn cũ khoảng 20% và thay thế bằng thức ăn mới, cho đến khi cá quen dần thức ăn mới.

Tránh thay đổi thức ăn đột ngột, cá sẽ ăn ít hoặc không ăn, dẫn đến gầy yếu, suy dinh dưỡng, chậm lớn, phân đàn, dễ bệnh, hao hụt nhiều.

Ngoài ra, chất lượng nước ao nuôi cần đảm bảo sạch và ổn định, thay nước định kỳ 7 ngày/lần, mỗi lần thay 20% – 30% lượng nước trong ao. Tuyệt đối hạn chế cá tạp trong ao nuôi.

Với lượng cá thả nuôi ban đầu là 20.000 con, trên diện tích ao nuôi 2.000m², sau 9 tháng nuôi có thể thu được 3.600kg cá, giá bán bình quân 50.000 đồng/kg, lợi nhuận hơn 100 triệu đồng sau khi trừ mọi chi phí (giống, thức ăn, nhân công, vật tư…). Mô hình nuôi cá thát lát thương phẩm góp phần tăng thu nhập cho nông hộ, tạo việc làm cho nguồn lao động nhàn rỗi ở địa phương.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Cách trồng và chăm sóc cây bưởi Diễn

Khi có dịp ghé qua Từ Liêm Hà Nội bạn không thể không nếm thử loại đặc sản bưởi Diễn nơi đây. Hương vị thơm ngon thanh mát cùng mùi hương thơm dễ chịu khiến ai ăn thử một lần đều không thể quên được.

Bưởi Diễn là giống cây bưởi có nguồn gốc từ loại bưởi Đoan Hùng-Phú Thọ đã được người dân mang về trồng tại xã Phú Diễn – Từ Liêm – Hà Nội. Do hợp với thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây mà loại cây này ra trái rất nhiều và có vị ngon đặc biệt hơn hẳn bất cứ nơi đâu. Thời xưa đây được coi là loại cống phẩm thượng hạng để tiến vua. Cho đến nay mỗi dịp tết đến hầu như trên bàn thờ nhà ai cũng có một quả bưởi Diễn để cúng tổ tiên.

Đặc điểm của giống bưởi Diễn

Không chỉ hấp dẫn bởi lớp vỏ mỏng vàng ươm. Những tép bưởi bên trong mọng nước và khi ăn có vị ngọt thanh mát rất đặc trưng. Điểm đặc biệt phải kể đến về giống bưởi này là hương thơm của chúng lan tỏa ra khiến ai gửi đều dễ chịu và thoải mái. Chỉ cần trong nhà bạn có 2 quả bưởi diễm xếp góc nhà thôi là cả căn phòng sẽ tràn ngập mùi bưởi.

Quả bưởi Diễn tròn cầm chắc tay và da bưởi trơn

Bưởi Diễn chính hiệu thường có trái vừa không quá to. Qủa tròn khi cầm chắc tay và da bưởi trơn không sần. Trung bình một quả khi chín nặng từ 0,8-1kg. Múi bưởi Diễn dễ tách rời, mọng nước và có tỷ lệ dinh dưỡng khá cao.

Về kinh tế thì đây là giống bưởi cho năng suất kinh tế cao. Một vụ 1 cây cho thu hoạch từ 60-70 quả. Chất lượng quả cao và ổn định không thấy thường như những giống khác.

Cách trồng và nhân giống bưởi Diễn

Chọn lựa giống : để cho ra được được những cây giống khỏe mạnh cho năng suất cao thì khâu chọn lựa cây giống là rất cần thiết. Cần chọn cây con giống tại những nơi uy tín để đảm bảo chất lượng giống tốt nhất đem trồng. Cây giống tốt cần là những cây con to khỏe cao trên 30cm trở lên. Bộ rễ phát triển và không có mầm bệnh.

Chọn cây giống chất lượng tốt

Đất trồng bưởi Diễn

Loại đất thích hợp để trồng bưởi Diễn là đất cát pha giàu dinh dưỡng và tơi xốp. Độ pH phù hợp từ 5,5-6,5. Đất trồng cần cao ráo sạch sẽ và nên ở những nơi không quá nhiều gió vì sẽ làm quả bị rụng.

Mật độ trồng bưởi Diễn

Tùy theo từng điều kiện Diện tích à điều chỉnh mật độ trồng bưởi Diễn phù hợp. Khoảng cách trung bình từ 3 đến 3,5m là thích hợp để cây phát triển.

Chuẩn bị hố trồng bưởi Diễn

Bạn cần chuẩn bị hố trồng trước 1 tháng. Cần đào hố và bón lót xuống đáy một lượng phân bón rồi lấp đất trên mặt cao so với hố 15cm. Sau giai đoạn này 1 tháng ta tiến hành trồng cây giống. Vét một hố nhỏ bằng bầu đất rồi đặt bầu vào rồi nén chặt phần gốc cây. Bạn có thể cắm thêm cọc giữ cho cây không bị đổ hay nghiêng gây chết cây.

Tưới nước để cây phát triển tốt

Chăm sóc sau khi trồng

Sau khi trồng xong cây con giống bạn tiến hành tưới nước ngay cho cây. Tưới vào sát gốc ngày 1 lần cho đến khi cây bén rễ vào đất mới sau đó giảm dần 3 ngày tưới nước 1 lần.

Cắt tia cành và tạo tán bưởi Diễn

Trong khâu chăm sóc cây bưởi Diễn thì khâu cắt tỉa và tạo tán cho cay cũng khá quan trọng. Việc cắt tỉa cành tạo tán cho cây định kì sẽ giúp cây thông thoáng hơn. Bạn tỉa bỏ các cành bị sâu bệnh, cành héo giữ lại những cành khỏe mạnh và thường xuyên vun xới cỏ dại xung quanh gốc cây giúp đất thông thoáng hơn.

Bón phân cho cây

Cây bưởi Diễn muốn phát triển tốt và cho năng suất trái cao thì bạn cần định kì bón phân giúp cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây phát triển lá và trổ hoa tạo quả. Nếu như trước khi trồng bạn đã bón lót vào đất trồng cây thì giai đoạn ra hoa tạo quả và sau thu hoạch lứa đầu tiên bạn cần bón thêm cho cây một lượng phân chuồng hoai mục và NPK theo tỷ lệ 10:3.

Phòng trừ sâu bệnh cho cây bưởi Diễn

Nếu muốn cây khỏe mạnh phát triển tốt thì việc phòng ngừa sâu bệnh hại là điều tối quan trọng trong khâu chăm sóc. Bằng việc thường xuyên kiểm tra cây bưởi Diễn để kịp thời phát hiện những dấu hiệu sâu bệnh hại ngay thời gian đầu.

Nếu phát hiện sâu bệnh hại bạn có thể loại bỏ bằng tay, cắt tỉa những cành bị sâu bệnh tấn công hoặc có thể sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hoá học ít độc để phun cho cây.

Bón phân và trừ sâu định kì để cây bưởi phát triển tốt

Thu hoạch và bảo quản

Với việc trồng đúng kĩ thuật bạn sẽ thu hoạch được những loại quả bưởi Diễn chất lượng cao, mọng nước. Nhớ thu hái quả vào lúc trời râm mát, khô ráo. Bảo quản trong nơi râm mát để quả giữ được độ tươi ngon. Sau khi thu hoạch xong bạn vệ sinh xung quanh gốc cây, cắt tỉa đi những cành già, héo và cành sâu bệnh và tiếp tục chăm sóc như ban đầu.

 

 

 

 

 

Những điều cần lưu ý khi nuôi cá chạch sụn

Trong thời gian gần đây, có một loài cá chạch được phát triển nuôi ở nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long. Đặc điểm nổi bật của loài cá chạch này là có xương mềm (xương sụn). Có thể do có đặc điểm này nên nó được gọi là cá chạch sụn. Có một số thông tin cho rằng loài cá chạch này có nguồn gốc từ Đài Loan (nên còn có tên gọi là cá chạch sụn Đài Loan). Ngoài ra, loài cá này còn có tên gọi khác là cá chạch bùn hay chạch quế.

Cá chạch sụn

Qua theo dõi một số thông tin chuyên ngành thì loài cá chạch có xương mềm (xương sụn) này có tên khoa học là Macrognathus aculeatus, nhưng có tài liệu lại ghi tên khoa học là Misgurnus anguillicaudatus. Theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN ban hành ngày 02/05/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc Ban hành danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh thì trong 199 loài cá nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh thì không có giống cá chạch nào có tên là cá chạch sụn hoặc cá chạch quế với tên khoa học là Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus. Chỉ có các giống cá nuôi nước ngọt được phép sản xuất, kinh doanh là:

– Cá Chạch (Mastacembelus),

– Cá Chạch bông (Chạch lấu) (Mastacembelus (armatus) favus),

– Cá Chạch khoang (Mastacembelus circumceintus),

– Cá Chạch lá tre (còn gọi là Chạch gai) (Macrognathus aculeatus),

– Cá Chạch rằn (Mastacembelus taeniagaster),

– Cá Chạch sông (Mastacembelus armatus),

– Cá Chạch khoang (còn gọi là cá heo mắt gai) (Pangio kuhlii).

Như vậy, theo Quyết định số 57/2008/QĐ-BNN thì cá chạch có tên khoa học Macrognathus aculeatus hoặc Misgurnus anguillicaudatus là loài cá chạch không có tên trong danh mục giống thủy sản được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam. Bên cạnh đó, do cá chạch có xương sụn (sau đây gọi là cá chạch sụn) là loài cá mới xuất hiện trên thị trường và có đặc điểm là xương mềm khác với một số loài cá chạch đã có mặt ở thị trường trước đây nên nó gây sự hiếu kỳ cho người tiêu dùng. Và loài cá này nhanh chóng có mặt ở nhiều quán ăn, nhà hàng với giá bán trên dưới 300.000 đ/kg. Với giá bán cao nên một số hộ nuôi thủy sản đã mạnh dạn đầu tư nuôi thương phẩm loài thủy sản mới này trước tình hình một số đối tượng nuôi thủy sản khác kém hiệu quả.

Nhưng do thị trường tiêu thụ có giới hạn nên một số hộ nuôi cá chạch sụn hiện nay đang gặp khó khăn trong tiêu thụ. Theo thông tin từ một số hộ nuôi cá chạch sụn ở tỉnh Đồng Tháp thì hiện nay giá bán chỉ còn 100.000 – 120.000 đ/kg nhưng có hộ nuôi vẫn không có thương lái đến mua.

Cá chạch sụn hầm tàu hũ

Với những thông tin, các hộ nuôi thủy sản nếu có ý định phát triển nuôi loài cá này thì cần tham khảo thông tin thị trường để tránh gặp phải trường hợp tiêu thụ khó khăn như nuôi cá rô đầu vuông hoặc cá lăng nha đã xảy ra trong thời gian qua. Thiết nghĩ, mạng lưới khuyến ngư cần có những thông tin về thị trường tiêu thụ và đầu ra của loài cá này để có những khuyến cáo kịp thời nhằm tránh những thiệt hại do thua lỗ cho người nuôi.

Hiện nay loài cá chạch với đặc tính có xương mềm này có nhiều tên gọi khác nhau như là cá chạch sụn hoặc cá chạch bùn, cá chạch đồng hay còn gọi là cá chạch quế và có khi còn gọi là cá chạch sụn Đài Loan, có thông tin cho là cá chạch bùn còn gọi là cá chạch quế nhưng cũng có thông tin cho là cá chạch bùn và cá chạch quế có hình dáng và cấu tạo xương khác nhau.Vì vậy, rất cần các nhà khoa học có thêm những thông tin về định danh, nguồn gốc và các đặc điểm hình thái phân loại các loài cá chạch nêu trên để xác định là các tên gọi trên là cùng một loài hay là nhiều loài khác nhau để tránh nhầm lẫn cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho người nuôi trong việc lựa chọn giống cá chạch để nuôi.

Tổng hợp và kiểm duyệt bới Farmtech Việt Nam