Làm cho táo tăng năng suất gấp đôi

Nếu có dịp ra Bình Thuận, Ninh Thuận thì bà con mình dễ dàng bắt gặp những vườn táo tươi tốt. Bây giờ ở ngoài đó, người ta trồng nhiều táo lắm! Có nơi còn coi cây táo là cứu tinh, là nguồn thu nhập chính của gia đình…

Cây táo ta là loại cây quen thuộc của dân mình. Suốt từ Bắc vào Nam, chỗ nào cũng trồng được táo. Táo dễ trồng, dễ sống, mau cho quả và lại cho năng suất cao. Táo là loại quả ngon, có vị chua ngọt, giàu vitamin, được dùng để ăn tươi, ăn khô, làm rượu, làm mứt, làm nước giải khát… Nó còn được coi là một vị thuốc tăng sức khỏe cho con người. Người già, người trẻ đều thích ăn táo. Vì vậy, táo là một mặt hàng bán rất chạy. Ít khi thấy táo bị ế. Đặc biệt vào dịp tết, khi người ta ăn quá nhiều các thức ăn giàu đạm và uống quá nhiều rượu, lúc đó họ lại nghĩ tới đĩa táo. Táo không phải là loại quả sang trọng nhưng lại là loại quả rất phổ biến và tiện dùng.

Có rất nhiều giống táo, cả giống trong nước và giống nhập ngoại. Nhưng hiện nay, phổ biến vẫn là các giống táo của Đài Loan và Thái Lan. Giống táo rất sẵn, cơ sở làm giống nào cũng có. Táo được nhân giống bằng phương pháp ghép. Ghép chúng cũng dễ nên giá cây giống không cao.

Táo không kén đất, đất nào cũng trồng được. Chỉ lưu ý, tránh trồng chúng ở nơi bị ứ nước. Mặt khác, nó là cây có tiềm năng cho năng suất rất cao, do đó, nên trồng ở những nơi đất tốt, tơi xốp, đủ nước và có nhiều chất mùn. Ta phải đào hố và bón lót trước khi trồng. Nên bón nhiều phân chuồng. Táo bén rễ rất nhanh. Nếu đủ phân, chúng lớn lên rất mau. Rễ táo có thể ăn sâu tới hơn 1m và lan rộng gấp 5 – 6 lần đường kính tán lá của nó. Vì vậy, thân chúng rất chắc. Có nơi còn dùng táo làm cây chắn gió.

Táo trồng đầu năm thì cuối năm đã có quả. Muốn cây phát triển tốt thì số quả lứa đầu ta bỏ đi hoặc bỏ bớt đi để tập trung dinh dưỡng cho cây phát triển. Từ năm thứ hai trở đi, táo cho năng suất rất cao nếu như chúng ta cung cấp cho nó đủ phân và nước. Ở phía Bắc, táo thường ra hoa từ tháng 8 – 9. Nó ra rộ vào tháng 10. Quả được thu vào tháng 12 trở đi. Còn ở phía Nam, ta thấy táo ra hoa quanh năm. Sau khi thu hết quả và ta tiến hành đốn cành thì chỉ 1 – 2 tháng nữa là nó lại ra hoa. Tuy nhiên, táo thường tập trung ra hoa vào hai thời điểm từ tháng 2 – 3 và tháng 9 – 10.

Xin lưu ý, 2/3 lượng phân cần bón ta tập trung bón khi cây vừa thu hoạch kết quả; còn 1/3 sẽ bón vào lúc cây bắt đầu ra hoa. Phải đào rãnh quanh gốc để bỏ phân, sau đó lấp lại. Ở một số nơi, bà con vét bùn ao lên và phơi khô. Sau đó, tán nhỏ chúng ra và bón cho gốc táo. Hiệu quả cũng rất tốt.

Muốn táo cho năng suất cao, còn có một biện pháp rất hay là khoanh vỏ: ta chọn thời điểm hoa táo ra rộ, dò từ trên ngọn xuống, tới chỗ nào cành cho hoa ít hoặc không ra hoa thì ta tiến hành khoanh vỏ. Ta khoanh 1 lớp vỏ rộng khoảng 2cm quanh thân. Lưu ý, không để sót 1 sợi xơ nào. Như vậy là ta đã cắt đường vận chuyển nhựa luyện từ trên lá xuống phần gốc, lúc này, chất dinh dưỡng dồn cả vào các cành mang hoa, ta dễ dàng nhận thấy bằng mắt thường số quả trên cây nhiều hơn và quả cũng lớn hơn. Vì rằng, chất dinh dưỡng đã làm cho cuống hoa chậm hóa bền, nên nó lâu rụng. Ong, bướm có dịp thụ tinh tiếp cho hoa nên số hoa đậu sẽ cao hơn. Mặt khác, do tiếp nhận nhiều dưỡng chất nên quả sẽ to hơn, thậm chí, nó to gấp rưỡi quả ở cành không được khoanh vỏ. Vì vậy, năng suất của cây táo sẽ tăng lên gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Lúc này, điều cần lưu ý nhất là ta phải chống cho cành. Vì quả quá nhiều và to hơn nên cành rất dễ gãy. Gãy là mất ăn!

Sau khi thu hoạch, ta tiến hành đốn cây. Lưu ý, điểm đốn phải nằm ở phía dưới của nơi ta đã khoanh vỏ. Làm đúng như vậy, bà con sẽ có được những vụ táo bội thu.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Trung Quốc ồ ạt trồng thanh long cạnh tranh với Việt Nam

Cuối năm 2017, chị Thúy, một thương nhân ở Lào Cai, cùng một anh bạn làm nông nghiệp ở Lào sang Trung Quốc tìm đối tác, ghé thăm trang trại trồng thanh long Langwan (ngay sát đường cao tốc G80, cách biên giới Việt Nam khoảng 200km) của tập đoàn nông nghiệp Quảng Tây Jinsui ở thị trấn Natong, quận Long An, thành phố Nam Ninh.

Tại đây, chị Thúy kể đã chứng kiến những trang trại trồng thanh long rộng lớn với quy mô lên tới nghìn héc-ta, được đầu tư rất bài bản.

Những năm gần đây nhiều trang trại thanh long lớn ở Trung Quốc “mọc lên”

Các nhà xuất khẩu thanh long của Việt Nam nói rằng đã biết chuyện Trung Quốc đang trồng rất nhiều thanh long để cạnh tranh với Việt Nam từ năm 2013.

Theo ông Mai Xuân Thìn – CEO Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Rồng Đỏ, các đối tác của ông cho biết có những thương nhân Trung Quốc đầu tư những trang trại thanh long lớn đến 3.000 – 5.000 ha tại nước này.

Trung Quốc là thị trường nhập khẩu 80 – 90% thanh long Việt Nam, nhưng trong thời gian qua đã phát triển loại cây này một cách rất nhanh chóng. Năm 2011, theo báo Nông thôn Nam Phương, Trung Quốc mới chỉ có 3.400 ha trồng thanh long, đến nay đã gần 40.000 ha và các dự báo cho thấy với đà này sẽ có thêm 34.000 – 68.000 ha thời gian tới.

Sơ chế thanh long tại Trung Quốc – Ảnh: CTV

Quảng Tây là vùng trồng thanh long lớn nhất nước này với gần 15.300 ha (chiếm gần 40% Trung Quốc), dự kiến đến năm 2020 diện tích sẽ tăng lên đến 18.000 ha, sản lượng vượt 500.000 tấn.

Các tỉnh kế cạnh như Quảng Đông, Quí Châu, Phước Kiến, Vân Nam cũng trồng không ít thanh long và loại trái cây này còn được mở rộng cả sang các tỉnh Trùng Khánh, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Sơn Tây, Chiết Giang, Sơn Đông…

Theo Nông thôn Nam Phương, các vùng trồng thanh long qui mô lớn có giá ổn định, giá thu mua tại vườn hiện bình quân 6 – 8 NDT/kg (1 NDT = 3.300 đồng) và khi đến tay người tiêu dùng Bắc Kinh giá thấp nhất 21 NDT/kg.

Cũng tờ báo này cho biết chuyện ông Lý ở Bắc Hải, Quảng Tây đang tìm thuê đất để mở rộng diện tích, hiện nay 17 ha thanh long của ông mỗi mẫu (khoảng 666 m2) cho doanh thu 8.000 – 15.000 NDT.

Theo ông Lý, giá thành mỗi mẫu 12.000 – 15.000 NDT, sản lượng 500kg, giá bình quân 7 NDT/kg, năm đầu có thể thu hồi 30% vốn, đến năm thứ 3 là có lãi.

Dù vậy, sự phát triển ồ ạt thanh long không phải lúc nào cũng mang lại niềm vui cho người trồng thanh long. Vào tháng 7 năm nay, giá thanh long ở Quí Châu giảm còn 3,3 NDT/kg, theo Nhân dân nhật báo.

Trong khi Việt Nam tiếp tục là nhà xuất khẩu thanh long ruột trắng lớn nhất của Trung Quốc thì những trang trại thanh long ruột đỏ đã bắt đầu mọc lên tại các tỉnh phía đông nam Trung Quốc như Quảng Đông, Chiết Giang, Quảng Tây.

Tháng 6-2017, tại Quảng Đông, lần đầu tiên lễ hội thanh long đã được tổ chức, không phải do chính quyền sắp xếp mà là do một nông dân có tên Chen Lianghua đứng ra lo liệu.

Chen là người đã nghiên cứu và áp dụng thành công công nghệ mới khi tạo ra ánh sáng gần giống như ánh nắng áp dụng vào trang trại thanh long của mình, và tuyên bố sản phẩm của mình “ăn đứt chất lượng thanh long nhập khẩu từ Việt Nam”.

Điều đáng lo là mùa thu hoạch thanh long ruột đỏ ở Trung Quốc kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, khá giống với mùa vụ ở Việt Nam khiến sự cạnh tranh càng thêm phần khốc liệt.

Trong cuộc đua đó, thanh long Việt Nam đã gặp bất lợi ngay từ đầu về việc giữ độ tươi ngon và chi phí vận chuyển, chưa nói đến vấn đề chất lượng và nhu cầu thực tế của thị trường Trung Quốc.

Sau khi rớt giá thê thảm, hiện nay trái thanh long ở Bình Thuận đã tăng trở lại nhưng nông dân còn rất ít hàng để bán.

Theo khảo sát một số vựa dọc hai bên Quốc lộ 1 ở huyện Hàm Thuận Nam (Bình Thuận), mặc dù giá thu mua giao động từ 8.000 – 10.000 đồng/kg với loại xuất khẩu, nhưng đã khan hiếm hàng.

Thời điểm này, các nhà vườn đang chặt bỏ, bán tống bán tháo lứa thanh long rớt giá vừa qua để dọn cây, chăm sóc cho lứa trái mới.

Bình Thuận có gần 30.000 ha trồng thanh long với sản lượng ước đạt 600.000 tấn, trong đó gần 10.000 ha đã được chứng nhận VietGAP và 262 ha có chứng nhận GlobalGAP.

Cuối tháng 9 vừa qua, giá thanh long tại nơi được coi là “thủ phủ” của loại trái cây này rớt thê thảm, chỉ còn vài ba ngàn một ký, nhưng không có người mua khiến nhiều nông dân phải chặt bỏ cây sau ba tháng chăm sóc.

Theo Sở NN&PTNT tỉnh này, do thời tiết thuận lợi nên thanh long ra lứa hoa tự nhiên gần cuối vụ chính, nông dân cũng tập trung giữ lứa này với hy vọng bán được giá cao như cùng kỳ năm trước, vốn lên đến 23.000 đồng/kg, vì thế một số người đã chong đèn sớm khiến cho sản lượng tăng đột biến.

Điều này khiến các doanh nghiệp trở tay không kịp kho lạnh dự trữ hết chỗ nên ngưng mua, vậy là giá rớt thê thảm. Tuy nhiên, giá thanh long chất lượng cao vẫn ổn định.

Ở vùng chuyên canh thanh long Chợ Gạo, Tiền Giang, không khí mua bán thanh long có vẻ trầm lắng. Nhiều vựa thanh long lớn ven tỉnh lộ 879C đi từ Chợ Gạo về Long An đang trong tình trạng đóng cửa hoặc giao dịch ít.

Giải thích nguyên nhân này, ông Trần Hữu Danh, giám đốc Công ty TNHH Long Việt, cho rằng thanh long mùa đang vào đợt cuối vụ nên ít hàng, phải 10 – 15 ngày nữa sẽ vào đợt cuối vụ nhưng sản lượng sẽ không nhiều, giá đủ chuẩn xuất khẩu hiện vẫn được mua với giá 22.000 – 25.000 đồng/kg, và vẫn phải “đỏ mắt để tìm mua”.

Tại huyện Châu Thành, Long An, sau một giai đoạn giá thanh long ruột đỏ bị mua tại vườn với giá chỉ 10.000 đồng/kg, giá thanh long ruột trắng với mức giá khoảng 3.000 đồng/kg, hiện không khí mua bán tại đây cũng khá trầm lắng.

Nhiều chủ vườn cho biết hiện nay người dân đang tập trung vào vụ chệch vào thời gian tới, sản lượng không nhiều, sẽ có giá cao hơn.

“Trang trại chúng tôi làm theo tiêu chuẩn Global GAP chuyên cung cấp hàng cho công ty xuất khẩu thanh long đi các thị trường cao cấp như Mỹ, EU nên giá cố định quanh năm từ 20.000 đồng/kg trở lên”, ông Trần Quốc Thắng – chủ trang trại Hùng Linh, xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, Bình Thuận – nói.

Ông Mai Xuân Thìn, CEO Công ty Red Dragon, cho biết trong suốt thời gian qua dù giá thanh long ở Bình Thuận giảm mạnh nhưng giá mua thanh long đạt chuẩn để xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao.

Theo ông Thìn, người Việt cần phải thay đổi theo cách làm thanh long tiêu chuẩn toàn cầu để xuất khẩu đi nhiều nước, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc, nhằm đưa loại trái cây này “đạt tầm cỡ như trái kiwi của New Zealand” mà chỉ riêng năm 2017 đã đem về 3,5 tỉ USD cho quốc gia này.

“Dù là nước trồng nhiều kiwi và xuất khẩu kiwi sang Việt Nam nhưng Trung Quốc cũng nhập khẩu tới trên 1 tỉ USD kiwi từ New Zealand”, ông Thìn cho biết.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

GS Võ Tòng Xuân: Nông nghiệp 4.0 cần bắt đầu từ bớt phân thuốc

Khi nông nghiệp 4.0 bắt đầu được bàn luận nhiều thì theo giáo sư Võ Tòng Xuân, nên nghĩ đến nó từ việc rất căn bản là giảm phân thuốc.

Sau thời gian “công nghiệp 4.0” được bàn luận sôi nổi, “khí thế” này cũng đã lan sang ngành nông nghiệp. Trong một hội thảo mới diễn ra, Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, nông nghiệp 4.0 hay còn gọi là nông nghiệp thông minh đã giúp nền nông nghiệp nhiều quốc gia “phát triển rực rỡ”, mang lại bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng canh tác.

Tại Việt Nam, đã có các dự án nông nghiệp công nghệ cao lớn như mô hình sản xuất nấm của Kinoko Thanh Cao, trồng rau của VinEco, nuôi bò sữa của Vinamilk, nuôi gà của Hùng Nhơn… Tuy nhiên, số lượng chưa nhiều.

Mô hình thủy canh giá thể nhiều tầng Sky Green của VinEco.

“Việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến dựa trên số hóa và kết nối tạo ra các mô hình nông nghiệp thông minh đã xuất hiện nhưng còn rất ít”, cơ quan này nhận định.

Là chuyên gia làm việc lâu năm trong ngành nông nghiệp, giáo sư Võ Tòng Xuân bình luận, chính bởi đa số người làm nông chưa có điều kiện áp dụng công nghệ cao nên nếu suy nghĩ đến 4.0 thì việc đầu tiên cần làm đơn giản là bớt dùng phân bón, thuốc hóa học.

“Ngoài những cá nhân có điều kiện áp dụng nông nghiệp 4.0, đại bộ phận nông dân sẽ áp dụng nó trong chuỗi phát triển nông nghiệp theo mục tiêu tối hậu của nó, tức là ứng dụng các chế phẩm mới nhất trong quy trình sản xuất, giảm mạnh phân bón hóa học, nhất là phân đạm, tăng cường phân hữu cơ kết hợp với phân sinh học chứa nhiều nguyên tố vi lượng và vi sinh vật kháng sâu bệnh”, ông khuyến nghị.

Vị giáo sư cho rằng, triển khai nông nghiệp 4.0 ở Việt Nam sẽ không đơn giản vì còn hàng loạt thách thức, cả khách quan lẫn chủ quan. Biến đổi khí hậu, điều kiện đất đai, tập quán canh tác là các điển hình.

“Trước khi quyết định làm 4.0 thì cũng phải thấy bây giờ khí hậu thất thường, mưa nắng không đều, nước lũ về thấp hơn. Kênh mương chằng chịt làm đất đai manh mún, khó ứng dụng cơ giới hóa trên cánh đồng lớn”, ông nói.

Dẫn con số 68% người dân khu vực nông thôn dùng smartphone, ông Võ Tòng Xuân nhận định nhiều nông dân hứng thú tiếp cận công nghệ nhưng tư duy sản xuất vẫn giữ thói kinh nghiệm lão nông.

“Ông nông dân mình rất sang, chi mấy triệu mua smartphone không sao nhưng dùng hiệu quả chưa là chuyện khác. Mình cần nhiều thanh nông hơn chứ lực lượng lão nông rất khó sửa và cập nhật tiến bộ mới.

Nông dân cũng quá tự do, muốn trồng gì thì trồng, chặt gì thì chặt, không thích hợp tác một cách tự nguyện nên mỗi lần có chương trình, dự án phải vận động rất nhiều”, ông nhận định.

Theo vị giáo sư, qua 40 năm, ngành trồng lúa đã được cơ giới hóa hoàn toàn. Sản lượng lúa tăng tốt nhưng chất lượng chưa cao. Chăn nuôi và cây ăn quả phát triển nhưng chưa bền vì sâu bệnh tăng. Xuất khẩu cũng tăng nhưng không ổn định, dễ “dội chợ”. Do đó, suy nghĩ về nông nghiệp 4.0 cũng hợp lý nhưng còn rất nhiều việc phải làm.

Theo khái niệm của Hiệp hội Máy Nông nghiệp châu Âu, nông nghiệp 1.0 xuất hiện ở đầu thế kỷ 20 vận hành với hệ thống tiêu tốn sức lao động, năng suất thấp. Nông nghiệp 2.0 là cuộc cách mạng xanh vào những năm 1950.

Nông nghiệp 3.0 diễn ra từ những năm 1990 với ứng dụng GPS, cảm biến, cơ giới hóa cao. Và gần đây, nông nghiệp 4.0 được nhắc đến từ khái niệm công nghiệp 4.0 do người Đức định nghĩa.

Với một số chuyên gia và nhà quản lý tại Việt Nam, việc hướng đến nông nghiệp 4.0 đang cần thiết để thay đổi mô hình tăng trưởng nông nghiệp vẫn trong tình trạng khối lượng nhiều – giá trị thấp, hiệu suất dùng đất đai và tài nguyên chưa cao. Ngoài ra, thị trường thế giới đang là thời cơ cần nắm bắt.

“Việt Nam có vị trí chiến lược tại Đông Nam Á để cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho khu vực. Ngoài ra, chúng ta đang nằm cạnh một thị trường hết sức lớn và dễ tính”, Tiến sĩ Đoàn Duy Khương – Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nêu ví dụ.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

“Lạ mắt” mô hình nuôi rắn ri voi trong thùng gỗ

Với 10 thùng gỗ lót cao su thả nuôi rắn ri voi, mỗi năm ông Nguyễn Văn Hoàng ở ấp Thới Ngươn B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, TP Cần Thơ có mức lãi khá cao.

Ông Hoàng kể, năm 2017 ông mua hơn 50 con rắn ri voi của một người quen tại huyện Bình Tân (Vĩnh Long) về nuôi. Nhờ chăm sóc chu đáo, đàn rắn phát triển tốt và sinh sản nhanh. Sau hơn 1 năm nuôi thương phẩm, ông chọn rắn đực xuất bán, rắn cái để lại cho sinh sản.

Tận dụng 20 m2 đất sau nhà, ông Hoàng thiết kế 10 thùng gỗ hình chữ nhật, bên trong lót cao su để nuôi rắn. Chia sẻ về cách làm độc đáo này, ông Hoàng nói: “Thông thường, người ta nuôi rắn trong vèo hoặc bể xi măng. Nhưng để tiết kiệm diện tích và dễ di chuyển, tôi đóng thùng gỗ để nuôi. Cách làm này giúp giảm chi phí đầu tư, mang lại hiệu quả cao, rắn phát triển tốt và việc chăm sóc dễ dàng hơn”.

Theo ông Hoàng, rắn ri voi là loại dễ nuôi, khả năng kháng bệnh tốt, nhẹ công chăm sóc, nhu cầu thị trường cao nên đầu ra ổn định. Nếu chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật, đảm bảo nguồn thức ăn, sau 1 năm rắn có thể đạt trọng lượng từ 1 – 1,5kg/con.

Điều quan trọng là nguồn nước phải được lấy từ nguồn nước ngầm, sau đó bơm sang bể lắng rồi mới bơm nước vào thùng nuôi. Mực nước không vượt quá thân rắn. Trong quá trình nuôi phải thường xuyên kiểm tra nguồn nước để thay mới, tránh ô nhiễm ảnh hưởng đến sự phát triển của rắn.

Về chế độ thức ăn, nuôi rắn đẻ 1 tuần cho ăn 1 lần, rắn thịt 3 ngày cho ăn 1 lần, thức ăn từ nguồn cá tạp, rẻ tiền… Mỗi năm rắn đẻ một lần, mỗi con đẻ từ 15 – 20 rắn con. Từ tháng 5 – 6 âm lịch cho rắn giao phối, thả nuôi tỷ lệ 40% rắn đực, 60% rắn cái để giao phối với nhau.

Rắn sau khi đẻ cần bồi dưỡng, cung cấp lượng đạm cao và lượng cá tươi trong vòng 1 tháng, khẩu phần ăn gấp đôi so với bình thường. Sau đó, giảm bớt lượng thức ăn dần cho lượng mỡ trong rắn cân bằng lại, đảm bảo sinh sản tốt. Để tránh hao hụt, rắn con sau khi sinh 1 tuần khi noãn hoàng trong bụng đã tiêu hóa mới bắt đầu cho ăn.

Tận dụng 20 m2 đất nhà sau, ông Hoàng thiết kế 10 thùng gỗ hình chữ nhật, bên trong lót cao su để nuôi rắn

Để nuôi rắn ri voi có hiệu quả, người nuôi phải tự tách đàn, phân cỡ, nhất là tập cho rắn ăn quen dần với các loại cá từ nhỏ đến lớn. Quan trọng là phải quan sát, theo dõi thường xuyên, phòng khi rắn bệnh mà có cách xử lý kịp thời.

Theo kinh nghiệm của ông Hoàng, thông thường con giống được cung cấp từ 2 nguồn là rắn giống hoang dã bắt ở thiên nhiên và rắn từ những trại chăn nuôi. Rắn con hoang dã có số lượng nhiều, giá rẻ nhưng tỷ lệ hao hụt khá cao do có nhiều cách thu bắt như bị câu rách miệng, bị câu điện, gãy xương sống… Rắn con sinh sản tại trại có giá khá cao nhưng tỷ lệ hao hụt thấp, lại được thuần hóa, tương đối hiền, ít cắn nhau.

Hiện tại, ông Hoàng nuôi rắn ri voi trong 10 thùng gỗ lót cao su với số lượng khoảng 300 con. Trong đó có 100 con trong giai đoạn sinh sản, 100 con trưởng thành đang chuẩn bị phối giống và trên 100 con nuôi thịt.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Cam, quýt Australia đổ về Việt Nam

Trên thị trường Việt Nam hiện có 3 loại cam, quýt Australia được bán với giá vài trăm nghìn đồng một kg.

Chị Hoa, ở quận Gò Vấp cho biết, gần đây chị chuộng quýt Australia dù giá lên tới 250.000 đồng một kg, đắt gấp 10 lần hàng Việt.

“Loại này vỏ mỏng, trái mọng nước ít bị khô như hàng Việt, được  thông tin là canh tác hữu cơ nên tôi yên tâm”, chị Hoa nói và cho biết, ngoài quýt Australia thì mặt hàng cam của nước này cũng được chị đặt mua thường xuyên.

Khảo sát của VnExpress cho thấy, cam, quýt Australia được bán khắp các chợ, cửa hàng nhập khẩu và siêu thị.

Tại chợ Bà Chiểu (TP HCM), cam quýt của Australia có giá 120.000 – 200.000 đồng một kg. Chị Vân, tiểu thương ở đây cho biết, mặt hàng này bán khá chạy, mỗi ngày cửa hàng của chị bán lẻ 2 – 3 thùng loại 15 kg. “Cứ đến tháng 9, 10 là cam quýt vào mùa. Tuy nhiên, các sản phẩm này vẫn không ngừng được lựa chọn, đặc biệt quýt Australia mới về được một tháng nay nhưng về đến đâu hết đến đó”, chị Vân nói

Không chỉ tại chợ, các hệ thống siêu thị Lottemart, Aeonmall… sản phẩm này cũng được bán với số lượng lớn. Tại Lotte, quýt Australia có giá 180.000 đồng hộp 9 trái nặng gần một kg. Theo nhân viên tại Lottemart Gò Vấp, loại này được siêu thị nhập về bán vài tuần nay, mỗi ngày tiêu thụ cả tạ quýt.

Còn tại các cửa hàng nhập khẩu quýt Australia được bán với giá 250.000 đồng một kg; cam vàng, cam ruột đỏ bán với giá 160.000 đồng một kg.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hiện nay lượng cam, quýt Australia vào Việt Nam tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Dữ liệu 9 tháng đầu năm cho thấy, giá trị nhập khẩu rau quả từ Australia vào Việt Nam tăng đột biến. Đây là một trong ba thị trường có mức tăng mạnh nhất so với cùng kỳ 2017. Cụ thể, 8 tháng, Việt Nam nhập 70,6 triệu USD rau quả từ Autralia, tăng 72,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 6,2% thị phần tại Việt Nam.

Trước đó, Chính phủ Australia cũng đã mở các chương trình đẩy mạnh xuất khẩu cam vào thị trường Việt Nam thông qua các siêu thị và cửa hàng với số lượng lớn. Bà Yvonne Chan, Tham tán thương mại cấp cao, Cơ quan Thương mại & Đầu tư Chính phủ Australia nhận xét, người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu ngày càng cao với các nguyên liệu tươi, ngon, sạch và tốt cho sức khỏe. Điều này đã giúp cho sản phẩm của Australia có mặt tại thị trường Việt Nam, đặc biệt là cam, quýt.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Giá cá tra tăng cao nhất trong 20 năm: Lo kiểm soát nguồn cá giống

Giá cá tra đang ở mức cao nhất từ trước đến nay, việc này khiến cho người dân, các doanh nghiệp và nhà quản lý lĩnh vực thuỷ sản đều rất vui mừng. Tuy nhiên, xen lẫn với niềm vui, cũng có không ít nỗi lo về nguy cơ bùng phát diện tích nuôi và chất lượng con giống để đáp ứng nhu cầu của hộ nuôi đang tăng cao.Lãi 10.000 đồng/kg

Trao đổi với phóng viên Báo NTNN, ông Nguyễn Ngọc Hải  – Chủ nhiệm hợp tác xã cá tra Thới An (quận Ô Môn, TP.Cần Thơ) cho biết: “Hiện giá cá tra đã ở mức 34.000 – 35.000 đồng/kg (đối với loại  trọng lượng từ 0,7 – 1,2kg), cao hơn từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với tháng trước. Với mức giá này, nông dân lãi đến 10.000 đồng/kg nếu ao nuôi được quản lý tốt, không dịch bệnh làm tăng chi phí nuôi”.

Ông Hải nói thêm: “Trải qua nhiều năm thăng trầm, giá cá hiện nay mới là giá thật của nó. Trước đây, giá không thật vì nó không vượt qua giá thành nuôi, người nuôi bị thua lỗ”.

“Do giá cá tra tăng cao nên nhu cầu mở rộng diện tích nuôi của người dân ngày càng cao. Sở đã và đang phối hợp với các địa phương tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung lại quy hoạch cá tra trên địa bàn tỉnh cho phù hợp tình hình thực tế và nhu cầu phát triển của các địa phương”. Ông  Nguyễn Văn Công -Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Đồng Tháp

Theo ông Hải, nguyên nhân giá cá tăng có phần do người dân, doanh nghiệp có ý thức nâng cao chất lượng cá nguyên liệu, nhu cầu nhập khẩu của một số quốc gia khó tính như Mỹ tăng lên.

“Tới đây, giá cá có thể tăng hơn nữa do từ nay đến cuối năm 2018, các quốc gia nhập khẩu nhập hàng để chuẩn bị cho tết, trữ trong mùa đông, lễ hội, Noel. Hơn nữa, nhiều quốc gia chuyển sang mùa lạnh khó nuôi loại cá này nên cũng có nhu cầu mua vào” – ông Hải dự đoán.

Ông Huỳnh Thanh Bình (ấp Vĩnh Thọ, xã Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Thạnh, TP.Cần Thơ) cũng khẳng định, hiện nay giá cá tra nguyên liệu bán ra đang ở mức khá cao nên lợi nhuận của người dân thu được rất phấn khởi. Ông Bình nhấn mạnh: “Với giá này thì người nuôi có thể đến 10.000 đồng/kg cá bán ra”.

Khác với ông Hải, ông Bình lo sợ mức giá khó giữ được lâu trong thời gian tới, bởi “cách đây không lâu, giá cá lên mức 31.000-32.000 đồng rồi lại rơi xuống 24.000-25.000 đồng/kg”.

Không riêng gì ở TP.Cần Thơ, người dân nhiều địa phương có diện tích thả nuôi cá tra lớn như An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang cho biết, chưa bao giờ giá cá tra tăng cao ở mức kỷ lục như vậy. Nhờ giá bán này, nhiều hộ dân đã có cơ hội trả nợ ngân hàng, tiền thuê ao, thức ăn cho các đại lý, đồng thời có vốn để củng cố ao nuôi, liên kết với doanh nghiệp để rộng đầu ra sản phẩm, tránh lệ thuộc vào các thương lái nhỏ lẻ.

Theo ông Lê Chí Bình – Phó Chủ tịch Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản tỉnh An Giang, Ủy viên thường trực Hiệp hội Cá tra Việt Nam, giá cá tra tăng cao do nguồn cá nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu đang bị thiếu hụt. Vùng cá nguyên liệu tự thả nuôi của các doanh nghiệp không còn nhiều nên buộc phải ra bên ngoài tìm mua cá tra của nông dân, đẩy giá tăng cao để thu mua được cá…

Chủ nhiệm hợp tác xã cá tra Thới An cho hay, một trong những lo lắng của hợp tác xã nói riêng và người nuôi cá tra nói chung ở ĐBSCL là chất lượng cá tra giống. “Quá trình sản xuất cá tra giống hiện cực kỳ khó khăn so với những năm trước do thời tiết ngày càng khó khăn và nguồn cá bố mẹ bị thoái hoá” – ông Nguyễn Ngọc Hải chia sẻ.

Ông Hải nói: “Thật ra, bài toán cá tra giống đã tính cách nay 10 năm rồi nhưng vẫn chưa giải xong. Phần lớn người dân vẫn tự làm cá giống nuôi hoặc mua trôi nổi ngoài thị trường. Cây lúa có Viện Lúa ĐBSCL, cây ăn trái có Viện Cây ăn quả miền Nam hỗ trợ về giống, còn con cá tra mặc dù sản lượng xuất khẩu khá lớn nhưng không có đơn vị lớn hỗ trợ chuyên cứu, chuyển giao con giống chất lượng. Còn đề án giống cá tra 3 cấp có rồi nhưng cũng mới hình thành, quy mô chưa cao”.

Ông Hải cho hay, do giống cá tra ít mà nhu cầu nhiều nên giá đã lên mức 70.000 – 80.000 đồng/kg, trong khi vài năm trước đây chỉ ở mức từ 20.000-30.000 đồng/kg.

Theo Chi cục Thuỷ sản tỉnh An Giang, thời gian qua, đa số các cơ sở ương, dưỡng giống cá tra chưa thực hiện việc ghi chép hồ sơ theo dõi quá trình ương, dưỡng làm ảnh hưởng đến công tác quản lý truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, có  một số cơ sở mua cá tra bột trôi nổi (ngoài tỉnh) về ương dưỡng làm xuất hiện tình trạng cá giống có tỷ lệ dị hình cao gây thiệt hại cho hộ nuôi. Đây là vấn đề thách thức đối với nghề ương cá tra giống trong thời gian tới.

Tránh tình trạng người dân mở rộng diện tích nuôi cá tra khi giá tăng cao, Chi cục Thuỷ sản tỉnh An Giang phối hợp với các ngành chức năng có liên quan kiểm tra, hướng dẫn người dân thực thả nuôi theo quy hoạch của UBND tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Sở NNPTNT tỉnh Đồng Tháp cho hay, toàn tỉnh này hiện có 1.228 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá tra giống, năm trước số cơ sở trên đáp ứng được nhu cầu con giống trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2018 tình hình thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến tỷ lệ sống cá tra giống ương nuôi, gây ra tình trạng thiếu giống cục bộ vào thời điểm các cơ sở nuôi thương phẩm thả nuôi đồng loạt.

Mặt khác, các cơ sở sản xuất giống hiện chỉ dựa vào kinh nghiệm sản xuất và hướng dẫn lẫn nhau, không có bằng cấp chuyên môn theo đúng quy định. Các cơ sở này còn sử dụng quá nhiều thuốc, hóa chất, kháng sinh trong khâu sản xuất.

Tìm hiểu của phóng viên, diện tích nuôi cá tra ở Đồng Tháp đã trên 1.800ha, tăng 2,4% so với 9 tháng đầu năm 2017. Sản lượng cá tra đạt 319.000 tấn (tăng 14.000 tấn so với cùng kỳ năm trước). Hầu hết các hộ nuôi  đều có hợp đồng bao tiêu sản phẩm, nuôi gia công hoặc liên kết với các doanh nghiệp để đảm bảo được đầu ra. Do giá cá tăng cao nên dự báo diện tích thả nuôi loại cá da trơn này trong thời gian tới sẽ tăng nhiều.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Heo bị làm giá

Nguồn cung heo cho nhu cầu tiêu dùng không thiếu nhưng giá thịt heo liên tục tăng phi mã từ đầu năm đến nay đang có những dấu hiệu bất thường và chỉ có doanh nghiệp chăn nuôi đang được hưởng lãi lớn.

“Nghi án” doanh nghiệp thao túng giá

Giá thịt heo cao ngất ngưởng trên phạm vi cả nước đã khiến Bộ NN-PTNT phải hiệu triệu doanh nghiệp tổ chức một cuộc họp tại Hà Nội trong chiều 9.10, với sự tham gia của 12 doanh nghiệp chăn nuôi để bàn giải pháp kiềm chế.

Ngay sau cuộc họp, Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, một “ông lớn” của ngành chăn nuôi, tuyên bố giảm 500 đồng/kg heo hơi ở thị trường phía bắc. Doanh nghiệp này cũng cam kết cung ứng đúng con giống cho người chăn nuôi có nhu cầu tái đàn, mở rộng quy mô chăn nuôi. Dù ghi nhận động thái tích cực của doanh nghiệp nhưng mức giảm giá này còn cách xa mục tiêu mà Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường đề xuất tại cuộc cuộc họp “đưa giá heo về dưới 50.000 đồng/kg” nhằm giữ ngành này phát triển bền vững, bảo vệ thị trường trong nước.

Khảo sát ngày 11.10 tại Vĩnh Phúc, Hà Nội giá heo hơi trên thị trường dao động từ 51.000 – 53.000 đồng/kg; giá heo cắt mảnh từ 71.000 – 72.000 đồng/kg. Trong khi đó, tại các chợ dân sinh ở khu vực Phạm Văn Đồng (Q.Bắc Từ Liêm, Hà Nội) và Nghĩa Tân (Q.Cầu Giấy, Hà Nội), giá thịt bán lẻ đến tay người tiêu dùng loại ba chỉ dài, ngắn dao động từ 110.000 – 130.000 đồng/kg; mông sấn từ 80.000 – 90.000 đồng/kg; sườn dao động từ 115.000 – 125.000 đồng/kg. “So với hồi tháng 4 – 5, giá mỗi ký thịt tăng từ 15.000 – 20.000 đồng”, chị Nguyễn Thị Gấm, kinh doanh thực phẩm khu chợ dân sinh P.Xuân Đỉnh (Q.Bắc Từ Liêm), nói.

Còn tại vùng chăn nuôi Đông Nam bộ, giá heo đang ở mức 54.000 – 55.000 đồng/kg. Giá heo mảnh ở chợ đầu mối Hóc Môn (TP.HCM) dao động ở mức 68.000 – 71.000 đồng/kg. Ở các chợ lẻ, giá sườn già 92.000 đồng/kg, thịt nạc đùi 108.000 – 110.000 đồng/kg, thịt cốt lết 95.000 đồng/kg… Theo các tiểu thương, giá thịt heo đã tăng từ 10.000 – 15.000 đồng/kg tùy loại so với thời điểm giữa năm.

Không chỉ người tiêu dùng, doanh nghiệp chế biến, kinh doanh cũng chịu thiệt thòi khi thịt heo tăng giá chóng mặt. Ông Võ Việt Dũng, Chủ tịch Công ty CP thực phẩm an toàn Nam Hà Nội, cho biết từ tháng 4 đến nay, nhiều doanh nghiệp giết mổ phân phối thực phẩm vào bếp ăn thực phẩm chịu lỗ tiền tỉ do giá bán ra theo hợp đồng đã ký trong khi giá nguyên liệu tăng lên từng ngày.

“Trước đây cả nước có 4 triệu hộ chăn nuôi heo thì đây là đối trọng để các “ông lớn” không thể làm giá. Nhưng hiện tại thì phần lớn nguồn cung đều rơi vào tay doanh nghiệp, họ có thể thao túng giá”, ông Dũng nêu vấn đề.

Tạo khan hiếm giả để đẩy giá

Cũng tại cuộc họp với Bộ NN-PTNT, ông Huỳnh Thành Vinh, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Nai, cho biết giá heo hơi tăng từ đầu năm đến nay có nhiều dấu hiệu bất thường cần phải làm rõ. Sau cuộc khủng hoảng thừa năm ngoái, tại Đồng Nai phần lớn các hộ chăn nuôi trang trại, gia trại đều thua lỗ, giảm đàn thậm chí là đóng cửa. Heo tăng giá như hiện giờ, người chăn nuôi không được hưởng lợi, hưởng lợi nhiều nhất hiện nay là doanh nghiệp chăn nuôi, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp FDI.

“Tính toàn bộ chi phí giá thành chăn nuôi heo hiện nay chỉ rơi vào khoảng 35.000 – 36.000 đồng/kg nhưng thực tế giá heo hơi bán ra đều trên 51.000 đồng/kg thì doanh nghiệp lãi rất lớn” Ông Nguyễn Huy Đăng, Phó giám đốc Sở NN-PTNT TP.Hà Nội

Theo Phó giám đốc Sở NN-PTNT TP.Hà Nội Nguyễn Huy Đăng, tính toàn bộ chi phí giá thành chăn nuôi heo hiện nay chỉ rơi vào khoảng 35.000 – 36.000 đồng/kg nhưng thực tế giá heo hơi bán ra đều trên 51.000 đồng/kg thì doanh nghiệp lãi rất lớn.

Chia sẻ thông tin khảo sát thực tế, ông Nguyễn Xuân Dương, quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi, nhận định giá heo tăng khi nguồn cung không thiếu là một nghịch lý. Chăn nuôi nông hộ, gia trại có giảm nhưng quy mô ở các doanh nghiệp vẫn tăng rất nhanh. Đặc biệt, có hiện tượng doanh nghiệp bán heo theo lô, mỗi lô 200 con thì không lò mổ nào mua được, đành phải mua lại từ thương lái, như thế là tạo tâm lý thiếu hàng để đẩy giá lên cao. Cá biệt có thời điểm lên tới 53.000 – 56.000 đồng/kg.

Cũng theo ông Dương, khảo sát ở địa phương, xuống đến tận sạp cũng không có chuyện thiếu heo để giết mổ. Đến quý 4 năm nay, tổng sản lượng heo hơi đạt 1.071 tấn, vẫn tăng 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái. “Giá heo trong nước hiện nay đều do doanh nghiệp tự quyết định, chứ không có thị trường nào quyết định cả. Tôi khẳng định là nguồn cung không thiếu, phải nói sòng phẳng với nhau như thế, chứ để dân nuôi lại ồ ạt thì năm sau lại chết”, ông Dương nói.

Theo thống kê của Cục Chăn nuôi, giá heo ở Việt Nam trong tháng 8 – 9 đã tăng cao hơn cả Trung Quốc và Thái Lan và thuộc nhóm cao nhất thế giới. Cụ thể, giá thịt heo trong tháng 8 – 9 của Việt Nam dao động từ 49.000 – 53.000 đồng/kg. Trong khi đó, tại Trung Quốc, giá thịt heo chỉ có 46.000 – 49.000 đồng/kg; còn tại Thái Lan từ 45.000 – 46.200 đồng/kg. Thịt heo chiếm 60% thị phần trong rổ thực phẩm tiêu dùng tại Việt Nam và với quy mô thị trường gần 100 triệu dân thì đây là căn nguyên để các nước xuất khẩu heo vào nước ta. Trong khi đó, tác động của bệnh tả heo châu Phi và xung động thương mại Mỹ – Trung Quốc đang làm gia tăng nguy cơ thâm nhập thịt heo và các sản phẩm từ thịt heo vào Việt Nam.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gạo Việt Nam xuất khẩu miệt mài nhưng vẫn chưa đặc tên

Trong khi Thái Lan có thương hiệu gạo thơm Hom Mali, Campuchia gia nhập thị trường xuất khẩu sau cũng đã kịp có tên gạo Phka Romdoul… thì Việt Nam dù đã bền bỉ xuất khẩu gạo nhiều năm nay, thuộc top đầu thế giới vẫn chưa được định vị bằng một cái tên thật sự “danh chính ngôn thuận”.

Chỉ chú ý số lượng

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, xuất khẩu gạo liên tục tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu đạt 5,82 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2016; trị giá đạt khoảng 2,63 tỷ USD, tăng 22% so với 2016. Còn trong 9 tháng năm 2018, xuất khẩu gạo đạt 4,73 triệu tấn, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017; trị giá đạt 2,38 tỷ USD, tăng 24,8% so với cùng kỳ 2017. Dự kiến, cả năm 2018, xuất khẩu gạo sẽ đạt con số 3,2 – 3,3 tỷ USD.

Theo lãnh đạo Bộ Công Thương, tới đây sẽ tiếp tục đàm phán mở cửa và phát triển thị trường, các biện pháp nhằm duy trì thị trường xuất khẩu ổn định, tăng cường quan hệ hợp tác thương mại gạo cả kênh Chính phủ và doanh nghiệp; đa dạng và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại.

Đến nay, Việt Nam chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Gạo Việt Nam có mặt tại 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới. Mặc dù vậy, Bộ Công Thương cho rằng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Tại hội nghị “Triển vọng sản xuất và thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam” ngày 10.10, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, những tiến bộ trong sản xuất và cơ cấu giống, mùa vụ, cùng với các biện pháp canh tác thích hợp đã từng bước nâng cao chất lượng gạo Việt Nam. Đáng chú ý, ngày 15.8.2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2018 thay thế Nghị định 109/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo, sẽ tiếp tục tạo dựng môi trường thông thoáng, thúc đẩy đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, thương mại gạo.

“Tuy vậy, phải thừa nhận một thực tế, mặt hàng gạo của Việt Nam cần khắc phục và hoàn thiện việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, marketing, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu; các sản phẩm gạo Việt Nam vẫn chưa được phần lớn người tiêu dùng các nước biết đến. Đây là những vấn đề cần được khắc phục thời gian tới” – ông Hải nói.

Đồng quan điểm, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết hiện nay cơ cấu chủng loại xuất khẩu gạo trắng cấp thấp, trung bình và gạo trắng phẩm cấp cao của Việt Nam vẫn chiếm gần 40%. Trong khi đó, các thị trường cạnh tranh về xuất khẩu gạo với Việt Nam đang ngày càng đầu tư nghiên cứu, nâng cao chất lượng gạo.

Trước bối cảnh trên, ông Hải cho hay, định hướng phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới, ngành lúa gạo sẽ hướng đến sản xuất theo quy trình sạch, hữu cơ, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ lúa gạo. Xây dựng uy tín, thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới là những định hướng mà ngành gạo Việt Nam đang triển khai. “Hiện, gạo trắng cấp thấp chiếm hơn 30%. Thời gian tới, sẽ giảm gạo phẩm cấp thấp, nâng cao thị phần gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica” – ông Hải nhấn mạnh.

Xây dựng thương hiệu, cách nào?

Có thể thấy, điểm yếu nhất của gạo Việt hiện nay là chưa có thương hiệu. Theo ông Martin Albani – chuyên gia Tập đoàn Tài chính quốc tế: Thương hiệu chính là việc xác định hình ảnh. Trong đó, giai đoạn đầu tiên là đưa ra hình ảnh, tiếp đó là phát triển thương hiệu. Việc đưa ra thương hiệu không chỉ tác động đến chủ thương hiệu mà còn tác động đến khách hàng mà còn đối với đối tác.

“Theo khảo sát, người tiêu dùng chấp nhận trả mức giá cao hơn gấp đôi so với sản phẩm thông thường để mua các sản phẩm có nguồn gốc, có chỉ dẫn địa lý” – ông Martin Albani nói.

Lấy thêm ví dụ về Campuchia, theo ông Martin, ngành lúa gạo nước này bắt đầu gần như từ “tay trắng” nhưng nhờ chú trọng nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu, Campuchia đã khiến người tiêu dùng thế giới biết tới gạo của họ.

Bà Nguyễn Thúy Kiều Tiên – Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho rằng, các loại giống lúa Japonica, giống lúa theo thực phẩm chức năng, nhóm lúa hạt dài ở Việt Nam vẫn chưa tạo được sự vượt trội về hình dáng, hương vị so với các nước khác. “Muốn xuất khẩu gạo đem lại nhiều giá trị cần phải đặc biệt chú trọng tới giống lúa” – bà Tiên nhấn mạnh.

Trước thực tế trên, lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết, thời gian tới sẽ đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất lúa gạo, định hướng sản xuất gắn với tín hiệu thị trường; từng bước nâng cao và ổn định chất lượng gạo xuất khẩu; đảm bảo đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của các thị trường nhập khẩu về chất lượng, an toàn thực phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong sản xuất, chế biến lúa gạo; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu, bảo quản lúa gạo giảm tổn thất sau thu hoạch.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Thiệt hại lớn do khai thác mủ cao su không đúng kỹ thuật

Tình trạng người dân khai thác mủ không đảm bảo kỹ thuật xảy ra phổ biến ở Kon Tum, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất mủ và chất lượng vườn cây.

Xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum có 11 thôn làng. Toàn xã có 1.000ha cây công nghiệp thuộc sở hữu cá nhân, trong đó riêng cây cao su có tới 800ha. Mặc dù trồng cao su, hầu như ngày nào cũng đi khai thác mủ cao su, song không phải người dân nào trong xã cũng nắm chắc kỹ thuật khai thác mủ.

Ông A Khế, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đăk Hring cho biết, qua theo dõi, tình trạng cạo mủ cao su không đúng kỹ thuật chủ yếu xảy ra ở các hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số: “Qua nắm bắt của Hội Nông dân, nhiều hộ chưa hiểu rõ kỹ thuật khai thác mủ, nhiều hộ chưa học về kỹ thuật, chưa đi cạo nhiều”.

 Anh A Chau bên một cây cao sụ bị trọng thương do cạo mủ không đúng kỹ thuật.

Dọc hai bên tuyến đường nối từ xã Diên Bình, huyện Đăk Tô đến xã Đăk Pxi  huyện Đăk Hà dài gần 20km là bạt ngàn cao su. Phần lớn diện tích đang trong giai đoạn kinh doanh khai thác mủ.

Tiếp cận ngẫu nhiên lô cao su của một hộ dân bên đường cảnh tượng không khỏi xót xa. Trên thân những cây cao su gần 10 năm tuổi đang phát triển mỡ màng, là những vết sẹo lồi lõm do dao cạo mủ gây ra. Không ít cây lõi gỗ ở miệng cạo hở cả ra ngoài gặp trời mưa thâm xỉn lại rồi bị côn trùng tấn công. Nói về hậu quả của việc khai thác mủ cao su không đảm bảo kỹ thuật, ông Lục Văn Tua, thôn 11, xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, cho biết: “Nếu cạo không đúng kỹ thuật ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới cây trồng, sẽ khiến cây không liền da được”.

Quan sát thực tế tại nhiều vườn cây cho thấy, lỗi phổ biến mà người dân hay mắc phải trong quá trình cạo mủ cao su là cạo phạm, cạo dài dăm và độ dốc của miệng cạo không đúng kỹ thuật. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc trao đổi chất cũng như ảnh hưởng đến lớp vỏ kinh tế của cây cao su. Cùng với lỗi về kỹ thuật, người dân còn hay phạm lỗi về ý thức mà điển hình là việc sau khi cạo phạm không sử dụng mỡ bôi để bảo dưỡng cây. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc miệng cạo bị khô mật độ cây cạo trong lô giảm.

Rất nhiều cây cao su bị phá hỏng miệng cạo như thế này.

Ông Dương Văn Khẩu, Phó trưởng Phòng Kỹ thuật, Công ty TNHH Một thành viên Cao su Kon Tum cho rằng, nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do trong quá trình đào tạo nghề, nông dân ít được thực hành; nhiều nơi việc thực hành được thực hiện trên cây rừng chứ không phải cây cao su. Phần nữa là do ý thức, kỷ luật lao động của người dân chưa tốt.  “Việc đào tạo tại chỗ có thể giúp người dân hiểu ngay nhưng sau đó trong quá trình sản xuất lại dần quên đi. Đối với những người khéo léo, sau khi đào tạo xong có thể cạo đẹp ngay và từ đó thành một thói quen nhất định. Nhưng cũng có những người khéo léo nhưng lại kém về ý thức. Cầm dao vào là cạo là dóc, là phạm, cứ tiếp tục như vậy mà không được uốn nắn kịp thời”.

Việc người dân khai thác mủ cao su không đảm bảo kỹ thuật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất mủ và chất lượng vườn cây hiện khá phổ biến tại nhiều địa phương của tỉnh Kon Tum. Nếu không được khuyến cáo, điều chỉnh kịp thời thì  thiệt hại về kinh tế không chỉ là chuyện riêng của từng hộ dân, mà còn ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển mà tỉnh Kon Tum đặt ra với loại cây trồng này.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nguyên nhân đằng sau việc Malaysia ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam

Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp chế biến Malaysia (MOA) đã thông báo tạm dừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam với lý do dư lượng thuốc trừ sâu tối đa (MRL) vượt quá ngưỡng cho phép của nước này.

Theo phóng viên TTXVN tại Kuala Lumpur, ngày 11/10, Tham tán Thương vụ Việt Nam tại Malaysia, ông Phạm Quốc Anh cho biết có hai vấn đề cần lưu ý đằng sau việc Malaysia ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam.

Đó là không phải tất cả các đơn vị xuất khẩu ớt của Việt Nam đều vi phạm tiêu chuẩn MRL của Malaysia và quyết định tạm dừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam rất có thể liên quan đến chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trẻ do Chính phủ Malaysia bảo trợ.

Ông Phạm Quốc Anh cho biết mới đây, MOA rất quan tâm đến các hộ nông dân trồng ớt của Malaysia, đặc biệt là các nông dân trẻ tham gia chương trình bảo trợ của chính phủ, đồng thời bày tỏ mong muốn các nông dân Malaysia có thể cạnh tranh được với các nông dân trồng ớt nước ngoài.

Với lý do này, MOA đã quyết định cử đoàn công tác đến Việt Nam và Thái Lan, hai nước xuất khẩu ớt số lượng lớn vào Malaysia, để tìm hiểu thực địa.

Song song với việc trên, MOA cũng đã tiến hành một loạt hoạt động thanh kiểm tra đối với các sản phẩm ớt nhập khẩu được bán trên thị trường Malaysia.

Kết quả cho thấy không có hành động bán phá giá, song rõ ràng giá bán ớt nhập khẩu thấp đã gây áp lực lên các sản phẩm trong nước.

Ví dụ như ớt được trồng tại bang Johor được bán với giá 8 ringgit/kg (khoảng 45.000 VND), ớt dầu đỏ giá 6,5 ringgit/kg, trong khi giá ớt nhập từ Việt Nam chỉ ở mức 3,9 ringgit/kg.

Các cuộc thanh kiểm tra cũng nhằm xác định xem các sản phẩm ớt nhập khẩu có vi phạm các tiêu chuẩn về an toàn của Malaysia hay không. Thông báo tạm ngừng nhập khẩu ớt từ Việt Nam được đưa ra sau các cuộc thanh kiểm tra nói trên.

Trong khi đó, ông Trần Văn Hân, chủ một doanh nghiệp xuất khẩu ớt sang Malaysia cho biết quyết định trên khiến hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam bị đình trệ.

Lệnh cấm không chỉ ảnh hưởng đến người trồng ớt Việt Nam mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng Malaysia vì họ không được phép tiếp cận với các sản phẩm ớt nhập khẩu giá rẻ của Việt Nam trong bối cảnh thị trường Malaysia nhập khẩu đến 80% để đáp ứng nhu cầu về ớt trong nước.

Trước tình hình trên, Thương vụ Việt Nam tại Malaysia đã có công văn gửi Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản Việt Nam, theo đó đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có văn bản chính thức yêu cầu phía Malaysia làm rõ tiêu chuẩn về tiêu chuẩn dư lượng thuốc trừ sâu cho phép để làm cơ sở cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tham khảo.

Bên cạnh đó, hai bên cần thảo luận để đi đến công nhận lẫn nhau về vấn đề kiểm định chất lượng, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn của Malaysia được tiếp tục cấp phép xuất khẩu sản phẩm vào nước này.

Bên cạnh đó, Chính phủ Malaysia cần có biện pháp tháo gỡ cho các doanh nghiệp xuất khẩu ớt của Việt Nam, cũng như đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng Malaysia.

Các doanh nghiệp Việt Nam rất cần những thông tin công khai của phía Malaysia về tiêu chuẩn nhập khẩu ớt, nhất là các tiêu chí về dư lượng thuốc trừ sâu cho phép, để các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình vào thị trường này.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam