Quy trình nuôi ghép Tu Hài, Ốc Hương và Rong Câu

Việc nuôi ghép các đối tượng này trong ao đầm nước mặn vừa đa dạng hóa đối tượng nuôi vừa hạn chế rủi ro dịch bệnh và nâng cao thu nhập cho người dân. Quy trình này đang được nhân rộng tại các vùng ven biển miền Trung.

Chuẩn bị ao nuôi

Khu vực nuôi là ao, đầm nguồn nước có độ mặn từ 25‰ trở lên trong suốt thời gian nuôi (8 tháng). Diện tích tối thiểu từ 3.000 m2 trở lên, trong đó, diện tích nuôi tu hài và rong câu ở giữa phải chiếm 30 – 50% tổng diện tích ao nuôi. Ao có bờ bao chắc chắn và cống cấp, thoát nước đảm bảo gần nguồn nước để thuận tiện thay nước. Chất lượng nước có pH 7,5 – 8, đáy cát bùn (cát nhiều hơn bùn, không nhiễm phèn và ít mùn bã hữu cơ).

Tháo cạn nước ao, đầm dọn sạch các loại rong, rêu, san hô, cây cỏ… tu sửa bờ ao, cống, nếu bùn đáy dày thì có thể nạo vét bớt, san bằng đáy, tạo dốc về phía cống thoát.
Dùng vôi nông nghiệp (CaO) rải xuống đáy ao, liều lượng 500 – 700 kg/ha để vệ sinh, sát trùng đáy ao. Nếu đáy ao không bằng phẳng cần rải vôi tập trung ở những vùng trũng, nhiều bùn. Xung quanh bờ ao phải vây lưới cước quanh bờ, sát mép nước (cỡ mắt lưới a = 0,3 cm) để ngăn không cho ốc bò lên bờ.

Khu vực nuôi tu hài và rong câu ở giữa ao được vây chắn lưới xung quanh với diện tích 1.000 – 2.000 m2 (dài 40 – 50 m và rộng 25 – 40 m). Đào rãnh sâu 15 – 20 cm, rộng 20 cm, cắm cọc đỡ lưới (đường kính cọc 5 – 7 cm, cao 1 m, khoảng cách 2 m/cọc), sau đó, đưa lưới xuống rãnh phủ đất và lèn chặt chân.

Cấp nước sạch cho ao vào kỳ triều cường, nước được lọc qua hệ thống đăng lưới chắn để ngăn rác, cá tạp và các loại địch hại khác vào ao. Duy trì mực nước 0,8 – 1,2 m trong ao và lắp quạt khí để đảo nước và tăng cường ôxy hòa tan trong ao khi ốc lớn, mật độ nuôi cao (2 dàn quạt/3.000 m2).

Thả giống và chăm sóc

Thả giống

Giống ốc hương: được mua về cỡ 15 – 20 mm (4.000 – 6.000 con/kg), vận chuyển bằng bao nilon bơm ôxy, đóng kín vào thùng xốp, giữ nhiệt độ 24 – 250C hoặc đóng khô, giữ nhiệt độ 24 – 250C trong suốt quá trình vận chuyển. Ốc khoẻ mạnh, màu sắc tươi sáng, bò lên nhanh khi cho ăn và vùi toàn bộ xuống cát khi ăn xong. Không có các biểu hiện nhiễm bệnh như trắng vỏ, gãy đỉnh vỏ, sưng vòi…

Giống tu hài: có thể mua từ trại giống sản xuất nhân tạo hoặc giống thu gom từ tự nhiên, giống thường có kích cỡ 1.500 – 3.000 con/kg, giống phải khỏe mạnh không bị sứt sát, màu sắc tươi sáng và vòi không bị sưng. Mật độ thả 7 – 8 con/m2 ghép với trồng rong câu (0,5 kg/m2). Rong và tu hài được trồng và nuôi trong đăng chắn ở giữa ao.

Ốc hương: nuôi làm 2 giai đoạn: Giai đoạn ương (1 tháng đầu), thả 800 – 1.000 con/m2, nuôi trong đăng chắn với diện tích 200 m2. Nuôi lớn: Sau 1 tháng nuôi, ốc đạt cỡ 700 – 900 con/kg, mở lưới đăng và san thưa ốc trong ao (khu vực nuôi ốc) để nuôi lớn, mật độ 30 – 40 con/m2.

Chăm sóc, quản lý

Thức ăn cho ốc hương bao gồm cá tạp, tôm, tép…; cho ăn 1 – 2 lần/ngày, lượng thức ăn chiếm 10% trọng lượng thân và được điều chỉnh hàng ngày theo sức ăn của ốc. Nên sử dụng thức ăn tươi, không cho ốc ăn thức ăn ôi thiu. Có thể căn cứ vào điều kiện môi trường nước ao nuôi cùng với tốc độ sinh trưởng và mật độ ốc thả mà có thể san thưa để đảm bảo ốc sinh trưởng tốt. Cùng đó, có thể kết hợp tháo cạn nước, vệ sinh ao để san thưa sang ao và đăng nuôi khác nếu môi trường đáy ao có nhiều bùn và rong.

Trong quá trình nuôi thường xuyên quan sát hoạt động ăn mồi của ốc, kiểm tra sự dò rỉ nước ao, kịp thời phát hiện địch hại để diệt trừ. Theo dõi lượng thức ăn thừa hàng ngày để điều chỉnh cho phù hợp. Thay nước định kỳ 3 – 5 ngày/lần, mỗi lần 20 – 30% lượng nước ao. Luôn phải giữ cho môi trường ao nuôi trong sạch, tránh ô nhiễm làm ốc bị nhiễm bệnh. Duy trì mực nước trong ao 0,8 – 1,2 m để ổn định nhiệt độ, hạn chế rong đáy phát triển. Ốc hương thường vùi mình trong bùn và sống chủ yếu dưới tầng đáy, do vậy để tránh ô nhiễm đáy cần vớt hết thức ăn thừa. Vận hành quạt khí liên tục từ tháng thứ 2 trở đi nhằm cung cấp ôxy hòa tan và gom tụ chất thải vào giữa ao làm thức ăn cho tu hài. Cùng đó, nguồn dinh dưỡng sinh ra trong quá trình phân hủy mùn bã hữu cơ, bài tiết của ốc sẽ được rong câu hấp thụ, vừa làm trong nước ao vừa hạn chế được tảo và vi khuẩn gây bệnh phát triển. Trong vụ nuôi, cần hạn chế sự biến động lớn của độ mặn (không quá 5‰), để tu hài, rong câu, ốc hương phát triển tốt cần định kỳ thay nước ao đầm (15 – 20‰) vào kỳ con nước có độ mặn cao để cung cấp thêm nguồn thức ăn cho tu hài và làm trong nước, giúp ốc hương và rong câu phát triển tốt.

Ổn định các yếu tố môi trường trong suốt vụ nuôi như nhiệt độ nước: 27 – 300C; độ trong 30 – 35 cm, pH 7,5 – 8,5, độ kiềm 100 – 120 mg/l kiềm, ôxy hòa tan trên 4 mg/l, độ mặn 25 – 30‰; H2S < 0,01 mg/l; NO2 và NO3 < 0,1 mg/l. Cần kiểm tra chất đáy định kỳ (tháng/lần), nếu chất đáy có mùi hôi thối, chuyển sang màu đen thì tiến hành cào đáy, quạt và thay nước. Ngoài ra có thể bổ sung thêm cát sạch dày khoảng 2 cm.

Thu hoạch

Sau 5 – 6 tháng nuôi, khi ốc hương đạt kích cỡ lớn 25 – 30 con/kg con thì thu hoạch bằng cách dùng bẫy, lồng nhử mồi hoặc vợt để thu tỉa những con to, con nhỏ để lại nuôi tiếp. Sau 8 tháng nuôi trở lên có thể thu hoạch tu hài bán nếu đạt kích thước thương phẩm 30 – 40 con/kg.

Rong câu sau 2 tháng nuôi có thể tiến hành thu tỉa (tháng/lần) và luôn đảm bảo mật độ rong 0,5 – 1 kg/m2.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Lưu ý khi nuôi luân canh Cá Rô Phi trong đầm trồng Rong Câu

Ở một số vùng ven biển thường trồng rong câu chỉ vàng trong các ao đầm. Hết mùa trồng rau câu có thể thả cá rô phi để nuôi. Cách làm này tận dụng được thức ăn trong ao, giúp cải tạo ao và tăng giá trị kinh tế.

Mùa vụ

Hàng năm khi độ mặn trong ao giảm thấp vào tháng 6, 7 thì rong câu bắt đầu tàn lụi, chỉ còn sót những đoạn rong già nằm lẫn trong bùn. Độ mặn trong ao, đầm thấp, nguồn thức ăn tự nhiên phong phú. Tuy nhiên, nếu kết thúc vụ trồng rong câu mới thả cá hương thì đến cuối năm (tháng 10, 11) không thể thu được cá có kích cỡ thương phẩm. Do vậy, người nuôi cá cần phải ương và nuôi cá trong ao có độ mặn thấp từ tháng 4, 5 trở đi để khi chuyển ra ao đầm trồng rong câu cá phải đạt trọng lượng tối thiểu từ 30 – 50 g/con.

Ương cá bột lên cá giống cỡ 30 – 50 g/con

Ao ương bố trí nơi gần nguồn cung cấp nước ngọt và đầm nuôi có cống cấp và thoát riêng biệt.

Thời gian ương bắt đầu từ tháng 4, 5.

Mật độ ương 50 – 100 con/m2. Nếu ương ở mật độ này thì phải sử dụng quạt nước hoặc sục khí ở giai đoạn cuối chu kỳ ương.

Để hạn chế ô nhiễm nước trong ao ương, nên cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp, có độ đạm từ 18 – 25%; kích thước phù hợp với miệng cá.

Cải tạo đầm rong câu trước khi thả cá

Tháo cạn ao đầm và làm sạch bờ, đáy ao. Diệt cá tạp, cá dữ bằng vôi hoặc Rotenon theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tuy nhiên, sau khi diệt tạp phải lấy nước vào rửa ao cho hết thuốc.

Bón chế phẩm sinh học để cải tạo môi trường đất và hạn chế các vi sinh vật gây bệnh bằng các sản phẩm chế phẩm đảm bảo chất lượng.

Gây màu nước (tảo) bằng các chế phẩm sinh học. Có thể dùng phân gà 100 – 200 kg/ha nhưng phải ngâm trước trong các thùng, sau đó chiết lấy nước té xuống ao.

Thả giống và chăm sóc

Thả giống mật độ 1 – 3 con/m2. Đảm bảo mức nước trong ao đạt từ 1,2 – 1,5m. Lưu ý: duy trì độ mặn luôn nhỏ hơn 10‰ vì độ mặn cao cá sẽ chậm lớn.

Duy trì độ pH trong ao từ 7,5 – 8,5. Quản lý tốt lượng thức ăn sử dụng để tránh lãng phí và gây ô nhiễm môi trường.

Cuối chu kỳ nuôi (sắp thu hoạch) có thể cho cá ăn thêm thức ăn tươi sống để cá lớn nhanh, chắc thịt.

Phòng bệnh

Cá rô phi nuôi trong ao đầm nước lợ nếu thực hiện tốt phương pháp phòng trị như: cải tạo ao, quản lý môi trường, chăm sóc,… đúng kỹ thuật sẽ hạn chế và phòng ngừa được bệnh cho cá.

Cá cũng có thể mắc các bệnh do vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm. Đối với bệnh do virus thì chưa có thuốc chữa, nên phòng ngừa vẫn là chính. Các bệnh như vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng có thể dùng vôi và một số loại thuốc, hóa chất để trị bệnh.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thừa Thiên – Huế: Hiệu quả từ mô hình nuôi luân canh Tôm Sú – Rong Câu

Mô hình nuôi luân canh tôm sú – rong câu được xác định là hướng đi đúng, mang lại hiệu quả kinh tế trong điều kiện thời tiết ảnh hưởng biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Lãi khá

Mới đây, được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông lâm ngư tỉnh Thừa Thiên – Huế (TTKNLN) triển khai thực hiện mô hình “Nuôi luân canh tôm sú – rong câu trong ao nước lợ” nhằm góp phần đa dạng hóa phương thức nuôi, giải quyết vấn đề ô nhiễm trong quá trình nuôi chuyên tôm. Mô hình còn hướng đến tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, tăng nguồn nguyên liệu cho tiêu dùng và xuất khẩu. Qua một vài vụ nuôi, mô hình đã được khẳng định mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội như kỳ vọng.

Ông Đào Duy Trai ở xã Hải Dương (TX Hương Trà) phấn khởi: Trong khi nuôi chuyên tôm “chết lên chết xuống”, mô hình nuôi luân canh tôm sú-rong câu thật sự là cứu cánh cho người dân. Lãi tuy không bằng nuôi chuyên tôm, nhưng mô hình này ít rủi ro, ít ô nhiễm môi trường và bền vững. Hộ ông Trai được chính quyền địa phương lựa chọn hỗ trợ mô hình với diện tích 0,5 ha. Đối với tôm sú mật độ thả 15 con/m2 (cỡ giống p15); rong câu 0,5 cây/m2 (cỡ giống 10 – 15 cm). Đối với tôm, tỷ lệ sống bình quân đạt 64%, cỡ tôm thu hoạch 20 g/con, tổng sản lượng gần 1 tấn, lãi ròng 78,5 triệu đồng.

Trưởng phòng Kỹ thuật Thủy sản – TTKNLN – Nguyễn Thị Thu Giang cho biết, ngoài hộ ông Trai, TTKNLN còn hỗ trợ xây dựng thêm 3 mô hình thí điểm tại 3 hộ khác ở các xã Vinh Giang (Phú Lộc), Vinh Xuân (Phú Vang) và Quảng Công (Quảng Điền). Mỗi hộ được hỗ trợ nuôi 5.000 m2 với mật độ thả giống, kích cỡ tôm tương tự. Sau 5 – 6 tháng nuôi, sản lượng bình quân tại các hộ này đạt gần 1 tấn, lãi ròng trên dưới 50 triệu đồng.

Để mô hình bền vững

Cũng theo bà Nguyễn Thị Thu Giang, mô hình nuôi luân canh tôm sú – rong câu bước đầu thành công, mở ra nhiều cơ hội cho người dân trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. Một ưu thế đối với mô hình này là kinh phí đầu tư không lớn so với nuôi chuyên tôm, với quy mô nuôi khoảng 5.000 m2 chỉ khoảng trên 50 triệu đồng… Trong khi nuôi tôm sú lợi nhuận khá, hiệu quả kinh tế rong câu mang lại còn thấp, nhưng có tác dụng làm ổn định các yếu tố môi trường, giảm thiểu đáng kể các chất gây hại nguồn nước trong ao nuôi…

Các vùng đầm phá trên địa bàn tỉnh có điều kiện thuận lợi về mặt nước, môi trường để nuôi thủy sản xen ghép, trong đó mô hình luân canh tôm sú – rong câu được xác định rất phù hợp. Để phát huy hiệu quả, khai thác tốt tiềm năng, sắp đến các cấp, ngành liên quan cần tiếp tục quan tâm, hỗ trợ thực hiện mô hình này với quy mô lớn hơn, nhân rộng nhiều địa phương khác nhằm xác định được tính khả thi của việc trồng rong câu thương phẩm trong ao nuôi tôm và cải thiện chất lượng nguồn nước ao nuôi. Từ đó thúc đẩy, khuyến khích người dân từng bước đổi mới phương thức nuôi trồng thủy sản bền vững, hạn chế rủi ro trong nuôi chuyên tôm sú như hiện nay.

Phó Giám đốc TTKNLN – Châu Ngọc Phi chia sẻ, nếu được đầu tư phát triển mô hình trình diễn, các ban ngành sẽ kết hợp chuyển giao, tập huấn kỹ thuật sản xuất cho người dân. Đây cũng là điều kiện để nhân rộng mô hình, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương.

Nguồn: Báo Thừa Thiên – Huế được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi Tôm kết hợp trồng Rong Câu

Có một vấn đề rất nan giải, mà bấy lâu nay đã làm “đau đầu” tất cả các nhà nuôi tôm-đó là chất thải và nước thải từ các ao nuôi gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây về ứng dụng một số loài rong câu (như Gracilaria spp, Gracilariales, Rhodophyta) trong xử lý môi trường nuôi tôm, được các nhà khoa học thủy sản tiến hành tại Viện Hải dương học Nha Trang, cho thấy vấn đề này đã có hướng giải quyết.

Các tác giả tiến hành phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn kín. Trong đó, sử dụng ao rong câu mật độ cao đóng vai trò bể lọc sinh học (để làm sạch nước thải).

Nghiên cứu dựa trên cơ sở ứng dụng các tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) với các yếu tố môi trường. Cụ thể ở đây là: rong câu tạo ra ôxy hòa tan-tôm tiêu thụ nó, rong câu tiêu thụ CO2 và các mối dinh dưỡng-do tôm sản sinh ra nó; rong câu làm giảm a xít trong môi trường nước-tôm làm tăng tính axít… Sự hoạt động cân bằng này cho phép giữ ổn định môi trường nuôi tôm.

Hệ thống ao nuôi kiểu mới này được bố trí, gồm: Ao lắng và tiệt trùng (chiếm 21% tổng diện tích cả hệ thống). Ao nuôi tôm (chiếm 62%). Ao trồng rong câu (hay còn gọi ao xử lý sinh học, chiếm 17%). Nước sử dụng cho quá trình nuôi được lấy vào cả ba ao ngay từ đầu và sử dụng chung cho cả vụ nuôi.

Với quy trình tuần hoàn vận hành như sau: Nước được khử trùng ngay trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi tôm. Rồi nước thải từ ao nuôi tôm được bơm dần (mỗi lần khoảng 15-20%) sang ao trồng rong câu và lưu lại đây ba ngày. Sau đó, bơm trở lại ao lắng và tiến hành xử lý hóa học, xong cho lưu lại đây ba, bốn ngày. Tiếp đến, lại bơm vào ao nuôi tôm-bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Trong quá trình nuôi, có một lượng nước bị mất đi do thẩm thấu và bốc hơi sẽ được bổ sung từ nguồn nước bên ngoài vào. Bằng cách sử dụng nguồn nước như thế, sẽ hạn chế tối đa sự tiếp xúc hoặc trao đổi với nguồn nước bên ngoài, do đó hạn chế được những ảnh hưởng của trại nuôi tôm với môi trường chung quanh và ngược lại.

Mặc dù một số tính chất vật lý của nước như độ mặn, tăng dần theo các tháng trong vụ tôm (thay đổi từ 2,1% đến 3,5%) do nước bốc hơi. Nhưng cả tôm nuôi và rong câu đều cùng phát triển tốt, mà lại thêm nguồn lợi thu được từ rong câu khá lớn.

Trong hai tháng đầu vụ nuôi (từ tháng 2 đến tháng 4) mật độ rong câu trung bình 500g/m2, tốc độ tăng trưởng đạt 2,8%. Đến tháng thứ 3, rong đã có mật độ đạt 2kg/m2 và đã bắt đầu thu tỉa được với khối lượng 170-200g/m2. Từ tháng thứ 5 độ tăng trọng chỉ đạt 1,3%, nhưng đến khi thu hoạch tôm thì rong đã có sinh lượng tích lũy 4kg/m2. Sản lượng rong câu tươi trên một ha ao thí nghiệm đạt tới 6 tấn/tháng.

Hơn nữa, phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn khép kín kiểu này, đặc biệt có lợi cho môi trường. Kết quả thí nghiệm qua một vụ tôm đã cho thấy rõ, rong câu có tác dụng làm thay đổi đáng kể các chỉ số yếu tố môi trường nước đối với nguồn nước đi ra từ ao rong. Chỉ với một ao rong có diện tích bằng 17% tổng diện tích cả hệ thống ao nuôi kết hợp kể trên, thì với vai trò là bể lọc sinh học, nó đã cải thiện tốt chất lượng nước của ao nuôi tôm: Làm tăng 5% pH, tăng 49% ôxy, đồng thời làm giảm 60,3% nitơ vô cơ hòa tan, 38,1% phospho, 66% chlorophyll, 56% chất lơ lửng từ nguồn của ao nuôi tôm.

Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, nuôi kết hợp tôm-rong câu không chỉ làm cho những thông số về chất lượng nước trong ao nuôi tôm tốt hơn, không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường chung quanh trại nuôi, mà còn làm giảm chi phí sản xuất. Giảm thiểu sử dụng chất và thuốc phòng trị bệnh cho tôm. Vì thế, sẽ có sản phẩm tôm thương phẩm sạch hơn, bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Nghiên cứu này cần được khảo sát tiếp trong mùa mưa để kiểm tra về hiệu quả cải thiện chất lượng nước thải, xác định thời gian lưu giữ nước và độ sâu mực nước trong ao rong câu.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Rong Câu Chỉ Vàng

Rong câu chỉ vàng Gracilaria asiatica Chang et Xia (tên khoa học cũ là Gracilaria verrucosa (Huds.) Papenf.)

1. Yêu cầu về địa điểm và điều kiện môi trường

Ðịa điểm

– Ðầm hoặc ao nước lợ đang trồng quảng canh rong câu hoặc chưa trồng nhưng có rong câu tự nhiên phân bố.

– Nơi ít sóng gió, giao thông thuận tiện.

Ðiều kiện môi trường

– Vùng nước lợ không bị ô nhiễm và có khả năng thay nước thuận lợi.

– Ðáy là bùn, hoặc bùn cát, cát bùn. Tốt nhất là đáy bùn cát, có tỷ lệ bùn/cát từ 70/30 đến 80/20.

– Mặt đáy đầm/ao tương đối bằng phẳng. Mỗi chu kỳ thuỷ triều đảm bảo đầm/ao được ngập nước 0,6 – 1,0 m trong 5 – 7 ngày.

– Ðộ pH của nước 7,0 – 8,5; độ pH của đáy không nhỏ hơn 6,0.

– Ðộ muối của nước 5 – 30 %0 (tốt nhất 10 – 20 %0).

– Ðộ trong của nước từ 0,4 m trở lên.

Yêu cầu về xây dựng đầm/ ao

Diện tích và mặt đáy

– Ðầm/ao có diện tích 1 – 5 ha; đầm có diện tích lớn phải chia thành nhiều ao nhỏ.

– Ðáy đầm/ao tương đối bằng phẳng, dốc về phía cống 2 – 30 .

Bờ đê

Ðê bao quanh và bờ ngăn phải đủ vững để giữ được nước và bảo đảm an toàn cho sản xuất. Kích thước đê, bờ phụ thuộc vào loại đất đắp, biên độ thuỷ triều và mức sóng gió ở từng nơi. Kích thước thông thường như sau:

– Ðê bao quanh: chân 4,0 – 5,0m; mặt 1,0m; cao 1,5 – 2,0m.

– Bờ ngăn trong đầm: chân 3,0 – 4,0m; mặt 1,0m; cao 1,0 – 1,5m.

Cống

Mỗi ao cần 1 cống xây bằng gạch hoặc đá hoặc làm bằng tre, gỗ. Khẩu độ cống tuỳ theo diện tích ao:

– Với ao có diện tích từ 1 đến 2 ha, khẩu độ là 0,6 – 0,8 m.

– Với ao có diện tích từ 3 đến 5 ha, khẩu độ là 1,0 – 1,2 m.

Kỹ thuật trồng

Thời vụ trồng

– Ven biển miền Bắc: Từ cuối tháng 10, tháng 11 năm trước đến tháng 6, tháng 7 năm sau. Riêng vùng đảo và vùng sát biển có độ muối tương đối cao, thời vụ trồng từ tháng 4 đến tháng 9, tháng 10.

– Ven biển miền Trung: Từ cuối tháng 12 năm trước hoặc tháng 1, tháng 2 đến cuối tháng 8, tháng 9, tháng 10 hàng năm. Thời vụ trồng rong câu chậm dần vào phía Nam.

Chuẩn bị đầm/ ao

  • Dọn đáy

Trước mỗi vụ trồng rong câu, phải tiến hành dọn đáy đầm/ao với các biện pháp như sau:

– Dọn sạch rong tạp và cỏ dại trên mặt đáy, cắt cỏ ven bờ.

– Bừa đáy tạo ra một lớp bùn trên mặt đáy.

  •  Khử chua

– Thay nước liên tục 4 – 5 ngày để rửa đáy.

– Sau đó rút cạn nước, rải vôi bột với lượng 0,1 – 0,3 kg/m2.

  • Bón lót

– Phân chuồng (phân gia súc, gia cầm ủ) với lượng 0,6 – 1,0 kg/ m2.

– Lân (lân vô cơ) với lượng 0,03 – 0,06 kg/ m2.

Rải đều phân chuồng và phân lân trên bề mặt đáy. Sau khi bón lót phân, trong khoảng thời gian 7 – 10 ngày tiếp theo không được thay nước cho đầm/ao.

  •  Lấy nước

Chuẩn bị đầm/ao xong, đợi khi có con nưốc triều tiến hành lấy nước mới vào và giữ mức nước 0,3 m, sau 5 – 7 ngày giữ mức nước tới 0,5m để chuẩn bị thả rong giống.

Chọn giống và rải giống

  • Chọn giống

Chất lượng rong giống phải theo đúng qui định tại Ðiều 2.1 của 28TCN108:1998 (Rong biển – Giống rong câu chỉ vàng – Yêu cầu kỹ thuật).

  • Xử lý giống

Khi độ muối nơi lấy giống và nơi rải giống chênh lệch lớn hơn 8 %0, phải xử lý giống theo qui định tại Ðiều 2.3.4 của 28TCN109:1998 (Quy trình sản xuất giống rong câu chỉ vàng).

  • Rải giống: Mật độ giống rải là 500 g/ m2.
  • Cách rải giống

– Tách nhỏ các tản rong rồi rải đều trên mặt đáy đầm/ao.

– Thời gian rải rong giống vào lúc trời râm mát, gió nhẹ.

– Sau khi rải giống, trong thời gian 15 – 20 ngày đầu không thay nước cho đầm/ao.

 Chăm sóc và quản lý

Thay nước

– Mỗi chu kỳ thuỷ triều, phải thay nước cho đầm/ao liên tục trong 5 – 7 ngày, mỗi ngày thay 1/3 – 1/2 lượng nước cũ.

– Khi gặp mưa lớn kéo dài, phải thay nước mới ngay cho đầm/ao. Nếu khi đó nước thuỷ triều thấp, phải dùng máy bơm để thay nước mới cho kịp thời.

– Sau khi thay nước, giữ mức nước cho đầm/ao trong khoảng 0,4 – 0,5 m.

 Bón phân

– Phân chuồng: Bón 2 lần/năm, trong đó lần 1 bón vào tháng thứ 3, lần 2 bón vào tháng thứ 5 sau khi rải giống. Mỗi lần bón với lượng 0,3 – 0,5 kg/ m2.

– Phân lân: Phân lân được bón vào tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 4 sau khi rải giống. Mỗi lần bón với lượng 0,02 – 0,03 kg/ m2.

 Hạn chế rong tạp

Hạn chế sự phát triển của rong tạp bằng các biện pháp sau:

– Luôn duy trì rong câu chỉ vàng ở mật độ cao. Thấp nhất, rong cũng phải đạt được mật độ là 400 g/ m2.

– Không để mức nước đầm/ao cạn dưới 0,30 m.

– Khi phát hiện có rong tạp, phải vớt ngay và không để rong tạp trôi nổi khắp đầm/ao. Ðồng thời, phải thay nước nhiều hơn và giữ mức nước ở độ sâu 0, 50 – 0, 60 m.

Ðiều chỉnh mật độ rong

Sau mỗi lần thu hoạch hoặc sau những ngày có sóng gió lớn làm rong câu bị dồn tụ lại, phải vớt rong ở chỗ mật độ quá cao rải đều ra khắp đáy đầm/ao.

Thu hoạch rong

Chỉ tiêu rong thu hoạch

Sau khi rải giống 40 – 50 ngày, có thể tiến hành thu hoạch rong câu lần đầu. Sau đó cứ từ 30 đến 35 ngày, tiến hành thu hoạch 1 lần. Trong một vụ trồng rong câu, có thể thu hoạch được từ 5 đến 7 lần. Chỉ tiến hành thu hoạch rong câu khi đủ các điều kiện sau:

– Các tản rong đã sinh trưởng chậm dần, chiều dài tản rong đạt 20 – 30 cm.

– Rong phát triển đạt mật độ bình quân trên 1 kg/ m2.

Cách thu hoạch

– Dùng thuyền, cào thưa, te, lưới hoặc dùng tay để thu hoạch rong. Thu lần lượt diện tích từng khu vực để tránh bỏ sót diện tích cần thu.

– Không được thu toàn bộ số rong trên diện tích cần thu, mà phải để lại rong với mật độ là 400 – 600 g/ m2.

2. Sơ chế và bảo quản rong khô

Sơ chế rong câu

Với rong khô chưa rửa muối: Rong câu tươi khi thu lên, phải loại bỏ rong tạp và cỏ rác, rồi rửa sạch bùn đất bằng nước ngay tại đầm /ao đã trồng. Sau đó, rải đều rong lên sân phơi (sân gạch, sân bê tông hoặc sân đất). Trong quá trình phơi, phải lật trở nhiều lần cho rong khô đều.

Với rong khô đã rửa muối: Rong khô chưa rửa muối sau khi sơ chế như qui định , phải rửa lại 1 lần nữa bằng nước ngọt (nước giếng hoặc nước máy) rồi phơi khô trên sân (sân gạch hoặc sân bê tông). Cách phơi rong như qui định .

Bảo quản rong khô

– Rong câu khô phải được bảo quản trong điều kiện khô ráo, thoáng mát.

– Kho bảo quản rong câu phải chắc chắn, không bị dột.

– Khi bảo quản phải xếp rong câu từng lớp trên sàn kho. Sàn kho phải để cách tường từ 0,3 đến 0,4 m và cách nền kho từ 0,20 m trở lên.

– Trong quá trình bảo quản, phải thường xuyên kiểm tra chất lượng rong. Nếu thấy rong ẩm hoặc mốc phải đưa ra sân phơi lại.

Nguồn: Tổng  hợp bởi Farmtech VietNam.

Khắc phục bệnh thối gốc xì mủ trên cây Sầu Riêng

Sầu riêng là cây cho giá trị kinh tế cao, tuy nhiên, nhà vườn trồng sầu riêng luôn đối mặt với bệnh thối gốc xì mủ – loại bệnh hại nguy hiểm nhất có thể làm cây chết hàng loạt. Là nông dân có kinh nghiệm trồng sầu riêng gần 20 năm, với bao phen thăng trầm vì bệnh và thất mùa, anh Lê Văn Hiền (ấp Sơn Lân, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách, Bến Tre) nắm được “bài thuốc” phòng trị bệnh thối gốc xì mủ, phục hồi lại vườn sầu riêng, được nông dân trong và ngoài tỉnh biết đến như “bác sĩ cây trồng”, “kỹ sư chân đất”.

Bệnh xì mủ ở thân là bệnh thường xuyên gặp ở sầu riêng

Anh Hiền cho biết, cây cũng giống như người, khi đề kháng kém thì bệnh dễ tấn công. Những cây sầu riêng bệnh thường do bón phân không cân đối, bón nhiều phân hóa học… Bệnh thối gốc xì mủ chủ yếu là do nấm Phytophthora gây ra, loại nấm này phát triển tháng mưa, khi vừa chuyển sang mùa khô, trời lạnh thì bệnh xuất hiện trên thân. Cây sầu riêng rất nhạy cảm với thời tiết, gặp yếu tố bất lợi thì bệnh phát triển rất nhanh. Vì vậy, để phòng bệnh xì mủ, theo anh Hiền, thì nông dân phải áp dụng quy trình canh tác bền vững, mô đất trồng cao ráo, bón nhiều phân hữu cơ… Khi cây bị bệnh xì mủ, tùy mức độ nặng nhẹ mà áp dụng cách điều trị.

Anh Hiền chia sẻ “bí quyết”, cây bệnh như cơ thể yếu nên vừa cho uống thuốc vừa cung cấp dinh dưỡng thì cây nhanh hết hơn nếu chỉ sử dụng thuốc trị bệnh. Vì vậy, kinh nghiệm của anh là điều trị song song. Bài thuốc anh chọn đó là sử dụng phân hữu cơ Vina Super Humate (Công ty TNHH Hoàng Đại) kết hợp với loại thuốc trị bệnh phổ thông trên thị trường. Pha chung hai loại với nhau rồi phun 2 lần, mỗi lần cách nhau 5 ngày.

Khi cây đứng bệnh thì tiếp tục phun Vina Super Humate kết hợp tưới gốc 7 ngày/lần cây sẽ phục hồi nhanh chóng. Với những vườn sầu riêng suy yếu, để phòng ngừa bệnh, trước khi xử lý ra hoa 20 – 30 ngày thì pha Vina Super Humate với thuốc trừ bệnh xử lý một lần.

Ngoài khả năng phục hồi, phân hữu cơ Vina Super Humate còn được anh Hiền áp dụng tăng sức cho cây và “giải độc” chất Paclobutrazol (dùng xử lý ra hoa trên sầu riêng). Anh Hiền cho biết, Paclo gây ức chế để cây sầu riêng ra hoa nhưng để lại hậu quả nặng nề, nếu không “giải độc” kịp thời, vườn cây có nguy cơ suy kiệt nhanh và chết dần chỉ sau vài mùa xử lý. Cách tốt nhất là phải “giải” chất độc tồn dư, trong đó phân hữu cơ Vina Super Humate được xem là giải pháp rất hữu hiệu. Sau khi xử lý cây hoa xong thì sử dụng phân này tưới gốc kết hợp phun lá.

Sau khi xử lý cây hoa xong thì sử dụng phân bón tưới gốc kết hợp phun lá để đạt kết quả tốt nhất cho sầu riêng

 

Anh Hiền có khả năng nhìn cây chẩn đoán bệnh, cũng như khuyến cáo nông dân sử dụng phân, thuốc gì để điều trị cho cây hiệu quả. Nhờ vậy mà nông dân trong vùng hay gọi anh là “bác sĩ sầu riêng”, “kỹ sư chân đất”. Người khề khà đậm chất nông dân Nam bộ, anh Hiền chia sẻ: “Có người kêu tui là thầy trị bệnh sầu riêng cho vui vì tui “mê” cây sầu riêng, gắn bó gần 20 năm nên ít nhiều hiểu được “tính nết” của nó. Từ thất bại mà nên, ngày đầu trồng sầu riêng khổ lắm, trồng chết hoài. Mỗi sáng sớm lấy xe đạp không thắng chạy hàng chục cây số học cách trồng sầu riêng. Đến khi mòn mấy đôi dép (dùng dép để thắng xe) thì mới biết chút ít về nó”. Rồi anh không ngại khó tham gia lớp tập huấn kỹ thuật nhiều nơi, học về bệnh cây, sinh lý cây…

Thấm nhuần từng bài học, chẩn đoán bệnh cây như kỹ sư nhưng ít ai biết rằng, anh Lê Văn Hiền… một chữ bẻ đôi cũng không biết. Để học và hiểu được rành, anh nhờ vợ và con trợ giúp đọc cho anh nghe thành phần của phân, thuốc, tài liệu về cây sầu riêng. Trí nhớ tốt và khả năng nhận biết nhanh nhạy nên anh hiểu và thực hành rất nhanh.

Anh thử nghiệm nhiều loại phân, thuốc và cuối cùng chọn Vina Super Humate như giải pháp đồng hành cùng cây sầu riêng. Hiểu được nỗi khổ người trồng sầu riêng nên anh Hiền sẵn sàng đem kinh nghiệm của mình chia sẻ cho nông dân bất cứ đâu. Nhiều người trồng sầu riêng ở tỉnh khác như Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long… ngỏ ý nhờ, anh đều nhận lời đến tận vườn giúp. Niềm vui lớn của anh chính là nhìn thấy nhiều vườn sầu riêng xì mủ được phục hồi, vườn cây suy kiệt mất mùa được xanh tốt trở lại và cho năng suất gấp đôi.

Theo 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Trồng Dứa trên đất phèn thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Nhiều gia đình ở Sóc Trăng mạnh dạn đầu tư trồng dứa trên đất nhiễm phèn đã cho lợi nhuận gần 100 triệu đồng/năm.

Từ việc mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng tại địa phương, nhiều nông dân ở xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng đã đầu tư trồng cây khóm (dứa) trên vùng đất trũng phèn, cho thu nhập khá và ổn định.

Một trong những hộ tiên phong trồng khóm ở xã Lâm Tân là gia đình chị Trương Thị Gọn ở ấp Tân Lập. Năm 2009, gia đình chị mạnh dạn đầu tư trồng 5.000m2 khóm từ diện tích đất nhiễm phèn. Nhờ thích nghi nên cho lợi nhuận gần 100 triệu đồng/năm. Chị Gọn đã quyết định mở rộng lên diện tích 3 ha.

“Khâu chăm sóc khóm đơn giản nhưng lợi nhuận so với lúa cao hơn rất nhiều. Đầu tư ban đầu cho trồng khóm không lớn nhưng lợi nhuận thu đều qua các năm. Với mức đầu tư 15 triệu đồng, mỗi năm có thể thu lợi hàng trăm triệu đồng, tùy theo loại khóm”, chị Gọn cho biết.

Xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị từ lâu thuộc vùng trũng phèn, nhiều khu vực trồng lúa và cây trồng khác thu chi thu nhập thấp. Do vậy, từ hiệu quả kinh tế của gia đình bà Trương Thị Gọn, một số hộ dân đã dần chuyển sang đầu tư trồng khóm.
Anh Trần Thanh Sang, cũng ngụ ở ấp Tân Lập, trồng cây khóm hơn 2 năm nay chia sẻ, hiện trên diện tích 3 công khóm, gia đình anh thu về khoảng 40 triệu đồng/năm.

“Mỗi công khóm (1.000m2) cho thu nhập cao hơn trồng lúa cỡ 4-5 công mỗi vụ. Một trái khóm có trọng lượng từ 1,2kg trở lên đã có thể bán ngay được với mức giá giá 12.500 đồng”, anh Sang chia sẻ.

Lãnh đạo xã Lâm Tân đánh giá, trồng khóm là mô hình hiệu quả, cho thu nhập cao và ổn định. Đến nay, xã Lâm Tân đã có khoảng 10 ha được thí điểm trồng khóm. Tới đây xã sẽ phát triển cây trồng này trên vùng đất kém hiệu quả, vùng trũng phèn thay thế cho các loại cây trồng cho lợi nhuận thấp.

Ông Lưu Sơn Nhì, Chủ tịch UBND xã Lâm Tân cho biết, xã sẽ nhân rộng khóm trên đất vườn tạp, vùng đất kém hiệu quả và nhân rộng dần lên đất lúa. Do cây khóm từ khi bắt đầu trồng cho đến thời gian thu hoạch sẽ mất thời gian từ 18-24 tháng, nên việc chuyển đổi cần có thời gian, nếu chuyển đổi nhanh sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của người dân.
Từ hiệu quả kinh tế do cây khóm mang lại, có thể nói việc phát hiện mô hình trồng khóm trên đất trũng phèn đã mở ra một hướng sản xuất mới bền vững cho bà con xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị.

Phòng nông nghiệp huyện Thạnh Trị cho biết, huyện sẽ hỗ trợ, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người dân, vừa nhân rộng mô hình ở những vùng phèn, mặn không chỉ riêng xã Lâm Tân mà kể các xã vùng trũng khác trên địa bàn huyện, từ đó góp phần nâng cao đời sống của bà con địa phương.

Nguồn: VOV-ĐBSCL được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Hiệu quả từ mô hình trồng Dứa xen canh cây lâm nghiệp

1,5ha diện tích trồng Dứa của gia đình anh Nguyễn Ngọc Lăng tại tổ 35, khu 6, phường Trưng Vương đang vào vụ thu hoạch. Ước tính vụ dứa này, gia đình anh thu lãi hơn 180 triệu đồng. Có được thành quả trên chính là nhờ vào việc gia đình anh Lăng đã mạnh dạn thí điểm mô hình trồng dứa xen canh cây lâm nghiệp.

Giống dứa nhóm Queen (dứa hoàng hậu).

Toàn bộ diện tích đất rừng được giao của gia đình anh Lăng cũng như các hộ dân lân cận trước đây chỉ trồng keo. Và mặc nhiên, phần diện tích tán dưới chỉ để cho cỏ dại mọc xâm lấn. Việc bỏ sót diện tích đất này vừa không có thu nhập lại khó khăn trong khâu quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng.

Lãnh đạo Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp thành phố thăm mô hình trồng dứa xen canh của anh Nguyễn Ngọc Lăng.

Nhận thấy những bất cập trên trong việc trồng và quản lý rừng, Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp thành phố Uông Bí đã vận động bà con nhân dân trên địa bàn chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả năng suất cao. Và dự án xây dựng phát triển vùng trồng cây thông nhựa được triển khai. Đối với cây thông nhựa, phải sau 15 năm mới cho thu hoạch. Vì vậy, việc lựa chọn loại cây xen canh dưới tán thông cho hiệu quả kinh tế cao được Trung tâm ưu tiên hướng dẫn các hộ gia đình. Xác định cây dứa chính là một trong những giống cây trồng đáp ứng yêu cầu như trên, lại có thời gian sinh trưởng ngắn, Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp thành phố Uông Bí đã vận động, hỗ trợ triển khai thí điểm mô hình dứa xen canh trên 1,5ha đất rừng thông của gia đình anh Lăng.

Giống dứa hiện gia đình anh Lăng đang trồng là giống dứa nhóm Queen (dứa hoàng hậu), có năng suất vượt trội, quả cho giá trị dinh dưỡng cao. Theo anh Lăng cho biết: “cây dứa là loại cây rất dễ trồng, ưa cạn, không kén đất, cũng không đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc cầu kỳ, phức tạp; chỉ cần trồng khoảng cách hợp lý, phát tán cho thoáng là cây sinh trưởng phát triển tốt”. Sau 12 – 18 tháng cây đã cho thu hoạch. Với giá bán tại vườn từ 8 – 10 nghìn đồng/quả loại 1 (đạt khoảng 0,8kg trở lên), vụ dứa này gia đình anh Lăng cho thu hoạch khoảng 18 tấn/ha.

Sau khi thu hoạch quả, những nhánh đã cho thu hoạch sẽ được cắt bỏ. Tiếp đó, người trồng bón phân để thúc cây nuôi nhánh mới. Những năm tiếp theo, 1 cây dứa sẽ đẻ từ 3-5 nhánh mới. Mỗi nhánh sẽ cho 1 quả. Như vậy, từ 1 cây cho thu hoạch 1 quả, thì các vụ tiếp theo 1 cây sẽ cho thu hoạch từ 3 – 5 quả.

Cây dứa được trồng từ 3 – 5 năm sẽ được thay thế cây mới. Như vậy, với hình thức lấy ngắn nuôi dài này, trong 15 năm để cây thông sinh trưởng phát triển và cho thu hoạch, bà con nhân dân sẽ trồng được 3 – 5 vụ dứa tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc.

Từ hiệu quả thí điểm trồng dứa xen canh cây lâm nghiệp của gia đình anh Lăng, có thể nói, đây chính là tiền đề để mô hình này được duy trì và nhân rộng trên địa bàn thành phố trong thời gian tới. Góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.

Nguồn: Uongbi.gov.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Lão nông U80 tuổi và bí quyết trồng Sầu Riêng thu 4 – 5 triệu/cây

Dù đã bước sang cái tuổi gần đất xa trời, nhưng ông Trương Văn Một, ở khu dân cư Ruộng Vỡ, thôn Khánh Giang, xã Hành Tín Đông (Nghĩa Hành) vẫn bám vùng đất núi để trồng sầu riêng giống Thái Lan hạt lép, cơm vàng.

Vườn sầu riêng hạt lép sai quả của ông Một

Nguồn: baoquangngai.vn

Một tháng nay, vườn sầu riêng của ông Một vào đợt thu hoạch rộ.  Rảo bước dưới vườn sầu riêng trĩu quả của ông Một, tôi cứ nghĩ đang lạc vào vườn cây trái ở Nam Bộ. Đây là vườn sầu riêng duy nhất ở nơi xa xôi hẻo lánh này.

Ông Một kể, để có được vườn sầu riêng này, ông phải kiên trì bỏ ra nhiều công sức. Sau ngày đất nước thống nhất, trong một lần vào miền Nam thăm người thân thấy bà con ở đây trồng sầu riêng bạt ngàn, ăn vào có mùi vị thơm ngon, ông mang về 2 cây trồng thử và nhận thấy thổ nhưỡng và khí hậu khá phù hợp.

Nuôi ý định mở rộng vườn cây ăn quả, nhưng vì điều kiện kinh tế khi ấy còn khó khăn nên ông khăn gói vào Nam lập nghiệp trong một thời gian dài. Khi con cái đã yên bề gia thất ông về lại chốn quê.

Khát vọng làm giàu chưa bao giờ tắt dù đã bước sang tuổi xế chiều, nhìn thấy 2 cây sầu riêng trồng đã mấy chục năm, năm nào cũng trĩu quả, chất lượng thì không chê vào đâu được, ông Một đã đưa ra quyết định táo bạo là nhân rộng vườn sầu riêng.

Năm 2010, ông Một mạnh dạn vay 10 triệu đồng rồi lặn lội vào tận Bình Phước mua 140 cây sầu riêng giống Thái Lan hạt lép, cơm vàng về trồng trên 2 sào đất nằm sát mép sông Phước Giang. Trải qua vài trận lụt, số lượng sầu riêng gãy đổ, chết dần, giờ chỉ còn 100 cây.

Cùng với sầu riêng, ông còn trồng thử nghiệm vài cây chôm chôm, măng cụt. Với kinh nghiệm đúc kết được trong thời gian lập nghiệp ở miền Nam, ông Một đã không gặp khó khăn khi chăm sóc vườn cây ăn quả của mình.

“Không sử dụng phân hóa học, tận dụng tối đa nguồn phân trâu, bò, không tốn nhiều chi phí đầu tư mà còn giúp cây sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh, tỷ lệ đậu trái rất cao”- ông Một tiết lộ.

Đất không phụ công người, năm thứ 4 vườn sầu riêng bắt đầu cho lứa quả bói đầu tiên, trái to, cơm vàng và ngọt lịm không kém gì sầu riêng ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Năm thứ 6, vườn sầu riêng cho trái đều và tăng dần khi cây có thêm nhánh, tán rộng, chất lượng quả thơm ngon.

Quả to, chất lượng không thua kém gì sầu riêng Tây Nguyên và Nam Bộ

Từ đó đến nay, vườn sầu riêng trở thành cây trồng chủ lực mang lại nguồn thu chính cho gia đình. Tỷ lệ đậu quả rất cao, nhưng ông chỉ để lại mỗi cây khoảng 20 trái, mỗi trái có trọng lượng từ 2 đến – 4kg.

Ông Một nhẩm tính, 1 cây sầu riêng cho thu nhập 1 năm 4 – 5 triệu đồng, cao gấp 5 lần lúa. Với giá bán tại vườn 50.000 đồng/kg ngày thường, ngày tết giá tăng lên gấp đôi, mỗi năm kiếm được cả trăm triệu đồng.

Chủ nhân của vườn sầu riêng đúc kết: Chất lượng của sầu riêng của ông với sầu riêng trồng ở đất Nam Bộ và Tây Nguyên là như nhau, nhưng tuổi thọ thì hơn hẳn, nhờ ông sử dụng phân bón là phân chuồng chứ không lạm dụng nhiều phân hóa học.

Minh chứng là các vườn cây sầu riêng ở Nam Bộ trồng 30 năm đã suy, chặt bỏ, còn 2 cây sầu riêng ông trồng đã 40 năm vẫn xanh tốt, năng suất cao.

Xác định trồng sầu riêng sạch để phục vụ thị trường nên ông Một chỉ thu hoạch khi trái chín rụng xuống đất, không thu hoạch đại trà. Trong khi các loại trái cây khác giảm giá vào mùa thu hoạch rộ thì sầu riêng của ông vẫn không lo ế hàng, thu hoạch bao nhiêu, thương lái cũng thu mua với giá 50.000 đồng/kg bán tại vườn.

Chất lượng sầu riêng của vườn ông Một được đánh giá thuộc hàng thơm ngon đặc biệt. Hiệu quả từ cây sầu riêng trên vùng đất dốc mang lại cao gấp vài chục lần so với các loại cây trồng khác. Từ thành công này, ông Một đang chặt bỏ diện tích trồng cây keo, cây mì trong vườn nhà để mở rộng diện tích sầu riêng lên đến 1ha.

Nguồn: Theo danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Trồng Sầu Riêng thu 500 triệu đồng/năm

Năm nay, cây cho thu hoạch khoảng 14 tấn trái, với giá bán dao động từ 35.000 – 40.000đ/kg như hiện nay thì thu nhập của ông khoảng 500 triệu đồng.

Về ấp Trường Đông A, xã Tân Thới, huyện Phong Điền (TP Cần Thơ) hỏi thăm ông Dương Văn Thức, bà con ai cũng hết lời khen ngợi và thán phục ông – một khuyến nông viên gương mẫu, một nông dân cần cù chịu khó, trồng sầu riêng trúng mùa trúng giá liên tục, mỗi năm thu nhập hơn 500 triệu đồng.

Vườn nhà ông Thức trồng chuyên canh sầu riêng giống  Ri-6 trên diện tích gần 1ha với độ tuổi cây trên 16 năm, có cây to đến một người lớn ôm không giáp. Năm nay, cây cho thu hoạch khoảng 14 tấn trái, với giá bán dao động từ 35.000 – 40.000đ/kg như hiện nay thì thu nhập của ông khoảng 500 triệu đồng. Điều ngạc nhiên là chi phí chăm sóc vườn cây trái của ông rất ít, chỉ khoảng 30 triệu.

Ông Thức chăm sóc sầu riêng tại vườn nhà

Ông Thức chia sẻ: Việc tiết kiệm được chi phí vật tư đầu vào là do ông đã nắm được các nguyên tắc xử lý và chăm sóc cây trong từng thời kỳ cây sinh trưởng cũng như  xử lý ra hoa, kết quả đến thu hoạch. Mỗi giai đoạn của cây ông sử dụng các loại phân bón, thuốc BVTV thích hợp và đúng liều lượng…

Hỏi về nguyên nhân chọn cây sầu riêng để trồng chuyên canh, ông nói khi bắt đầu làm vườn ông trồng xen canh, đa canh nhiều loại cây nhưng không mang lại hiệu quả. Cuối cùng ông chọn giống sầu riêng giống Ri-6 làm cây chủ lực.

Ông Thức nói: Sầu riêng cây dễ trồng, ăn được nhiều năm, cho trái năng suất khá, nhẹ công chăm sóc, ít sâu bệnh, giá cả tương đối ổn định… Vì vậy cả chục công vườn chỉ một mình ông làm mà không phải thuê lao động. Ngoài công việc SX, ông còn là một cán bộ khuyến nông của xã phải thường xuyên tập huấn cho nông dân.

Hỏi về bí quyết để sầu riêng trúng mùa, ông cho biết, ngoài nắm vững các nguyên tắc và thời kỳ sinh trưởng của cây thì khâu xử lý ra là điều quan trọng quyết định số lượng và chất lượng của trái. Trước tiên phải xử lý ra lá trước, đợi cho đọt ra lá hai cơi thì mới xử lý ra hoa.

Nếu hai cơi mà lá còn chưa đủ thì đợi thêm cơi thứ ba mới xử lý. Vì lá đủ dày, khỏe mới quang hợp tốt, nuôi trái mới chất lượng. Song song đó bón thêm phân lân giúp cây tạo mầm, gốc cây bổ sung thêm kali, chất điều hòa sinh trưởng. Khi ra hoa thì phun thuốc trừ các loại sâu hại, giai đoạn kết trái bón NPK 15-15-15, ure và kali nuôi trái, nuôi thân, giúp trái khỏe và cây không mất sức.

Bên cạnh đó yếu tố ra nhiều hoa cũng giúp cho cây có thể đậu nhiều trái, mới có thể giữ lại những trái đẹp, không sâu bệnh. Theo kinh nghiệm của ông, khoảng cách giữa các cây trồng từ 8 – 10m lý tưởng nhất, sẽ giúp cây nhận được nhiều ánh sáng, đẻ nhiều nhánh, tỷ lệ ra hoa sẽ cao hơn cây trồng dày.

Ông không xử lý cho cây ra hoa vụ nghịch (từ tháng 5 đến tháng 10) vì vụ này cây chỉ cho năng suất khoảng 70% so vụ thuận (từ tháng 1 đến tháng 5) và sản lượng thấp. Cây sẽ mất sức và vụ sau sẽ không cho năng suất cao.

Năm nay vườn sầu riêng của ông Thức trúng mùa và bán được giá

Với kinh nghiệm 17 năm trồng sầu riêng, ông Thức cho biết, thâm canh tốt năng suất sẽ tăng đều theo mỗi năm. Năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016 nhà ông chỉ thu hoạch được khoảng 8 tấn/ha nhưng năm nay cao hơn gần gấp đôi và bán được giá.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech Vietnam.