Nuôi Tôm kết hợp trồng Rong Câu

Có một vấn đề rất nan giải, mà bấy lâu nay đã làm “đau đầu” tất cả các nhà nuôi tôm-đó là chất thải và nước thải từ các ao nuôi gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây về ứng dụng một số loài rong câu (như Gracilaria spp, Gracilariales, Rhodophyta) trong xử lý môi trường nuôi tôm, được các nhà khoa học thủy sản tiến hành tại Viện Hải dương học Nha Trang, cho thấy vấn đề này đã có hướng giải quyết.

Các tác giả tiến hành phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn kín. Trong đó, sử dụng ao rong câu mật độ cao đóng vai trò bể lọc sinh học (để làm sạch nước thải).

Nghiên cứu dựa trên cơ sở ứng dụng các tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) với các yếu tố môi trường. Cụ thể ở đây là: rong câu tạo ra ôxy hòa tan-tôm tiêu thụ nó, rong câu tiêu thụ CO2 và các mối dinh dưỡng-do tôm sản sinh ra nó; rong câu làm giảm a xít trong môi trường nước-tôm làm tăng tính axít… Sự hoạt động cân bằng này cho phép giữ ổn định môi trường nuôi tôm.

Hệ thống ao nuôi kiểu mới này được bố trí, gồm: Ao lắng và tiệt trùng (chiếm 21% tổng diện tích cả hệ thống). Ao nuôi tôm (chiếm 62%). Ao trồng rong câu (hay còn gọi ao xử lý sinh học, chiếm 17%). Nước sử dụng cho quá trình nuôi được lấy vào cả ba ao ngay từ đầu và sử dụng chung cho cả vụ nuôi.

Với quy trình tuần hoàn vận hành như sau: Nước được khử trùng ngay trong ao lắng trước khi bơm vào ao nuôi tôm. Rồi nước thải từ ao nuôi tôm được bơm dần (mỗi lần khoảng 15-20%) sang ao trồng rong câu và lưu lại đây ba ngày. Sau đó, bơm trở lại ao lắng và tiến hành xử lý hóa học, xong cho lưu lại đây ba, bốn ngày. Tiếp đến, lại bơm vào ao nuôi tôm-bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Trong quá trình nuôi, có một lượng nước bị mất đi do thẩm thấu và bốc hơi sẽ được bổ sung từ nguồn nước bên ngoài vào. Bằng cách sử dụng nguồn nước như thế, sẽ hạn chế tối đa sự tiếp xúc hoặc trao đổi với nguồn nước bên ngoài, do đó hạn chế được những ảnh hưởng của trại nuôi tôm với môi trường chung quanh và ngược lại.

Mặc dù một số tính chất vật lý của nước như độ mặn, tăng dần theo các tháng trong vụ tôm (thay đổi từ 2,1% đến 3,5%) do nước bốc hơi. Nhưng cả tôm nuôi và rong câu đều cùng phát triển tốt, mà lại thêm nguồn lợi thu được từ rong câu khá lớn.

Trong hai tháng đầu vụ nuôi (từ tháng 2 đến tháng 4) mật độ rong câu trung bình 500g/m2, tốc độ tăng trưởng đạt 2,8%. Đến tháng thứ 3, rong đã có mật độ đạt 2kg/m2 và đã bắt đầu thu tỉa được với khối lượng 170-200g/m2. Từ tháng thứ 5 độ tăng trọng chỉ đạt 1,3%, nhưng đến khi thu hoạch tôm thì rong đã có sinh lượng tích lũy 4kg/m2. Sản lượng rong câu tươi trên một ha ao thí nghiệm đạt tới 6 tấn/tháng.

Hơn nữa, phương pháp nuôi tôm thâm canh kết hợp trồng rong câu trong hệ tuần hoàn khép kín kiểu này, đặc biệt có lợi cho môi trường. Kết quả thí nghiệm qua một vụ tôm đã cho thấy rõ, rong câu có tác dụng làm thay đổi đáng kể các chỉ số yếu tố môi trường nước đối với nguồn nước đi ra từ ao rong. Chỉ với một ao rong có diện tích bằng 17% tổng diện tích cả hệ thống ao nuôi kết hợp kể trên, thì với vai trò là bể lọc sinh học, nó đã cải thiện tốt chất lượng nước của ao nuôi tôm: Làm tăng 5% pH, tăng 49% ôxy, đồng thời làm giảm 60,3% nitơ vô cơ hòa tan, 38,1% phospho, 66% chlorophyll, 56% chất lơ lửng từ nguồn của ao nuôi tôm.

Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, nuôi kết hợp tôm-rong câu không chỉ làm cho những thông số về chất lượng nước trong ao nuôi tôm tốt hơn, không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường chung quanh trại nuôi, mà còn làm giảm chi phí sản xuất. Giảm thiểu sử dụng chất và thuốc phòng trị bệnh cho tôm. Vì thế, sẽ có sản phẩm tôm thương phẩm sạch hơn, bảo đảm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Nghiên cứu này cần được khảo sát tiếp trong mùa mưa để kiểm tra về hiệu quả cải thiện chất lượng nước thải, xác định thời gian lưu giữ nước và độ sâu mực nước trong ao rong câu.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Rong Câu Chỉ Vàng

Rong câu chỉ vàng Gracilaria asiatica Chang et Xia (tên khoa học cũ là Gracilaria verrucosa (Huds.) Papenf.)

1. Yêu cầu về địa điểm và điều kiện môi trường

Ðịa điểm

– Ðầm hoặc ao nước lợ đang trồng quảng canh rong câu hoặc chưa trồng nhưng có rong câu tự nhiên phân bố.

– Nơi ít sóng gió, giao thông thuận tiện.

Ðiều kiện môi trường

– Vùng nước lợ không bị ô nhiễm và có khả năng thay nước thuận lợi.

– Ðáy là bùn, hoặc bùn cát, cát bùn. Tốt nhất là đáy bùn cát, có tỷ lệ bùn/cát từ 70/30 đến 80/20.

– Mặt đáy đầm/ao tương đối bằng phẳng. Mỗi chu kỳ thuỷ triều đảm bảo đầm/ao được ngập nước 0,6 – 1,0 m trong 5 – 7 ngày.

– Ðộ pH của nước 7,0 – 8,5; độ pH của đáy không nhỏ hơn 6,0.

– Ðộ muối của nước 5 – 30 %0 (tốt nhất 10 – 20 %0).

– Ðộ trong của nước từ 0,4 m trở lên.

Yêu cầu về xây dựng đầm/ ao

Diện tích và mặt đáy

– Ðầm/ao có diện tích 1 – 5 ha; đầm có diện tích lớn phải chia thành nhiều ao nhỏ.

– Ðáy đầm/ao tương đối bằng phẳng, dốc về phía cống 2 – 30 .

Bờ đê

Ðê bao quanh và bờ ngăn phải đủ vững để giữ được nước và bảo đảm an toàn cho sản xuất. Kích thước đê, bờ phụ thuộc vào loại đất đắp, biên độ thuỷ triều và mức sóng gió ở từng nơi. Kích thước thông thường như sau:

– Ðê bao quanh: chân 4,0 – 5,0m; mặt 1,0m; cao 1,5 – 2,0m.

– Bờ ngăn trong đầm: chân 3,0 – 4,0m; mặt 1,0m; cao 1,0 – 1,5m.

Cống

Mỗi ao cần 1 cống xây bằng gạch hoặc đá hoặc làm bằng tre, gỗ. Khẩu độ cống tuỳ theo diện tích ao:

– Với ao có diện tích từ 1 đến 2 ha, khẩu độ là 0,6 – 0,8 m.

– Với ao có diện tích từ 3 đến 5 ha, khẩu độ là 1,0 – 1,2 m.

Kỹ thuật trồng

Thời vụ trồng

– Ven biển miền Bắc: Từ cuối tháng 10, tháng 11 năm trước đến tháng 6, tháng 7 năm sau. Riêng vùng đảo và vùng sát biển có độ muối tương đối cao, thời vụ trồng từ tháng 4 đến tháng 9, tháng 10.

– Ven biển miền Trung: Từ cuối tháng 12 năm trước hoặc tháng 1, tháng 2 đến cuối tháng 8, tháng 9, tháng 10 hàng năm. Thời vụ trồng rong câu chậm dần vào phía Nam.

Chuẩn bị đầm/ ao

  • Dọn đáy

Trước mỗi vụ trồng rong câu, phải tiến hành dọn đáy đầm/ao với các biện pháp như sau:

– Dọn sạch rong tạp và cỏ dại trên mặt đáy, cắt cỏ ven bờ.

– Bừa đáy tạo ra một lớp bùn trên mặt đáy.

  •  Khử chua

– Thay nước liên tục 4 – 5 ngày để rửa đáy.

– Sau đó rút cạn nước, rải vôi bột với lượng 0,1 – 0,3 kg/m2.

  • Bón lót

– Phân chuồng (phân gia súc, gia cầm ủ) với lượng 0,6 – 1,0 kg/ m2.

– Lân (lân vô cơ) với lượng 0,03 – 0,06 kg/ m2.

Rải đều phân chuồng và phân lân trên bề mặt đáy. Sau khi bón lót phân, trong khoảng thời gian 7 – 10 ngày tiếp theo không được thay nước cho đầm/ao.

  •  Lấy nước

Chuẩn bị đầm/ao xong, đợi khi có con nưốc triều tiến hành lấy nước mới vào và giữ mức nước 0,3 m, sau 5 – 7 ngày giữ mức nước tới 0,5m để chuẩn bị thả rong giống.

Chọn giống và rải giống

  • Chọn giống

Chất lượng rong giống phải theo đúng qui định tại Ðiều 2.1 của 28TCN108:1998 (Rong biển – Giống rong câu chỉ vàng – Yêu cầu kỹ thuật).

  • Xử lý giống

Khi độ muối nơi lấy giống và nơi rải giống chênh lệch lớn hơn 8 %0, phải xử lý giống theo qui định tại Ðiều 2.3.4 của 28TCN109:1998 (Quy trình sản xuất giống rong câu chỉ vàng).

  • Rải giống: Mật độ giống rải là 500 g/ m2.
  • Cách rải giống

– Tách nhỏ các tản rong rồi rải đều trên mặt đáy đầm/ao.

– Thời gian rải rong giống vào lúc trời râm mát, gió nhẹ.

– Sau khi rải giống, trong thời gian 15 – 20 ngày đầu không thay nước cho đầm/ao.

 Chăm sóc và quản lý

Thay nước

– Mỗi chu kỳ thuỷ triều, phải thay nước cho đầm/ao liên tục trong 5 – 7 ngày, mỗi ngày thay 1/3 – 1/2 lượng nước cũ.

– Khi gặp mưa lớn kéo dài, phải thay nước mới ngay cho đầm/ao. Nếu khi đó nước thuỷ triều thấp, phải dùng máy bơm để thay nước mới cho kịp thời.

– Sau khi thay nước, giữ mức nước cho đầm/ao trong khoảng 0,4 – 0,5 m.

 Bón phân

– Phân chuồng: Bón 2 lần/năm, trong đó lần 1 bón vào tháng thứ 3, lần 2 bón vào tháng thứ 5 sau khi rải giống. Mỗi lần bón với lượng 0,3 – 0,5 kg/ m2.

– Phân lân: Phân lân được bón vào tháng thứ 3 hoặc tháng thứ 4 sau khi rải giống. Mỗi lần bón với lượng 0,02 – 0,03 kg/ m2.

 Hạn chế rong tạp

Hạn chế sự phát triển của rong tạp bằng các biện pháp sau:

– Luôn duy trì rong câu chỉ vàng ở mật độ cao. Thấp nhất, rong cũng phải đạt được mật độ là 400 g/ m2.

– Không để mức nước đầm/ao cạn dưới 0,30 m.

– Khi phát hiện có rong tạp, phải vớt ngay và không để rong tạp trôi nổi khắp đầm/ao. Ðồng thời, phải thay nước nhiều hơn và giữ mức nước ở độ sâu 0, 50 – 0, 60 m.

Ðiều chỉnh mật độ rong

Sau mỗi lần thu hoạch hoặc sau những ngày có sóng gió lớn làm rong câu bị dồn tụ lại, phải vớt rong ở chỗ mật độ quá cao rải đều ra khắp đáy đầm/ao.

Thu hoạch rong

Chỉ tiêu rong thu hoạch

Sau khi rải giống 40 – 50 ngày, có thể tiến hành thu hoạch rong câu lần đầu. Sau đó cứ từ 30 đến 35 ngày, tiến hành thu hoạch 1 lần. Trong một vụ trồng rong câu, có thể thu hoạch được từ 5 đến 7 lần. Chỉ tiến hành thu hoạch rong câu khi đủ các điều kiện sau:

– Các tản rong đã sinh trưởng chậm dần, chiều dài tản rong đạt 20 – 30 cm.

– Rong phát triển đạt mật độ bình quân trên 1 kg/ m2.

Cách thu hoạch

– Dùng thuyền, cào thưa, te, lưới hoặc dùng tay để thu hoạch rong. Thu lần lượt diện tích từng khu vực để tránh bỏ sót diện tích cần thu.

– Không được thu toàn bộ số rong trên diện tích cần thu, mà phải để lại rong với mật độ là 400 – 600 g/ m2.

2. Sơ chế và bảo quản rong khô

Sơ chế rong câu

Với rong khô chưa rửa muối: Rong câu tươi khi thu lên, phải loại bỏ rong tạp và cỏ rác, rồi rửa sạch bùn đất bằng nước ngay tại đầm /ao đã trồng. Sau đó, rải đều rong lên sân phơi (sân gạch, sân bê tông hoặc sân đất). Trong quá trình phơi, phải lật trở nhiều lần cho rong khô đều.

Với rong khô đã rửa muối: Rong khô chưa rửa muối sau khi sơ chế như qui định , phải rửa lại 1 lần nữa bằng nước ngọt (nước giếng hoặc nước máy) rồi phơi khô trên sân (sân gạch hoặc sân bê tông). Cách phơi rong như qui định .

Bảo quản rong khô

– Rong câu khô phải được bảo quản trong điều kiện khô ráo, thoáng mát.

– Kho bảo quản rong câu phải chắc chắn, không bị dột.

– Khi bảo quản phải xếp rong câu từng lớp trên sàn kho. Sàn kho phải để cách tường từ 0,3 đến 0,4 m và cách nền kho từ 0,20 m trở lên.

– Trong quá trình bảo quản, phải thường xuyên kiểm tra chất lượng rong. Nếu thấy rong ẩm hoặc mốc phải đưa ra sân phơi lại.

Nguồn: Tổng  hợp bởi Farmtech VietNam.