Hướng dẫn trồng cây Thuốc Lá từ hạt

Cây thuốc lá là loại cây công nghiệp dễ trồng, mang lại hiệu quả kinh tế xóa đói giảm nghèo cho người dân.

Hiểu về Điều kiện Đất trồng và Khí hậu

Lá cây thuốc lá sẽ lớn lên trong mọi loại đất. Cây thuốc lá là loại cây cực kỳ dễ trồng. Cây trồng được ở nhiều nơi và thậm chí cả ở nơi của cây trồng khác, mặc dù, theo quy luật ngón tay cái thì thuốc lá sẽ phát triển tốt hơn trong điều kiện đất khô. Điều quan trọng cần chú ý là cây thuốc lá dễ chịu ảnh hưởng bởi từng loại đất trồng; đất sáng hơn sẽ cho thuốc lá với màu sắc nhạt hơn, đất tối hơn sẽ cho thuốc lá với màu sắc đậm hơn.

Để có kết quả tốt nhất, hãy trồng thuốc lá ở nơi có khí hậu khô và ấm. Loại cây này yêu cầu giai đoạn không sương giá khoảng 3 đến 4 tháng giữa thời gian cấy và thu hoạch. Để có kết quả tốt nhất, cây thuốc lá nên đúng độ chín khi không có lượng mưa lớn; dư nước sẽ làm cho cây mỏng manh và yếu ớt. Nhiệt độ lý tưởng để trồng cây là từ 20° đến 30°C.

Trồng và Cấy Thuốc lá

Rắc hạt cây thuốc lá trên mặt hỗn hợp đất giống và tưới một ít nước. Hãy chắc chắn rằng bạn đã đặt hỗn hợp đất giống trong chậu hoa, và phải có một vài lỗ nhỏ dưới đáy chậu. Hạt giống nên được trồng trong chậu khoảng 4-6 tuần

Hỗn hợp đất giống gồm phân trộn và nhiều dưỡng chất khác giúp hạt giống phát triển khỏe mạnh. Chúng hoàn toàn có sẵn trong hầu hết các cửa hàng đồ dùng chăm sóc vườn tược nhà cửa.

Hạt cây thuốc lá rất nhỏ (không lớn hơn mũi ghim), vì thế đảm bảo không gieo hạt quá dày nhằm tạo không gian thích hợp giữa các hạt giống để tránh cây mọc chen chúc.
Chính vì hạt cây thuốc lá quá nhỏ, chúng ta không nên gieo bên ngoài khi mới bắt đầu trồng. Ngoài ra, yêu cầu dưỡng chất của chúng khác với nhiều loại cây, vì thế tốt hơn là nên thêm sỏi hoặc phân bón đặc biệt dành cho cây thuốc lá.

Nhiệt độ thích hợp để hạt cây thuốc lá nảy mầm là từ 24-27°C. Nếu bạn không trồng trong nhà kính thì đảm bảo rằng khu vực bên trong nhà bạn phải đáp ứng được yêu cầu nhiệt độ trên.

Đừng lấp hạt giống trong đất vì chúng cần ánh sáng để nảy mầm; lấp hạt có thể làm chậm hoặc ngăn cản quá trình nảy mầm. Hạt giống sẽ bắt đầu nảy mầm trong khoảng từ 7-10 ngày.

Tưới nước thường xuyên để giữ độ ẩm cho hạt nhưng đừng để úng nước.Cũng đừng để đất khô hoàn toàn.

Thật cẩn thận khi tưới nước bởi vì lượng nước có thể làm cây con mới mọc bị bật gốc và chết.

Nếu có thể, hãy tưới cây con từ đáy chậu. Nếu bạn sử dụng chậu hoa có nhiều lỗ dưới đáy, hãy đặt chậu lên phía trên của khay nước. Để một vài giây để nước ngấm vào đất. Điều này sẽ giúp tưới cây con mà không làm ướt lá.

Sau 3 tuần, hãy cấy cây con sang chậu lớn hơn. Lúc này, cây con sẽ đủ lớn cho việc cấy nếu bạn đã tưới nước và chăm sóc đúng phương pháp.

Cấy cây con sang chậu lớn sẽ giúp hệ thống rễ của chúng phát triển khỏe mạnh.
Để xem cây con đủ lớn hay chưa, thử nắm lấy chúng. Nếu bạn có thể dễ dàng nắm giữa ngón cái và ngón trỏ thì chúng đã sẵn sàng để được cấy. Nếu chúng còn quá nhỏ, hãy để chúng tiếp tục quá trình nảy mầm cho đến khi đủ lớn.

Cấy cây thuốc lá rễ trần (không đất) trực tiếp từ chậu cây giống vào trong vườn là phương pháp dễ dàng hơn vì chỉ cần một lần cấy. Tuy nhiên, một khi được trồng trong vườn, cây rễ trần có thể bị “sốc cấy” làm cho hầu hết lá lớn nhất của chúng chuyển sang màu vàng và rũ xuống. Sau một tuần, cây thuốc lá bắt đầu phát triển trở lại, nhưng nói chung tránh sốc cấy sẽ giúp bạn tiết kiệm một tuần chờ đợi vì cây được trồng trong chậu có thể bắt đầu phát triển ngay khi được cấy.

Tưới cây con với dung dịch phân bón thực vật hoặc phân bón tảo biển/cá biển dạng sữa được xem như phép màu trong trồng trọt. Điều này sẽ cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây cho đến khi chúng sẵn sàng được trồng trong vườn sau khoảng 3-4 tuần.

Nếu cây bắt đầu vàng úa và trông còi cọc, có thể cây cần liều lượng phân bón khác. Hãy tiết kiệm lại, cho dù thế nào thì khi quá nhiều chất dinh dưỡng trong chậu có thể đốt cháy rễ cây hoặc dẫn đến cây mọc tràn ra và mảnh khảnh.

Chuẩn bị đất vườn để cấy cây lớn hơn. Đảm bảo rằng khu vực mà bạn trồng cây thuốc lá tiếp xúc liên tục với ánh nắng mặt trời, ráo nước và đã được canh tác.

Thiếu ánh nắng mặt trời sẽ làm cho cây mảnh khảnh, kém phát triển, và lá mỏng manh. Điều này có thể không trở thành vấn đề nếu bạn muốn trồng thuốc lá để làm lá áo xì gà, vì trồng cây dưới bóng râm có thể tạo ra đặc tính lá nổi bật mà bạn muốn.

Ngoài ra, hãy kiểm tra độ pH trong vườn nhà bạn. Cây thuốc lá cần được trồng trong đất với nồng độ axit vừa phải, nếu không chúng sẽ không phát triển được. Đất nên có độ pH là 5,8. Kém phát triển hoặc rối loạn phát triển có thể xảy ra nếu độ pH trong đất là 6,5 hoặc cao hơn.

Tránh sử dụng đất bị nhiễm bệnh và giun tròn. Giun tròn là loài ký sinh trùng sẽ ăn thuốc lá và cực kỳ khó để diệt trừ một khi chúng tràn vào.

Chuyển cây thuốc lá sang đất vườn khi cây con cao từ 15-20 cm. Khoảng cách tối thiểu giữa các cây trong một hàng là 0,6-1 m. Khoảng cách giữa các hàng từ 1-1,2 m.
Cây thuốc lá là “kẻ ăn nhiều”, nghĩa là chúng sẽ hút hết chất dinh dưỡng từ đất trong khoảng 2 năm. Để ngăn cản điều này, tận dụng luân canh cây trồng 2 năm trên khu đất hiện tại bằng cách trồng thuốc lá trong vòng 2 năm trên khu đất khác và chờ 1 năm trước khi trồng lại ở vị trí cũ.

Thay vì để trống đất vườn, bạn có thể thay thuốc lá bằng loại cây khó bị nhiễm bệnh bởi trùng gây hại phổ biến trong đất như ngô hoặc đậu nành.

Kỹ thuật sản xuất cây con Thuốc Lá

Sản xuất cây con tốt, khỏe, sạch sâu bệnh và đủ số lượng theo kế hoạch là yếu tố thành công trong bước khởi đầu một vụ trồng.

Cây con khỏe đạt tiêu chuẩn là tiền đề cho một vụ mùa thắng lợi. Để sản xuất con giống vụ đông xuân việc gieo ươm cây con rơi vào lúc thời tiết có mưa nhiều, trời nhiều mây gây thiếu ánh sáng, ẩm độ không khí cao nên dễ phát sinh sâu bệnh. Do đó, công tác gieo ươm cần được chú trọng thật kỹ các khâu kỹ thuật nhằm hạn chế thiệt hại, tạo cây con phát triển tốt nhất. Qui trình kỹ thuật này đều áp dụng cho tất cả các sản xuất con
giống thuốc lá như: thuốc lá nâu, thuốc lá vàng sấy, thuốc lá burley.

I. GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM:

1. Chọn địa điểm:

Đất làm vườn ươm phải đạt các yêu cầu sau: Vụ trước không trồng các cây họ cà, các cây rau như dưa chuột, đậu bắp… Cao thoát nước tốt, dốc

2. Bón phân:

Cách ngày gieo 2 – 3 ngày, bón phân lót vào các luống ươm, rải đều lên bề mặt rồi dùng cào xới chôn sâu khoảng 7 – 8 cm. Phân hữu cơ vi sinh (phân chuồng hoai): 5 kg NH4NO3 : 100g Super lân : 300g K2SO4 : 150g Furadan : 70g (Có thể dùng vimoca 20ND pha trong 30 lít nước tưới đều lên mặt luống để trừ kiến, sâu đất, tuyến trùng…) Dùng tấm PE đậy lại chờ gieo.

3. Gieo hạt:

Dỡ tấm bạt, tạo gờ và làm bằng mặt luống bằng cách đầm nhẹ để chống xói mòn.

Lượng hạt gieo: 1,0 – 1,2g/ 10m2 (tỉ lệ nảy mầm > 85%) Hạt được xử lý bằng CuSO4 1% trong 15 phút. Vớt hạt cho vào túi vải rửa sạch bằng nước lã. Ngâm hạt trong điều kiện nhiệt độ bình thường từ 12 – 24 giờ để hạt hút trương nước. Lấy ra rũ nước và ủ ở nhiệt độ không khí 27 – 28oC trong vòng 2 – 3 ngày hạt nứt nanh trắng. Chú ý không nên để nứt nanh quá dài khó gieo, dễ dính chùm. Trước khi gieo phải tưới cho luống ươm đủ ẩm. Cho hạt đã nứt nanh vào thùng gieo khuấy đều, hay trộn với cát sạch, tiến hành gieo đều trên mặt luống. Phủ lên bề mặt đã gieo một lớp tro trấu hay phân hữu cơ vi sinh 1 lớp dày 0,5 cm.

Tưới nước giữ ẩm cho mặt luống.

4. Làm dàn che:

Thực hiện làm giàn che ngay sau khi gieo hạt. Dùng tre cột uốn cong
hình vòm từ mặt luống cách đỉnh 50 – 60cm (cung tre phải có độ dài
2,4m).

5. Chăm sóc cây con:

Tưới nước: Sau khi gieo mặt luống cần phải giữ ẩm liên tục và vừa phải, nếu để thiếu nước hạt đang nứt nanh dễ bị thui chột. Trong suốt thời kỳ sinh trưởng cây con cần cung cấp đủ nước. Từ khi gieo hạt đến khi mọc 2 lá mầm, bộ rễ chưa đủ bám chặt vào đất nên dễ bị trôi dạt; do đó phải sử dụng búp sen có tia thật mịn để tưới cho cây con.

Sau khi gieo mỗi ngày cần tưới 2 – 3 lần (mỗi lần 20 – 30 lít nước/10m2) cho đến khi hạt mọc mầm đều và giảm dần còn từ 1 – 2 lần/ ngày tùy theo độ ẩm mặt luống.

Tỉa cây, làm cỏ: Sau khi cây mọc từ 5 – 7 ngày cần tiến hành làm cỏ ngay, kết hợp tỉa bỏ
cây con những chỗ có mật độ dày. Mật độ cây con từ 500 – 550 cây/ 1m2 nếu cây con cấy bầu, từ 350 – 400 cây/ 1m2 nếu cây con trồng thẳng. Trước và sau khi tỉa bỏ cây hay làm cỏ phải tưới nước thật đẫm trên mặt luống để ổn định bộ rễ cây con. Dọn vệ sinh trong và ngồi vườn ươm sạch sẽ.

Điều khiển mái che: Từ khi cây con có 2 lá thật rất cần ánh sáng để phát triển bộ rế, thiếu ánh sáng cây dễ bị vống, yếu, dễ bị bệnh nên giai đoạn này cần luôn điều chỉnh mái che để cho cây hưởng ánh sáng tối đa. Những ngày nắng nóng lưu ý phải che phủ mái che cản bớt ánh nắng khoảng từ 11 – 14 giờ tránh gây tổn thương cho cây.

Tưới thúc: đôi khi cây con bị xấu, kém phát triển có thể thúc bằng cách hòa tan 50 – 100 gr NH4NO3 trong 20 lít nước tưới đều trên mặt luống ươm.

Rửa lại bằng nước sạch.

6. Phòng trừ sâu bệnh:

Các loại sâu thường hại vườn ươm: sâu xanh (Heliothis armigera), sâu khoang (Prodenia litura), sâu đục thân (Phthorimaea operculella), bọ trĩ (Thrips tabasi), rệp muội (Myzus persicae)…

Phòng trừ các loại thuốc BVTV như: Confidor 100SL pha nồng độ 6- 8cc/8lít nước, hoặc

II. Chăm sóc cây bầu:

1. Tưới nước:

Những ngày đầu cây bầu được che nắng và giữ ẩm rất quan trọng, thông thường nên tưới 2 – 3 lần/ngày với lượng nước tước 20 – 30 lít/10m2/lần, tránh tưới vào thời điểm trưa nắng gắt cây đang héo. Thời gian tưới 7 – 8h sáng, 10 –11h và 15 – 16h chiều. Sau khi cấy bầu 4 – 5 ngày sau, cây đã phục hồi. Dần dần giảm bớt lượng nước tưới. Số lần
tưới và kết hợp mở dần dàn che để huấn luyện cây con. Nếu cây chậm phát triển có thể tưới thúc với các loại phân sau: Urê: 30 – 50g hoặc Nitrat (NH4NO3) 50g/luống (10m2 ) sau đó tưới lại bằng nước lã để rửa lá.

2. Dặm cây con:

Sau 3 – 5 ngày cấy dặm những cây con bị yếu khó phục hồi.

3. Xén lá:

Xen lá để tạo cây đồng đều và tăng đường kính thân, chú ý các thao tác sau: Nên cắt, xén lá vào buổi sáng trời khô ráo và có nắng. Loại bỏ những cây bị bệnh trước khi xén lá. Chọn cây cao nhất làm chuẩn, cắt theo mặt phẳng, cách đỉnh ngọn cây từ 1 – 2cm. Xử lý kéo và tây vào nước xà phòng hoặc dung dịch có chứa đồng để tránh nhiễm bệnh. Cắt khoảng 1 m2 phải xử lý kéo 1 lần.

4. Tập chịu hạn:

Nhằm tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển mạnh, sâu, rộng và tăng cường khả năng chống chịu hạn bằng cách khi cây 15 – 17 ngày cho ngưng tưới nước, khi nào thấy cây thuốc vào khỏang 10 giờ héo cho tưới lại, lặp lại cách này ít nhất 3 lần.

5. Phòng trừ sâu bệnh:

Sâu: các loại sâu thường gây hại trong vườn ươm: sâu xanh, sâu xám, sâu khoang, sâu đo, sâu đục thân sử dụng các loại thuốc trừ sâu như : sec sài gòn, Mosplan, Mospilan, lancer 75Sp, lannat, biocin, dragon… theo sự hướng dẫn ghi trên nhãn.

Bệnh: Bệnh do nấm: chết rạp cây con: thối đen rễ, lở cổ rễ… nên xử lý bằng Ridomil MZ 72, Benlat C… Bệnh do vi khuẩn: thối nhũn, héo vi khuẩn… nên sử dụng thuốc Kasuran, Kasumil, Boocdo

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

“Đổi đời” nhờ trồng cây thuốc lá

Mô hình trồng cây thuốc lá ở xã Phù Ngọc, huyện Hà Quảng (Cao Bằng) chính là một trong những hướng đi hiệu quả, phát triển kinh tế bền vững cho địa phương. Do là cây công nghiệp ngắn ngày lại cho thu nhập cao nên nhiều năm nay, các hộ gia đình ở xã đã “thay da đổi thịt”, từng bước xóa đói giảm nghèo cho bà con dân tộc.

Cây thuốc lá phủ xanh Phù Ngọc

Phù Ngọc là xã vùng 2 của huyện Hà Quảng, có 856 hộ dân chiếm phần đông là người dân tộc Tày, Nùng, Mông nên việc thay đổi tập quán và tư duy canh tác là rất khó. Nhận biết được điều đó, năm 2012 xã Phù Ngọc đã kết hợp với Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam cho trồng thử nghiệm 160ha cây thuốc lá. Đến nay cây thuốc lá đã lan rộng khắp toàn xã với diện tích là 169ha. Trong đó có 18ha cây thuốc lá chất lượng cao tập trung ở bản Bó và bản Chá với hơn 80 hộ dân tham gia.

Anh Nông Văn Hùng ở bản Cốc Chủ cho biết: “Mỗi vụ gia đình tôi trồng 1000 cây thuốc lá, trừ đầu tư cũng lãi được 15 triệu đồng. Năm vừa rồi mỗi cân lá thuốc lá phơi khô có giá là bán 45 nghìn đồng, công ty họ đến tận vườn mua nên gia đình tôi cũng có của ăn của để, không lo đói như trước kia nữa”.

Theo anh Hùng, đây là một trong những cây mũi nhọn giúp bà con thoát nghèo, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa. Hiện bản Cốc Chủ có hơn 100 hộ dân, đa số các hộ dân trồng cây thuốc lá. Để đáp ứng nhu cầu tưới tiêu, hiện bản Cốc Chủ đã cho xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng. Với loại cây ưa nước này, việc đáp ứng nhu cầu tưới tiêu là rất quan trọng. Ngoài xã Phù Ngọc, các xã khác như Đào Ngạn, Hạ Thôn… cũng đang áp dụng mô hình và mở rộng diện tích.

Cán bộ Phòng Nông nghiệp Phát triển nông thôn huyện và Chi nhánh Viện Kinh tế – Kỹ thuật Thuốc lá tại Cao Bằng còn chủ động đến tận vườn hướng dẫn cách lên luống, che phủ nilon để giữ độ ẩm cho đất, hạn chế cỏ mọc, dùng thuốc diệt chồi hợp lý… theo từng giai đoạn. Đặc biệt, bà con được hỗ trợ giống, nilon che phủ, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.

Tương tự ở bản Cốc Chủ, các hộ dân ở bản Bó cũng đang tích cực chăm sóc đồng ruộng của nhà mình. Chị Đàm Thị Xuân đang cuốc đất, chia sẻ với chúng tôi: “Nhà tôi năm nay trồng hơn 4000 cây thuốc lá. Do bản Bó có chất đất tơi xốp lại hợp với thổ nhưỡng nên cây thuốc lá tăng trưởng rất nhanh. Mọi năm cứ đến cuối tháng ba (âm lịch) là cây thuốc lá đã cho thu hoạch rồi, năm nay hạn hán nên cây phát triển chậm hơn.

Riêng năm ngoái, thu nhập từ cây thuốc lá gia đình tôi được 30 triệu đồng. Sau khi thu hoạch xong bà con lại tập trung cấy thêm một vụ lúa nữa. So với trồng lúa nước, trồng cây thuốc lá kinh tế hơn rất nhiều”.

“Lột xác” nhờ cây thuốc lá

Hiện tại trên toàn xã, cây thuốc lá hầu như đã phủ kín khắp ruộng đồng. Với loại cây đem lại hiệu quả kinh tế như hiện nay, bà con dân tộc thiểu số đã từng bước thay đổi tư duy, tin tưởng vào chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cũng vì lý do đó nên nhiều gia đình ở xã Phù Ngọc đã phất lên, giàu có trông thấy. Nhiều hộ đã sắm được ti vi, xây được nhà, đời sống của bà con nhân dân đã từng bước xóa được nghèo. Các hộ gia đình coi đây là cây thu nhập chính, không thể thay thế bằng cây khác.

Theo chị Xuân, hàng năm cứ đến vụ thu hoạch, Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá (Vinataba) lại đến tận vườn thu mua. Hiện tại họ còn đầu tư phân bón, khâu chăm sóc và kỹ thuật nên bà con rất tin tưởng. Về khâu chăm sóc kỹ thuật, chỉ cần thấy cây thuốc phát bệnh là có cán bộ đến ngay. Gia đình chị Xuân có hơn 2000 mét vuông đất tốt nên khâu chăm sóc cũng như quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật, về cơ bản chị đã nắm được thuần thục.

Kế ruộng của gia đình chị Xuân, ông Dương Văn Năm (Phó thôn kiêm công an viên bản Bó) đang dẫn nước vào ruộng. Khi được trò chuyện, ông Năm cho hay: “Nhà tôi năm nay trồng 5000 cây thuốc lá nên tốn rất nhiều công chăm sóc. Quá trình chăm sóc cũng phải trải qua bốn đến năm tháng mới cho thu hoạch. Được cái giá cả ổn định nên bà con họ rất tin tưởng vào chủ trương của cấp ủy, chính quyền. Hiện ít mưa, đất lại khô cằn nên tôi cứ phải tưới nước thường xuyên. Năm vừa rồi giá cả ổn định, trừ chi phí đầu tư, cây thuốc lá cũng cho thu nhập chính là 40 triệu đồng”.

Theo ông Năm, ở bản Bó có 91 hộ dân, trong đó có 50 hộ dân tham gia vào việc phát triển kinh tế từ cây thuốc lá. Nhờ vậy, nhiều năm qua cuộc sống của bà con đã thay đổi. Hiện trong bản chỉ còn 30 hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo sẽ tiếp tục giảm từ mô hình trồng cây thuốc lá.

Chủ tịch xã Phù Ngọc Lã Hoài Bắc cho biết: “Năm 2015, xã Phù Ngọc gieo trồng 169ha thuốc lá, đạt 103,7% kế hoạch (KH), tăng 5,6ha so với năm 2014. Tuy nhiên, do thời tiết hạn hán kéo dài, ảnh hưởng đến phát triển cây trồng, năng suất đạt 22,2 tạ/ha, đạt 94,5% KH; sản lượng 375,2 tấn, đạt 97,8% KH”.

Theo ông Bắc, xã Phù Ngọc đang phối hợp với Viện Kinh tế Kỹ thuật thuốc lá tập huấn cho nông dân 14 xóm về áp dụng khoa học kỹ thuật trồng thuốc lá; cung ứng 147.380kg phân bón, 800 lọ thuốc diệt chồi; hỗ trợ vay 195 ống dẫn nhiệt lò sấy. Năm 2016, xã Phù Ngọc phấn đấu mở rộng diện tích trồng thuốc lá với 530 hộ đăng ký trồng. Xã cũng đã cung ứng cho nhân dân 125,44kg phân bón, 1.000 lọ thuốc diệt chồi.

Để đảm bảo cho vụ sản xuất thuốc lá năm 2016 đạt và vượt kế hoạch, xã đã chỉ đạo, vận động nhân dân đăng ký giống, hướng dẫn bà con thực hiện tốt các chính sách đầu tư, quy trình kỹ thuật đảm bảo thâm canh cây thuốc lá, tăng giá trị trên đơn vị diện tích; phối hợp với đơn vị bao tiêu sản phẩm cho nông dân với giá cả hợp lý.

Qua quá trình thực hiện mô hình, cây thuốc lá đã mang lại hiệu quả nổi bật cho địa phương. Hiện xã Phù Ngọc có nhiều hộ như Hoàng Văn Lương, Hoàng Thị Nậm, Hoàng Văn Đồng đã cho thu nhập từ 45 – 100 triệu đồng/năm. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc phát triển kinh tế từ cây thuốc lá nên đời sống của bà con đã thay đổi từng ngày. Việc trồng cây thuốc lá cũng chính là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần thực hiện hiệu quả trong công tác giảm nghèo ở địa phương.

Nguồn: Baophapluat.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây Thuốc Lá Vàng Sấy

Cây thuốc lá vàng sấy không khó trồng, phù hợp với nhiều loại đất và khí hậu khu vực Nam trung bộ và cao nguyên trung bộ, giá trị kinh tế cao, được bao tiêu ổn định. Vì vậy nên đưa cây thuốc lá vàng sấy vào cơ cấu cây trồng để người nông dân có thêm sự lựa chọn cho sự phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.

1. Chọn đất và làm đất trồng:

– Chọn đất: Cây thuốc lá phù hợp với đất thịt nhẹ, thịt trung bình, cát pha, đất bãi bồi. Đất không chua, nhiễm mặn, phèn. Không chọn đất bị ngập, úng. Để có năng suất cao và giảm chi phí đầu tư chọn đất gần nguồn nước tưới, gần lò sấy.

– Làm đất: Đất tơi, xốp, sạch cỏ và lên luống trước khi trồng là điều kiện rất quan trọng để cây thuốc lá phát triển tốt, giảm nhẹ công lao động khi xới xáo, bón phân và tưới tiêu nước. Đất cày 2 lần vuông góc nhau, mỗi lần cách nhau ít nhất 10 ngày cho ải đất, chết cỏ. Lần 3 cày lên luống, đỉnh luống này cách đỉnh luống kia 0,8 – 1,0 m, mương luống rộng 0,2 -0,3 m. Nên cày bằng máy cày đại để đất cày được sâu (20-30cm) và lên luống được to. Khi cày lên luống nên tính trước mương tưới, mương tiêu. Sửa vét lại luống và nhặt sạch cỏ trước khi trồng.

2. Trồng:

– Nếu trời mưa nhẹ, đất đủ ẩm trồng thẳng giữa sườn luống.

– Nếu đất khô, dẫn nước vào rãnh cho ngập khoảng 1/3 – 1/2 luống, trồng ngay mép nước.

– Mật độ trồng: Đất tốt trồng thưa (22.000- 25.000 cây/ha) khoảng cách trồng 0,5 m cây, đất xấu trồng dầy (27.000-30.000 cây/ha) khoảng cách trồng 0,4 m cây, hàng cách hàng 0,8m.

– Cách trồng: Cây giống nhổ lên phải ngắt bỏ các lá vàng, lá nhiễm bệnh để nơi mát và trồng xong trong ngày. Trồng bằng cách cuốc lổ, dùng cây chọc lổ hoặc cấy bằng tay. Trồng sâu 4-5cm, dùng tay bóp nhẹ.

– Sau 5-7 ngày trồng dặm những cây chết.

3. Làm cỏ, bón phân, vun gốc:

– Bón phân: Lượng phân cần bón trung bình cho 1ha : Nitrat amôn 200kg + Kaly sulfat 400 kg + lân 400kg Chia làm 2-3 lần bón tuỳ thuộc tính chất đất, chất lượng làm đất ( có hướng dẫn của cán bộ kỷ thuật).

– Làm cỏ, vun gốc: Từ 2-3 lần kết hợp với bón phân, lần 1 xới nhẹ, vun thấp, lần 2,3 xới mạnh vun càng cao càng tốt nhưng không lấp lá. Để đất khô 2-3 ngày cho cỏ chết trước khi tưới nước.

– Thời gian làm cỏ, bón phân, vun gốc: Nếu bón 2 lần:

+ Lần 1: 10 – 15 ngày sau trồng, 25% đạm + 25% kaly + 100% lân. Bón cách gốc 5cm

+ Lần 2: 30 – 35 ngày sau trồng, 75% đạm + 75% kaly. Bón cách gốc 15cm.
Nếu bón 3 lần:

+ Lần 1: 10 – 15 ngày sau trồng, 25% đạm + 25% kaly + 100% lân. Bón cách gốc 5cm

+ Lần 2: 20 – 25 ngày sau trồng, 25% đạm + 25% kaly. Bón cách gốc 10cm.

+ Lần 3: 30 – 35 ngày sau trồng, 50% đạm + 50% kaly. Bón cách gốc 20cm.

Chú ý: Chỉ trộn lẫn các loại phân nói trên ngay trước khi bón, lấp đất sâu 5- 10cm.

4. Tưới và tiêu nước:

Không thể có năng suất cao, chất lượng tốt nếu cây thuốc lá bị thiếu nước hoặc dư nước (ngập úng 1 – 2 ngày cây héo rủ, chết). Số lần tưới và lượng nước tưới tuỳ thuộc độ ẩm đất và thời tiết. Kể từ sau trồng đến 10 ngày ẩm độ đất thích hợp 80 – 90%, từ 10 – 40 ngày ẩm độ đất 60 – 65% (giữ cho hơi thiếu ẩm để tạo hệ thống rể phát triển và xuống sâu), từ 40 – 60 ngày là thời gian thân lá phát triển mạnh cần nhiều nước độ ẩm đất thích hợp 80 – 85%, từ sau 60 ngày giữ ẩm độ đất từ 65 – 70%. Sau mỗi lần bón phân, bẻ thuốc nếu đất khô phải tưới nước ngay.

Khi tưới nước theo rãnh chỉ để nước ngập từ ½ đến ¾ luống, không để nước tràn lên mặt luống.

Vụ Đông xuân thường nhẹ tưới nước nhưng dễ ngập úng, khắc phục bằng cách lên luống cao, làm mương tiêu trước khi trồng, khi mưa to phải có mặt ngay tại ruộng thuốc lá để khơi mương rãnh, chống úng.

5. Phòng trừ sâu bệnh:

– Khi sâu bệnh xuất hiện cây đã bị ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, việc xử lý càng tốn kém và ít hiệu quả khi cây càng lớn.Vì vậy việc phun thuốc đúng lúc là biện pháp hữu hiệu, kinh tế, an toàn nhất để phòng trừ sâu bệnh.

– Sâu: Các loại sâu hay cắn phá gây hại cho cây thuốc là sâu xanh, sâu khoanh, sâu chùm, bọ trĩ, rệp, rầy mền… Để xử dụng thuốc hoá học có hiệu quả cần nhất là phải phát hiện sớm, phun thuốc khi sâu rầy tuổi còn non.

– Bệnh: Các loại bệnh thường hay gặp và gây ảnh hưởng lớn là: Lở cổ rễ, Thối đen rễ, Đốm mắt cua, Đốm nâu…Triệu chứng bệnh thường khi tiềm ẩn trong cây mắt thường không phát hiện được, khi biểu hiện ra thì đã nặng gây hậu quả không khắc phục được.
Việc phun thuốc định kỳ phòng trừ bệnh rất tốt, và có tác dụng phòng trừ sâu, rầy. Việc kết hợp giữa thuốc sâu + bệnh nhằm giảm bớt công lao động. Chú ý chỉ phối hợp thuốc với những loại thuốc có thể kết hợp (theo hướng dẫn được ghi ở nhãn thuốc hoặc của cán bộ kỹ thuật )

LỊCH PHUN THUỐC CHO RUỘNG THUỐC LÁ

Lần phun Ngày sau trồng Đối tượng phòng trừ Hỗn hợp và nồng độ

( Dùng cho bình 16 lít )

Lượng thuốc

cần/bình16lít

(cho 1000 m)

Lần1 10 Sâu, bệnh 30ml Carbosan +16 gr Norshield 1
Lần2 25 Sâu bệnh 20ml Brightin + 40gr ToMet 2
Lần3 40 Sâu, bệnh 20ml Permecide + 16gr Norshield 2
Lần4 60 Sâu, bệnh 20ml Secure + 40gr ToMet 3

Khi phát hiện có sâu rầy cần xác định đúng thời điểm cần phun thuốc, bảng dưới đây xác định ngưỡng xử lý thích hợp nhất :

CÔN TRÙNG NGƯỠNG XỬ LÝ
Sâu xanh Xử lý khi 10% cây điều tra có sâu non ký sinh.
Sâu xám Xử lý khi 5% cây điều tra bị sâu cắn phá.
Bọ cánh cứng Khi cây nhỏ: Xử lý lúc có 10% số cây điều tra có chồi ngọn bị cắn phá.

Khi xử lý khi cây có hiện tượng rách hoặc tưa lá.

Sâu sừng Xử lý khi 10% số cây điều tra có sâu non. Không kể số sâu đã kéo kén hay số xác kén còn vương trên lá. Trường hợp tính sâu đã kéo kén thì tính 5 kén = 1 sâu.
Rệp muội Xử lý khi 10% số cây điều tra có ít nhất 50 con trên mỗi lá.

* Cách pha hỗn hợp thuốc như sau: Cho 1/3 nước hoà tan thuốc bột trước, rồi cho thuốc nước vào khuấy đều, sau đó cho số nước còn lại vào.

* Việc phun thuốc chỉ có hiệu quả cao nếu phun thuốc đúng nồng độ, đúng liều lượng và khi sâu, rầy còn non. Vì vậy cần thường xuyên thăm ruộng để phát hiện sâu, rầy sớm và phun thuốc ngay khi tới ngưỡng xử lý. Xử dụng thuốc khi sâu, rầy đã trưởng thành, già tuổi hiệu quả rất kém và ruộng thuốc lá đã bị phá hoại.

* Tuỳ thuộc tình hình thực tế các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh có thể thay đổi chủng loại.

* Sản phẩm thuốc lá được con người xử dụng trực tiếp vì vậy để an toàn cho bản thân và người tiêu thụ bà con nông dân chỉ nên xử dụng những loại thuốc được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, tuyệt đối không xử dụng tuỳ tiện. Chúng tôi không chịu trách nhiệm thu mua sản phẩm nếu phát hiện có những hoá chất độc hại tồn dư vượt quá giới hạn cho phép trong lá thuốc.

6. Đánh nhánh, ngắt ngọn:

Biện pháp này làm tăng 20% năng suất so với ruộng không đánh nhánh ngắt ngọn, chi phí thực hiện rẽ (chỉ bằng khoảng 10% hiệu quả đem lại), dễ thực hiện. Ngắt ngọn ngay khi cây vừa chớm nhú đỉnh ra hoa, ngắt xong nhỏ thuốc diệt chồi thuốc lá Accotab 330EC nồng độ 1% lên đỉnh vừa ngắt (dùng 2 lít Accotab 330 EC pha với 200 lít nước cho vào chai nhựa (chai nước khoáng, chai xà phòng… trên nắp gắn một van ruột xe đạp làm vòi chảy) nhỏ cho 1 ha. Nhỏ từ đỉnh ngọn vừa ngắt cho nước thuốc Accotab chảy ngấm xuống khoảng hơn ½ cây. )

7. Thu hoạch:

Sau trồng 60 ngày có thể bắt đầu thu hoạch, mỗi lần bẻ 3 – 4 lá, mỗi vụ bẻ 5 – 6 lần. Bẻ lá đúng độ chín thuốc sấy mới vàng đẹp, hái non hoặc để quá chín sấy sẽ ra màu xanh hoặc đen không bán được. Lá vừa chín có màu xanh trắng, rìa mép lá hơi ửng vàng, gân lá chuyển qua màu trắng, lá hơi rủ xuống.

Phương pháp bẻ: Người bẻ thuốc đi giữa luống hai tay bẻ hai hàng, mỗi hàng bẻ một bên, mỗi cây bẻ 1 – 2 lá; nắm vừa đủ nắm mỗi tay thì xếp dọc hai bên luống, cuống lá quay xuống giữa mương. Bẻ hết luống quay lại ôm có thứ tự dồn vào đầu chỗ mát chờ chuyển đi. Khi vận chuyển dùng dây mền, tấm bạt, bao tải… bó thành từng bó vừa đủ ôm, phải đảm bảo lá thuốc được xếp thứ tự đầu đuôi, xếp từng lớp một, lá thuốc không bị gẫy, dập, kéo lê, phơi nắng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Trồng Mè VietGAP, lãi 26 triệu đồng/ha chỉ sau 80 ngày

Vừa qua, Trạm Khuyến nông thành phố Vĩnh Long thực hiện dự án “Xây dựng vùng sản xuất rau màu quy mô lớn theo hướng GAP gắn với nhãn hiệu hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm giai đoạn 2016 – 2020” với mô hình trồng mè (vừng) trên nền đất lúa theo hướng VietGAP.

Nông dân trao đổi kinh nghiệm trồng mè trên nền đất lúa ngay tại ruộng.

Quy mô của mô hình là 15 ha tại xã Tân Ngãi, nông dân tham gia vùng dự án được hỗ trợ 100% chi phí giống mè, 30% phân hữu cơ sinh học. Ngoài ra nông dân trong vùng dự án được tập huấn chuyển giao gói kỹ thuật về sản xuất mè theo hướng VietGAP, bao gồm: hướng dẫn sử dụng phân hữu cơ và quản lý nước theo từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây, phòng trừ sâu bệnh hiệu quả, thu hoạch đúng độ chín và bảo quản đúng cách.

Qua thực tế sản xuất, nông dân thường xuyên thăm đồng, quan sát sự sinh trưởng của cây mè, điều tra mật độ sâu hại và thiên địch để phòng trị sớm. Các hộ nông dân thường xuyên trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp tác động phù hợp, sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng.

Kinh nghiệm của nông dân là đào nhiều rãnh thoát nước để hạn chế cỏ dại cũng như tránh ngập úng cho cây mè, bón lót phân hữu cơ vi sinh để cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho đất.

Sau thời gian canh tác từ 75 -80 ngày mè cho thu hoạch, năng suất mè đạt từ 1,2 – 1,3 tấn/ha. Tổng chí phí đầu tư cho 1 ha khoảng 21 triệu đồng, với giá bán hiện tại là 36.000 đồng/kg, nông dân thu lãi gần 26 triệu đồng/ha, cao gấp 2-3 lần so với trồng lúa cùng thời vụ.

Mô hình đã giúp nông dân nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống, hướng đến sản xuất tập trung hình thành vùng nguyên liệu, giải quyết đầu ra cho sản phẩm trên cơ sở chuyên canh lúa không bền vững và kém hiệu quả.

Nguồn: Trung tâm Khuyến nông quốc gia được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Mô hình canh tác Mè trên nền đất Lúa đạt hiệu quả kinh tế cao

Huyện Cao Lãnh có diện tích tự nhiên 49.082,47ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 40.798 ha với trên 70% dân số sinh sống bằng nghề nông. Ngoài lúa là cây chủ lực hàng đầu với diện tích 32.000 ha, hàng năm diện tích trồng màu của huyện khoảng 4.000 ha chủ yếu là cây đậu nành, cây mè và một số cây công nghiệp ngắn ngày khác.

Hoa màu cũng là thế mạnh của vùng, để tạo nguồn thu nhập cao hơn cho người dân trong sản xuất với mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả kinh tế. Định hướng phát triển theo hướng tập trung với 2 loại cây trồng chính là: cây mè, đậu nành và một số cây công nghiệp ngắn ngày khác.

Trong những năm gần đây, diện tích trồng đậu nành ngày càng giảm dần do cây đậu nành sâu bệnh nhiều, giá cả không ổn định. Trong năm 2010 diện tích trồng đậu nành của huyện là 1.442 ha đến nay chỉ còn khoảng 400 ha. Ngược lại, diện tích trồng mè tăng lên hàng năm từ 537 ha năm 2010 đến nay tăng vọt lên 1.012 ha. Song song với việc phát triển diện tích, trình độ canh tác của bà con nông dân đã tiến bộ rõ nên năng suất luôn tăng, trước kia trồng mè năng suất bình quân khoảng 1,1 tấn/ha bây giờ tăng lên từ 1,2 – 1,4 tấn/ha.

Cây mè thích hợp cho cơ cấu luân canh 2 lúa – 1 màu, vùng đất có cơ cấu nhẹ, thoát nước tốt. Đây cũng là loại cây trồng ít tốn công chăm sóc, có khả năng chịu hạn tốt, chịu được điều kiện biến đổi khí hậu, thời gian sinh trưởng ngắn, thích nghi rộng nên có triển vọng thay thế cây đậu nành, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên nền đất lúa trong thời gian tới. Ngoài ra, sản phẩm từ cây mè không những chỉ dùng trong thực phẩm mà nó còn được dùng trong các mục đích khác nhau như dược phẩm, công nghiệp, kỹ nghệ và xa hơn là sản xuất dầu sinh học (biodiesel).

Xuất phát từ tình hình trên, từ nguồn kinh phí Khuyến nông tỉnh năm 2012, Trạm Khuyến nông kết hợp với UBND xã Bình Hàng Trung triển khai Mô hình canh tác mè trên nền đất lúa vụ Xuân hè 2012 với qui mô 40 ha/50 hộ. Nhờ áp dụng tốt các biện pháp kỹ thuật như: sử dụng một loại giống mè đen, chất lượng hạt giống tốt, mật độ sạ đúng theo khuyến cáo từ 4 – 5 kg/ha, xuống giống tập trung, bón phân cân đối, phòng trừ sâu bệnh kịp thời và thu hoạch đúng độ chín nên mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao. Năng suất bình quân 1,4 tấn/ha, giá bán 32.000 đồng/kg, tổng thu nhập 44.800.000 đồng/ha. Sau khi trừ chi phí lợi nhuận khoảng 29 triệu đồng/ha.

Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng mè cao hơn nhiều so với lúa Hè thu vì lúa năng suất bình quân 5,8 tấn/ha, giá bán 5.400 đồng/kg, tổng thu nhập 31.320.000 đồồng/ha. Sau khi trừ chi phí lợi nhuận khoảng 11.020.000 đồng/ha. Như vậy, nếu so sánh với lúa Hè thu thì hiệu quả cây mè cao hơn khoảng 18.330.000 đồng/ha, quan trọng hơn là mô hình này còn mang lại hiệu quả kép vừa nâng cao thu nhập cho người dân vừa cắt đứt mầm bệnh lưu tồn trên ruộng lúa, cải tạo đất đai, tạo điều kiện tốt cho sản xuất lúa vụ Thu đông.

Luân canh một vụ màu giữa hai vụ lúa, nguồn thu nhập của người dân cao hơn nhiều so với độc canh cây lúa. Mặt khác, trồng cây mè khối lượng nước chỉ bằng 1/3 – 1/5 so với cây lúa nhưng thu nhập lại cao gấp 2 – 3 lần.

Theo đánh giá của phòng NN & PTNT huyện, vụ mè năm nay bà con nông dân đều trúng mùa và trúng giá. Từ hiệu quả của mô hình luân canh này, ngành nông nghiệp huyện Cao Lãnh đã đề ra nhiều giải pháp để thực hiện hiệu quả như: xây dựng đê bao khép kín, bơm nước ra xuống giống lúa Đông xuân sớm, tạo điều kiện xuống giống cây màu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, huyện đã xây dựng kế hoạch phát triển cây màu chủ lực của huyện từ 2011 đến năm 2015 sẽ nâng diện tích trồng mè lên 2.045 ha và định hướng đến năm 2020 mở rộng diện tích sản xuất hoa màu toàn huyện lên 7.200 ha tập trung ở các xã: Phong Mỹ, An Bình, Mỹ Thọ, Mỹ Hội, Nhị Mỹ, Bình Hàng Trung và thị trấn Mỹ Thọ.

Nguồn: Trạm Khuyến nông huyện Cao Lãnh được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Quy trình trồng Mè Trắng V6

Mè trắng là loại hạt có giá trị dinh dưỡng cao, được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như: nấu ăn, làm bánh keo, sản xuất dầu mè…

Thời vụ

Ngay sau khi thu hoạch xong lúa mùa nổi vào khoảng cuối tháng 12 dương lịch, bà con nông dân nên tranh thủ ngay trong khi đang thu hoạch lúa, hoặc vừa khi thu hoạch lúa xong, để tận dụng ẩm độ trong đất, xuống giống và thu hoạch mè V6 trong tháng 3.

Kỹ thuật trồng

1/ Giống:

Mè V6 do Công Ty VOCARIMEX-TP.HCM cung cấp, với đặc tính cây mọc thẳng không phân nhánh, số trái trung bình từ 20-70 trái/cây, năng suất có thể đạt từ 100 -200kg/1.000m2, tuỳ theo mức độ thâm canh.

2/ Làm đất:

Đối với đất ruộng lúa mùa nổi, có thể sạ chay không cần cày xới, nhưng cần xẻ rãnh thoát nước, để chống úng khi tưới và đề phòng những trận mưa cuối mùa.

3/ Gieo sạ:

Do diện tích canh tác lúa mùa thường lớn nên bà con nông dân nên chọn cách sạ lan, để giảm công lao động, có thể gieo sạ bằng hai cách sau:

– Gieo sạ trước khi cắt lúa 01 ngày, hoặc sạ xong cắt lúa ngay, mục đích để làm cho hạt mè rơi xuống đất, khi cắt lúa.

– Sau khi cắt lúa, do lớp rạ lúa mùa nổi để lại trên đồng ruộng quá dày nên cần đốt bớt gốc rạ trước khi sạ.

Chú ý: Cần làm sau khi cho hạt mè rơi xuống đất, tránh trường hợp hạt mè còn nằm lại trên rạ nên khi nảy mầm rể không tiếp đất được sẽ khô và chết đi.

4/ Lượng giống và cách sạ:

Trước khi sạ nên xử lý thuốc BVTV như Basudin, Bam, Forwin, có thể trộn chung với Zineb, dùng nước hoà tan thuốc ở dạng sệt sau đó trộn hạt giống để cho thuốc áo một lớp ngoài vỏ để phòng trừ một số côn trùng tha hạt hay cắn phá mầm và tránh một số nấm bệnh tấn công gây chết cây con.

Lượng giống:

+ Đối với cách sạ trước khi cắt lúa nên dùng lượng giống từ 0,8-1 Kg/1.000m2, nhầm trừ hao hụt giống vướng trên rơm rạ.

+ Đối với cách sạ sau khi cắt lúa và có đốt rơm lượng giống từ 0,4-0,5 Kg/1.000m2

Cách sạ:

+ Sạ lan: Nên trộn giống đã xử lý với cát khô để sạ như sạ lúa, làm sao cho hạt giống phân bố đều trên đồng ruộng.

+ Sạ theo hàng: Có thể sạ trên ruộng đã cắt bằng cách căng dây, một người đi trước vạch gốc rạ, một người đi sau sạ theo hàng đã vạch.

Bón phân và chăm sóc

1/ Bón phân:

Bón lót: Đối với đất ruộng lúa mùa nổi có thể không cần bón lót vì lượng phù sa bồi đắp sau mùa nước để lại rất nhiều.

Bón thúc:

+ Lần 1: 10-12 ngày sau khi sạ, nên bón kết hợp với tỉa dặm cây và làm cỏ. Sử dụng 15 – 20Kg NPK/1.000 m2 ( có thể dùng phân NPK 16 – 16 – 8 hay 20 – 20 – 15 )

+ Lần 2: 40 – 42 ngày sau khi sạ, . Sử dụng 15 – 20Kg NPK/1.000 m2.

+ Lần 3: 55 – 60 ngày sau khi sạ, . Sử dụng thêm 5Kg Urê + 3Kg Kcl/1.000 m2 , tuỳ theo tình trạng phát triển của cây.

Chú ý: Không nên sử dụng bất cứ một loại thuốc dưỡng, phân bón lá nào đó khi chưa có sự đồng ý của cán bộ kỹ thuật hướng dẫn.

2/Chăm sóc:

Tỉa thưa và dặm cây: Đối với cây mè v6 chỉ yêu cầu mật độ cây từ 30-40 cây/m2, do đó cần nhổ bỏ những chỗ cây mọc dày và dặm lại những chỗ thưa cây, mất cây để đảm bảo mật độ cây/ diện tích, cần tiến hành sớm vào từ ngày thứ 7 – thứ 10 sau khi sạ để cây không bị mất sức do rễ bị đứt.

Tưới nước: Cây mè chịu hạn tương đối khá, nhưng cần tưới nước cho đủ ẩm, trước khi bón phân, phương pháp tưới tốt nhất là tưới phun, nếu tưới tràn phải đào rãnh thoát nước triệt để, tránh ngập úng.

Trừ cỏ:cần phun các loại thuốc cỏ chọn lọc như: Oneside, Dual,Whip’S . . .

Phòng trừ sâu bệnh: Cây mè thường bị sâu ăn tạp tấn công giai đoạn đầu, sâu xanh da láng , sâu đục trái-đục ngọn tấn công giai đoạn sau khi cây ra hoa đậu trái. Cây mè không có khả năng phục hồi lá như lúa, do đó cần phun thuốc BVTV có thời gian lưu tồn lâu trong cây như: Basudine,Forsan, Fekill, Regen . . . Bệnh thường gặp là héo cây con và héo tươi xuất hiện ở giai đoạn có bông kết trái, do nấm bệnh còn tồn lại sau vụ lúa, vì vậy cách hiệu quả nhất là xử lý hạt giống trước khi gieo sạ, có thể sử dụng các loại thuốc trừ nấm như: Validan, Manzate, Bonaza . . .

3/ Thu hoạch:

Thời gian sinh trưởng của mè V6 là 75 ngày, nên thu hoạch đúng thời vụ để tránh rơi rụng hạt mè ngoài đồng làm ảnh hưởng đến năng suất. Khi thấy lá chân và trái ở các mắt dưới gốc chuyển sang màu vàng thì thu hoạch, có thể dùng thuốc cỏ Gamaxon phun trước khi cắt cây 2 ngày để cho lá rụng (do Gamaxon chỉ có tác dụng tiếp xúc nên khi phun lên lá làm lá chết và rụng nhanh ).

Khi cắt nên bó thành từng bó nhỏ khoảng 10-15 cây/bó và dựng phơi trên đệm, lưới cước để tránh hạt rơi vãi ngoài đồng.

Sau khi giũ hạt cần giê sạch và tránh phơi hạt ngoài nắng gắt buổi trưa (nên phơi nắng sáng hoặc nắng chiều), vì hạt mè có một vỏ lụa mỏng gặp nắng gắt sẽ dễ tươm dầu chuyển màu làm ảnh hưởng đến phẩm chất hạt mè sau khi thu hoạch.

Có thể thử hạt mè phơi khô bằng cách thử bằng tay khô nắm chặt nắm mè sau đó buông tay ra nếu tay dính hạt là mè còn ướt cần tiếp tục phơi cho thật khô, nếu tay dính đất hoặc tạp chất là mè còn dơ cần giê lại. Sau khi mè khô và sạch thì cho vào bao để nơi thoáng mát tồn trữ.

Nguồn: Agriviet.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật thâm canh giống Mè Đen 2 vỏ Bình Thuận

Mè hay còn gọi là cây vừng (tên khoa học là Sesamum indicum L.) là cây chịu hạn rất tốt, có thể trồng và sinh trưởng trên các loại đất khác nhau, mè có thời gian sinh trưởng ngắn (75 – 85 ngày).

Làm đất

Đất phải được cày độ sâu 15 cm cho tơi xốp, bằng phẳng, kết hợp với bón lót.

Kích thước luống tuỳ vào điều kiện địa hình đất đai, ở những vùng khó thoát nước nên lên luống cao 15 – 20 cm, mặt luống rộng 0,5 – 1,5 m, rảnh rộng 20 – 30 cm để tiện việc chăm sóc tưới và thoát nước khi mưa (mè rất sợ úng, kể cả tình trạng úng cục bộ khi có mưa lớn).

Gieo trồng

– Lượng giống: 4 – 5 kg/ha.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo: 2 gr thuốc Rovral trộn đều cho 1 kg hạt, có thể xử lý khi có kiến bằng các loại thuốc như Vibasu…

Mè có thể gieo sạ hoặc gieo hàng, lưu ý trộn với thuốc kiến (Vibasu 10H) trước khi gieo để tránh bị mất cây.

– Gieo theo hàng: Rạch hàng sâu khoảng 4 – 5 cm, khoảng cách hàng 60 cm, khoảng cách hốc 15 cm, chừa 1 – 2 cây, lấp nhẹ và kín.

– Gieo sạ: Muốn sạ hạt cho đều thì gieo theo từng ô đất nhỏ với lượng hạt tương ứng và gieo 2 – 3 lần, sau đó gieo hết diện tích cần gieo. Sau khi sạ xong, cào nhẹ lớp đất mặt để lấp hạt sâu khoảng 1,5 cm. Nếu lấp hạt sâu quá thì hạt nảy mầm chậm và cây mọc yếu. Khi gieo hạt, đất phải đủ ẩm, nếu đất khô thì nên tưới nước và có thể lấp hạt sâu hơn nhưng không sâu quá 5 cm. Khi cây được 2 lá thật, tiến hành tỉa thưa chừa khoảng cách 60 x 15 cm, mỗi hốc 1-2 cây.

– Kinh nghiệm dân gian: Cho hạt mè vào chai nước khoáng rỗng, khoảng 1/2 – 1/3 chai, đục 1 – 2 lỗ nhỏ ở nắp chai, dốc ngược chai và rắc trên hàng.

Phân bón:

Lượng phân cho 1 ha: 120 kg N + 60 kg P2O5 +60 K2O + 300 kg vôi + 1.000 kg phân hữu cơ vi sinh/ha (tương đương 260 kg urê + 375 kg supe lân + 100 kg KCl + 300 kg vôi + 1.000 kg phân hữu cơ vi sinh).

– Nếu không bón các loại phân đơn thì có thể dùng NPK 16-16-8 với lượng 750 kg/ha.

– Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, vôi và supe lân + 1/3 urê + 1/3 KCl (hay bón lót 150 – 200 kg phân NPK16-16-8).

– Bón thúc: Lượng phân vô cơ còn lại chia làm 2 lần bón vào lúc 15 ngày sau gieo và 25 ngày sau gieo (có thể bón 1 lần vào lúc 20 ngày sau gieo).

– Phân bón lá: dùng Tiltsuper hoặc Headline phun 2 lần. Lần 1 phun vào lúc 20 ngày sau gieo và lần 2 phun vào lúc 40 ngày sau gieo.

Tưới, tiêu nước:

Mè rất sợ úng, nên tưới bằng vòi sen để cây không đổ ngã hoặc có thể tưới theo rãnh. Trong mùa mưa, khi gieo tránh để úng cục bộ. Trong mùa khô, cần tưới nước đều đặn và tuyệt đối không để bị hạn khi đang ra hoa.

Phòng trừ cỏ dại

– Có thể dùng bằng tay hoặc công cụ làm cỏ (xe đẩy cỏ), nên khống chế sạch cỏ trong giai đoạn đầu, từ khi mọc đến ra hoa và khép tán kín.

– Dùng Ronstar (tiền nảy mầm) phun kỹ trên mặt đất trước gieo, khi đất đủ ẩm hoặc phun Dual vào lúc 15 và 25 ngày sau gieo (liều lượng theo khuyến cáo cuả nhà sản xuất), xới xáo, kết hợp bón thúc, nếu mật độ dày thì tỉa thưa còn khoảng 10 – 20 cây/m2.

Phòng trừ sâu bệnh

– Sâu hại: Sâu hại mè chủ yếu là sâu gai, sâu xám, rệp, sâu đục thân và bọ xít. Có thể dùng một số loại thuốc thông dụng hiện nay trên thị trường như: Hopsan, Bassa, Fastac… để phòng trị.

– Bệnh hại: Mè thường bị 3 loại bệnh chủ yếu: đốm khô, héo khô và virút do lây truyền bởi rầy rệp. Cần chú ý phòng bệnh tốt bằng cách làm tốt vệ sinh đồng ruộng, chống úng, gieo trồng mật độ hợp lý. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ bệnh thông dụng như Champion, Vicarben…

– Chống úng là một trong những biện pháp phòng bệnh hiệu quả.

Thu hoạch

Khi có khoảng 2/3 quả và lá ngã màu vàng (một số cây có vài quả dưới gốc đã khô) thì thu hoạch. Không nên thu hoạch sớm vì có nhiều hạt lép và làm giảm phẩm chất mè, thu hoạch muộn thì bị nứt nẻ hoặc hạt rơi vãi. Thu lúc trời nắng ráo. Dùng liềm cắt và bó thành từng bó có đường kính từ 10 – 15 cm, rồi dựng đứng các bó từ 3 – 5 ngày và đập lấy hạt, sau đó sàng sảy sạch và phơi tiếp 2 – 3 nắng. Khi đang phơi mà gặp mưa, nếu quả chưa khô thì ít bị ảnh hưởng, nhưng nếu quả đã khô thì ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất hạt. Có thể ủ trong mát 2 – 4 ngày trước khi phơi nhưng không được chất thành đống.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Mè Đen đơn giản

Vừng đen là một thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và vị thuốc chữa bệnh tốt. Mọi người có thể tự trồng ngay tại nhà mình.

Mè đen còn gọi là hồ ma, du tử miêu, vừng đen có rất nhiều công dụng làm đẹp và chữa bệnh. Hơn nữa kỹ thuật trồng mè đen không khó nên mọi người có thể dễ dàng trồng cho thu hoạch cao nhất.

Thời vụ gieo trồng

Mè có thể trồng quanh năm, tuy nhiên tùy điều kiện địa hình của từng vùng chọn thời điểm xuống giống thích hợp và mang lại hiệu quả kinh tế nhất. Mè là cây chịu hạn, nhưng để hạt giống nảy mầm tốt yêu cầu đất phải đủ ẩm, đất quá khô hay thừa nước đều làm hạt nảy mầm yếu và không đồng đều.

Vụ Đông Xuân: Gieo từ tháng 12-1 dương lịch, thu hoạch tháng 2–3 dương lịch, vụ này cho năng suất cao nhất trong năm, thuận lợi cho thu hoạch và phơi hạt dễ dàng, hạt có màu sáng đẹp, ít bị nấm mốc tấn công. Trồng mè vụ Đông Xuân cây ít đổ ngã, ít sâu bệnh, tuy nhiên trong vụ Đông Xuân cây mè khó cạnh tranh được với cây ngô, lạc.

Vụ Hè Thu: Nên trồng trên đất cao, thoát nước tốt, tránh úng khi gặp mưa nhiều. Gieo vào tháng 4-5 dương lịch thu hoạch vào tháng 6-7 dương lịch. Chủ yếu làm ở vụ Hè Thu, gieo trên đất màu hoặc đất lúa sau khi đã thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân. Vụ này hay gặp hạn khi gieo và gặp mưa to gây ngập úng cục bộ ở một số vùng vào thời kỳ thu hoạch. Vì vậy gieo càng sớm càng tốt.

Giống

Phân loại về màu sắc có hai loại: Mè đen: Dễ trồng, mọc khỏe, sai quả, chín muộn hơn mè trắng, thời gian sinh trưởng 3,0-3,5 tháng, thích hợp với đất và khí hậu đồi núi. Mè trắng: Loại quả tròn, sai quả, chín sớm, thời gian sinh trưởng 2,5-3 tháng, thích hợp với việc tăng vụ trồng xen.

Làm đất

Đất trồng mè: Thích hợp trên các chân đất thịt nhẹ, đất cát pha và thoát nước tốt. Làm đất: Hạt mè rất nhỏ nên phải làm đất thật kỹ, nếu không làm đất kỹ hạt mè sẽ bị vùi khó nảy mầm. Đất cày sâu 15-20 cm, bừa kỹ nhiều lượt. Làm đất thật nhỏ và sạch cỏ, sau đó tiến hành lên luống.

Trồng mè đen cần chút kỹ thuật chăm sóc cẩn thận

Lên luống: Lên luống cao 15-20cm, luống rộng 1,5-2,5m, rãnh rộng 30-35cm để thoát nước tốt, mặt luống có hình lưng rùa. Những vùng đất cát pha, tơi xốp, thoát nước tốt thì gieo mè xong mới vét rãnh thoát nước, tạo thành từng luống rộng từ 2,5-3m.

Kỹ thuật gieo

Gieo thưa, lượng hạt giống 3 kg/ha; trước khi gieo xử lý hạt giống bằng Polyram (3-5g/1kg hạt) hoặc Tricho ĐHCT (5g/1 kg hạt). Sạ lan cần trộn hạt giống với đất bột sạ cho đều, hoặc sạ hàng bằng công cụ sạ mè theo hàng.

Bón phân

Lượng bón cho 1 ha: 90N:40P2O5:60K2O +200-300 kg hữu cơ vi sinh + 200-300 kg vôi.

+ Cách 1: lót phân hữu cơ + vôi + 150 kg NPK 20:20:15 + 25 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 50 kg NPK 20:20:15 + 100 kg Urê + 25 kg Kaliclorua/ha.

+ Cách 2: lót phân hữu cơ + vôi + 150 kg Supe lân + 50 kg NPK 20:20:15 + 75 kg Urê + 35 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 90 kg NPK 20:20:15 + 60 kg Urê + 30 kg Kaliclorua/ha.

+ Cách 3: lót phân hữu cơ + vôi + 50 kg DAP + 100 kg Urê + 50 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 40 kg DAP + 60 kg Urê + 50 kg Kaliclorua/ha.

Quản lý nước

Mè đen có nhiều công dụng trong nấu ăn, làm đẹp và chữa bệnh

Nguyên tắc đất đủ ẩm, không đọng nước sau mưa, sau tưới, có hệ thống thoát úng tốt, tranh thủ xuống giống khi đất còn ẩm. Các giai đoạn cần nước của cây: nẩy mầm (sau gieo); bắt đầu ra hoa (20-25 ngày); đậu trái (30-35 ngày); trái chắc (40-50 ngày) và thời kỳ chín (60-65 ngày).

Tỉa thưa và dặm

Tỉa thưa: là kỹ thuật bắt buộc, giúp cây phát triển đồng đều, khỏe, phân cành mạnh. Tỉa sớm khi cây 12-14 ngày tuổi. Khoảng cách sau tỉa 25-30 cm. Nên sử dụng công cụ sạ hàng để giảm bớt công tỉa. Dặm mè: sau gieo từ 5-7 ngày, nếu diện tích mè chết 25% nên sạ lại.

Thu hoạch

Khi cây vừng có 3/4 số lá ngả vàng , quả đã cứng, chuyển màu từ vàng xanh sang vàng thẫm hoặc vàng nâu là thu hoạch được. Dùng liềm cắt cách gốc 10cm, đem về ủ 1-2 hôm cho rụng hết lá rồi tãi ra sân phơi có lót màng nilon hoặc nong nia trong 4-5 giờ, sau đó đập, sàng sẩy lấy hạt. Hạt vừng được phơi lại 1-2 nắng nữa cho khô (độ thủy phần khoảng 13%) thì đem tiêu thụ hoặc đưa vào kho bảo quản.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sản xuất giống rau Xà Lách, rau Diếp

Rau diếp có hàm lượng dinh dưỡng thấp , hàm lượng nước 94- 95% trong lá. Trong rau diếp có một số dinh dưỡng như vitamin A, C, nguyên tố vi lượng như Can xi, phốt phát, sắt, sodium và kali. Mặc dù vậy rau diếp, xà lách là loại rau làm xa lát quan trọng nhất. Để sản xuất giống rau diếp, xà lách; Fman xin giới thiệu cho bà con những lưu ý và kỹ thuật sau:

Tương tự như hướng dương, rau diếp là cây giao phấn đặc biệt nó dễ dàng giao phấn với loài rau diếp dại (Lactuca serriola). Rau diếp, xà lách là loài có hàm lượng nhựa mủ cao ở thân và lá. Rau diếp thích hợp sinh trưởng trong điều kiện lạnh độ ẩm cao và ánh sáng đầy đủ. Rau diếp cuốn thì điều kiện nhiệt độ thấp ban đêm rất cần thiết cho rau cuốn chặt.

Rau diếp có loại hình là rau diếp xoăn và lá thẳng, xà lách cũng có hai loại là xà lách cuốn và xà lách li ti.

Quá trình sinh sản của rau diếp, xà lách

Các giống rau diếp phản ứng quang chu kỳ hoặc không và nhiệt độ cao trên 18oC sẽ chuyển từ giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Để tăng số hoa có thể áp dụng 3 phương pháp những tốt nhất là phun GA3 với nồng độ 20 – 500ppm khi rau diếp 3 – 5 lá để kích thích ra chồi hoa.

Bông hoa ra diếp do nhiều hoa nhỏ tạo nên cụm hoa, nhiều hoa nhỏ hình thành ở các giai đoạn khác nhau. Nhưng 90% năng suất hạt được tạo nên ở những hoa ra đầu trong pham vi 35 ngày của tổng thời gian ra hoa khoảng 70 ngày.

Yêu cầu môi trường

Xà lách , rau diếp là cây ưa nhiệt độ thấp, nhiệt độ thích hợp của xà lách từ 8 – 25 oC để
cuốn, nhưng rau diếp nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng 10 -27 oC. Nhiệt độ để chuyển giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng sáng sinh trưởng sinh thực là trên 18oC, ánh sáng ngày ngắn sang ngày dài.

Độ ẩm thích hợp 70 – 80%. Đất sản xuất hạt giống cần đất tốt, giàu mùn để có năng suất hạt lai cao, độ pH từ 6,0 đến 6,6 thích hợp cho sản xuất hạt.

Các giống rau diếp, xà lách

Các giống ra diếp xà lách trồng phổ biến ở nước ta chủ yếu là giống địa phương như rau
diếp xoăn (ra diếp ngô), rau diếp ta, xà lách trứng, xà lách li ti giống ưu thế lai chủ yếu từ nguồn nhập nội và các công ty nước ngoài hay liên doanh sản xuất tại Việt Nam

Kỹ thuật sản xuất

Thời vụ gieo trồng: Thời vụ trồng ở nước ta có thể gieo trồng từ tháng 8 ở đồng bằng, vùng núi khoảng tháng 10 để sản xuất hạt

Làm đất chăm bón: Đất trồng sản xuất hạt, cày sâu khoảng 30 cm và cày sớm, bừa kỹ và phẳng, lên luống cao 10 – 15cm, mặt luống 70 cm phẳng để trồng 2 hàng thuận tiện cho làm giàn đỡ cành hoa. Rãnh giữa các luống 25 – 30 cm để thoát nước và tưới nước thuận tiện.

Mật độ khoảng cách

Gieo trồng : Hạt rau diếp, xà lách nảy mầm khi nhiệt độ đất 17oC và tối ưu là 24oC, nếu khi gieo nhiệt độ cao nên gieo vào buổi chiều tối và tưới nước để giảm nhiệt độ. Lượng hạt gieo sản xuất hạt giống khoảng 2,4 kg/ha. Khoảng cách gieo hàng cách hàng 38cm, cây cách cây 5 – 7 cm.

Các cây được tỉa thưa sau gieo 4 – 6 tuần sau gieo đảm bảo hàng cách hàng 25 – 30 cm để đạt số cây trên ha khoảng 74000 cây

Phân bón cho sản xuất hạt giống rau diếp và xà lách tỷ lệ N: P : K thích hợp là 3:2:2 cho
giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng. Phân đạm hạn chế bón lót và trong thời gian trồng, phân bón lót yêu cầu 7-10 tấn phân chuồng hoai mục + 40kg kali.

Chăm sóc

Sau khi gieo cần phải tưới ngay để tăng tỷ lệ nảy mầm, nếu trồng cây con tưới ngay sau
trồng. Sau đó tưới nước thường xuyên để giữ ẩm, kết hợp xới xáo và làm cỏ. Khi cây thiếu phân biểu hiện lá màu xanh nhạt tưới thúc bằng cách hòa phân đạm loãng và tưới, tưới xong phải rửa bằng nước sạch để không gây hại cho lá. Tưới nước từ khi bắt đầu cây ra hoa đối với rau diếp và xà lách là rất quan trọng để đảm bảo năng suất hạt.

Làm giàn

Làm giàn đỡ cành hoa như các cây họ thập tự, cố thể cắm cọc mỗi cọc cho một cây và buộc cành hoa vào cọc bằng dây mềm

Phòng trừ sâu bệnh

Sâu bệnh hại ra diếp chủ yếu là sâu ăn lá, rệp hại và là vectơ truyền một số bệnh virus, rệp gây hại nặng trong điều kiện nhiệt độ cao. Bệnh hại rau diếp là virus khảm là loại có thể truyền qua hạt gây cây con sinh ra còi cọc, lá vàng. Ngoài ra rau diếp và xà lách còn bị một số bệnh nấm như nấm phấn trắng. Sâu bệnh có thể làm giảm năng suất hạt nghiêm trọng đặc biệt là bệnh virus.

Khử lẫn

Loại bỏ cây khác dạng khi bắt đầu có ngồng hoa, căn cứ vào màu sắc thân lá, dạng hoa,
cành hoa và màu sắc hoa, lá để xác định cây đúng giống và cây khác dạng.

Thu hoạch, tách hạt,

Từ khi ra hoa đến khi hạt chín khoảng 12 – 21 ngày tùy theo giống, nhưng rau diếp xà lách hạt không chín cùng một lúc nên thu hoạch khi một nửa hạt trên đầu chín, căn cứ để biết hạt chín là mào hạt mở hoàn toàn, hạt khô. Thu hoạch có thể bằng máy hoặc bằng tay, cắt cả cây hoặc cành hoa và nên cắt vào buổi sáng khi vẫn còn sương để không rơi hạt giảm năng suất. Cành hoa sau khi cắt phơi và rũ hạt vào túi ni lông để không rơi hạt, công việc rũ hạt lặp lai 2 – 3 ngày.

Khi ra hoa xà lách rất sợ rét, hạt phấn xà lách rất yếu chịu đựng và mất sức nảy mầm rất
nhanh. Vì thế ở các vùng núi Sapa xà lách để giống được gieo vào tháng 10, ở các tỉnh đồng bằng thì gieo vào tháng 8 và đàu tháng 9. Cây giống cần được bón thúc một lần trước lúc làm giàn để cây có sức ra hoa quả đều và nhiều.

Làm sách sau khi phơi loại bỏ tạp chất và những hạt lép lửng, làm sạch bằng sàng xảy hay máy quạt sau đó phân loại hạt và đóng túi bảo quản. Phơi hạt khi độ ẩm đạt 7% là độ ẩm bảo quản với hạt xà lách, rau diếp. Hạt rau diếp rất dễ chết lá mầm, nguyên nhân hư hỏng lá mầm của hạt rau diếp , xà lách đến nay vẫn chưa được biết rõ ràng. Vì thế bảo quản hạt trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ thấp là biện pháp tốt nhất để tránh hư hỏng hạt trong quá trình bảo quản.