Kỹ thuật nuôi cá tra và cá basa trong bè

Cá basa được nuôi khá nhiều ở Việt Nam lại có giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên để cá nhanh lớn đạt chất lượng tốt cần đảm bảo kỹ thuật nuôi tốt

1. Thiết kế và xây dựng bè.

Bè nuôi cá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long thường được kết hợp vừa là bè cá vừa là nhà ở.

Dựa vào thời gian sử dụng mà chia ra 2 nhóm bè: bè kiên cố và bè tạm thời.

Nhóm bè tạm thời thường nhỏ và được đóng bằng tre hoặc loại gỗ chịu nước kém.

Bè cỡ trung và cỡ lớn thường nằm trong nhóm bè kiên cố. Các bè này được đóng bằng gỗ tốt và chịu nước như gỗ sao, vên vên, căm xe, chò chỉ, dầu, bằng lăng. Loại bè này đủ sức chịu đựng được với điều kiện sóng gió, nước chảy và khá bền, có khi tới 50 năm Việc đóng mới các loại bè kiên cố hiện nay cũng gặp khó khăn do khan hiếm các loại gỗ tốt. Vì vậy có một số bè mới được thiết kế bằng các loại vật liệu mới như bè ximăng lưới thép …

Bè nuôi cá thường có dạng hộp chữ nhật, ngoại trừ một số bè cỡ nhỏ dùng cho ương cá giống thì có dạng hộp vuông. Người nuôi cá bè cho rằng dạng bè hộp chữ nhật dễ dàng trong chọn gỗ thiết kế và quản lý sử dụng. Ngoài ra dạng này cũng phù hợp cho việc làm nhà trên bè theo truyền thống và cũng là nơi chế biến thức ăn, nhà kho, chuồng chăn nuôi…

Đầu tư đóng một bè nuôi khá tốn kém, vì vậy nguồn vốn là yếu tố quyết định cho việc đóng cỡ bè lớn hay nhỏ. Thời gian vừa qua đa số bè của các cơ sở quốc doanh do được đầu tư cao nên kích thước bè đóng khá lớn (thường là bè cỡ lớn, 500 đến 1000 mét khối). Bè lớn thì thuận lợi cũng như thích hợp cho nuôi các loài cá kích thước lớn và bơi nhanh như cá tra, basa.

Các bộ phận chính của bè gồm có:

– Khung bè: gồm có trụ đứng, đà dọc, đà ngang và cây chéo (cây xiên tả). Khung bè được kết cấu bằng gỗ tốt, kích thước thanh gỗ phù hợp để đảm bảo không bị biến dạng bởi sóng nước trong thời gian sử dụng.

– Mặt bè:được đóng kín bằng thanh nẹp gỗ, có chứa 2-3 cửa để cho cá ăn, chăm sóc và thu hoạch cá. Cửa mặt bè có nắp đậy và nâng hạ được, kích thước 1m x 2m. Nẹp gỗ đóng theo chiều ngang của bè, cách nhau 1-,5cm.

– Hông bè: được ghép bằng ván gỗ ở phía trong trụ đứng, khe hở giữa các tấm ván cách nhau 1 – 1,5cm để cá không thoát ra ngoài, đôi khi khoảng cách này còn tùy thuộc vào tốc độ dòng chảy. Nếu dòng chảy qua bè quá mạnh làm cá luôn hoạt động sẽ tốn năng lượng và kém ăn, ngược lại, nếu nước qua bè quá chậm sẽ làm cá thiếu oxy, các chất cặn bã, phù sa tích tụ trong bè có thể gây ô nhiễm và dễ làm cho cá nhiễm bệnh.

– Đầu bè: đóng bằng lưới kẽm, lưới đồng hoặc lưới Inox có kích thước mắt nhỏ hình vuông (1,5 x 1,5 – 2 x 2cm). Các bè nhỏ thì đầu bè đóng bằng các thanh nẹp gỗ phía bên trong trụ đứng, chỉ chừa một khoảng ở giữa để đóng lưới Inox.

– Đáy bè: đóng ván khép kín (chừa khe hở 1 – 1,5cm) để tránh thất thoát thức ăn và cho các loài cá nuôi ghép ăn đáy tận dụng hết thức ăn thừa.

– Phần nổi: ghép bằng các thùng phuy (200 lít), hoặc bằng cây tre hay thùng nhựa PVC. Thùng phuy phải được sơn chống rỉ sét và dầu hắc. – Neo bè: để cố định bè, gồm mỏ neo, dây neo nylon có đường kính 2-3cm. Có thể neo 4 góc bè hoặc 2 dây neo và 2 dây cột vào trụ cố định. Hiện nay có nhiều kích cỡ bè khác nhau, kích cỡ truyền thống và phổ biến chủ yếu như sau:

Loại Kích thước ( dài x rộng x cao) (m) Loài cá thả Độ sâu nước (m) Thể tích bè m3
Cở nhỏ (6-8) x (3-5) x (2,5 – 3,5) Tra, Chày 2 20-100
Trung bình (9-12) x (4-9) x (3,0-3,5) Tra, basa, hú 2,5-3 100 – 500
Bè lớn (12-30) x (9-12) x (4-4,5) Tra, basa, hú 3,5-4 500 – 1600

Các công cụ và phương tiện cần thiết phục vụ cho nuôi cá bè gồm có:

– Động cơ để quạt nước (mô tơ điện hoặc máy diezen) hỗ trợ dòng chảy trong bè, nhất là từ giữa đến cuối mùa khô, nước chảy chậm, phù sa và cặn bã tích tụ trong bè, gây thiếu oxy cho cá.

– Thuyền, ghe lắp máy để vận chuyển thức ăn, mua nguyên vật liệu và hổ trợ bơm nước. – Lò nấu thức ăn.

– Máy xay, trộn và ép thức ăn.

2. Vị trí để đặt bè nuôi cá.

Bè được đặt nổi và neo cố định tại một điểm trên sông, vì vậy phải lựa chọn những vị trí thích hợp nhiều mặt, tiện lợi cho nuôi cá, nhưng không làm cản trở giao thông và hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước.

Bè được đặt gần bờ dọc theo chiều nước chảy, nơi thoáng, có dòng chảy liên tục, lưu tốc thích hợp (0, 2 -,5m/giây), mực nước sông ít thay đổi theo thủy triều và độ sâu tối thiểu phải cao hơn chiều cao ngập nước của bè 0,5 – 1m để tránh cho bè không bị đội lên mặt nước.

Nước sông nơi đặt bè không ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, trong mùa khô khi nước bị nhiễm mặn thì độ mặn cho phép cá chịu đựng được và không thay đổi đột ngột. Nguồn nước lưu thông tương đối trong sạch, không bị ô nhiễm, nhất là gần các cống nước, thải đô thị, nước thải các nhà máy sử dụng hóa chất, nhà máy giấy, nhuộm, tẩy rửa và chứa các độc tố, các khu ruộng lúa sử dụng thuốc sát trùng … Tránh nơi có luồng nước ngầm, nơi khúc quanh của sông, nơi sông bồi tụ, xói lở, nơi có nhiều rong cỏ, nơi dòng nước có quá nhiều phù sa.

Ngoài ra, bè nuôi cá nên đặt gần nguồn cung cấp thực phẩm nuôi cá, vị trí thuận tiện giao lưu, gần các trục lộ giao thông thủy bộ để việc vận chuyển thức ăn, cá giống và buôn bán cá thịt được dễ dàng thuận lợi. Khi chọn vị trí đặt bè phải xem xét nhiều mặt, cân nhắc hợp lý các điều kiện và các tiêu chuẩn trên để quyết định chính xác, vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém và ảnh hưởng đến cá nuôi và kết quả nuôi. Tuy nhiên, lưu tốc dòng chảy, chất lượng nước và nguồn nguyên liệu thức ăn là những yếu tố quan trọng hàng đầu.

Nguồn: Tép Bạc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Cá Ba Sa trong ao đạt chất lượng cao

Để có được kỹ thuật nuôi cá basa trong ao đúng cách đạt năng suất và chất lượng tốt không phải ai cũng làm được. Bởi vì nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan.

1. Thiết kế và xây dựng ao

Lựa chọn vị trí

Việc đầu tiên trong kỹ thuật nuôi cá basa trong ao là phải lựa chọn vị trí nên nuôi cá basa ở đâu cho thích hợp. Nên chọn những ao gần sông và kênh mương lớn để tiện cho việc lấy nước. Tuy nhiên mực nước sông ít thay đổi và có độ sâu tối thiểu 1,5m. Bên cạnh đó nguồn nước đó không bị nhiễm phèn, hay bị ô nhiễm bởi các chất thải từ các nhà máy, khu dân cư và các chất độc hại khác….Ngoài ra nên xây dựng ao nuôi ở gần nguồn cung cấp thức ăn dành cho cá basa, nơi thuận lợi để vận chuyển và buôn bán cá sau khi thu hoạch.

Chuẩn bị ao

Thông thường, nên chọn ao nuôi cá basa có diện tích khoảng trên 500m2, mực nước có độ sâu từ 2-3m. Bờ ao phải chắc chắn và có cống để giúp thoát nước dễ dàng cho ao. Lưu ý về các tiêu chí của môi trường ao như: nước có nhiệt độ từ 26-30 độ C, pH thích hợp từ 7-8, và hàm lượng oxy hòa tan trên 2mg/lít. Trước khi tiến hành thả cá vào ao, nên dọn ao thật sạch sẽ, vét bớt bùn, tát cạn nước, dọn dẹp cỏ và bắt hết các loại cá tạp. Sau đó rải vôi ở bờ và đáy ao để khử độc cũng như điều chỉnh độ pH thích hợp. Tiếp tục phơi ao trong vòng 2-3 ngày, cuối cùng bơm nước vào sao cho mực nước đạt yêu cầu rồi tiến hành thả giống. Đây là những yêu cầu cơ bản trong kĩ thuật nuôi cá basa trong ao.

2. Mùa vụ nuôi

Trước đây, nguồn giống thường phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên bà con nông dân thường chỉ nuôi 2 mùa chính, vụ 1 (tháng 4-6), vụ 2 (tháng 11-12), thu hoạch cá thịt vào tháng 5-6 hoặc tháng 12-1 năm sau đó.

Tuy nhiên, ngày nay với công nghệ hiện đại, đã chủ động được con giống sinh sản nhân tạo nên mùa vụ thả giống có thể nuôi quanh năm.

3. Chọn cá giống với kỹ thuật nuôi cá basa trong ao

Chọn cá giống là khâu cực kì quan trọng trong kỹ thuật nuôi cá basa trong ao, khi chọn giống phải là những con khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, không có dấu hiệu bệnh tật hay xây xát và có kích cỡ đều nhau để tránh tình trạng tăng trưởng không đồng đều. Thường thì cá basa có chiều dài từ 10-12cm.

Nên thả cá ở mật độ từ 15-20 con/m2.

Trước khi tiến hành thả cá, cần tắm cho cá tầm 5-6 phút với nước muối 2% để khử trùng. Nên thả từ từ, nhẹ nhàng để cá thích nghi dần với môi trường mới.

4. Thức ăn nuôi cá basa

Các loại thức ăn

Đối với kỹ thuật nuôi cá basa trong ao có 2 loại thức ăn là thức ăn tự chế biến và thức ăn công nghiệp. Do giá thành thức ăn công nghiệp khá cao nên hiện nay, các hộ nuôi cá basa thường sử dụng thức ăn tự chế biến, bởi nguyên liệu rẻ và dễ kiếm, dễ tận dụng. Tuy nhiên, loại thức ăn này lại ít hàm lượng dinh dưỡng và mất nhiều thời gian chế biến. Trong khi đó thức ăn công nghiệp hàm lượng dinh dưỡng ổn định, vừa dễ sử dụng, bảo quản cũng như vận chuyển dễ dàng. Nếu dùng thức ăn công nghiệp thì trong 2 tháng đầu mới thả nuôi, nên cho ăn loại thức ăn có hàm lượng đạm 28-30%, các tháng tiếp theo giảm dần hàm lượng đạm còn khoảng 25-26%.

Hai tháng cuối cùng chỉ sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm 20-22%. Còn đối với thức ăn tự chế biến thì nguyên liệu gồm có cá tạp, cá khô tạp, bột cá, đậu nành, cám gạo, tấm, rau xanh và một số phụ phẩm khác. Nên trộn thêm premix khoáng và vitamin C để kích thích cá ăn nhiều và sức đề kháng tốt hơn.

Chế biến thức ăn

Ở kĩ thuật nuôi cá basa trong ao này, thức ăn cho cá nên được trộn đều và xay thật nhuyễn rồi nấu chín. Thức ăn viên công nghiệp thường có cả dạng chìm và nổi, được tính toán và phối chế cân đối, hợp lý các thành phần và hàm lượng dinh dưỡng phù hợp cho cá. Lưu ý đối với cả 2 loại thức ăn phải tuân theo quy định không được chứa các loại hóa chất, nấm mốc, hoặc kháng sinh đã bị cấm, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Phương pháp cho ăn

Nên vo thức ăn lại thành các viên tròn nhỏ rồi rải từ từ cho cá ăn từng ít một để cá sử dụng một cách triệt để.

Mỗi ngày cần chia ra 2 lần để cho cá ăn, buổi sáng từ 6-10 giờ, buổi chiều từ 16-18 giờ. Thường xuyên quan sát và theo dõi tình hình ăn và tăng trưởng của cá để tính toán điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý, không để cá ăn thiếu hoặc dư thừa thức ăn. Không cho cá ăn thức ăn quá hạn sử dụng. Ngoài ra, luôn vệ sinh sạch sẽ thường xuyên hàng ngày nơi chế biến thức ăn cũng như các thiết bị, dụng cụ chế biến thức ăn. Ở kỹ thuật nuôi cá basa trong ao, đòi hỏi phải có phương pháp cho ăn đúng thì cá mới có thể tăng trưởng nhanh và đạt chất lượng tốt.

5. Quản lý chăm sóc

Quản lý ao

Đối với kỹ thuật nuôi cá basa trong ao thì việc dành thời gian quan sát, kiểm tra ao là không thể thiếu. Bởi để kịp thời phát hiện và xử lý các hiện tượng bất thường như bờ ao bị sạt lở, cống bọng bị rò rỉ, hư hỏng…

Quản lý chất hóa học

Không được dùng thuốc và hóa chất cấm mà phải cập nhật thông tin thường xuyên về thuốc và hóa chất sử dụng trong ngành thủy sản qua đào tạo. Nên theo hướng dẫn trên nhãn sản phẩm thuốc, hóa chất để sử dụng một cách hợp lý về liều dùng, nơi bảo quản, thời kỳ hết hạn sử dụng. Không sử dụng sản phẩm thuốc, hóa chất không rõ nguồn gốc hay hết hạn sử dụng.

Quản lý chất thải và môi trường

Đây là việc cực kì quan trọng và không thể thiếu trong kĩ thuật nuôi cá basa trong ao. Cần phải thay nước mới hàng ngày, để cá có môi trường sống sạch, tránh bị bệnh. Không thả các loại chất thải xuống ao nuôi cá. Nước thải ra từ ao nuôi phải được xử lý khoa học trước khi thải ra sông để tránh làm ô nhiễm môi trường xung quanh và ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng.

Quản lý dịch bệnh

Khi phát hiện có hiện tượng cá nổi đầu khác với bình thường, nhanh chóng xác định nguyên nhân, tìm hiểu bệnh và có biện pháp xử lý kịp thời. Để phòng bệnh cho cá và khử trùng nước ao, có thể dùng vôi bột hòa nước và rải đều khắp ao với liều lượng 1,5-2kg/100m3 nước ao. Hoặc có thể dùng các loại chế phẩm vi sinh hoặc formol để xử lý và khử trùng nước ao nuôi.

Trên đây là toàn bộ kỹ thuật nuôi cá basa trong ao mà bà con có thể áp dụng cho hộ gia đình mình. Tình hình nuôi cá basa ở Việt Nam chuyển biến tốt dần dần. Cá basa khá dễ nuôi nhưng nếu không biết cách thì sẽ không thể đem lại được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy nên tìm hiểu thật kỹ càng mô hình kỹ thuật nuôi cá basa trong ao đúng cách để có một vụ mùa bội thu.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo Cá Ba Sa và Cá Tra

Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu sang nước ngoài thì các hộ nuôi trồng đã không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc tăng trọng nhanh cho cá cũng như kỹ thuật nuôi cá tra và cá basa để tạo ra những loại cá chất lượng nhất, thịt ngon nhất. Bên cạnh đó, Việc chủ động nguồn giống cũng rất quan trọng trong quy mô nuôi cá công nghiệp.

1. Nuôi vỗ cá bố mẹ:

Cá bố mẹ chọn nuôi vỗ phải khỏe mạnh, có độ tuổi 3 tuổi trở lên (nặng 2,5-3kg). Nơi nuôi cá bố mẹ: có thể trong ao đất hoặc trong bè:

– Trong ao đất: diện tích ao ít nhất 500 mét vuông trở lên (cá tra) và 1500 mét vuông (cá basa), độ sâu từ 1,2-1,5m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động cấp thoát. Ao nuôi phải được thay nước thường xuyên, có thể lợi dụng thủy triều hàng ngày để thay nước cho ao.

– Nuôi trong bè: Bè đặt trên sông nước chảy để thuận lợi cho sự thành thục của cá bố mẹ. Mật độ thả nuôi: Trong ao: 2kg/10 mét vuông (cá tra), 0,5 – 1kg/10 mét vuông (basa) Trong bè: 1kg trên mét khối (cá tra), 0,5 kg trên mét khối (basa) Có thể nuôi chung đực cái trong ao hoặc bè, tỷ lệ đực/cái là 0,7-1/1

2. Mùa vụ nuôi vỗ và thức ăn cho bố mẹ:

Mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 9 – 10 hàng năm, thức ăn phải có hàm lượng đạm 30% (cá tra) và 35% (basa) trở lên. Có thể sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để chế biến thức ăn hỗn hợp cho cá bố mẹ. Các loại nguyên liệu chính là cá tạp tươi, cá khô, bột cá, ruốc, bột đậu nành, cám gạo, tấm, bột bắp, bánh dầu, rau xanh, bí, cơm, dừa v.v… Cần phối chế hợp lý các thành phần để đảm bảo đủ hàm lượng đạm trong thức ăn. Nếu hỗn hợp thức ăn là nguyên liệu cá tươi thì khẩu phần ăn cho cá 4-6% trọng lượng thân cá/ngày. Nếu là thức ăn công nghiệp dạng khô (viên) thì 1-2% mỗi ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 1-2 lần. Thức ăn hỗn hợp chế biến cho cá bố mẹ trong bè phải có độ dẻo và dính để giảm bớt sự tan rã trong nước làm lãng phí thức ăn. Trong ao có thể để thức ăn trong sàn (nong, nia) treo cách đáy 0,2 – 0,3m.

3 Cho đẻ nhân tạo

3.1 Chọn cá bố mẹ

– Chọn cá đã nuôi vỗ thành thục có buồng trứng phát triển ở giai đoạn bốn (IV), ngoại hình cá cái bụng to, mềm, lỗ sinh dục hồng, các hạt trứng đều, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt, đường kính đa số 1mm trở lên (cá tra) và 1,8mm trở lên (cá basa). Cá đực có tinh dịch tốt, trắng và đặc. 2.3.2 Sử dụng kích dục tố: Các loại kích dục tố đang sử dụng phổ biến hiện nay là HCG (Human chorionic gonadotropin), LHRH a (Lutenizing hormone Releasing hormone) và não thùy thể cá (chép, mè, trê, tra …)

Kích dục tố có thể dùng đơn hoặc kết hợp nhiều loại (cho liều tiêm quyết định). Dùng phương pháp tiêm nhiều lần sơ bộ (1-4 lần) và 1 lần quyết định cho cá cái, cá đực thì tiêm 1 lần cùng với liều quyết định của cá cái.

Đối với HCG: Tiêm sơ bộ 300-1000 UI/kg cá cái Tiêm quyết định 2500-3000UI/kg cá cái

Não thùy thể cá phối hợp HCG:
+ Liều sơ bộ: 0,2 – 0,3mg não thùy/kg cá cái
+ Liều quyết định: 1500-2000 UI (HCG) + 3 -5mg não thùy
+ Hoặc 70 – 100microgam LHRHa +3 -5mg não thùy/kg cá cái

Cá đực chỉ tiêm 1 lần với lượng dùng 1/4 – 1/3 so với liều quyết định của cá cái. Ngoài ra, tuỳ theo chất lượng và độ thành thục của trứng để điều chỉnh liều lượng và phối hợp chủng loại kích dục tố cho thích hợp. Điều này phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và tay nghề của người kỹ thuật

Thời gian hiệu ứng của kích dục tố sau liều tiêm quyết định từ 8-12 giờ. Khi cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Có thể khử dính trứng (sau khi thụ tinh) bằng Tanin hoặc không cần khử dính, cho trứng dính trên các giá thể làm bằng lưới nylon. Ấp trứng trong bể ấp hoặc bình weise (vây)

Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, cá bột sẽ nở sau 20 – 24 giờ (cá tra) và 28-33 giờ (basa). Cá tra sau khi nở 20 – 24 giờ, nhanh chóng chuyển cá xuống ao ương để tránh tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau khi bắt đầu hết noãn hoàng. Đối với cá basa, nên chuyển cá bột hết noãn hoàng vào ương trong bể ximăng, cá bột basa không ăn thịt lẫn nhau như cá tra bột.

3.3 Ương cá giống:

Ao có diện tích tối thiểu 500 mét vuông trở lên, độ sâu nước 1 – 1,5m. Chuẩn bị ao theo quy trình chung ương nuôi các loài cá: tát cạn, diệt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột (7-10kg/100 mét vuông đáy ao), phơi đáy 1-2 ngày, bón lót phân chuồng 10-15kg trên 100 mét vuông (phân gà, cút, heo …) hoặc 1-1,5kg (lân + urê) trên 100 mét vuông đáy ao. Sau đó đưa nước sâu 0,3 – 0,4m và thả giống trùng chỉ và trứng nước (Moina).

Thả cá bột và tiếp tục đưa nước từ từ vào ao cho đến khi đạt yêu cầu. Mật độ thả 400-500 con trên mét vuông. Các khâu trên là nhằm đảm bảo được lượng thức ăn tự nhiên cho cá ngay sau khi cá bột xuống ao, hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của chúng.

Sau khi thả bột, hàng ngày bổ sung tiếp tục thức ăn cho cá: cứ 10.000 cá bột dùng 200 gam đậu nành xay nhuyễn, nấu chín và 20 lòng đỏ hột vịt (luộc chín), trộn đều và rải đều khắp ao.

Sau 10 ngày, tăng lượng thức ăn thêm 50% và cho ăn dặm trùn chỉ.

Sau tuần lễ thứ 2 có thể cho ăn thức ăn chế biến bằng cá và ốc (phần thịt) xay nhuyễn trộn bột gòn.

Sau 1 tháng, cho ăn cám + bột cá (tỷ lệ 1/1) hoặc cám + cá tươi (tỷ lệ 1/2), mỗi ngày cho ăn 3-4 lần, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cá.

Sau 3-4 tháng ương nuôi, cá đạt cỡ 12-15 con trên kg thì chuyển sang nuôi cá thịt. Đối với cá basa, ương cá bột trên bể ximăng với thức ăn là Moina hoặc ấu trùng Artemia, sau 1 tuần cung cấp bổ sung thêm trùn chỉ.

Sau 2 tuần chuyển cá xuống ương trong ao đất hoặc san thưa ương trong bể. Thức ăn là Moina + trùng chỉ + thức ăn chế biến (cá tươi xay nhuyễn và cám) cho đến khi 2 tháng tuổi.

Sau đó cá giống tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhỏ trong khoảng 4-5 tháng, khi cá đạt cỡ 10-15 con/ kg sẽ chuyển vào bè nuôi cá thịt. Đối với cá basa giống nhỏ thu gom từ tự nhiên, với cỡ cá 5-6g/con, sau khi mua hoặc đánh bắt về cần ương tiếp trong bè nhỏ 3-4 tháng cho đến khi đạt cỡ 80-100g/con mới đưa vào bè nuôi cá thịt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Vài nét về Cá Ba Sa và Cá Ba Sa

Cá tra và cá basa là 2 trong số 11 loài cá thuộc họ cá tra (Pangasiidae) đã được tìm thấy ở sông Cửu Long. Trong đó có 5 loài được nuôi nhiều nhất hiện nay ở Đồng Tháp và An Giang, chủ yếu nuôi trong ao và trong bè. Tên khoa học của cá tra là Pangasianodon hypophthalmus, của cá basa là bocourti. Cả hai loài này đều thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Siluriformes, lớp Osteichchthyes và ngành Chordata.

Cá Tra

Cá Ba Sa

Ở Việt Nam, cá tra và cá basa có nhiều tên thương mại khác nhau. Điều này đã dẫn đến tình trạng tranh chấp về sản phẩm của hai loại cá này trên thị trường. Trước tình hình này, vào năm 2004, Hội nghị về chất lượng và thương hiệu cá tra – cá basa, do Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức, đã thống nhất, đặt tên thương mại cho cá tra là pangasius và cá basa là basa pangasius.

Đặc điểm sinh học của cá tra và basa

Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) và basa (Pangasius bocourti) là 2 loài cá bản địa của Việt Nam và một số nước lân cận (Lào, Campuchia và Thái Lan). Cá basa là loài được nuôi truyền thống trong bè trên sông Mêkông của Việt Nam và Campuchia trong khi đó cá tra được nuôi nhiều trong ao cầu ở đồng bằng Nam bộ Việt Nam trước đây

Phân loại: 2 loài này thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), họ cá tra (Pangasiidae). Hiện tại đã có 11 loài thuộc họ cá tra được tìm thấy ở Việt Nam, trong đó có 5 loài là đối tượng nuôi quan trọng trong ao và bè. Cá tra và basa có thân dài, không vẩy, màu sắc đen xám, bụng hơi bạc, bụng cá basa to tròn vì có lá mỡ rất lớn (nên trước đây gọi là cá bụng), miệng rộng và có 2 đôi râu dài. Cá sông chủ yếu ở nước ngọt, chịu được nước lợ nhẹ (độ muối dưới 10 phần ngàn), chịu đựng được nước phèn có pH>4.

Cá tra có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được ở những ao hồ chật hẹp, thiếu oxy, nên nuôi được mật độ rất cao.

Cá basa chỉ sống chủ yếu ở sông nước chảy và được nuôi trong bè, chịu đựng điều kiện chật hẹp, thiếu oxy kém hơn cá tra.

Cả 2 loài đều có tính ăn tạp thiên về động vật, thích ăn mồi có nguồn gốc động vật và cũng dễ dàng chuyển đổi loại thức ăn. Trong vòng đời của cá, giai đoạn cá bột hết noãn hoàng thì thích ăn mồi tươi sống, ăn các loài động vật phù du có kích thước vừa cỡ miệng. Thậm chí cá tra bột còn ăn thịt lẫn nhau trong bể ương nuôi. Khi phân tích thức ăn trong ruột của cá đánh bắt ngoài tự nhiên, thành phần thức ăn được tìm thấy như sau:

Cá tra: Nhuyễn thể: 35,4%; Cá: 31,8% ; Côn trùng: 18,2% ; Thực vật thượng đẳng: 10,7%

Cá basa: Mùn bã 63,1%; Rễ thực vật 21,1%; Giáp xác 14%; Trái cây 12,1%; Côn trùng 6,7%; Nhuyễn thể 5,4%; Cá 4,5%

Khi nuôi trong ao, cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức như mùn bã hữu cơ, cám, rau, động vật đáy, thức ăn hỗn hợp và rất thích phân cầu. Cá basa cũng dễ dàng sử dụng các loại thức ăn khác nhau như hỗn hợp tấm, cám, rau và cá vụn (nấu chín) nên thích hợp cho nuôi dưỡng trong bè.

Trong tự nhiên, cá tra có thể sống trên 20 năm, cỡ cá lớn nhất đã gặp dài 1,8m. Nuôi trong ao một năm đạt 1-1,5kg/con.

Cá basa cũng có tốc độ lớn khá nhanh, sau một năm nuôi lớn được 0,7 – 1,3kg/con. Nuôi trong bè sau 2 năm đạt tới 2,5kg/con. Trong tự nhiên đã gặp cỡ cá dài 0,5m

Trong tự nhiên, tuổi thành thục của cá tra từ 3-4 năm, cá basa từ 4-5 năm. Vào mùa thành thục (từ tháng tư trở đi) cá có tập tính bơi ngược dòng di cư tìm đến các bãi đẻ, nơi có điều kiện sinh thái phù hợp cho sự phát triển của tuyến sinh dục và đẻ trứng. Vì vậy cá không đẻ tự nhiên ở phần sông Mêkông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm ở khu vực từ địa phận tỉnh Cratie của Campuchia trở lên. Tại đây có thể bắt được những cá bố mẹ 15kg với buồng trứng đã thành thục. Tại bãi đẻ, cá bố mẹ đẻ trứng thụ tinh tự nhiên, trứng dính vào cây cỏ thủy sinh ven bờ. Sau khi nở, cá bột trôi theo dòng nước về hạ lưu đến các vùng ngập nước ở Campuchia và xuôi theo sông Mêkông về phía Việt Nam.

Tại vùng biên giới giáp Campuchia và Việt Nam, ngư dân có truyền thống vớt cá tra bột bằng các dụng cụ gọi là “đáy”. Hàng trăm triệu bột cá tra (kể cả cá thuộc họ cá tra) và các loài cá khác được vớt lên. Nhưng để thu chỉ cá tra bột, ngư dân đã ép lọc loại bỏ những loài cá khác, do đó đã giết một số lượng lớn gấp hàng chục lần số lượng cá tra bột. Hình thức này đã làm thiệt hại nghiêm trọng đến nguồn lợi cá tự nhiên trên sông. Hiện nay, chúng ta đã chủ động nuôi vỗ cá bố mẹ và cho đẻ nhân tạo, ương nuôi cá giống cá tra, nên đã hạn chế được nghề vớt cá bột trên sông. Cá basa cũng đã chủ động được một phần.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật hạn chế vải ra lộc đông

Để cây vải thiều cho quả ổn định, trước tiên cần phải có chế độ chăm sóc thật chu đáo như tỉa cành, bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh.

Vải thiều

Tuy đã chăm sóc cho cây sinh trưởng tốt, nhưng để cây đậu quả thì phải trải qua 2 “cửa ải”:

Thứ nhất : Vào tháng 11, 12 hằng năm, là thời kỳ hình thành đọt hoa, yêu cầu nghiêm ngặt là cần thời tiết khô và lạnh. Ở những cây cành ra lộc đông thì sẽ không có hoa hoặc ra ít hoa.

Thứ hai: Ở giai đoạn ra hoa, khoảng tháng 2, tháng 3 khi nở hoa, đậu quả cần có thời tiết khô ráo và mát mẻ. Nếu nhiệt độ quá lạnh hoặc có mưa phùn thì sẽ làm chết hạt phấn, không đậu được quả hoặc đậu tỷ lệ thấp.

Tuy nhiên, người trồng vải có thể dùng biện pháp cơ giới để hạn chế lộc đông. Đây là kỹ thuật cơ bản của nhà vườn để hạn chế năng suất bấp bênh và hiện tượng ra quả cách năm trên cây vải.

Để cây vải chính vụ có thể phát hoa đúng thời điểm, có chùm hoa lớn sau này cho năng suất cao thì đợt lộc cuối cùng phải nhú trước ngày 31/10. Ở giai đoạn từ đầu tháng 11 đến cuối tháng 12, đối với những cây vải khỏe, có bộ lá dày biểu hiện sức sinh trưởng tốt, đã nhú đợt lộc cuối cùng trong năm trong tháng 10, khi đó không được tưới ẩm cho vườn vải.

Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế ra lộc đông: Trên các cành cấp 2, cấp 3 dùng dao sắc khoanh đường xoắn từ 1 đến 3 vòng tròn/cành (tùy sức sinh trưởng của cây), vòng nọ cách vòng kia 1,5 – 2cm, vết khoanh vừa chạm đến gỗ. Khi khoanh không được nghiêng dao làm lật vỏ cây. Chỉ khoanh ở những cây đang sung sức, sinh trưởng tốt, có khả năng ra lộc đông, không khoanh ở những cây cằn cỗi. Khoanh ở những cây khi lá đã thành thục, lá đã chuyển sang màu xanh sẫm.

Bớt lại 10 – 15% số cành không khoanh để có đủ nhựa luyện nuôi bộ rễ. Đồng thời với việc khoanh vỏ, tiến hành dùng cuốc vỡ lật đất thành một vòng tròn xung quanh tán cây, chiều rộng 40 – 50cm, sâu 25 – 30cm và để phơi ải. Việc làm này vừa làm đứt rễ tơ đang hoạt động mạnh, vừa làm cho đất chóng khô, hạn chế hút nước và hạn chế ra lộc đông.

Áp dụng biện pháp trên mà cây vẫn ra lộc đông thì có thể dùng thuốc trừ cỏ Ronstar 25EC pha với nồng độ 10cc thuốc/1 bình 10 lít phun để diệt trừ lộc. Cần phun sớm khi lộc mới dài từ 5 – 7cm thì mới có hiệu quả.

Đến khoảng tháng 2 năm sau tiến hành bón phân thúc hoa. Lượng bón 0,15kg đạm urê + 1–2kg Supe lân + 0,1–0,2kg Kali clorua cho 10m2 diện tích bóng tán. Bón vào rãnh quanh bóng tán đã cuốc lật từ đầu mùa đông. Mỗi loại phân thả thành 3 – 5 điểm. Sau đó tiến hành bơm xả nước xả trực tiếp vào cho tan phân và ngấm xuống phần rễ đang hoạt động bên dưới. Khi vườn vải thiều đã phát triển chùm hoa tương đối hoàn chỉnh cần kịp thời diệt trừ sâu tơ, sâu xanh sớm bằng các loại thuốc như Padan 95SP, Sherpa 25EC, Dipterex…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chặt cả đồi vải thiều rồi trồng 10.000 cây bưởi xen cam

Ngoài 60 tuổi ông Đỗ Văn Lậm, thôn Bãi Đình, xã An Dương, huyện Tân Yên (Bắc Giang) vẫn ham thiết làm giàu. Ông mạnh dạn chặt bỏ cả đồi vải thiều kém hiệu quả để trồng bưởi xen cam và hiệu quả kinh tế cao bất ngờ.

Tỷ phú Đỗ Văn Lậm chăm sóc những cây cam, bưởi – Hai giống cây đem về tiền tỷ cho gia đình ông

Khu đồi bưởi xen cam xanh thắm, trù phú của gia đình ông Lậm trước đây vốn là đồi vải thiều cằn cỗi. Ông Lậm tâm sự, trước kia, ông vốn làm nghề thợ mộc, sau chuyển sang trồng vải thiều nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm, sức cạnh tranh còn yếu so với vải nơi khác nên sau mấy mùa, ông đành “bấm bụng” chặt hạ đồi vải sau bao năm bỏ công chăm sóc.

Trong một lần thăm nhà người bạn, ông Lậm được giới thiệu về mô hình trồng cây cam, bưởi. Nhận thấy mô hình mới có hiệu quả kinh tế cao, thổ nhưỡng tại đây giống với đất tại vườn nhà nên ông đã quyết tâm học hỏi kỹ thuật canh tác.

Sau khi tích lũy được chút vốn kinh nghiệm nhất định, ông Lậm đầu tư 300 triệu đồng mua 3.000 cây cam Vinh và bưởi Diễn giống về trồng. Những cây cam Vinh, bưởi Diễn sớm phủ xanh diện tích 3ha đồi của ông Lậm.

Từ năm 2011 đến nay, đồi cam Vinh xen bưởi Diễn của ông Lậm cho nhiều vụ bội thu. “Mỗi cân cam, bưởi bán tại vườn có giá từ 25-30 nghìn đồng/kg. Mỗi vụ thu hoạch tôi lãi hàng trăm triệu đồng. Do chất lượng quả tốt, nhiều thương buôn đến đặt mua từ khi quả còn xanh. Nhiều thương lái còn đến đặt cọc tiền trước để giữ vườn…”, ông phấn khởi nói.

Chọn được giống cam, bưởi phù hợp thổ nhưỡng ông Lậm đã thành công viên mãn. Tuổi ngoài 60, lão nông trở thành tỷ phú tiếng tăm trong vùng

Được biết, năm 2016, ông Lậm thu về hơn 20 tấn cam, bưởi. Doanh thu toàn đồi đạt trên 500 triệu đồng. Làm giàu bằng mô hình canh tác mới ông Lậm còn tạo việc làm thường xuyên và thời vụ cho 15 lao động địa phương.

Lão nông tâm sự, hiện tại vẫn đang tiếp tục mở rộng diện tích trồng bưởi xen cam. Khu vườn hiện nay đã đạt trên 15ha với 3.000 cây bưởi, 10.000 cây cam. Ngoài lợi nhuận từ mô hình trồng cam xen bưởi, ông Lậm còn nhân bán giống bưởi, cam giống thu về 1 khoản không nhỏ. Với giá bán cây giống từ 120-150 nghìn đồng/ cây cam, bưởi giống, mỗi năm ông Lậm “ăn ra” hơn 100 triệu đồng.

Chia sẻ về con đường thành công ông Lậm bảo, ông phải đầu tư thời gian thường xuyên đến Hưng Yên, Lục Ngạn (Bắc Giang) để học hỏi kỹ thuật. Ông Lậm lưu ý, trồng giống cây gì cần chú ý cẩn trọng xem cây đó có phù hợp thổ nhưỡng, khí hậu địa phương hay không. Nếu giống cây không thích hợp sẽ cho năng suất, chất lượng kém…

Theo danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Nông dân Bắc Giang trúng đậm vụ vải nhờ áp dụng khoa học

Được lựa chọn thí điểm áp dụng khoa học giúp vải chín sớm, anh Nguyễn Thanh Lâm vui mừng thắng lớn 300 triệu vụ này.

Người nông dân vui mừng khi trúng đậm vụ vải

Bước vào vườn vải chín sớm rộng 2,5 ha của anh Nguyễn Thanh Lâm (xã Liên Sơn, huyện Tân Yên, Bắc Giang), nhiều thương lái tỏ ra ngạc nhiên khi vải nhà anh quả to đều và đẹp hơn những vườn gần đó. Bóc một quả vải ăn thử, họ càng ngạc nhiên hơn vì quả vải ngọt thơm không thua kém vải chính vụ. Anh Lâm cho biết tất cả nhờ được áp dụng khoa học kỹ thuật.

Tháng 6/2016, Viện Địa lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đến đặt vấn đề với một số hộ dân trồng vải ở Bắc Giang, trong đó có gia đình anh Lâm, về việc thực hiện đề tài nghiên cứu thực trạng và biện pháp kỹ thuật tổng hợp duy trì, nâng cao độ phì đất, góp phần tăng năng suất và ổn định chất lượng vải thiều.

“Tôi đã khá lo lắng khi được chọn làm thí điểm đề tài của các nhà khoa học vì trước đó bà con ở huyện Tân Yên chúng tôi chỉ chăm sóc cây vải theo phương thức truyền thống hay quy trình VietGAP. Bây giờ, họ chỉ lấy mẫu đất về phân tích để xem thừa, thiếu chất dinh dưỡng nào khiến tôi lo sợ sẽ mất trắng cả vụ vải”, anh Lâm nói.

Tuy nhiên, sự lo lắng của anh Lâm được xua tan dần khi các nhà khoa học thường xuyên trực tiếp đến vườn vải kiểm tra. “Khi vải bắt đầu nhú hoa, các anh ấy đã cho tôi phân bón lá, phân bón gốc và hướng dẫn chi tiết quy trình bón phân. Các anh còn dặn phải ghi chép đầy đủ ngày, giờ chăm sóc vào một cuốn sổ và báo cáo lại qua điện thoại”, anh Lâm nói và cho biết đã hoàn toàn tin tưởng khi tỷ lệ đậu hoa và quả cao hơn mọi năm từ 20 đến 30%.

Đến ngày thu hoạch, chủ vườn vải “mừng ra mặt” khi sản lượng đạt hơn 10 tấn/ha, tăng gấp rưỡi so với trung bình hàng năm và gấp 3 lần năm ngoái. Giá trị quả vải cũng tăng đáng kể. Giá bán tại gốc đầu mùa là từ 30 đến 35 nghìn/kg. “Tôi đã có ý định phá vải để trồng bưởi hoặc cam canh sau vụ này. Nhưng với sản lượng như vậy, tôi quyết định sẽ tiếp tục chăm cây vải”, anh Lâm chia sẻ.

Có diện tích chỉ khoảng 7.000 m2 với 350 gốc vải chín sớm, anh Ngô Văn Cường (xã Phúc Hòa, huyện Tân Yên) vui mừng khi vụ năm nay, anh thu về khoảng 300 triệu đồng. “Quả vải đều, đẹp hơn mọi năm và không bị sâu cuống, chất lượng hơn hẳn vải được chăm sóc theo cách truyền thống. Tôi bán khoảng 30 nghìn/kg tại vườn, cao hơn giá thị trường từ 5 đến 7 nghìn”, anh Cường thông tin.

Theo chủ vườn này, quy trình chăm sóc cây vải do Viện Địa lý hướng dẫn không vất vả hơn so với chăm sóc truyền thống nhưng hiệu quả hơn hẳn. “Nhiều hộ xung quanh cứ hỏi có bí quyết gì để quả vải đẹp vậy. Họ còn trách tôi vì sao không chia sẻ cách làm cho họ”, anh Cường cười nói và hy vọng các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục mở rộng đề tài để không chỉ gia đình anh mà cả huyện được hỗ trợ về khoa học kỹ thuật.

Theo kết quả báo cáo của chủ nhiệm đề tài, các mô hình thực nghiệm vải chín sớm Phúc Hòa có hơn 2.300 hoa/chùm, số quả trung bình đạt hơn 7 quả/chùm, tăng so với các hộ dân không thực hiện mô hình 31,8%. Về hình thức, quả vải to và đỏ hơn. Về chất lượng, vải ngọt và không bị sâu cuống. Năng suất tăng từ 15 đến 20%, sản lượng rơi vào khoảng 15-17 tấn/ha.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Giang cho biết đề tài do Viện Địa lý làm thí điểm là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên liên quan đến nghiên cứu đất và biện pháp canh tác vải mà các nhà khoa học trực tiếp tham gia.

“Ban đầu, người dân cũng chưa tin lắm, vẫn còn khó khăn trong quá trình chọn hộ nhưng khi chọn được rồi, họ tuân thủ rất đúng sự hướng dẫn của các nhà khoa học nên kết quả rất tốt. Theo báo cáo của người dân, sản lượng trung bình tăng 20%, thậm chí có vườn tăng 30%”, ông Kiên nói.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Chính sách trong ngành trồng vải của Úc

Ngành trồng vải của Úc đã phát triển từ một ngành non trẻ vào giữa năm 70 của thế kỷ trước cho đến nay đã có hơn 300 người trồng vải trên diện tích hơn 800 ha, với khoảng 4.000 cây vải, sản xuất khoảng 2.000-3.000 tấn vải, trị giá khoảng 10-15 triệu AUD mỗi năm. Sản lượng dự báo vẫn ở mức tương tự trong vòng 5 năm tới.

Vải thiều

Trong thời gian cuối những năm 1990 ước tính có tới 30-35% sản lượng vải của Úc được xuất khẩu, tức là khoảng 700 đến 1.000 tấn/năm. Kim ngạch xuất khẩu đã giảm mạnh kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001 và hạn chế kiểm dịch đã được đặt ra cho trái cây nhập khẩu vào Trung Quốc. Hiện nay, theo ước tính của Hiệp hội những người trồng vải của Úc, kim ngạch xuất khẩu đã giảm xuống chỉ còn 500-600 tấn mỗi năm. Nếu vải có thể thâm nhập lại thị trường Trung Quốc thì có thể đạt được mục tiêu mở rộng thị trường của ngành vải Úc.

Tuy là một ngành nhỏ với sản lượng và kim ngạch xuất khẩu không đáng kể so với các ngành hoa quả khác nhưng ngành trồng vải của Úc vẫn hoạt động khá bài bản.

Chính phủ Úc đánh thuế đối với các hoạt động trồng, sản xuất và xuất khẩu vải, cụ thể như sau:

  • Vải tươi: 8 cent/kg
  • Chế biến vải: 1 cent/kg
  • Xuất khẩu vải: 8 cent/kg

Các khoản thuế này sẽ được dùng để tài trợ cho mục đích nghiên cứu và phát triển, tiếp thị, kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các chương trình an toàn sinh học, và các chương trình hỗ trợ khẩn cấp cho ngành.

Chọn giống là một trong những ưu tiên tài trợ của Chính phủ Úc. Hiện nay, có 8 giống vải đang được trồng tại Úc có hạt nhỏ, có thể bán giá cao và giống vải thu hoạch sớm của Bắc Queensland.

Một số giống mới đang tiếp tục được chọn thông qua Chương trình chọn giống do ngân sách Chính phủ và ngành vải tài trợ, cộng thêm việc nhập khẩu giống cây tốt từ nước ngoài trong đó có giống vải không hạt. Các giống mới ở trong nước đang được Hiệp hội những người trồng vải (ALGA) trồng thử, do Tổ chức Nghiên cứu khoa học và công nghiệp liên bang (CSIRO) cung cấp hạt giống.

Tiếp thị trong nước và thúc đẩy xuất khẩu cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên của ngành.

Vải được phân phối phần lớn tại thị trường trong nước thông qua hai nhóm tiếp thị. Nhóm thứ nhất có tên là United Lychee Marketing Authority – ULMA, có thương hiệu vải là “Sun Lychee” Đây là một liên minh những người trồng vải ở tất cả các vùng, số lượng thành viên và mức độ ảnh hưởng của nhóm này đang ngày càng tăng lên. Nhóm thứ hai có tên là Top Crop, hoạt động ở vùng phía Bắc Queensland.

Toàn bộ vải xuất khẩu của Úc được tiêu thụ bằng tên gọi là “quả vải tươi” do vận chuyển bằng đường hàng không, bằng thùng giữ lạnh. Vải của Úc có lợi thế hơn so với các sản phẩm của nước khác do mùa thu hoạch kéo dài và không trùng với mùa thu hoạch của các nước trồng vải lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam… Vải của Úc có năng suất cao và được đánh giá là cao cấp do chất lượng sạch, không sử dụng hoá học trong trồng trọt và bảo quản.

Dù là một ngành nhỏ nhưng Úc có Hiệp hội những người trồng vải hoạt động khá hiệu quả. Hiệp hội đã xây dựng Chiến lược đầu tư và Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu trái vải của Úc, trong đó mục tiêu đặt ra đến năm 2017, Úc sẽ xuất khẩu 50% tổng sản lượng.

Hiệp hội cũng tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu về thị trường như thói quen tiêu dùng, đối tượng tiêu dùng, khuynh hướng tiêu dùng và tiêu thụ trái vải để từ đó xây dựng chiến dịch quảng bá, tiếp thị cũng như cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ví dụ, Hiệp hội này đang nghiên cứu để đưa vào áp dụng một hộp đựng vải có nắp nhựa mới. Hộp này được dùng để hạn chế tình trạng mất nước và giữ cho vỏ có màu đỏ lâu hơn. Hiệp hội cũng đang có một Chiến dịch quảng bá tiếp thị khẩu hiệu được đưa ra là “Live it up with Lychees”.

Qua đây có thể thấy, mặc dù đây là một ngành nhỏ, sản lượng xuất khẩu không đáng kể nhưng Chính phủ vẫn quản lý và khuyến khích phát triển một cách hợp lý nhằm đưa ra thị trường một sản phẩm với chất lượng hoàn hảo và mỗi sản phẩm xuất khẩu của Úc đều đảm bảo được chất lượng và thương hiệu, từ đó các sản phẩm nông nghiệp của Úc thường được bán giá cao trên thị trường nước ngoài.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đắk Lắk : Trồng vải thiều trên đất kém dinh dưỡng đem lại hiệu quả kinh tế cao

Nhiều hộ gia đình ở Đắk Lắk đã trồng thành công cây vải trên vùng đất kém dinh dưỡng, đem lại hướng đi mới trong phát triển kinh tế.

Trồng vải trên đất kém dinh dưỡng nhưng người dân Đắk Lắk vẫn thu về lợi nhuận kinh tế cao

Những năm qua, nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã mạnh dạn chuyển đổi một phần diện tích đất canh tác kém hiểu quả sang đầu tư vào trồng vải thiều. Nhiều nông hộ đã trồng thành công cây vải thiều trên vùng đất kém dinh dưỡng, đem lại hướng đi mới trong phát triển kinh tế.

Ea Kar hiện là huyện có diện tích trồng vải thiều nhiều nhất tỉnh, đặc biệt, cây vải thiều ở đây chủ yếu được trồng trên các vùng đất bạc màu, kém dinh dưỡng, nhưng lại cho năng suất cao và ổn định.

Anh Đỗ Công Hải, thôn 2, xã Ea Sar, huyện Ea Kar cho biết, gia đình anh hiện có 1 ha vải thiều, sản lượng ước tính gần 20 tấn, được thương lái mua tại vườn với giá 50.000 đồng/kg. Trừ chi phí sản xuất, nhân công gia đình anh thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Anh Hải cho biết thêm, cây vải không kén đất, có thể trồng trên đất khô cằn và cho sản lượng cao, điều quan trọng là phải nắm được kỹ thuật canh tác, điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm và quá trình sinh trưởng của cây cho phù hợp với đặc thù khí hậu vùng Tây Nguyên.

Nếu nắm được kỹ thuật chăm sóc và điều khiển được thời gian ra hoa, đậu quả thì đảm bảo năng suất và giá thành ổn định, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Cũng trồng vải thiều trên đất bạc màu, ông Đinh Văn Đá, thôn 2, xã Ea Sô, huyện Ea Kar chia sẻ, trước đây, gia đình ông chủ yếu trồng điều nhưng do năng suất thấp, giá thành không ổn định, năm 2012, ông chuyển đổi 2 ha đất sang trồng cây vải thiều.

Năm nay, ông có 1 ha vải thu hoạch, sản lượng đạt khoảng 10 tấn, trừ chi phí sản xuất ông thu khoảng 450 triệu đồng. “Nếu áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc và điều chỉnh được quá trình sinh trưởng của cây thì chắc chắn vải thiều sẽ đem lại nguồn lợi kinh tế cao, không thua kém gì các cây công nghiệp khác” ông Đá khẳng định.

Ông Trần Văn Âm, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ea Sar, huyện Ea Kar cho biết, trên địa bàn xã đã có nhiều hộ chuyển đổi một phần diện tích đất kém dinh dưỡng để trồng vải thiều, bước đầu cây vải đã đem lại thu nhập khá cao cho người nông dân.

Hiện xã Ea Sar đã trồng thử nghiệm 16 mô hình vải thiều với 1.600 cây đã ra hoa, nếu cây phát triển tốt, cho năng suất ổn định thì địa phương xác định cây vải là một trong những cây có thể làm giàu cho người nông dân trên địa bàn xã.

Theo Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đắk Lắk, cây vải ở Đắk Lắk có ưu thế chín và thu hoạch vào tháng 4 – 5 hàng năm, sớm hơn vải của miền Bắc một tháng nên giá thành cao.

Tuy nhiên, ở Đắk Lắk có nhiều vùng sinh thái khác nhau, khí hậu không ổn định, hơn nữa cây vải đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc tỉ mỉ, khó điều khiển thời điểm ra hoa, đậu quả, vì vậy, Chi Cục cũng khuyến cáo người dân nên thận trọng khi mở rộng diện tích và chuyển đổi cây trồng.

Hiện toàn tỉnh Đắk Lắk có 297 ha vải thiều, tập chung chủ yếu ở các huyện Ea Kar Krông Năng, M’ Đrăk, thị xã Buôn Hồ…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Thương lái Trung Quốc giàu to nhờ vải thiều Việt Nam mọc từ thân

Thương lái Trung Quốc mua giống vải thiêu mọc từ thân tại vườn với giá 35.000 đồng/kg nhưng về nước lại hét giá 350.000-400.000 đồng/kg.

Vải thiều có cơm dày và thơm

Bội thu từ vải thiều mọc từ thân

Là một trong số ít người đầu tiên có vườn vải thiều mọc từ thân, ông Trần Văn Hành thôn Chão Cũ (Giáp Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang) cho biết cách đây 3 năm, trong quá trình chăm sóc, ông phát hiện một số cây có mầm mọc từ thân đã ra hoa, trổ quả thành từng chùm.

Sau quá trình sinh trưởng, phát triển, nhận thấy quả vải ra từ thân cây, mọng to, mã đẹp, năng suất cao hơn hẳn quả ra từ đầu ngọn cây, ông đã duy trì những cây này, áp dụng phương pháp trồng cho những vụ tiếp đó.

Từ một vài cây thử nghiệm, đến nay, gia đình ông có 2,5 ha. So với phương pháp cũ, cách trồng này mới giúp tăng 20% sản lượng. “Bình quân mỗi năm gia đình thu hoạch khoảng 30 tấn, giá bán chưa bao giờ dưới 25.000 đồng một kg”, ông nói. Đây là mã hàng được hầu hết các thương lái Trung Quốc săn tìm, thu mua bởi đáp ứng yêu cầu của thị trường này.

Vụ này, gia đình ông Hành đã hái bán được 20 tấn, số còn lại cũng đã được các thương lái đặt cọc để thu mua trong một vài ngày tới. Năm nay được giá, nên vải quả mọc từ thân dao động từ 25.000-30.000 đồng một kg. Dự kiến cả vụ ông có thể thu 600-700 triệu đồng.

Cũng như gia đình ông Hành, vụ vải thiều năm nay, gia đình anh Phan Văn Bảo, thôn Cầu Đền, xã Thanh Hải (Lục Ngạn) áp dụng phương pháp cho quả vải ra trên thân, cành cây.

Quả vải ra trên thân, cành cây

Anh Bảo cho biết: “Hai năm trước, tôi được Hội Nông dân xã cử sang xã Giáp Sơn tham quan thực tế và tập huấn kỹ thuật khoanh vỏ cho vải ra quả trên cành, thân. Vụ đó tôi làm thử nghiệm vài cây, sau thấy năng suất hơn hẳn những cây cho ra quả theo cách thông thường nên năm nay tôi áp dụng phương pháp này cho cả vườn vải 2 ha. Cây nào cũng sai quả, mã đẹp hơn, ít bị sâu bệnh. Năng suất ước đạt 12 tấn, tăng 5 tấn so với vụ trước. Hiện nay, không riêng gia đình tôi, nhiều hộ khác trong thôn cũng làm theo”.

Cũng áp dụng phương pháp trên trong chăm sóc vườn vải thiều, anh Trần Văn Út, thôn Chão Cũ, xã Giáp Sơn cho biết, cây vải cần được tỉa thưa tán, tạo độ thông thoáng để kích thích ra một lớp lộc non từ thân, cành cùng một lúc. Người làm vườn có thể chủ động điều tiết số lượng mầm hoa bằng cách tỉa bớt những mầm đã có ở thân, để lại những mầm chính. Vào giữa tháng 12 dương lịch, bà con dùng lưỡi cưa khoanh một vòng tròn quanh phần vỏ cây nhằm hạn chế sự vận chuyển chất dinh dưỡng đi nuôi các cành phụ và ngọn.

Áp dụng cách làm này, vải thiều cho quả to, đều, mã đẹp, năng suất cao, chất lượng tốt, dễ thu hoạch, không bị gió va đập và lá che kín, giảm tỷ lệ dập và thối quả.

“Những năm trước, mỗi vụ vải tôi phải thuê 6-10 nhân công ăn ngủ tại nhà để thu hoạch, chi phí mất khoảng 10 triệu đồng. Từ khi áp dụng phương pháp mới, tôi không phải thuê người làm, chi phí thuốc bảo vệ thực vật giảm, năng suất tăng từ 12-15%. Đặc biệt, quả vải mọc từ thân thường to hơn so với quả trên ngọn, dễ bán, giá cao hơn thị trường từ 5-10 nghìn đồng/kg. Vụ này, 1 ha vải nhà tôi ước thu hoạch được 16 tấn quả, tôi vừa bán gần một tấn với giá 25 nghìn đồng/kg, cao hơn giá vải thường 5 nghìn đồng/kg”- Anh Út chia sẻ.

Ngoài xã Thanh Hải, Giáp Sơn, hiện nay nhiều nông dân tại các xã: Nghĩa Hồ, Qúy Sơn, Hồng Giang, Tân Mộc, Phượng Sơn… cũng áp dụng phương pháp cho vải thiều ra hoa đậu quả trên thân, cành. Kỹ thuật này giúp vải thiều Lục Ngạn ngày càng nâng cao giá trị.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.