Đổ xô đào ao ương Cá Tra giống

Năm 2017 giá thu mua cá tra giống khá cao nên diện tích đào ao ương cá bột lên giống tăng mạnh tại các huyện vùng Đồng Tháp Mười (Long An).

Theo khảo sát của Sở NN-PTNT Long An, đến cuối tháng 12/2017, các huyện vùng Đồng Tháp Mười có trên 631ha ao ương cá giống. Chỉ riêng tại huyện Tân Thạnh, diện tích ao ương cá giống tăng từng ngày. Xã Tân Hòa có hơn 50 hộ SX trên diện tích ao ương 50ha; xã Nhơn Ninh cũng có 18 hộ với 21ha ao ương…

Ông Lê Văn Dấn, Tổ trưởng Tổ hợp tác SX thủy sản Tân Hòa chia sẻ: Người miền Tây có câu vè “Giàu nuôi cá, khá nuôi heo, nghèo nuôi vịt đẻ”. Để nuôi cá đầu tư rất cao, tiền đào ao 100 triệu đồng/ha; tấm bạt giáp vòng bờ và hệ thống cấp thoát nước khoảng 30 triệu/ha. Giống cá bột thì tùy theo giá cả thị trường, hiện giá 5 – 6 triệu đồng/1 triệu con bột.

Tùy theo thời tiết, môi trường và chất lượng con giống mà thu hoạch. Trung bình lượng cá giống đạt 10% lượng cá bột thả là đã thành công. Với 30 – 35 con/kg thì thu được hơn 20 tấn/ha. Giá thu mua loại 30 con/kg là 60.000 – 70.000 đồng/kg. Chi phí đầu tư khoảng 20.000 đồng/kg cá, người nuôi kém chỉ đạt 10 tấn/ha thì lợi nhuận cũng đạt cả trăm triệu. Nếu trồng lúa thì phải 5 – 7ha mới được mức thu nhập đó. Đó chính là lý do bùng phát nuôi cá tra bột tại các huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười”.

Ông Nguyễn Văn Hùng, Chủ tịch UBND xã Tân Hòa cho biết, mọi năm thời điểm này giá cá tra giống 30.000 đồng/kg là đã “ngon”. Tháng 4 năm rồi, cá giống chỉ bán được 21.000 đồng/kg. Mấy hôm nay loại giống 30 con/kg không đủ cung cấp, giá tăng lên 70.000 đồng/kg. Hiện tượng này chưa bao giờ xảy ra.

Ông Hùng cho biết thêm, theo quy luật thị trường thì đến tháng 3,4 giá cá giống sẽ giảm dần cho đến tháng 9, 10 mới tăng lên lại. Việc tìm đầu ra cho tra giống cũng như cá tra thương phẩm không đơn giản. Tổ hợp tác SX thủy sản Tân Hòa đảm bảo ương cá bột thành cá giống đúng quy định, xã đã kết nối doanh nghiệp Vạn Đức thu mua cá tra giống cho các hộ.

Ông Lê Văn Dấn chia sẻ, hiện tượng bùng phát đào ao ương cá giống từng diễn ra vào năm 2011, khi đó giá mua 50.000 đồng/kg loại 30 con/kg. Hiện SX có lợi nhuận trên 50% nên nhiều hộ không có vốn cũng đi vay mượn để đào ao ương cá giống.

Theo số liệu báo cáo từ các huyện Đồng Tháp Mười, đến ngày 27/12/2017 đã có thêm 433 hộ ương với diện tích 633,09ha. Trong đó, nhiều nhất là huyện Tân Hưng (5 xã với 408 hộ) diện tích ao ương tăng 593,99ha.

Bà Đinh Thị Phương Khanh, PGĐ Sở NN-PTNT Long An cho biết, trước tình hình bùng phát đào ao ương cá bột thành cá tra giống, Sở đã cử nhiều đoàn công tác đến các địa phương thu thập số liệu và đánh giá. Nhìn chung là diện tích đào ao nằm trong vùng quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2020 đã được tỉnh phê duyệt từ 2016.

Nguồn nước cấp và thải chưa ảnh hưởng diện tích lúa xung quanh, ao nuôi nằm gần sông, kênh nên thuận lợi quá trình cấp thoát nước. Cá bột được mua từ các tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp sau đó ương cá giống cho các hộ nuôi thương phẩm tại địa phương.

Đáng lo ngại là hầu hết ao ương mới đều do người từ các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp sang thuê đất để sản xuất, đa phần chưa có kinh nghiệm, chưa biết các quy định pháp luật về việc sử dụng đất trồng lúa sang nuôi thủy sản, quản lý giống thủy sản, TĂCN, thuốc thú y thủy sản và vật tư nuôi trồng thủy sản.

Nguồn: Nông Nghiệp được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo Cá Ba Sa và Cá Tra

Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu sang nước ngoài thì các hộ nuôi trồng đã không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc tăng trọng nhanh cho cá cũng như kỹ thuật nuôi cá tra và cá basa để tạo ra những loại cá chất lượng nhất, thịt ngon nhất. Bên cạnh đó, Việc chủ động nguồn giống cũng rất quan trọng trong quy mô nuôi cá công nghiệp.

1. Nuôi vỗ cá bố mẹ:

Cá bố mẹ chọn nuôi vỗ phải khỏe mạnh, có độ tuổi 3 tuổi trở lên (nặng 2,5-3kg). Nơi nuôi cá bố mẹ: có thể trong ao đất hoặc trong bè:

– Trong ao đất: diện tích ao ít nhất 500 mét vuông trở lên (cá tra) và 1500 mét vuông (cá basa), độ sâu từ 1,2-1,5m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động cấp thoát. Ao nuôi phải được thay nước thường xuyên, có thể lợi dụng thủy triều hàng ngày để thay nước cho ao.

– Nuôi trong bè: Bè đặt trên sông nước chảy để thuận lợi cho sự thành thục của cá bố mẹ. Mật độ thả nuôi: Trong ao: 2kg/10 mét vuông (cá tra), 0,5 – 1kg/10 mét vuông (basa) Trong bè: 1kg trên mét khối (cá tra), 0,5 kg trên mét khối (basa) Có thể nuôi chung đực cái trong ao hoặc bè, tỷ lệ đực/cái là 0,7-1/1

2. Mùa vụ nuôi vỗ và thức ăn cho bố mẹ:

Mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 9 – 10 hàng năm, thức ăn phải có hàm lượng đạm 30% (cá tra) và 35% (basa) trở lên. Có thể sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để chế biến thức ăn hỗn hợp cho cá bố mẹ. Các loại nguyên liệu chính là cá tạp tươi, cá khô, bột cá, ruốc, bột đậu nành, cám gạo, tấm, bột bắp, bánh dầu, rau xanh, bí, cơm, dừa v.v… Cần phối chế hợp lý các thành phần để đảm bảo đủ hàm lượng đạm trong thức ăn. Nếu hỗn hợp thức ăn là nguyên liệu cá tươi thì khẩu phần ăn cho cá 4-6% trọng lượng thân cá/ngày. Nếu là thức ăn công nghiệp dạng khô (viên) thì 1-2% mỗi ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 1-2 lần. Thức ăn hỗn hợp chế biến cho cá bố mẹ trong bè phải có độ dẻo và dính để giảm bớt sự tan rã trong nước làm lãng phí thức ăn. Trong ao có thể để thức ăn trong sàn (nong, nia) treo cách đáy 0,2 – 0,3m.

3 Cho đẻ nhân tạo

3.1 Chọn cá bố mẹ

– Chọn cá đã nuôi vỗ thành thục có buồng trứng phát triển ở giai đoạn bốn (IV), ngoại hình cá cái bụng to, mềm, lỗ sinh dục hồng, các hạt trứng đều, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt, đường kính đa số 1mm trở lên (cá tra) và 1,8mm trở lên (cá basa). Cá đực có tinh dịch tốt, trắng và đặc. 2.3.2 Sử dụng kích dục tố: Các loại kích dục tố đang sử dụng phổ biến hiện nay là HCG (Human chorionic gonadotropin), LHRH a (Lutenizing hormone Releasing hormone) và não thùy thể cá (chép, mè, trê, tra …)

Kích dục tố có thể dùng đơn hoặc kết hợp nhiều loại (cho liều tiêm quyết định). Dùng phương pháp tiêm nhiều lần sơ bộ (1-4 lần) và 1 lần quyết định cho cá cái, cá đực thì tiêm 1 lần cùng với liều quyết định của cá cái.

Đối với HCG: Tiêm sơ bộ 300-1000 UI/kg cá cái Tiêm quyết định 2500-3000UI/kg cá cái

Não thùy thể cá phối hợp HCG:
+ Liều sơ bộ: 0,2 – 0,3mg não thùy/kg cá cái
+ Liều quyết định: 1500-2000 UI (HCG) + 3 -5mg não thùy
+ Hoặc 70 – 100microgam LHRHa +3 -5mg não thùy/kg cá cái

Cá đực chỉ tiêm 1 lần với lượng dùng 1/4 – 1/3 so với liều quyết định của cá cái. Ngoài ra, tuỳ theo chất lượng và độ thành thục của trứng để điều chỉnh liều lượng và phối hợp chủng loại kích dục tố cho thích hợp. Điều này phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và tay nghề của người kỹ thuật

Thời gian hiệu ứng của kích dục tố sau liều tiêm quyết định từ 8-12 giờ. Khi cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Có thể khử dính trứng (sau khi thụ tinh) bằng Tanin hoặc không cần khử dính, cho trứng dính trên các giá thể làm bằng lưới nylon. Ấp trứng trong bể ấp hoặc bình weise (vây)

Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, cá bột sẽ nở sau 20 – 24 giờ (cá tra) và 28-33 giờ (basa). Cá tra sau khi nở 20 – 24 giờ, nhanh chóng chuyển cá xuống ao ương để tránh tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau khi bắt đầu hết noãn hoàng. Đối với cá basa, nên chuyển cá bột hết noãn hoàng vào ương trong bể ximăng, cá bột basa không ăn thịt lẫn nhau như cá tra bột.

3.3 Ương cá giống:

Ao có diện tích tối thiểu 500 mét vuông trở lên, độ sâu nước 1 – 1,5m. Chuẩn bị ao theo quy trình chung ương nuôi các loài cá: tát cạn, diệt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột (7-10kg/100 mét vuông đáy ao), phơi đáy 1-2 ngày, bón lót phân chuồng 10-15kg trên 100 mét vuông (phân gà, cút, heo …) hoặc 1-1,5kg (lân + urê) trên 100 mét vuông đáy ao. Sau đó đưa nước sâu 0,3 – 0,4m và thả giống trùng chỉ và trứng nước (Moina).

Thả cá bột và tiếp tục đưa nước từ từ vào ao cho đến khi đạt yêu cầu. Mật độ thả 400-500 con trên mét vuông. Các khâu trên là nhằm đảm bảo được lượng thức ăn tự nhiên cho cá ngay sau khi cá bột xuống ao, hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của chúng.

Sau khi thả bột, hàng ngày bổ sung tiếp tục thức ăn cho cá: cứ 10.000 cá bột dùng 200 gam đậu nành xay nhuyễn, nấu chín và 20 lòng đỏ hột vịt (luộc chín), trộn đều và rải đều khắp ao.

Sau 10 ngày, tăng lượng thức ăn thêm 50% và cho ăn dặm trùn chỉ.

Sau tuần lễ thứ 2 có thể cho ăn thức ăn chế biến bằng cá và ốc (phần thịt) xay nhuyễn trộn bột gòn.

Sau 1 tháng, cho ăn cám + bột cá (tỷ lệ 1/1) hoặc cám + cá tươi (tỷ lệ 1/2), mỗi ngày cho ăn 3-4 lần, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cá.

Sau 3-4 tháng ương nuôi, cá đạt cỡ 12-15 con trên kg thì chuyển sang nuôi cá thịt. Đối với cá basa, ương cá bột trên bể ximăng với thức ăn là Moina hoặc ấu trùng Artemia, sau 1 tuần cung cấp bổ sung thêm trùn chỉ.

Sau 2 tuần chuyển cá xuống ương trong ao đất hoặc san thưa ương trong bể. Thức ăn là Moina + trùng chỉ + thức ăn chế biến (cá tươi xay nhuyễn và cám) cho đến khi 2 tháng tuổi.

Sau đó cá giống tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhỏ trong khoảng 4-5 tháng, khi cá đạt cỡ 10-15 con/ kg sẽ chuyển vào bè nuôi cá thịt. Đối với cá basa giống nhỏ thu gom từ tự nhiên, với cỡ cá 5-6g/con, sau khi mua hoặc đánh bắt về cần ương tiếp trong bè nhỏ 3-4 tháng cho đến khi đạt cỡ 80-100g/con mới đưa vào bè nuôi cá thịt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.