Từng ao nuôi Cá Tra được mã hóa như thế nào?

Xuất khẩu cá tra chính ngạch sang thị trường Trung Quốc đặt ra các điều kiện mới, trong đó có việc cấp mã số để có thể truy xuất nguồn gốc. Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA) cho biết, trong 2 năm qua ở ĐBSCL hoàn tất cấp mã số ao nuôi cá tra.

 

Theo người nuôi cá tra và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản ở ĐBSCL, việc mã hóa ao nuôi cá tra là điều kiện bắt buộc cần có trước khi ký hợp đồng liên kết sản xuất.

Thu hoạch cá tra từ vùng nuôi được kiểm soát tốt.

 

Điều kiện cần

Đến tháng 8/2019, theo số liệu Tổng cục Thủy sản, việc tiến hành xác định cấp mã số ao nuôi cá tra tại ở các tỉnh ĐBSCL đạt hơn 5.200/5.400 ha ao nuôi.

Ông Trần Thanh Phong, Phó Tổng thư ký Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA) cho biết, đến nay Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành phố trong vùng hoàn tất cấp mã số ao nuôi cá.

Hoạt động nghề nuôi cá tra bắt đầu SX theo kế hoạch. Vào đầu mỗi vụ nuôi được cập nhật, kiểm soát chặt chẽ từng ao nuôi về tiến độ thả giống cho đến cuối vụ số ao nuôi cá sắp thu hoạch. Mỗi tháng nhu cầu số lượng con giống, sản lượng cá sắp thu hoạch được thống kê và điều tiết nhịp độ SX cung cầu theo thị trường để có dự báo tốt hơn. Đặc biệt qua truy xuất nguồn gốc cá tra được nuôi trong môi trường có kiểm soát tốt càng tạo thêm niềm tin và uy tín với khách hàng.

Ông Trần Văn Hai nuôi cá tra ở Cù lao Tân Lộc và ao cá 1 ha đã cấp mã số ao nuôi.

 

Theo chuỗi giá trị SX, khâu đầu tiên là con giống. Ông Nguyễn Ngọc Hải, chủ cơ sở SX giống thủy sản, chuyên ương dưỡng cá tra giống cá giống tại quận Ô Môn, TP Cần Thơ, cho biết: Điều kiện trước nhất là cơ sở SX phải có giấy phép kinh doanh và vùng ao nuôi đạt điều kiện tiểu chuẩn, được Chi cục Thủy sản địa phương cấp mã số ao. Quá trình kiểm tra nếu SX đạt tiêu chuẩn chất lượng sẽ cấp giấy chứng nhận.

Đối với các cơ sở ương dưỡng giống nhập cá bột, nguồn gốc từ cơ sở nào cũng phải có giấy chứng nhận. Hồ sơ ghi nhận từng đợt SX cá giống sẽ được các hộ nuôi cá hay DN thu mua cá giống SX cá tra thương phẩm sau này căn cứ vào đó để biết rõ sản phẩm đạt chất lượng hoặc truy nguyên nếu phát hiện sự cố xảy ra ở khâu nào.

 

Cung cách làm ăn mới

Nhiều năm qua cá tra là một trong những mặt hàng thủy sản chủ lực quốc gia. Ở ĐBSCL ngành hàng cá tra hình thành chuỗi giá trị sản xuất từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, đảm bảo sản phẩm an toàn vệ sinh thưc phẩm tới bàn ăn. Mối liên kết SX định hình cung cách làm ăn mới. Hiện có hàng ngàn hộ nuôi cá tra theo hợp đồng liên kết với nhà máy chế biến.

Cá tra Việt Nam đã xuất khẩu hiện diện trên thị trường 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó các thị trường chủ lực như Mỹ, EU và Trung Quốc – Hồng Kông mới nổi lên, tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt Trung Quốc đang áp dụng truy xuất nguồn gốc các mặt hàng thủy sản, trong đó có cá tra.

Theo các hộ nuôi cá tra thương phẩm hợp đồng liên kết với công ty Sao Mai-IDI kèm theo yêu cầu bắt buộc SX theo tiêu chuẩn VietGAP: Ao nuôi cá phải nằm trong quy hoạch vùng nuôi thủy sản và đã cấp mã số. Nếu không đáp ứng các điều kiện trên, phía công ty sẽ không ký hợp đồng.

Ông Út Anh, chủ hộ nuôi cá tra ở Cù lao Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, nói: “Tôi có 5 ao nuôi cá ký kết hợp đồng liên kết với công ty Sao Mai-IDI.

Mỗi ao nuôi cá phải áp dụng theo đúng quy trình kỹ thuật, từ loại thức ăn đến cách dùng thuốc phòng ngừa bệnh cá phải đúng theo hướng dẫn của công ty.

Hơn một năm qua cán bộ thủy sản địa phương đến khảo sát và cấp mã số gắn thẻ cho mỗi ao với tên chủ hộ nuôi cá. Tôi cho đây là điều kiện tốt để hướng tới làm ăn bài bản hơn, không chỉ đáp ứng yêu cầu từ phía công ty mà bảo vệ quyền lợi cho cho người nuôi cá.

Qua mã số định vị và công nghệ số là phương thức kiểm soát từng ao nuôi, cốt yếu bảo vệ uy tín sản phẩm và danh tiếng cá tra trên thị trường xuất khẩu thế giới”.

Thu hoạch cá tra

 

Ông Trần Thanh Hải, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, cho biết: Từ năm 2018 Chi cục bắt đầu tiến hành khảo sát, kiểm tra cấp mã số ao nuôi cá tra và đến nay đã hoàn tất gần 600 ha ao nuôi cá tra trên địa bàn thành phố.

Đa số các hộ nuôi về thủy sản có hiểu biết luật, chấp hành quy định quản lý nhà nước và đáp ứng các quy định, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá tra trong ao – điều kiện bảo đảm vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và ATTP.

Khi đã chuẩn hóa vùng nuôi sẽ kiểm soát, quản lý và theo dõi tình hình dịch bệnh ở vùng nuôi tốt hơn. Các DN chế biết thủy sản xuất khẩu ở ĐBSCL cũng thừa nhận: Trên thực tế việc cấp mã số, chuẩn hóa vùng nuôi không khó thực hiện để đáp ứng theo yêu cầu và hiện đã có nhiều DN đáp ứng đủ điều kiện XK cá tra chính ngạch vào TQ.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Thiếu hụt trầm trọng giống cá Tra

Cuốn theo cá tra xuất khẩu đang hút hàng ở ĐBSCL, từ sau tết đến nay cá giống tăng giá mạnh. Người nuôi gọi tìm mua cá giống khắp nơi.

Tìm mua cá giống

Ông Chương Văn Khanh (Út Anh), theo đuổi nghề nuôi cá tra 18 năm qua, với 5ha ao nuôi ở cù lao Tân Lộc, phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, cho hay: Do mấy tháng cuối năm vừa qua thị trường xuất khẩu tốt nên các doanh nghiệp tiêu thụ cá được giá cho người nuôi. Phần tôi nuôi cá cung ứng theo hợp đồng liên kết với Cty Sao Mai-IDI nuôi gia công lấy công làm lời. Nhưng đối với một số ít người nuôi cá tra riêng lẻ, nếu hộ nào có cá xuất ao lúc này có bao nhiêu doanh nghiệp mua hết bấy nhiêu. Cá tra đang có giá cao kỷ lục 29.000 đ/kg, người nuôi có lãi từ mức 6.000 đ/kg trở lên.

Được mệnh danh “cù lao cá”, dân nuôi cá tra ở Tân Lộc từng chịu nhiều cảnh thăng trầm, nhất là mấy năm qua cá tra dội chợ, xuống dốc. Cú sốc lỗ lã khiến nhiều người nợ nần bỏ ao chuyển sang nghề khác. Số còn trụ lại chiếm phần nhiều là các hộ tính đường “cầm chắc” theo hợp đồng gia công với doanh nghiệp. Bây giờ thị trường cá tra sống dậy, người nuôi thấy ham nhưng ít có mấy người dám phiêu lưu, vì ngại vốn đầu tư lớn, rủi ro cao. Hơn nữa lúc này tìm mua được cá giống đạt chất lượng thật chẳng dễ.

Một chủ hộ nuôi cá tra ở phường Thới An, quận Ô Môn cho biết, trước tết một số hộ nuôi cá dọc theo bờ sông Hậu thu hoạch xong, vệ sinh ao chờ qua mùng ba tết gọi điện các trại giống thân quen, tìm tới cơ sở ương nuôi cá tra đặt mua. Nơi nào cũng nhẹ nhàng từ chối vì không đủ số lượng cung cấp. Thậm chí một số ao nuôi trong vùng “tự chủ” nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu còn cho người chạy ra ngoài tìm cá giống mua thêm. Vậy mà họ không tìm mua đủ cá giống nên vẫn còn ao để không. Trước tết giá cá giống 50.000 đ/kg (cỡ cá 30 con/kg) đến nay tăng vọt lên 70.000 đ/kg.

Chuyển biến chậm

Từ nhiều năm trước, hầu hết các hộ nuôi cá tra trong vùng mua cá giống chủ yếu từ các cơ sở ương nuôi cá ở 2 tỉnh đầu nguồn Đồng Tháp và An Giang. Trải qua những năm tháng khi đắt hàng lúc dội chợ, vì khó đoán để bắt nhịp nguồn cung nên thường xảy ra tình trạng cá giống mất cân đối cung – cầu. Có lúc cá tra giống dư thừa, từ cá bột ương nuôi tới lớn 2 – 3 phân mà không có người mua. Mặt khác về yếu tố chất lượng con giống phụ thuộc rất lớn vào đàn cá bố mẹ. Vì vậy đã có một số người giỏi nghề có xu hướng tản mát về một số tỉnh vùng hạ lưu như Vĩnh Long, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang tìm thuê ao nuôi mới để lấy nguồn nước ít ô nhiễm, nâng cao tỉ lệ ương nuôi con giống có chất lượng.

Ông Út Anh nuôi cá tra ở cù lao Tân Lộc, Thốt Nốt (Cần Thơ)

Ông Trần Ngọc Hải, người nuôi cá tra có nghề ở phường Thới An, quận Ô Môn hiện nay cùng nhóm bạn thân hữu thuê đất 20ha ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ lập trại sản xuất giống cá tra, chạch bùn, trê vàng… Qua mấy mùa sản xuất ổn định với mức bình quân xuất 100 tấn cá tra giống/năm (5 – 10 tấn/tháng).

Ông Hải nhìn nhận: Cá tra giống vào thời điểm nào cũng có xuất bán, còn hiện nay giá tăng cao và không đủ bán là do nguồn cung ít. Nhu cầu tái thả cá sau khi thu hoạch ở một số địa phương đang tăng lên. Ngoài ra thêm một nguyên nhân khác nữa, tỉ lệ ương nuôi cá bột lên cá giống hiện đạt rất thấp, khoảng 5 – 7% và có đạt lắm cũng chỉ từ 10% trở xuống. Thông thường vào mùa khô tỉ lệ cá ương nuôi đạt cao hơn vào những tháng mùa mưa.

Ai cũng hiểu rằng nuôi cá tra điều kiện đầu tiên phải có giống tốt. Trong khi người nuôi cá thương phẩm vẫn còn than vãn tình trạng chất lượng cá tra giống kém dẫn tới hao hụt tỷ lệ cao tới 30 – 50% càng đặt ra vấn đề sớm hình thành những trung tâm sản xuất, tạo nguồn cung cá giống chất lượng cao. Các nhà chuyên môn lĩnh vực thủy sản nước ngọt phân tích, muốn đảm bảo chất lượng con giống tốt cần có nhiều yếu tố. Trước tiên là thị trường tiêu thụ cá tra giống tương đối ổn định theo quy hoạch, kế hoạch sản xuất từ vùng nuôi. Từ đó có thể dự đoán, cân đối nguồn cung. Bên cạnh đó cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan chuyên ngành nghiên cứu thủy sản để cung cấp nguồn con giống bố mẹ khỏe và thiết kế vùng ao nuôi, ương cá có nguồn nước ao tốt, sạch…

Trong thời gian qua ở một số địa phương trong vùng đã tính toán, quy hoạch vùng sản xuất cá tra bắt nhịp đồng điệu từ trung tâm giống – mạng lưới cơ sở nhân giống – nuôi cá thương phẩm. Thế nhưng chuyển biến còn rất chậm.

Ông Trần Thái Nghiêm, Phó giám đốc Trung tâm giống cây trồng vật nuôi, thủy sản TP Cần Thơ: Hiện nay Trung tâm có vùng SX giống 20ha, vừa nhập giống cá tra bố mẹ từ Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II về cho sinh sản, ương nuôi. Dự kiến từ tháng 5 đến tháng 6/2018 sẽ cung ứng giống ra thị trường. Năng lực sản xuất ước khoảng 8 triệu con giống/năm.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), dự kiến năm 2018 xuất khẩu cá tra đạt kim ngạch khoảng 1,85 tỷ USD. Năm 2017 xuất khẩu cá tra đạt 1,78 tỷ USD, tăng 4,3% so năm 2016.

Nguồn: Nông Nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Thu tiền tỷ từ nghề chế biến bong bóng cá tra xuất khẩu

Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đang ăn nên làm ra nhờ chế biến mặt hàng từ phế phẩm bong bóng cá tra. Đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán lượng hàng bong bóng cá phơi khô xuất khẩu càng gia tăng.

Ông Trần Văn Ngây giới thiệu quy trình chế biến bong bóng cá tra

Ông Trần Văn Ngây, 48 tuổi, chủ cơ sở Ngây ở ấp Trung Bình, xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang đã sản xuất mặt hàng bong bóng cá phơi khô mang lại hiệu quả vô cùng phấn khởi. Từ những phụ phẩm không có gì đáng giá nhưng với bàn tay khéo léo, cần cù và tinh thần sáng tạo của người chế biến, cơ sở Ngây đã tạo ra một loài thực phẩm cao cấp “bong bóng cá” có thể chế biến thành nhiều món ăn bổ dưỡng được nhiều khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng.

Ông Ngây cho biết, cơ sở ông bắt đầu hoạt động từ năm 2009. Gần 10 năm gắn bó với nghề, ông đã tích lũy nhiều vốn liếng và kinh nghiệm. Nhờ vậy mà cơ sở ngày một phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị và chủ động tìm đối tác ký hợp đồng thu mua phế phẩm và hợp đồng tiêu thụ. Nhờ năng động và nắm bắt nhu cầu của thị trường nên chất lượng sản phẩm của ông làm ra ngày càng nâng cao được nhiều khách hàng tin cậy.

Hiện nay, bình quân mỗi tuần cơ sở ông thu mua 2,5 tấn bong bóng cá tươi với giá 38.000 đ/kg từ các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh trong và ngoài tỉnh. Nếu làm đúng quy trình kỹ thuật, bình quân cứ 5kg bong bóng cá tươi sẽ cho ra 1kg bong bóng khô. Giá bán hiện nay là 210.000 đ/kg bong bóng thành phẩm.

Ông Ngây cho biết, quá trình chế biến bong bóng cá rất công phu và tỉ mỉ, đòi hỏi người làm phải nắm vững kỹ thuật, từ khâu lột bỏ mỡ, rửa sạch, lộn ngược bong bóng cho đến công đoạn ướp muối sao cho thật sạch và trắng trong. Công đoạn quan trọng nhất là nong bong bóng cá vào ống cao su và phơi khô. Nếu gặp những hôm trời mưa phải xử lý bằng lò sấy.

Sau khi phơi khô, sản phẩm được bảo quản trong một môi trường nhiệt độ thích hợp. Ông Ngây cho biết bong bóng cá sau khi thành phẩm được chuyển lên TP Hồ Chí Minh để xuất qua Thái Lan và Trung Quốc theo đường tiểu ngạch.

Ngoài lợi nhuận gia đình, cơ sở chế biến bong bóng cá còn tạo công ăn việc làm thường xuyên cho hơn 20 lao động tại địa phương (lúc cao điểm lên đến 30 người). Hầu hết người làm công đều được tính thù lao theo sản phẩm với giá 6.000 đ/kg bong bóng tươi. Một người làm giỏi mỗi ngày có thể hơn 20kg. Ngoài ra ông còn đóng góp cho địa phương xây cất nhà tình thương và các hoạt động xã hội khác.

Bong bóng cá thành phẩm chuẩn bị xuất khẩu

Về hiệu quả, ông Ngây cho biết, trước đây hai năm lợi nhuận rất cao. Nay đã giảm dần vì giá nguyên liệu tăng gấp rưỡi, giá điện nước cũng tăng, trong khi giá bán ra vẫn như cũ. Do vậy mà trong năm 2017 doanh thu chỉ đạt khoảng 10 tỷ đồng, trừ hết các chi phí còn lời trên 1 tỷ đồng.

Từ kết quả đó, ông đã nhận được Bằng khen của UBND tỉnh An Giang “Đã có thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi” và Bằng khen của Hội Nông dân tỉnh An Giang “Đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua SXKD giỏi”.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cá Tra ĐBSCL: Niềm vui nối tiếp niềm vui

Những ngày đầu năm 2018, tình hình nuôi cá tra ở nhiều tỉnh, thành khu vực ĐBSCL có nhiều khởi sắc khi giá cá tăng, thị trường tiêu thụ có nhiều thuận lợi.

Nuôi cá tra ở ĐBSCL có nhiều khởi sắc 

Niềm vui từ giá

Nhiều hộ nuôi cá tra ở thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang năm nay sẽ ăn tết lớn vì trúng đậm cá tra; bởi, thời điểm này, giá cá tra đã đạt mức 28.000 đồng/kg. Tại Hậu Giang, địa phương có diện tích nuôi cá cũng thuộc hàng nhất nhì tại khu vực ĐBSCL, hoạt động sản xuất cá tra đầu năm 2018 khá nhộn nhịp nhất là tại HTX Nuôi thủy sản Đại Thắng (xã Đại Thành, thị xã Ngã Bảy). Theo Phó Giám đốc HTX Phạm Hùng Minh cho biết, năm trước, giá cá rớt thê thảm tưởng chừng ai cũng thua lỗ. Nhưng nhờ HTX duy trì được hợp đồng cung ứng thức ăn, làm các dịch vụ nên phần nào hỗ trợ cho các thành viên không bị lỗ hoặc ít bị lỗ. Các thành viên được nợ 50% số tiền thức ăn với công ty; 15 hộ duy trì được ao cá, chỉ có 4 hộ treo ao hoặc cho hộ khác thuê nuôi. Một hội viên HTX chia sẻ, những năm trước, ông hùn vốn nuôi cá chung với một người bà con trên diện tích 2.000 m2. Tuy nhiên, do năm rồi thua lỗ nên người bà con đã rút vốn khiến ông không đủ tiền đầu tư. Nhận thấy khó khăn của ông, HTX Đại Thắng đã đứng ra bảo lãnh cho ông được mua nợ 50% tiền thức ăn của công ty và trợ vốn nuôi cá. Năm nay, được HTX cho mượn vốn mua thức ăn, cá giống nên ông vẫn tiếp tục thả nuôi, ước sản lượng khoảng 30 tấn, thương lái đã đặt giá 28.000 đồng/kg.

Theo thống kê, diện tích nuôi cá tra của thị xã Ngã Bảy đến thời điểm này là 40,6 ha, tăng 4 ha so năm trước. Mặc dù, tình hình nuôi cá có nhiều biến động, nhưng HTX Đại Thành vẫn cố gắng vượt khó bằng nhiều việc làm cụ thể thông qua các dịch vụ, liên kết. Đồng hành cùng hộ chăn nuôi, ngành chức năng luôn quan tâm hỗ trợ HTX, người nuôi cá tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tập huấn kỹ thuật mới… để người nuôi có lợi nhuận. Đồng thời, HTX cũng thường xuyên cập nhật tình hình giá cả thị trường, kỹ thuật nuôi để giúp người nuôi cá mang lại hiệu quả. Cách làm này cũng là sự động viên, khích lệ tinh thần cho bà con nuôi cá tra tiếp tục có động lực gắn bó với nghề.

Yếu tố thị trường

Năm 2017, xuất khẩu cá tra gặp nhiều thách thức ở các thị trường truyền thống như EU hay Mỹ, nhưng cơ hội đã rộng mở ở những thị trường mới, như Trung Quốc. Bởi, giá trị và cấu trúc thị trường xuất khẩu cá tra Việt Nam vào thị trường này ngày có xu hướng tăng. Theo thống kê, năm 2014, xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc chiếm 6,4%, năm 2015 là 10,3%, 2016 là 17,8% và năm 2017 tới 40%.

Mặt khác, việc đa dạng hóa sản phẩm cá tra cũng được các doanh nghiệp chú trọng, nhất là sản phẩm từ phụ phẩm cá tra. Điển hình như sản phẩm Dầu ăn cao cấp Ranee của Tập đoàn Sao Mai đã chinh phục được thị trường tiêu dùng tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Hay DNTN Cỏ May (trụ sở ở Đồng Tháp) được phía Singapore và châu Âu đề nghị mua da cá tra làm sản phẩm ăn liền (snack).

Nếu trước đây giá phụ phẩm chỉ 6.000 – 8.000 đồng/kg thì khi bán cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm giá đã tăng 71,4% (giá nhập tại kho); nếu có thêm chi phí đóng gói, cấp đông… thì có thể tăng gấp 3 lần, khoảng 22.000 -24.000 đồng/kg; Snack da cá tra tại thị trường Singapore hiện có giá 8 SGD (khoảng 136.000 đồng) cho gói nhỏ 230 g. Mỗi tháng Cỏ May xuất sang thị trường Singapore 50 – 60 tấn da cá. Năm 2018, phía Cỏ May sẽ mở rộng nhà máy, nâng công suất lên cao hơn. Hiện tại lượng hàng xuất đi đã đến mức cung không đủ cầu.

Một trong những yếu tố quan trọng khác trong việc phát triển ngành hàng cá tra trong năm 2018 chính là vấn đề chất lượng con giống. Đến nay cả nước có 230 cơ sở sản xuất cá tra giống, hơn 4.000 hộ ương dưỡng cá giống với diện tích hơn 2.250 ha, sản xuất khoảng 25 – 28 tỷ con cá bột (hơn 2,2 tỷ cá tra giống), tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang.

Theo kế hoạch của Bộ NN&PTNT, mục tiêu đến năm 2020, cung cấp khoảng 50% nhu cầu giống cá tra và đến năm 2025 cung cấp 70% nhu cầu giống cá tra tương đương gần 2,5 – 2,8 tỷ giống cá tra cung cấp cho các địa phương tại khu vực ĐBSCL. Điều này cho thấy tạo được nguồn giống tốt là rất quan trọng trong chuỗi sản xuất cá tra, do đó việc phải hoàn thiện liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp để tạo ra giống có chất lượng có tính di truyền chọn lọc có khả năng tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, chất lượng thịt tốt… phục vụ cho nuôi thương phẩm là điều cấp thiết hiện nay, để phát huy tiềm năng, thế mạnh và phát triển bền vững thị trường cá tra. Được biết, Bộ NN&PTNT đang phối hợp với tỉnh An Giang thực hiện Đề án sản xuất giống cá tra 3 cấp; nhằm chủ động cung ứng nguồn giống chất lượng cho sản xuất cá tra. Hiện, Đề án đã thu hút sự tham gia của một số doanh nghiệp như Tập đoàn Việt – Úc, Công ty CP XNK Thủy sản An Giang (Agifish)…

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đổ xô đào ao ương Cá Tra giống

Năm 2017 giá thu mua cá tra giống khá cao nên diện tích đào ao ương cá bột lên giống tăng mạnh tại các huyện vùng Đồng Tháp Mười (Long An).

Theo khảo sát của Sở NN-PTNT Long An, đến cuối tháng 12/2017, các huyện vùng Đồng Tháp Mười có trên 631ha ao ương cá giống. Chỉ riêng tại huyện Tân Thạnh, diện tích ao ương cá giống tăng từng ngày. Xã Tân Hòa có hơn 50 hộ SX trên diện tích ao ương 50ha; xã Nhơn Ninh cũng có 18 hộ với 21ha ao ương…

Ông Lê Văn Dấn, Tổ trưởng Tổ hợp tác SX thủy sản Tân Hòa chia sẻ: Người miền Tây có câu vè “Giàu nuôi cá, khá nuôi heo, nghèo nuôi vịt đẻ”. Để nuôi cá đầu tư rất cao, tiền đào ao 100 triệu đồng/ha; tấm bạt giáp vòng bờ và hệ thống cấp thoát nước khoảng 30 triệu/ha. Giống cá bột thì tùy theo giá cả thị trường, hiện giá 5 – 6 triệu đồng/1 triệu con bột.

Tùy theo thời tiết, môi trường và chất lượng con giống mà thu hoạch. Trung bình lượng cá giống đạt 10% lượng cá bột thả là đã thành công. Với 30 – 35 con/kg thì thu được hơn 20 tấn/ha. Giá thu mua loại 30 con/kg là 60.000 – 70.000 đồng/kg. Chi phí đầu tư khoảng 20.000 đồng/kg cá, người nuôi kém chỉ đạt 10 tấn/ha thì lợi nhuận cũng đạt cả trăm triệu. Nếu trồng lúa thì phải 5 – 7ha mới được mức thu nhập đó. Đó chính là lý do bùng phát nuôi cá tra bột tại các huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười”.

Ông Nguyễn Văn Hùng, Chủ tịch UBND xã Tân Hòa cho biết, mọi năm thời điểm này giá cá tra giống 30.000 đồng/kg là đã “ngon”. Tháng 4 năm rồi, cá giống chỉ bán được 21.000 đồng/kg. Mấy hôm nay loại giống 30 con/kg không đủ cung cấp, giá tăng lên 70.000 đồng/kg. Hiện tượng này chưa bao giờ xảy ra.

Ông Hùng cho biết thêm, theo quy luật thị trường thì đến tháng 3,4 giá cá giống sẽ giảm dần cho đến tháng 9, 10 mới tăng lên lại. Việc tìm đầu ra cho tra giống cũng như cá tra thương phẩm không đơn giản. Tổ hợp tác SX thủy sản Tân Hòa đảm bảo ương cá bột thành cá giống đúng quy định, xã đã kết nối doanh nghiệp Vạn Đức thu mua cá tra giống cho các hộ.

Ông Lê Văn Dấn chia sẻ, hiện tượng bùng phát đào ao ương cá giống từng diễn ra vào năm 2011, khi đó giá mua 50.000 đồng/kg loại 30 con/kg. Hiện SX có lợi nhuận trên 50% nên nhiều hộ không có vốn cũng đi vay mượn để đào ao ương cá giống.

Theo số liệu báo cáo từ các huyện Đồng Tháp Mười, đến ngày 27/12/2017 đã có thêm 433 hộ ương với diện tích 633,09ha. Trong đó, nhiều nhất là huyện Tân Hưng (5 xã với 408 hộ) diện tích ao ương tăng 593,99ha.

Bà Đinh Thị Phương Khanh, PGĐ Sở NN-PTNT Long An cho biết, trước tình hình bùng phát đào ao ương cá bột thành cá tra giống, Sở đã cử nhiều đoàn công tác đến các địa phương thu thập số liệu và đánh giá. Nhìn chung là diện tích đào ao nằm trong vùng quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2020 đã được tỉnh phê duyệt từ 2016.

Nguồn nước cấp và thải chưa ảnh hưởng diện tích lúa xung quanh, ao nuôi nằm gần sông, kênh nên thuận lợi quá trình cấp thoát nước. Cá bột được mua từ các tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp sau đó ương cá giống cho các hộ nuôi thương phẩm tại địa phương.

Đáng lo ngại là hầu hết ao ương mới đều do người từ các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp sang thuê đất để sản xuất, đa phần chưa có kinh nghiệm, chưa biết các quy định pháp luật về việc sử dụng đất trồng lúa sang nuôi thủy sản, quản lý giống thủy sản, TĂCN, thuốc thú y thủy sản và vật tư nuôi trồng thủy sản.

Nguồn: Nông Nghiệp được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá tra và cá basa trong bè

Cá basa được nuôi khá nhiều ở Việt Nam lại có giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên để cá nhanh lớn đạt chất lượng tốt cần đảm bảo kỹ thuật nuôi tốt

1. Thiết kế và xây dựng bè.

Bè nuôi cá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long thường được kết hợp vừa là bè cá vừa là nhà ở.

Dựa vào thời gian sử dụng mà chia ra 2 nhóm bè: bè kiên cố và bè tạm thời.

Nhóm bè tạm thời thường nhỏ và được đóng bằng tre hoặc loại gỗ chịu nước kém.

Bè cỡ trung và cỡ lớn thường nằm trong nhóm bè kiên cố. Các bè này được đóng bằng gỗ tốt và chịu nước như gỗ sao, vên vên, căm xe, chò chỉ, dầu, bằng lăng. Loại bè này đủ sức chịu đựng được với điều kiện sóng gió, nước chảy và khá bền, có khi tới 50 năm Việc đóng mới các loại bè kiên cố hiện nay cũng gặp khó khăn do khan hiếm các loại gỗ tốt. Vì vậy có một số bè mới được thiết kế bằng các loại vật liệu mới như bè ximăng lưới thép …

Bè nuôi cá thường có dạng hộp chữ nhật, ngoại trừ một số bè cỡ nhỏ dùng cho ương cá giống thì có dạng hộp vuông. Người nuôi cá bè cho rằng dạng bè hộp chữ nhật dễ dàng trong chọn gỗ thiết kế và quản lý sử dụng. Ngoài ra dạng này cũng phù hợp cho việc làm nhà trên bè theo truyền thống và cũng là nơi chế biến thức ăn, nhà kho, chuồng chăn nuôi…

Đầu tư đóng một bè nuôi khá tốn kém, vì vậy nguồn vốn là yếu tố quyết định cho việc đóng cỡ bè lớn hay nhỏ. Thời gian vừa qua đa số bè của các cơ sở quốc doanh do được đầu tư cao nên kích thước bè đóng khá lớn (thường là bè cỡ lớn, 500 đến 1000 mét khối). Bè lớn thì thuận lợi cũng như thích hợp cho nuôi các loài cá kích thước lớn và bơi nhanh như cá tra, basa.

Các bộ phận chính của bè gồm có:

– Khung bè: gồm có trụ đứng, đà dọc, đà ngang và cây chéo (cây xiên tả). Khung bè được kết cấu bằng gỗ tốt, kích thước thanh gỗ phù hợp để đảm bảo không bị biến dạng bởi sóng nước trong thời gian sử dụng.

– Mặt bè:được đóng kín bằng thanh nẹp gỗ, có chứa 2-3 cửa để cho cá ăn, chăm sóc và thu hoạch cá. Cửa mặt bè có nắp đậy và nâng hạ được, kích thước 1m x 2m. Nẹp gỗ đóng theo chiều ngang của bè, cách nhau 1-,5cm.

– Hông bè: được ghép bằng ván gỗ ở phía trong trụ đứng, khe hở giữa các tấm ván cách nhau 1 – 1,5cm để cá không thoát ra ngoài, đôi khi khoảng cách này còn tùy thuộc vào tốc độ dòng chảy. Nếu dòng chảy qua bè quá mạnh làm cá luôn hoạt động sẽ tốn năng lượng và kém ăn, ngược lại, nếu nước qua bè quá chậm sẽ làm cá thiếu oxy, các chất cặn bã, phù sa tích tụ trong bè có thể gây ô nhiễm và dễ làm cho cá nhiễm bệnh.

– Đầu bè: đóng bằng lưới kẽm, lưới đồng hoặc lưới Inox có kích thước mắt nhỏ hình vuông (1,5 x 1,5 – 2 x 2cm). Các bè nhỏ thì đầu bè đóng bằng các thanh nẹp gỗ phía bên trong trụ đứng, chỉ chừa một khoảng ở giữa để đóng lưới Inox.

– Đáy bè: đóng ván khép kín (chừa khe hở 1 – 1,5cm) để tránh thất thoát thức ăn và cho các loài cá nuôi ghép ăn đáy tận dụng hết thức ăn thừa.

– Phần nổi: ghép bằng các thùng phuy (200 lít), hoặc bằng cây tre hay thùng nhựa PVC. Thùng phuy phải được sơn chống rỉ sét và dầu hắc. – Neo bè: để cố định bè, gồm mỏ neo, dây neo nylon có đường kính 2-3cm. Có thể neo 4 góc bè hoặc 2 dây neo và 2 dây cột vào trụ cố định. Hiện nay có nhiều kích cỡ bè khác nhau, kích cỡ truyền thống và phổ biến chủ yếu như sau:

Loại Kích thước ( dài x rộng x cao) (m) Loài cá thả Độ sâu nước (m) Thể tích bè m3
Cở nhỏ (6-8) x (3-5) x (2,5 – 3,5) Tra, Chày 2 20-100
Trung bình (9-12) x (4-9) x (3,0-3,5) Tra, basa, hú 2,5-3 100 – 500
Bè lớn (12-30) x (9-12) x (4-4,5) Tra, basa, hú 3,5-4 500 – 1600

Các công cụ và phương tiện cần thiết phục vụ cho nuôi cá bè gồm có:

– Động cơ để quạt nước (mô tơ điện hoặc máy diezen) hỗ trợ dòng chảy trong bè, nhất là từ giữa đến cuối mùa khô, nước chảy chậm, phù sa và cặn bã tích tụ trong bè, gây thiếu oxy cho cá.

– Thuyền, ghe lắp máy để vận chuyển thức ăn, mua nguyên vật liệu và hổ trợ bơm nước. – Lò nấu thức ăn.

– Máy xay, trộn và ép thức ăn.

2. Vị trí để đặt bè nuôi cá.

Bè được đặt nổi và neo cố định tại một điểm trên sông, vì vậy phải lựa chọn những vị trí thích hợp nhiều mặt, tiện lợi cho nuôi cá, nhưng không làm cản trở giao thông và hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước.

Bè được đặt gần bờ dọc theo chiều nước chảy, nơi thoáng, có dòng chảy liên tục, lưu tốc thích hợp (0, 2 -,5m/giây), mực nước sông ít thay đổi theo thủy triều và độ sâu tối thiểu phải cao hơn chiều cao ngập nước của bè 0,5 – 1m để tránh cho bè không bị đội lên mặt nước.

Nước sông nơi đặt bè không ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, trong mùa khô khi nước bị nhiễm mặn thì độ mặn cho phép cá chịu đựng được và không thay đổi đột ngột. Nguồn nước lưu thông tương đối trong sạch, không bị ô nhiễm, nhất là gần các cống nước, thải đô thị, nước thải các nhà máy sử dụng hóa chất, nhà máy giấy, nhuộm, tẩy rửa và chứa các độc tố, các khu ruộng lúa sử dụng thuốc sát trùng … Tránh nơi có luồng nước ngầm, nơi khúc quanh của sông, nơi sông bồi tụ, xói lở, nơi có nhiều rong cỏ, nơi dòng nước có quá nhiều phù sa.

Ngoài ra, bè nuôi cá nên đặt gần nguồn cung cấp thực phẩm nuôi cá, vị trí thuận tiện giao lưu, gần các trục lộ giao thông thủy bộ để việc vận chuyển thức ăn, cá giống và buôn bán cá thịt được dễ dàng thuận lợi. Khi chọn vị trí đặt bè phải xem xét nhiều mặt, cân nhắc hợp lý các điều kiện và các tiêu chuẩn trên để quyết định chính xác, vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém và ảnh hưởng đến cá nuôi và kết quả nuôi. Tuy nhiên, lưu tốc dòng chảy, chất lượng nước và nguồn nguyên liệu thức ăn là những yếu tố quan trọng hàng đầu.

Nguồn: Tép Bạc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo Cá Ba Sa và Cá Tra

Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu sang nước ngoài thì các hộ nuôi trồng đã không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc tăng trọng nhanh cho cá cũng như kỹ thuật nuôi cá tra và cá basa để tạo ra những loại cá chất lượng nhất, thịt ngon nhất. Bên cạnh đó, Việc chủ động nguồn giống cũng rất quan trọng trong quy mô nuôi cá công nghiệp.

1. Nuôi vỗ cá bố mẹ:

Cá bố mẹ chọn nuôi vỗ phải khỏe mạnh, có độ tuổi 3 tuổi trở lên (nặng 2,5-3kg). Nơi nuôi cá bố mẹ: có thể trong ao đất hoặc trong bè:

– Trong ao đất: diện tích ao ít nhất 500 mét vuông trở lên (cá tra) và 1500 mét vuông (cá basa), độ sâu từ 1,2-1,5m. Nguồn nước cấp cho ao phải sạch và chủ động cấp thoát. Ao nuôi phải được thay nước thường xuyên, có thể lợi dụng thủy triều hàng ngày để thay nước cho ao.

– Nuôi trong bè: Bè đặt trên sông nước chảy để thuận lợi cho sự thành thục của cá bố mẹ. Mật độ thả nuôi: Trong ao: 2kg/10 mét vuông (cá tra), 0,5 – 1kg/10 mét vuông (basa) Trong bè: 1kg trên mét khối (cá tra), 0,5 kg trên mét khối (basa) Có thể nuôi chung đực cái trong ao hoặc bè, tỷ lệ đực/cái là 0,7-1/1

2. Mùa vụ nuôi vỗ và thức ăn cho bố mẹ:

Mùa vụ nuôi vỗ bắt đầu từ tháng 9 – 10 hàng năm, thức ăn phải có hàm lượng đạm 30% (cá tra) và 35% (basa) trở lên. Có thể sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để chế biến thức ăn hỗn hợp cho cá bố mẹ. Các loại nguyên liệu chính là cá tạp tươi, cá khô, bột cá, ruốc, bột đậu nành, cám gạo, tấm, bột bắp, bánh dầu, rau xanh, bí, cơm, dừa v.v… Cần phối chế hợp lý các thành phần để đảm bảo đủ hàm lượng đạm trong thức ăn. Nếu hỗn hợp thức ăn là nguyên liệu cá tươi thì khẩu phần ăn cho cá 4-6% trọng lượng thân cá/ngày. Nếu là thức ăn công nghiệp dạng khô (viên) thì 1-2% mỗi ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 1-2 lần. Thức ăn hỗn hợp chế biến cho cá bố mẹ trong bè phải có độ dẻo và dính để giảm bớt sự tan rã trong nước làm lãng phí thức ăn. Trong ao có thể để thức ăn trong sàn (nong, nia) treo cách đáy 0,2 – 0,3m.

3 Cho đẻ nhân tạo

3.1 Chọn cá bố mẹ

– Chọn cá đã nuôi vỗ thành thục có buồng trứng phát triển ở giai đoạn bốn (IV), ngoại hình cá cái bụng to, mềm, lỗ sinh dục hồng, các hạt trứng đều, màu vàng nhạt hoặc trắng nhạt, đường kính đa số 1mm trở lên (cá tra) và 1,8mm trở lên (cá basa). Cá đực có tinh dịch tốt, trắng và đặc. 2.3.2 Sử dụng kích dục tố: Các loại kích dục tố đang sử dụng phổ biến hiện nay là HCG (Human chorionic gonadotropin), LHRH a (Lutenizing hormone Releasing hormone) và não thùy thể cá (chép, mè, trê, tra …)

Kích dục tố có thể dùng đơn hoặc kết hợp nhiều loại (cho liều tiêm quyết định). Dùng phương pháp tiêm nhiều lần sơ bộ (1-4 lần) và 1 lần quyết định cho cá cái, cá đực thì tiêm 1 lần cùng với liều quyết định của cá cái.

Đối với HCG: Tiêm sơ bộ 300-1000 UI/kg cá cái Tiêm quyết định 2500-3000UI/kg cá cái

Não thùy thể cá phối hợp HCG:
+ Liều sơ bộ: 0,2 – 0,3mg não thùy/kg cá cái
+ Liều quyết định: 1500-2000 UI (HCG) + 3 -5mg não thùy
+ Hoặc 70 – 100microgam LHRHa +3 -5mg não thùy/kg cá cái

Cá đực chỉ tiêm 1 lần với lượng dùng 1/4 – 1/3 so với liều quyết định của cá cái. Ngoài ra, tuỳ theo chất lượng và độ thành thục của trứng để điều chỉnh liều lượng và phối hợp chủng loại kích dục tố cho thích hợp. Điều này phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và tay nghề của người kỹ thuật

Thời gian hiệu ứng của kích dục tố sau liều tiêm quyết định từ 8-12 giờ. Khi cá rụng trứng, tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Có thể khử dính trứng (sau khi thụ tinh) bằng Tanin hoặc không cần khử dính, cho trứng dính trên các giá thể làm bằng lưới nylon. Ấp trứng trong bể ấp hoặc bình weise (vây)

Ở nhiệt độ nước 28 – 30 độ C, cá bột sẽ nở sau 20 – 24 giờ (cá tra) và 28-33 giờ (basa). Cá tra sau khi nở 20 – 24 giờ, nhanh chóng chuyển cá xuống ao ương để tránh tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau khi bắt đầu hết noãn hoàng. Đối với cá basa, nên chuyển cá bột hết noãn hoàng vào ương trong bể ximăng, cá bột basa không ăn thịt lẫn nhau như cá tra bột.

3.3 Ương cá giống:

Ao có diện tích tối thiểu 500 mét vuông trở lên, độ sâu nước 1 – 1,5m. Chuẩn bị ao theo quy trình chung ương nuôi các loài cá: tát cạn, diệt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột (7-10kg/100 mét vuông đáy ao), phơi đáy 1-2 ngày, bón lót phân chuồng 10-15kg trên 100 mét vuông (phân gà, cút, heo …) hoặc 1-1,5kg (lân + urê) trên 100 mét vuông đáy ao. Sau đó đưa nước sâu 0,3 – 0,4m và thả giống trùng chỉ và trứng nước (Moina).

Thả cá bột và tiếp tục đưa nước từ từ vào ao cho đến khi đạt yêu cầu. Mật độ thả 400-500 con trên mét vuông. Các khâu trên là nhằm đảm bảo được lượng thức ăn tự nhiên cho cá ngay sau khi cá bột xuống ao, hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của chúng.

Sau khi thả bột, hàng ngày bổ sung tiếp tục thức ăn cho cá: cứ 10.000 cá bột dùng 200 gam đậu nành xay nhuyễn, nấu chín và 20 lòng đỏ hột vịt (luộc chín), trộn đều và rải đều khắp ao.

Sau 10 ngày, tăng lượng thức ăn thêm 50% và cho ăn dặm trùn chỉ.

Sau tuần lễ thứ 2 có thể cho ăn thức ăn chế biến bằng cá và ốc (phần thịt) xay nhuyễn trộn bột gòn.

Sau 1 tháng, cho ăn cám + bột cá (tỷ lệ 1/1) hoặc cám + cá tươi (tỷ lệ 1/2), mỗi ngày cho ăn 3-4 lần, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cá.

Sau 3-4 tháng ương nuôi, cá đạt cỡ 12-15 con trên kg thì chuyển sang nuôi cá thịt. Đối với cá basa, ương cá bột trên bể ximăng với thức ăn là Moina hoặc ấu trùng Artemia, sau 1 tuần cung cấp bổ sung thêm trùn chỉ.

Sau 2 tuần chuyển cá xuống ương trong ao đất hoặc san thưa ương trong bể. Thức ăn là Moina + trùng chỉ + thức ăn chế biến (cá tươi xay nhuyễn và cám) cho đến khi 2 tháng tuổi.

Sau đó cá giống tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhỏ trong khoảng 4-5 tháng, khi cá đạt cỡ 10-15 con/ kg sẽ chuyển vào bè nuôi cá thịt. Đối với cá basa giống nhỏ thu gom từ tự nhiên, với cỡ cá 5-6g/con, sau khi mua hoặc đánh bắt về cần ương tiếp trong bè nhỏ 3-4 tháng cho đến khi đạt cỡ 80-100g/con mới đưa vào bè nuôi cá thịt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Vài nét về Cá Ba Sa và Cá Ba Sa

Cá tra và cá basa là 2 trong số 11 loài cá thuộc họ cá tra (Pangasiidae) đã được tìm thấy ở sông Cửu Long. Trong đó có 5 loài được nuôi nhiều nhất hiện nay ở Đồng Tháp và An Giang, chủ yếu nuôi trong ao và trong bè. Tên khoa học của cá tra là Pangasianodon hypophthalmus, của cá basa là bocourti. Cả hai loài này đều thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Siluriformes, lớp Osteichchthyes và ngành Chordata.

Cá Tra

Cá Ba Sa

Ở Việt Nam, cá tra và cá basa có nhiều tên thương mại khác nhau. Điều này đã dẫn đến tình trạng tranh chấp về sản phẩm của hai loại cá này trên thị trường. Trước tình hình này, vào năm 2004, Hội nghị về chất lượng và thương hiệu cá tra – cá basa, do Bộ Thuỷ sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức, đã thống nhất, đặt tên thương mại cho cá tra là pangasius và cá basa là basa pangasius.

Đặc điểm sinh học của cá tra và basa

Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) và basa (Pangasius bocourti) là 2 loài cá bản địa của Việt Nam và một số nước lân cận (Lào, Campuchia và Thái Lan). Cá basa là loài được nuôi truyền thống trong bè trên sông Mêkông của Việt Nam và Campuchia trong khi đó cá tra được nuôi nhiều trong ao cầu ở đồng bằng Nam bộ Việt Nam trước đây

Phân loại: 2 loài này thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), họ cá tra (Pangasiidae). Hiện tại đã có 11 loài thuộc họ cá tra được tìm thấy ở Việt Nam, trong đó có 5 loài là đối tượng nuôi quan trọng trong ao và bè. Cá tra và basa có thân dài, không vẩy, màu sắc đen xám, bụng hơi bạc, bụng cá basa to tròn vì có lá mỡ rất lớn (nên trước đây gọi là cá bụng), miệng rộng và có 2 đôi râu dài. Cá sông chủ yếu ở nước ngọt, chịu được nước lợ nhẹ (độ muối dưới 10 phần ngàn), chịu đựng được nước phèn có pH>4.

Cá tra có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được ở những ao hồ chật hẹp, thiếu oxy, nên nuôi được mật độ rất cao.

Cá basa chỉ sống chủ yếu ở sông nước chảy và được nuôi trong bè, chịu đựng điều kiện chật hẹp, thiếu oxy kém hơn cá tra.

Cả 2 loài đều có tính ăn tạp thiên về động vật, thích ăn mồi có nguồn gốc động vật và cũng dễ dàng chuyển đổi loại thức ăn. Trong vòng đời của cá, giai đoạn cá bột hết noãn hoàng thì thích ăn mồi tươi sống, ăn các loài động vật phù du có kích thước vừa cỡ miệng. Thậm chí cá tra bột còn ăn thịt lẫn nhau trong bể ương nuôi. Khi phân tích thức ăn trong ruột của cá đánh bắt ngoài tự nhiên, thành phần thức ăn được tìm thấy như sau:

Cá tra: Nhuyễn thể: 35,4%; Cá: 31,8% ; Côn trùng: 18,2% ; Thực vật thượng đẳng: 10,7%

Cá basa: Mùn bã 63,1%; Rễ thực vật 21,1%; Giáp xác 14%; Trái cây 12,1%; Côn trùng 6,7%; Nhuyễn thể 5,4%; Cá 4,5%

Khi nuôi trong ao, cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức như mùn bã hữu cơ, cám, rau, động vật đáy, thức ăn hỗn hợp và rất thích phân cầu. Cá basa cũng dễ dàng sử dụng các loại thức ăn khác nhau như hỗn hợp tấm, cám, rau và cá vụn (nấu chín) nên thích hợp cho nuôi dưỡng trong bè.

Trong tự nhiên, cá tra có thể sống trên 20 năm, cỡ cá lớn nhất đã gặp dài 1,8m. Nuôi trong ao một năm đạt 1-1,5kg/con.

Cá basa cũng có tốc độ lớn khá nhanh, sau một năm nuôi lớn được 0,7 – 1,3kg/con. Nuôi trong bè sau 2 năm đạt tới 2,5kg/con. Trong tự nhiên đã gặp cỡ cá dài 0,5m

Trong tự nhiên, tuổi thành thục của cá tra từ 3-4 năm, cá basa từ 4-5 năm. Vào mùa thành thục (từ tháng tư trở đi) cá có tập tính bơi ngược dòng di cư tìm đến các bãi đẻ, nơi có điều kiện sinh thái phù hợp cho sự phát triển của tuyến sinh dục và đẻ trứng. Vì vậy cá không đẻ tự nhiên ở phần sông Mêkông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm ở khu vực từ địa phận tỉnh Cratie của Campuchia trở lên. Tại đây có thể bắt được những cá bố mẹ 15kg với buồng trứng đã thành thục. Tại bãi đẻ, cá bố mẹ đẻ trứng thụ tinh tự nhiên, trứng dính vào cây cỏ thủy sinh ven bờ. Sau khi nở, cá bột trôi theo dòng nước về hạ lưu đến các vùng ngập nước ở Campuchia và xuôi theo sông Mêkông về phía Việt Nam.

Tại vùng biên giới giáp Campuchia và Việt Nam, ngư dân có truyền thống vớt cá tra bột bằng các dụng cụ gọi là “đáy”. Hàng trăm triệu bột cá tra (kể cả cá thuộc họ cá tra) và các loài cá khác được vớt lên. Nhưng để thu chỉ cá tra bột, ngư dân đã ép lọc loại bỏ những loài cá khác, do đó đã giết một số lượng lớn gấp hàng chục lần số lượng cá tra bột. Hình thức này đã làm thiệt hại nghiêm trọng đến nguồn lợi cá tự nhiên trên sông. Hiện nay, chúng ta đã chủ động nuôi vỗ cá bố mẹ và cho đẻ nhân tạo, ương nuôi cá giống cá tra, nên đã hạn chế được nghề vớt cá bột trên sông. Cá basa cũng đã chủ động được một phần.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tin vui: Da cá tra được xuất khẩu sang Singapore làm… bimbim

Thay vì bán phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi, da cá tra Việt Nam đã tìm đường xuất khẩu sang Singapore với giá trị cao.

Chia sẻ với báo chí, ông Nguyễn Trường Giang, Phó Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân gạo Cỏ May có trụ sở ở Đồng Tháp cho biết, nếu trước đây da cá tra chủ yếu bán phụ phẩm để chế biến thức ăn chăn nuôi thì mới đây sản phẩm của đơn vị này được doanh nghiệp ở Singapore đề nghị mua làm sản phẩm ăn liền (snack).

Da cá tra sau khi chế biến thành snack.

“Cách đây 4 tháng, nhiều khách hàng Singapore và châu Âu đề nghị chúng tôi cung cấp da cá tra đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế với giá hấp dẫn. Sau quá trình khảo sát, đối tác Singapore đã ký kết hợp đồng bao tiêu với công ty”, ông Giang nói và cho hay nếu trước đây giá phụ phẩm chỉ 6.000 – 8.000 đồng/kg thì khi bán cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, giá đã tăng 71,4% (giá nhập tại kho); nếu có thêm chi phí đóng gói, cấp đông… thì có thể tăng gấp 3 lần, khoảng 22.000 -24.000 đồng/kg.

Snack da cá tra tại thị trường Singapore hiện có giá 8 SGD (khoảng 136.000 đồng) cho gói nhỏ 230gram.

Hiện mỗi tháng Cỏ May xuất sang thị trường Singapore 50-60 tấn da cá. Qua năm 2018, công ty sẽ mở rộng nhà máy để nâng công suất lên cao hơn. Hiện tại lượng hàng xuất đi cung không đủ cầu. Tuy nhiên, để xuất được, da cá phải đảm bảo các chứng nhận an toàn về vệ sinh thực phẩm quốc tế, không có các dư lượng về thuốc bảo vệ thực vật, hóa học.

Da cá tra là nguồn thực phẩm nhiều dinh dưỡng, giàu collagen và gelatin tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều nhà máy ở Việt Nam chưa thể tận dụng nguyên liệu này để sản xuất sản phẩm ăn liền. Để đón đầu xu hướng, ngoài xuất khẩu, sắp tới Cỏ May sẽ nghiên cứu khẩu vị, cách tẩm ướp của các nước như Singapore, Malaysia, châu Âu, Việt Nam để chế biến ra sản phẩm phù hợp và xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm snack từ da cá tra đầu tiên tại Việt Nam.

Trước đây, các phụ phẩm của con cá tra như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi. Ảnh minh họa

Ông Giang cũng cho biết, để có 35 tấn phi lê cá tra thì cần có 100 tấn nguyên liệu đầu vào. Trước đây, các phụ phẩm như da, đầu, vây, bao tử, bong bóng của cá đa phần bán để làm thức ăn chăn nuôi.

Hiện nay, ngoài doanh nghiệp Cỏ May thu được giá trị cao từ da cá tra nhờ xuất khẩu, thì trong nước, mới chỉ có Vĩnh Hoàn xây nhà máy sản xuất collagen và gelatin từ da cá tra với công suất 2.000 tấn một năm. Kết thúc quý I/2017, doanh thu từ collagen và gelatin của Vĩnh Hoàn đạt 700.000 USD. Doanh thu năm ngoái của mảng này khoảng 1 triệu USD và kỳ vọng sẽ tăng lên 5 triệu USD năm nay.

Cỏ May ra đời năm 1986 với việc sản xuất xà bông, nhưng đến năm 1990 vì gặp khó nên ngừng sản xuất mặt hàng này và chuyển sang kinh doanh lương thực. Ngoài sản xuất gạo cho thị trường trong nước và Singapore, công ty còn trồng nấm, chế biến cá tra…

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giải bài toán giống cá tra

Dù giá trị XK đã đạt gần 2 tỷ USD, đứng thứ 2 trong số các sản phẩm thủy sản XK chủ lực của Việt Nam, nhưng ngành hàng cá tra vẫn luôn ở trong tình trạng khi thiếu, lúc thừa cá tra nguyên liệu, gây khó khăn lớn cho hoạt động XK.

Để giải quyết vấn đề này, ổn định sản xuất cá tra nguyên liệu đang là vấn đề cấp thiết, nhất là giải quyết bài toán giống.

Nuôi cá tra ở ĐBSCL

Giá cá tra nguyên liệu ở ĐBSCL hiện vẫn đang ở mức rất cao. Tuy nhiên, không mấy người nuôi cá tra được hưởng lợi từ mức giá này, bởi không còn cá mà bán.

Theo ông Nguyễn Văn Đời, một chủ trại cá tra lớn, với diện tích 10ha ở cù lao Tân Phong (Tiền Giang), phần lớn các ao nuôi cá tra ở cù lao này đã thu hoạch và bán hết khi cá tra nguyên liệu ở mức giá 24.000 – 25.000 đ/kg. Hiện dưới ao chỉ có cá mới thả nuôi chưa lâu. Ông Nguyễn Hữu Nguyên, GĐ HTX Thủy sản Châu Phú (An Giang), cho biết, hầu hết các ao nuôi ở đây cũng không còn cá để thu hoạch.

Điều đáng nói là tình trạng thiếu hụt nguồn cung cá tra nguyên liệu trong năm 2017 đã được nhiều DN cảnh báo từ năm ngoái, nhưng vẫn cứ xảy ra. Nguyên nhân trước hết là do trong 3 năm từ 2014 – 2016, giá cá tra nguyên liệu thường ở mức thấp, khiến nhiều người nuôi bị thua lỗ, phải treo ao hay chuyển nghề nuôi khác. Bên cạnh đó, là việc mất mùa cá tra giống cuối năm 2016 cũng ảnh hưởng không nhỏ tới thả nuôi cá tra của nhiều trang trại trong năm nay.

Mặt khác, chất lượng cá tra giống cũng đang khiến cho nhiều DN, trang trại không yên tâm thả nuôi. Theo báo cáo của TS Dương Nhựt Long (Khoa Thủy sản, ĐH Cần Thơ), tại Lễ tổng kết Dự án xây dựng chuỗi cung ứng cá tra bền vững tại Việt Nam, tỷ lệ sống của cá tra trong quá trình ương giống rất thấp, hiện chỉ từ 6 – 10%. Sau khi thả giống, tỷ lệ cá chết khá cao, từ 10 – 30%, tỷ lệ sống của cá tra nuôi thịt hiện mới chỉ đạt 69 – 80%.

Chính vì vậy, để ổn định nghề nuôi cá tra, việc nâng cao chất lượng con giống đang được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Một thông tin đáng chú ý là mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận Đề án “Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao cho vùng ĐBSCL tại An Giang”.

Cụ thể: cấp 1 gồm các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, trường ĐH và DN có đủ điều kiện cung cấp đàn cá tra bố mẹ tuyển chọn các tính trạng tốt để chuyển giao cho đơn vị cấp 2; cấp 2 gồm Trung tâm giống thủy sản An Giang, trung tâm giống thủy sản cấp 1 của các tỉnh, các DN có cơ sở sản xuất giống, các trại giống liên kết sản xuất, cung cấp cá tra bột; cấp 3 là các cơ sở ương dưỡng từ cá bột lên cá hương giống. Mục tiêu là đến năm 2020, diện tích tham gia chuỗi liên kết đạt 1.000ha, chiếm 50% diện tích ương giống cá tra khu vực ĐBSCL; cung cấp cho toàn vùng khoảng 50% con giống (tương đương 1,75 tỉ con giống); đến năm 2025 cung cấp 70% con giống (tương đương khoảng 2,8 tỉ con giống).

Điều đáng chú ý của Liên kết sản xuất giống cá tra 3 cấp là đã thu hút được sự tham gia của các DN. Chẳng hạn, Tập đoàn Việt – Úc đã quyết định đầu tư vùng sản xuất cá tra giống chất lượng cao với diện tích 100ha ở thị xã Tân Châu (An Giang).

Bộ NN-PTNT cũng đánh giá cao vai trò quan trọng của DN trong hệ thống sản xuất giống cá tra, nhất là những DN đã khẳng định được năng lực trong nghiên cứu, chọn tạo giống thủy sản. Mới đây, tại Lễ công bố Chương trình tôm giống bố mẹ của tập đoàn Việt – Úc, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Vũ Văn Tám, sau khi biểu dương những thành công của Tập đoàn Việt – Úc trong việc chọn tạo tôm giống bố mẹ, đã đề nghị tập đoàn này tận dụng kinh nghiệm sẵn có, phát triển nghiên cứu chọn giống sang các đối tượng nuôi quan trọng, trong đó có cá tra.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP, trong 10 tháng đầu năm nay, XK cá tra đạt gần 1,48 tỷ USD. Trong mấy tháng cuối năm đã ghi nhận tín hiệu tích cực từ một số thị trường nhập khẩu quan trọng như Trung Quốc, Mỹ, ASEAN… Tuy nhiên, do cá tra nguyên liệu bị thiếu hụt nặng nề, kế hoạch XK cuối năm của nhiều DN sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.