Công nghệ số giúp phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh của Bò Sữa

Những thiết bị gọn nhẹ có thể tự động gửi thông báo đến chủ trang trại nếu bò gặp vấn đề sức khỏe.

Vòng cổ thông minh (Smart Collar) là một thiết bị công nghệ phân tích sự thay đổi trong hành vi của bò có liên quan thế nào đến sức khỏe chúng, từ đó thông báo đến người chủ trang trại qua hệ thống máy tính và điện thoại.

Thiết bị này đã được dùng để theo dõi sức khỏe của những chú bò tại một trong trại ở Scotland từ năm 2010. Ban đầu vòng cổ được thiết kế và phát triển bởi một startup có tên là Glassgow. Chức năng duy nhất là theo dõi khả năng sinh sản của bò bằng cách theo dõi những hoạt động của chúng.

Bò sẽ di chuyển nhiều hơn khi chúng có nhu cầu sinh sản. Dựa vào đặc điểm này, thiết bị sẽ thông báo với người chủ trang trại khi những con bò đã sẵn sàng giao phối qua tin nhắn đến điện thoại hoặc máy tính.

Hiện nay, nhiều chức năng mới đã được thêm vào từ khi Afimilk – một công ty chuyên phát triển công nghệ trong ngành chế biến sữa được chuyển giao và tiếp tục nghiên cứu để phát triển vòng cổ thông minh.

Những chiếc vòng đeo cổ giúp người nông dẫn giám sát được những thay đổi về sức khỏe của chúng.

Những chức năng mới đã được thêm vào cho chiếc vòng như: phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh tật bằng cách kiểm tra thời gian trung bình mỗi con bò ăn uống và nhai lại. Sau khi phân tích thông tin, báo cáo sẽ được gửi đến điện thoại của người chủ trang trại nếu các hoạt động này có dấu hiệu suy giảm.

Richart Dewhurst – người chuyên nghiên cứu về vấn đề dinh dưỡng cho động vật ở trường đại học nông nghiệp Scotland cho biết: “Chúng tôi đang tìm kiếm thêm nhiều sự thay đổi hành vi nhạy cảm của bò và mối liên hệ đến các vấn đề sức khỏe như đi khập khiễng hoặc bị nhiễm axit”. Các nhà khoa học đang phát triển thuật toán để phân tích các dữ liệu thu thập được từ những chiếc vòng cổ.

Trong một phần nghiên cứu khác, Dewhurst phân tích nồng độ xeton và sulfua trong hơi thở của mỗi con bò để tìm hiểu về sự thiếu ăn, sự phân hủy của các mô hay việc thiếu hụt protein trong chế độ ăn của chúng.

Ngoài dùng vòng theo dõi, camera cảm ứng nhiệt cũng được phát triển để theo dõi những vấn đề sức khỏe của bò.

Bệnh viêm vú trên bò sữa là căn bệnh có nguyên nhân từ việc bò bị nhiễm trùng tuyến vú, chính là bệnh phổ biến nhất ở bò sữa. Để phát hiện căn bệnh này, những máy quay cảm ứng nhiệt đã được đặt trong chuồng để có thể nhận ra những điểm nóng hoặc nhiễm trùng trên núm vú, điều này giúp bò có thể được điều trị sớm hơn.

Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu phát triển một thiết bị để gắn lên tai của những chú bò nhằm giúp phát hiện mức độ căng thẳng.

Theo Berkmans một nhà nghiên cứu động vật cho hay, bò càng căng thẳng thì mức độ dinh dưỡng trong thịt lại càng suy giảm. Chính vì vậy thiết bị đeo vào tai sẽ giúp phát hiện và thông báo cho người nông dân kịp thời qua hệ thống điện thoại và máy tính khi có vấn đề xảy ra.

Nguồn: Nature được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm đến năng suất sinh sản và sữa ở bò (Phần 1)

Ravagnolo et al. (2000) báo cáo rằng nhiệt độ tối đa và độ ẩm tương đối tối thiểu là các biến quan trọng nhất để định lượng stress nhiệt, và cả hai biến được dễ dàng kết hợp thành một chỉ số gọi là THI.

Sản lượng sữa giảm 0,2 kg theo THI tăng 1 đơn vị khi THI vượt quá 72. Các tác giả kết luận rằng THI có thể được sử dụng để ước lượng ảnh hưởng của stress nhiệt đến sản xuất.

Rõ ràng với kích thước cơ thể tương tự và diện tích bề mặt, con bò đang cho sữa chứa nhiều hơn đáng kể lượng nhiệt để giải tỏa hơn so với một con bò không cho sữa và sẽ gặp khó khăn lớn hơn để làm việc này trong môi trường nóng, ẩm ướt. Nếu so sánh bò không cho sữa, hoặc cho sữa ít (18,5 kg / ngày) hoặc cao (31,6 kg / ngày), con bò có năng suất cao và thấp tạo ra nhiệt nhiều hơn 27 và 48% so với bò không cho sữa bò mặc dù có thấp hơn về khối lượng cơ thể (752, 624, và 597 kg cho tương ứng 3 loại bò không vắt sữa, thấp, và cao, tương ứng) (Purwanto et al., 1990).

Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sữa của bò

Thở nhiều và đổ mồ hôi tăng sự phụ thuộc vào mức tăng làm mát bay hơi. Thở làm giảm CO2 qua thông qua phổi, làm giảm nồng độ trong máu của axit carbonic và làm xáo trộn sự cân bằng quan trọng của axit carbonic để bicarbonate cần thiết để duy trì độ pH trong máu, dẫn đến nhiễm kiềm hô hấp (Benjamin, 1981). Việc bồi thường cho các nhiễm kiềm hô hấp liên quan đến việc tăng tiết niệu bài tiết bicarbonate (Benjamin, 1981), dẫn đến một sự suy giảm nồng độ bicarbonate huyết.

Beede và Collier (1986) đã xác định ba chiến lược quản lý để giảm thiểu những ảnh hưởng của stress nhiệt:

1) thay đổi vật lý của môi trường (bóng, làm mát)

2) Tăng cường cải tiến di truyền tạo nên các giống/dòng chịu nhiệt

3) cải thiện dinh dưỡng. Dựa trên kiến ​​thức hiện nay, sự kết hợp các hoạt động này có thể tối ưu hóa để tối ưu hóa khả năng sản xuất sữa trong khí hậu nóng ẩm.

Lợi ích từ phun nước và quạt đã được nghiên cứu ở môi trường ôn đới và khí hậu ẩm ướt (Bang Kentucky, Mỹ) cho thấy, tại đó bò cho hơn 3,6 kg sữa (15,9%) trong khi tiêu thụ hơn 9,2% thức ăn mỗi ngày so với nhóm đối chứng (Turner et al., 1992). Công trình Missouri và Israel cho thấy sữa tăng 0,7 kg / ngày ở nhiệt độ vừa phải (Igono et al., 1985) và 2,6 kg kg trong môi trường nóng ẩm (Her et al., 1988. Tần suất làm ướt và thời gian làm mát là rất quan trọng đối với hiệu quả của hệ thống làm mát. Bò được làm ướt 10 giây ít hiệu quả so với bò được làm ướt 20 hoặc 30 giây (có tác dụng tương tự) (Flamenbaum et al., 1986)

Tương tự, bò được làm lạnh bằng vòi phun nước và quạt trong thời gian cạn sữa duy trì nhiệt độ cơ thể thấp hơn và bê được đẻ ra nặng hơn 2,6 kg và cho thêm 3,5 kg sữa / ngày trong 150 ngày đầu của chu kỳ so với bò chỉ được ở trong bóng mát (Wolfenson et al. , 1988).

Tuy nhiên nghiên cứu từ miền nam Hoa Kỳ và vùng Caribbean chỉ ra rằng bò cái giống Holstein được nuôi ở vĩ độ thấp hơn 34°N có khối lượng sơ sinh bé hơn 6-10%, và lúc trưởng thành bé hơn 16% so với bò được nuôi ở các vĩ độ phía bắc, ngay cả khi chúng là con của một bò đực giống (NRC, 1981).

Bởi vì bê cái hậu bị sinh ra ít nhiệt cơ thể và có thể giải tỏa nhiệt dễ dàng hơn so với bò cho sữa, vậy làm mát chúng sẽ có lợi gì?

Tại Ai Cập, bê được cho tiếp xúc với 3 môi trường: mùa đông (17,3 ° C, 54,5% RH), mùa hè (36 ° C, 47% RH), và mùa hè có phun nước phun cùng với cho uống thuốc gây thoát mồ hôi (oral diaphoretic) (Marai et al., 1995). Thuốc thuốc gây thoát mồ hôi (trong thí nghiệm này acetate) là một hợp chất được cho gia súc ăn để tăng tiết mồ hôi. Bê hậu bị được phun nước bảy lần mỗi ngày trong khoảng thời gian nóng nhất trong ngày. Bê hậu bị được làm lạnh có nhiệt độ trực tràng và tần suất thở đều thấp hơn và tăng trọng thêm 26,1% nhờ được làm mát trong mùa hè, một sự gia tăng mạnh mặc dù bê chỉ được phun nước trong thời gian nóng nhất trong ngày mà không sử dụng quạt.

Phân hủy protein thức ăn có thể đặc biệt quan trọng trong điều kiện stress nhiệt. Chế độ ăn với hàm lượng đạm thô thấp (31,2%) và cao (39,2%) đạm không phân hủy (undegraded feed protein – RUP) trong điều kiện thời tiết nóng không tác động đến thu nạp vật chất khô (Dry Matter Intake – DMI); tuy nhiên năng suất tăng thêm 2,4 kg/ngày và lượng Ure trong máu giảm từ 17,5 xuống 13,3 /100 ml đối với chế độ ăn uống có chứa đạm không phân huy cao hơn (Belibasakis et al., 1995).

Công trình nghiên cứu tại bang Arizona được tóm tắt bởi Huber et al. (1994) cho thấy rằng một khi bò được đưa vào môi trường nóng thì đạm có thể phân hủy trong dạ cỏ (Rumen Degradable Protein – RDP) không được vượt quá 61% protein thô trong khẩu phần, và tổng số protein không được vượt so với khuyến nghị của tiêu chuẩn NRC (Mỹ) quá 100 g Nito /ngày. Một trăm gram N tương đương với khoảng 3,1% đạm thô trong khẩu phần ăn, với giả sử là 20 kg lượng vật chất khô thu nạp / ngày. Lysine trong khẩu phần cao (241 g/ ngày, 1% vật chất khô) tăng sản lượng sữa thêm 3 kg so với khẩu phần có chứa 137g lysin /ngày (= (0,6% vật chất khô) (Huber et al., 1994).

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Thức ăn dành cho bò sữa

Bò sữa là loại động vật nhai lại, có dạ dày bốn túi, có khả năng tiêu hoá và sử dụng nhiều loại thức ăn. Nhìn chung, thức ăn dùng nuôi bò sữa đều rẻ tiền, dễ kiếm, đa dạng hơn so với thức ăn nuôi lợn và gia cầm.

1. Các loại thức ăn cho bò sữa

Được chia thành 3 nhóm chính là thức ăn thô, thức ăn tinh và thức ăn bổ sung.

Thức ăn thô, bao gồm một số nhóm: thức ăn xanh (cỏ tự nhiên, cỏ trồng, ngọn mía, vỏ đọt dứa,…), thức ăn ủ chua (được tạo ra thông qua ủ chua thức ăn xanh), cỏ khô và rơm lúa, thức ăn củ quả (khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí,…), phế phụ phẩm công nghiệp chế biến (bã đậu nành, bã bia, bã sắn, rỉ mật đường,…)

Thức ăn tinh, gồm các loại hạt ngũ cốc và bột từ hạt ngũ cốc (như ngô, sắn, mì, gạo, cám gạo…), bột và khô dầu đậu tương, lạc…; các loại hạt cây họ đậu và thức ăn tinh hỗn hợp được sản xuất công nghiệp.

Thức ăn bổ sung (urê và hỗn hợp khoáng – vitamin,…).

2. Với một số loại thức ăn dùng nuôi bò sữa, việc sử dụng phải theo kỹ thuật (không thể tuỳ tiện)

Với thức ăn ủ chua: chỉ cho bò sữa ăn sau khi vắt sữa để tránh cho sữa nhiễm mùi cỏ ủ.

Bã bia: mỗi bò không cho ăn quá 15kg mỗi ngày, cho ăn nhiều bã bia, sẽ làm giảm tỷ lệ tiêu hoá chất xơ, các chất chứa nitơ và làm giảm chất lượng sữa.

Rỉ mật đường: Cho mỗi con chỉ ăn 1- 2kg mỗi ngày vì rỉ mật đường nhuận tràng, bò ăn nhiều bị ỉa chảy.

Vỏ và đọt dứa: không sử dụng thay thế hoàn toàn cỏ, mỗi con chỉ cho ăn 10 – 15kg mỗi ngày, chia làm nhiều bữa, vì trong vỏ dứa có men bromelin, bò ăn nhiều bị rát lưỡi.

Bã đậu nành sống: sử dụng chung với các loại thức ăn có chứa urê thì phải chia nhỏ lượng bã đậu nành ra, vì trong bã đậu nành có men phân giải urê. Sử dụng cùng lúc hai loại thức ăn này và với số lượng lớn, urê sẽ bị phân giải nhanh, dễ gây ngộ độc cho bò sữa.

3. Việc thay thế các loại thức ăn dùng cho bò sữa

Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho bò sữa thay đổi rất lớn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn thu hoạch, thời gian và quá trình bảo quản, công nghệ chế biến… Trong thực tế, không chỉ sử dụng một số loại thức ăn nhất định mà phải thay đổi, và phải cho thay thế nhau. Về cơ bản, như sau:

1kg thức ăn tinh = 4,5kg bã bia

1kg cám gạo = 0,9kg cám mì

1kg bột sắn = 1kg rỉ mật đường

35kg cỏ tự nhiên = 35kg cây ngô ủ chua hoặc 35kg cây ngô xanh ngay sau khi thu hạt

35kg cỏ tự nhiên: 25 kg cỏ tự nhiên + 2kg rơm lúa

35kg cỏ tự nhiên: 35kg cây ngô tỉa non + 1,5kg rỉ mật đường.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phương pháp cạn sữa đột ngột ở bò

Cạn sữa tạo điều kiện cho cơ thể tích luỹ các chất dinh dưỡng, chuẩn bị cho chu kỳ tiết sữa sau và đặc biệt là để hình thành sữa đầu được tốt. Mặt khác, cạn sữa còn nhằm mục đích tập trung dinh dưỡng cho sự phát triển của bào thai mà ở giai đoạn này tốc độ phát triển rất nhanh.

Ngoài đối tượng bò đang vắt sữa có chửa, cạn sữa còn áp dụng cho cả những con không có chửa nhưng năng suất sữa thấp dưới ngưỡng hiệu quả kinh tế, sữa chất lượng kém, những con gầy yếu, bị viêm vú …

Trong chăn nuôi bò sữa, cạn sữa là một khâu kỹ thuật quan trọng. Nguyên tắc cơ bản của việc cạn sữa là làm ngừng quá trình tạo sữa thông qua việc làm thay đổi các tín hiệu của phản xạ có điều kiện về tiết sữa và hạn chế cung cấp cho bò nguồn nguyên liệu tạo sữa (nếu cần). Nghĩa là thay đổi (giảm) số lần vắt, thời gian vắt, thay đổi cách vắt và địa điểm vắt sữa ….Nếu thấy các biện pháp đó không mang lại hiệu quả thì rút bớt mức dinh dưỡng, loại bỏ khỏi khẩu phần các thức ăn nhiều nước, thức ăn kích thích tạo sữa và thức ăn tinh.

Có ba phương pháp làm cạn sữa:

– Phương pháp làm cạn sữa chậm: thời gian làm cạn sữa khoảng 10-15 ngày.

– Phương pháp làm cạn sữa nhanh: thời gian làm cạn sữa khoảng 5-7 ngày.

– Phương pháp làm cạn sữa đột ngột.

Dưới đây Farmtech VietNam xin giới thiệu về phương pháp cạn sữa đột ngột:

1. Nguyên lý của phương pháp cạn sữa đột ngột:

Cạn sữa cho bò theo phương pháp đột ngột nghĩa là ngay sau khi vắt sữa buổi cuối cùng, bơm ngay thuốc cạn sữa vào các ống núm vú và chuyển bò sang lô theo dõi cạn sữa, đồng thời cho ăn khẩu phần của bò cạn sữa.

2. Lợi ích của phương pháp cạn sữa đột ngột:

Phương pháp cạn sữa đột ngột vừa giảm nguy cơ viêm vú, vừa tác động tốt lên quá trình tiết sữa của chu kỳ sau. Mặt khác, phương pháp này cho phép đơn giản hoá quá trình chăm sóc, cho ăn và vắt sữa so với phương pháp cạn sữa từ từ mà hiện nay nhiều cơ sở chăn nuôi bò sữa ở nước ta vẫn đang áp dụng.

3. Các loại bò đưa vào cạn sữa đột ngột:

– Bò có chửa từ ngày thứ 215 – 219: Bơm thuốc cạn sữa vào ngày chửa thứ 220.

– Bò đang điều trị, gầy yếu, đau chân nặng, ít sữa kéo dài, khả năng hồi phục kém.

– Bò có số ngày vắt sữa trên 305 ngày, ít sữa kéo dài và có hiện tượng viêm vú.

– Bò có số ngày vắt sữa trên 305 ngày, sữa ít và loãng.

4. Các bước tiến hành:

– Lập danh sách bò đưa vào diện cạn sữa theo các đối tượng nêu trên.

– Vắt sữa lần cuối.

– Lau sạch bầu vú với dung dịch khử trùng.

– Bơm vào tất cả các núm vú thuốc cạn sữa, ví dụ Mamifort Secado (với thành phần Cloxacillin sodium 500mg và Ampicillin sodium 250mg), bơm vào mỗi khoang vú một ống Mamifort Secado.

– Chuyển bò về lô theo dõi cạn sữa, cho ăn khẩu phần hàng ngày của bò cạn sữa với 15 – 16 kg cỏ voi (hoặc 10 – 11 kg cây ngô) + 3 kg rơm khô và 3 – 3,5 kg thức ăn tinh (tỷ lệ đạm thô 18%).

– Theo dõi cạn sữa trong 7 – 10 ngày, nếu có vấn đề liên quan đến kết quả cạn sữa thì xử lý.

– Khi cạn sữa thành công, chuyển bò về nuôi ở những lô tương ứng, với chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp (ví dụ: bò cạn sữa chửa kỳ cuối, bò không có chửa, bò gầy yếu ….)

5. Cạn sữa chưa đạt và cách xử lý:

Thông thường, phương pháp cạn sữa đột ngột cho kết quả rất tốt, quá trình tiết sữa bị ngừng ngay, bò không có hiện tượng viêm vú. Tuy nhiên, có một tỷ lệ rất nhỏ, không đáng kể cạn sữa chưa đạt. Tuỳ trường hợp, có các biện pháp xử lý cụ thể như sau:

– Nếu sữa vẫn chảy ra, sữa bình thường, không có biểu hiện viêm vú: nhúng các núm vú bằng dung dịch thuốc sát trùng.

– Bầu vú bị cương, da căng chuyển mầu hồng đỏ nhưng chưa viêm: tiêm kháng sinh và thuốc kháng viêm (không bơm thuốc và không vắt sữa) cho đến khi hết triệu chứng và bầu vú trở lại bình thường.

– Vú bị viêm nhưng không sưng, sữa lợn cợn: bơm lại thuốc cạn sữa vào các vú bị viêm; các vú khác không bơm.

– Vú bị viêm cấp, bầu vú sưng, nóng, đỏ và đau: điều trị viêm vú cấp bằng kháng sinh, kháng viêm, bơm Mamifort 02 lần/ngày cho đến khi khỏi viêm rồi lại bơm thuốc cạn sữa. Chỉ điều trị các vú bị viêm, các vú khác không viêm không vắt sữa và không điều trị.

Một số bệnh sinh sản trong chăn nuôi bò sữa

Các giống bò sữa hiện nuôi ở nước ta đều có nguồn gốc từ các nước ôn đới nên khả năng chống chịu với bệnh tật không cao, tỷ lệ máu ngoại càng cao thì sức đề kháng càng giảm. Bên cạnh đó việc khai thác sữa và chế độ nuôi dưỡng chăm sóc không phù hợp dễ làm bò mắc một số bệnh. Sau đây là một số bệnh sinh sản thường gặp trong nghề chăn nuôi bò sữa.

1. Chậm sinh và vô sinh:

Đó là trường hợp bò cái đến tuổi thành thục (14 tháng tuổi trở lên) mà không thấy động dục hoặc không thể phối giống; hoặc có động dục, phối giống đúng thời điểm nhưng không thụ thai.

Bò cái sau khi sanh 3-5 tháng mà không lên giống hoặc có lên giống nhưng phối giống nhiều lần không đậu thai.

1.1. Đối với bò cái tơ:

Nguyên nhân có thể là do bộ máy sinh dục phát triển không bình thường (buồng trứng, tử cung kém phát triển, có khối u trên buồng trứng…), có thể do viêm nhiễm đường sinh dục (âm đạo, tử cung…) hoặc do chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc không tốt bò còi cọc như thiếu khoáng: Photpho, Selenium, đồng, Vitamin A…

Để xử lý cần tìm hiểu tình trạng chăm sóc, nuôi dưỡng nếu tình trạng này xảy ra ở một số cá thể thì có thể là do những bất thường ở bộ máy sinh dục, còn nếu có nhiều cá thể mắc phải (trên 50 % số bò cái sinh sản trong trại), thì cần lưu ý đến các yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng, chuồng trại hoặc bệnh truyền nhiễm.

1.2. Đối với bò cái đã trưởng thành:

Trước hết lưu ý đến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, vì nhiều hộ chú trọng đến việc khai thác sữa mà không cung cấp dinh dưỡng đủ, cân đối cho việc hồi phục hoặc không cung cấp đủ dinh dưỡng trong thời kỳ cạn sữa do tâm lý sai lầm là “sợ cho bò ăn cám hỗn hợp trong giai đoạn cạn sữa sẽ làm thai to, bò đẻ khó”, bò cái ít được vận động.

Một sai lầm khác là nông dân cung cấp quá nhiều thức ăn tinh, hèm bia, xác mì, tỷ lệ thức ăn tinh trên thô không phù hợp trong quá trình chăn nuôi. Cũng có thể do các viêm nhiễm từ lần sinh sản trước (viêm tử cung, viêm âm đạo…) mà không được điều trị triệt để.

Để xử lý trước hết người chăn nuôi cần kiểm tra và điều chỉnh quá trình chăn nuôi của mình, nhờ nhân viên thú y kiểm tra đường sinh dục của bò để có quyết định điều trị phù hợp (viêm đường sinh dục, tồn lưu thể vàng, u nang buồng trứng…)

Cần lưu ý là việc phát hiện chính xác thời điểm lên giống để phối giống đúng lúc góp phần quan trọng vào kết quả đậu thai nên người chăn nuôi cần ghi chép vào sổ sách các thời điểm như ngày sanh, ngày lên giống kỳ trước, tình trạng bệnh sau khi sanh (viêm tử cung, viêm âm đạo, viêm vú…), dự đoán ngày lên giống (sau khi sanh 45- 60 ngày) để tập trung quan sát (nhất là vào ban đêm) báo cho dẫn tinh viên kịp thời phối giống.

2. Viêm vú (Mastitis):

Đây là loại bệnh phổ biến trên bò sữa, dễ lây lan và gây thiệt hại về kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa.

Bệnh gây ra do vệ sinh chuồng trại, vệ sinh vắt sữa không tốt, tạo điều kiện cho các vi khuẩn (như liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, song cầu khuẩn hay trực khuẩn gây mủ) hay nấm Candida albicals xâm nhập vào bầu vú và gây bệnh. Bệnh viêm vú thường có hai thể: Viêm vú lâm sàng và viêm vú tiềm ẩn.

2.1. Viêm vú lâm sàng: Tình trạng viêm vú có thể xãy ra ở 1, 2 hoặc cả 4 thùy vú, có thể ở các thể sau:

– Viêm vú thể tương mạc: Vú bị sưng ở một thùy hay toàn bộ bầu vú. Khi ấn mạnh tay vào bầu vú bò bị đau, lượng sữa giảm rõ rệt, sữa loãng và có hạt lổn nhổn.

– Viêm vú thể Cata: Đặc trưng là tế bào thượng bì bị tróc ra, ở những ổ viêm có dịch thấm xuất. Sữa bị cặn hoặc cục sữa vón do dịch thẩm xuất và bạch cầu. Thể viêm vú này thường không làm bầu vú bị sưng nhưng làm cho núm vú tăng thể tích (to ra) do biểu bì dầy lên. 

– Viêm vú có mủ: Biểu hiện đặc trưng là vú có mủ và dịch thẩm xuất. Bò sốt cao, mệt mỏi, bỏ ăn; bầu vú bị sưng đỏ, nóng và đau. Đầu tiên sữa loãng có màu hồng do xuất huyết nhẹ và sau đó có lẫn các cục sữa vón và dịch mủ màu vàng nhạt.

– Viêm vú có máu: Biểu hiện đặc trưng là các tổ chức của tuyến tiết sữa bị xuất huyết và tụ huyết. Bệnh thường ở thể cấp tính như bò sốt cao, kém ăn, mệt mỏi, bầu vú sưng to có những đám tụ huyết. Lượng sữa giảm nhanh có khi ngừng tiết sữa. Sữa loãng có màu hồng hoặc đôi khi đỏ như máu do xuất huyết. Bò có thể nhiễm trùng huyết và chết sau 7-9 ngày.

2.2. Thể viêm vú tiềm ẩn:

Viêm vú thể tiềm ẩn rất phổ biến và gây những thiệt hại kinh tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa.

Bệnh này nguy hiểm ở chỗ là bò mắc bệnh không có những biểu hiện để người chăn nuôi có thể quan sát được mà muốn phát hiện bệnh phải thực hiện các test kiểm tra trên sữa. Do vậy, mầm bệnh tồn tại lây lan cho những bò khác mà người chăn nuôi vẫn không hề hay biết.

Theo một số chuyên gia tình trạng viêm vú tiềm ẩn có thể gây giảm lượng sữa đến 20%, làm tổn thương lâu dài các tế bào, mô tiết sữa mà người chăn nuôi hoàn toàn không hề biết. Bò ít có triệu chứng bên ngoài, nhưng thường thì kém ăn, thỉnh thoảng sữa bị tủa và không có biểu hiện triệu chứng ở bầu vú.

Để phát hiện viêm vú tiềm ẩn cần dựa vào dấu hiệu của sữa và xét nghiệm sữa. Hiện nay có thể dùng test CMT mà thao tác thực hiện không phức tạp người chăn nuôi có thể tự kiểm tra.

Phòng bệnh viêm vú trước hết phải làm tốt khâu vệ sinh chuồng trại chăn nuôi, vệ sinh vắt sữa (dụng cụ, nơi vắt sữa, cơ thể bị, bầu vú, núm vú, tay người vắt sữa). Tốt nhất người chăn nuôi không sử dụng “người vắt sữa thuê”.â Cho bò ăn cám hỗn hợp ngay sau khi vắt sữa để bò không nằm xuống sàn khi vắt sữa xong. Kiểm tra định kỳ, cách ly và điều trị triệt để khi bò mắc bệnh.

3. Viêm tử cung:

Bệnh do nhiễm khuẩn khi gieo tinh nhân tạo hoặc do bò đực bị viêm cơ quan sinh dục. Viêm tử cung còn do vệ sinh khi đẻ không tốt (chuồng trại bẩn, can thiệp của người chăn nuôi…). Bệnh viêm tử cung còn do kế phát của bệnh viêm âm đạo và viêm phúc mạc. Khi các vi khuẩn xâm nhập vào tử cung, phát triển nhanh và gây viêm xung huyết, có mủ, gây tróc niêm mạc, xuất huyết.

Khi mắc bệnh, bò luôn mệt mỏi, ăn ít, sốt cao, đau vùng hông (bò luôn luôn quay đầu lại phía sau, đi lại bồn chồn). Vài ngày sau, âm hộ chảy dịch nhầy tanh, có lẫn máu, mủ. Thông thường khi bò mắc bệnh viêm tử cung thì thường mắc bệnh viêm âm đạo và ngược lại.

3.1. Bệnh viêm âm đạo:

Nguyên nhân gây bệnh cũng giống như bệnh viêm tử cung và thường hai bệnh này xảy ra cùng lúc. Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào âm đạo và phát triển trên niêm mạc âm đạo và gây viêm. Bò có triệu chứng giống như viêm tử cung.

Tuy nhiên, khi dùng kềm mỏ vịt để khám thì thấy những đám tụ huyết, xuất huyết, loét… Khi bò bệnh thì báo cho cán bộ thú y đến khám và điều trị.

3.2. Sót nhau:

Sau khi đẻ, nhau thai sẽ được tống ra trong vòng 8-12giờ. Nếu nhau không ra sau 18 giờ, ta gọi là sót nhau.

Nguyên nhân của hiện tượng sót nhau là do bất thường của tử cung; bò gầy yếu, nuôi dưỡng kém bò đẻ khó, đẻ sinh đôi thời gian đẻ kéo dài nên lực co bóp của tử cung yếu không đẩy nhau ra.

Thông thường bò sót nhau sẽ ăn kém, sốt, nhưng đôi khi không có biểu hiện gì, vẫn ăn bình thường. Tỉ lệ sót nhau thường chiếm khoảng 5-15% số bò sinh sản trong đàn, nếu tỉ lệ này lớn hơn thì vấn đề nuôi dưỡng chăm sóc đàn bò cái sinh sản chưa tốt.

Khi bò sót nhau, cần gọi cán bộ thú y đến xử lý,  không tự tiện xử lý sẽ gây nên những tổn thương trên tử cung và từ đó ảnh hưởng đến sự sinh sản của bò sau này (giảm tỉ lệ thụ thai).

4. Bệnh sa tử cung sau sinh

Tử cung bị lộn hoàn toàn ra ngoài sau khi sanh.thường xảy ra ở bò già,đẻ nhiều lứa,chăm sóc kém,ít vận động hay do thai quá lớn, thao tác kéo bò quá mạnh.
Phải xử lý càng sớm càng tốt để lâu hiệu quả điều trị càng thấp do tử cung khô,xung huyết, nhiễm trùng hoặc gia súc kiệt sức mà chết.

Hướng xử lý(theo kinh nghiệm):

Cho bò đứng vào giá đỡ,chuồng ép hay dùng cây ép lại, khi bò không thể đứng dậy nổi do mệt,mất sức cũng có thể xử lý khi nằm nhưng cực hơn.Bò trên hình vứa mới sanh nên còn đứng nên ta xử lý dễ hơn.

Rửa sạch phần lộn ra ngoài bằng nước sạch pha phèn chua hay nước sinh lý mặn,bóc nhau dính ở đó,nếu bò nằm ta phải lót nilon sạch ở dưới.

Chích thuốc tê vào khum đuôi cho bò bớt rặng. Tuỳ vào tử cung lòi ra lớn hay nhỏ ta nhờ thêm 1.2 người phụ đưa vào.Một người nâng tử cung ngang âm hộ,người còn lại nhét vào cho đến khi lọt vào trong,trước khi thực hiện phải rửa tay sạch sẽ, móng tay cắt ngắn tránh tổn thương tủ cung.

Bơm rửa bằng dung dịch sát trùng hay đặt thuốc kháng viêm.Nhờ một người đặt một tay trong tử cung phòng khi bò rặng mạnh lòi ngược ra trong khi ta chuẩn bị may âm hộ lại.Nên khâu âm hộ lại khoảng vài ngày an toàn hơn.

Điều trị chống viêm bằng kháng sinh,thuốc trợ sức,thuốc cầm máu(khi ta thao tác ít nhiều gì cũng gây tổn thương tử cung).Thường bơm rửa tử cung tống để chất dơ ra ngoài. Sau khoảng tuần âm hộ teo nhỏ không thấy dấu hiệu căng chỉ nữa thì cắt chỉ ,sát trùng ,rửa sạch dấu may.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.