“Phù thuỷ nuôi rắn” đất cảng

Không ít người sửng sốt với sở thích và tài nuôi rắn của anh Nguyễn Văn Thắng ở thôn Lương Câu (xã Tân Viên, huyện An Lão, Hải Phòng). Biết bắt rắn từ bé, nhưng để trở thành “phù thủy nuôi rắn”, anh phải trải qua nhiều năm gian khổ, nếm đủ thất bại cay đắng mới đến được thành công.

Hằng ngày chăm… 1.000 con rắn

Chúng tôi đi theo anh Thắng vào khu trang trại rộng gần 2 mẫu của anh trên cánh đồng thôn Lương Câu. Những dãy hàng lang tối tăm, lành lạnh và sâu hun hút chạy qua những ô chuồng kín mít xây bằng gạch có những ô cửa lưới đóng chặt. Khách thăm ai nấy đều thấy rờn rợn khi biết trong những khoảng tối kia là hang ổ của hàng nghìn con rắn lớn nhỏ đang sinh sống, trong đó có nhưng con hổ mang dài đến 2,5m.

Chủ nhân vội trấn an: “Không sao đâu, chuồng trại chặt chẽ lắm, hơn nữa, rắn sợ người nên thấy có hơi người là chúng lủi sâu trong hang. Khi có người đem thức ăn vào chuồng cũng vậy, chúng trốn mất cho đến khi người ra hẳn, đóng cửa cài then, chuồng yên tĩnh trở lại, chúng mới bò ra ăn”.

Khu nuôi rắn được chủ nhân chia thành 3 dãy chuồng. Dãy ngoài cùng là khu vực ấp nở và nuôi rắn con. Tiếp theo là dãy nuôi rắn hổ mang thịt, gồm 20 ô lớn, mỗi ô là nhà ở của 50 chú hổ mang. Cạnh đó, một dãy có 250 ô nhỏ bằng bê tông, cứ 6 ô một xếp chồng lên nhau. Trong mỗi ô này có một con rắn ráo trâu trong độ tuổi sinh sản.

Rắn nằm trong những chuồng kín mít xây bằng gạch có những ô cửa lưới đóng chặt

Cơ ngơi này mỗi năm cung cấp cho thị trường 500 – 1.000 con rắn thịt (trung bình 1kg/con), 2.000 – 3.000 con rắn giống.

Anh kể: “Hồi nhỏ, tôi cùng trẻ con trong xóm hay đi bắt những loại rắn không độc, đem bán kiếm ít tiền mua sách vở. Tốt nghiệp trường trung cấp xây dựng, tôi đi làm nhiều nơi thấy không hiệu quả lắm và vẫn luôn ấp ủ ý định về quê lập nghiệp với nghề nuôi rắn. Sau ít năm bươn chải bên ngoài, tôi về quê làm trang trại. Mua và thuê thêm được 2 mẫu ruộng, tôi bắt đầu nuôi rắn từ năm 2007”.

Sau đó là 5 năm thất bại liên tiếp với ít nhất 1,5 tỷ đồng. Mới đầu, anh Thắng mua gom rắn của những người bắt được rắn trong tự nhiên, nuôi 2 – 4 tháng, gặp lúc được giá thì bán. Nếu được thì lãi gấp đôi, nhưng rủi ro cao vì rắn dễ bị chết. Những con rắn đang sống trong tự nhiên, bị người bắt tác động bằng nhiều cách, rồi bị nhốt trong môi trường chật hẹp, chúng thường không chịu ăn và chết dần. Không chỉ nuôi rắn, anh nuôi cả ba ba, ếch cũng hỏng do không có kinh nghiệm.

Quyết chí ắt thành công

Anh lại đi làm nghề xây dựng để trả nợ và dành dụm tiền vốn. Chăm chỉ làm lụng, anh vẫn cố gắng dành thời gian để học hỏi nghề nuôi rắn. Không chỉ tìm hiểu trên mạng internet, báo, đài… anh còn cất công đi tham quan các mô hình nuôi rắn trong Nam, ngoài Bắc.

Nhờ ý chí quyết tâm mà a Thắng đạt được thành công 

Khi đã có chút lưng vốn cùng kinh nghiệm học được, năm 2015, anh Thắng quyết định nuôi rắn quy mô lớn, tập trung vào rắn hổ mang và ráo trâu. Mới đầu, anh nhập giống từ Ninh Bình, rồi tự mày mò nghiên cứu, thử nghiệm cho rắn đẻ thành công. Đến nay, không những anh chủ động được giống rắn cho trang trại mà còn cung cấp trứng và rắn con cho thị trường.

Chủ trang trại cho biết, chọn rắn bố mẹ đẹp, khỏe mạnh, đạt 1,5kg/con trở lên để cho chúng giao phối. Hổ mang chỉ “giao hoan” có mùa, vào tháng 3 – 4, tháng 5 thì đẻ. Ráo trâu đẻ quanh năm. Anh thả 20 – 30 con theo tỷ lệ 1 đực 2 cái vào một chuồng cho đến khi thấy bụng những con cái to ra thì bắt từng con cái ra “ở riêng” một ô, chờ đẻ. Chỉ mang thai hơn 20 ngày là chúng đẻ, mỗi lứa 15 – 20 quả trứng, mỗi năm một con cái đẻ một lứa.

Do chăm sóc con giống từ lúc còn trong trứng, thuần hóa rắn từ bé nên anh Thắng nuôi rắn rất thành công, tỷ lệ sống gần 100%. Anh chăm sóc trang trại hằng ngày và không cần thuê thêm người làm vì nuôi rắn rất nhàn. 5 – 6 ngày chúng mới ăn một bữa, thức ăn là cóc, ếch nhái hoặc gà công nghiệp xay nhỏ. Rắn ít bị bệnh tật, chỉ đôi khi mắc tiêu chảy hoặc bệnh phổi. Mỗi bữa, chủ nuôi trộn thuốc phòng bệnh vào thức ăn cho chúng là có thể hoàn toàn yên tâm về sức khỏe đàn vật nuôi.

Rắn 1,5 tuổi có thể xuất bán, mỗi con nặng trung bình 1kg. Hiện nhu cầu thịt rắn trong nước cao nhưng thường nhỏ lẻ, không có đầu mối thu mua số lượng lớn nên anh Thắng chọn bán buôn cho bạn hàng Trung Quốc. Vào cuối năm hoặc sau Tết Nguyên đán, anh đánh xe rắn lên tận cửa khẩu. So với nhiều năm trước, năm nay giá rắn cao, tới 700 nghìn đồng/kg.

Bên cạnh rắn là sản phẩm chủ lực, trang trại của anh Thắng còn cung cấp chạch giống. Chạch là loài khó sản xuất giống nhưng anh “thợ xây làm trái ngành” này có tài bắt chạch đẻ không kém tài nuôi rắn.

“Sau nhiều tìm tòi, thử nghiệm, tôi cho chạch đẻ nhân tạo thành công, cứ 100kg cá bố mẹ cho 1 triệu con chạch bột. Mỗi năm, tôi sản xuất được 5 – 7 triệu con cá chạch giống. Hiện, khách hàng cần nhiều mà tôi không có đủ bán”, anh Thắng cho hay.

Theo nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Đặc điểm heo rừng lai

1. Giống và đặc điểm giống heo rừng lai

Heo rừng lai là con lai giữa heo rừng đực với heo nái là heo địa phương thả rông của người dân tộc thường nuôi (giống heo gần như hoang dã) tạo ra con lai với ưu thế lai cao của cả bố và mẹ: Có sức đề kháng mạnh, khả năng chịu đựng kham khổ với môi trường sống tự nhiên cao, ít dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt rất thấp. . .

Heo rừng lai

Vóc dáng: Heo rừng lai cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn, ánh mắt lấm lét trông hoang dã.

Trọng lượng lúc trưởng thành (con đực thường lớn hơn con cái), con đực nặng 50 – 70kg, con cái nặng 30- 40kg.

Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Heo rừng lai hơi nhút nhát, thính giác, khứu giác tốt, sinh hoạt bầy đàn và chọn lọc tự nhiên thể hiện tính hoang dã. Thích sống theo bầy đàn nhỏ vài ba con, heo đực thường thích sống một mình (trừ khi heo cái động dục). Môi trường sống thích hợp là vườn cây, trảng cỏ gần ao hồ. Thích hoạt động về ban đêm, ban ngày tìm nơi yên tĩnh, kín đáo để ngủ, nghỉ.

Giá trị và thị trường: Thịt heo rừng lai màu hơi nhạt, không đỏ như thịt heo nhà, nhưng nhiều nạc, ít mỡ, da mỏng và dồn, thịt dòn thơm ngon rất đặc trưng, hàm lượng Cholerteron thấp, người tiêu dùng rất ưa chuộng nên bán được giá cao.

2. Chọn giống và phối giống heo

– Chọn giống:

Chọn những con đầu thanh, ngực sâu, mình nở, hoạt bát, lưng thẳng, bụng to vừa phải, hông rộng, lông mịn, bốn chân chắc khẻ, bộ phân sinh dục phát triển và hoặc động tốt. Nêu co điều kiện nên chọn lọc qua đời trước(dòng, giống bố mẹ, ông bà), qua bản thân(ngoại hình, khả năng thích nghi, khả năng sản xuất) và qua đời sau.

Chọn giống những con có khả năng sinh sản tốt

– Ghép đôi giao phối:

Tốt nhất nên cho heo rừng lai nái phối giống với heo rừng đực hoặc cho heo rừng lai nái phối giống với heo rừng lai đực để tạo ra con lai thương phẩm nuôi thịt.

3. Phối giống và thời điểm phối giống thích hợp

Bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên vì cơ thể chưa hoàn thiện, trứng rụng ít, phối giống và đậu thai hiệu quả thấp.

Chu kỳ lên động dục của heo là 21 ngày, thời gian động dục kéo dài 3-5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3 (tùy theo giống tuổi) cho nên cần theo dõi biểu hiện của heo lên giống. Khi âm hộ chuyển từ màu hồng tươi sang màu hồng tái, có nếp nhăn và dịch nhờn tiết ra nhiều, tai chĩa về phía trước, có phản xạ đứng im là thời điểm phối giống thích hợp nhất.

Khi heo nái có dấu hiệu động dục ta cho heo đực vào vườn nuôi heo nái hay cho heo nái vào vườn nuôi heo đực. Heo đực sẽ phối giống liên tục, bất kể ngày đêm đến khi nào heo nái không chịu nữa mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào buổi sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược lại). Sau 21 ngày, heo nái không động dục trở lại,có thể heo nái đã có bầu.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Danh mục công nghệ hạn chế và cấm chuyển giao trong lĩnh vực nông nghiệp

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa ban hành công văn đề xuất danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao, công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao trong nông nghiệp.

Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao:

I.  Công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam và trong lãnh thổ Việt Nam

a) Lĩnh vực Bảo vệ thực vật:

–  Sản xuất các giống cây trồng nhiễm sinh vật gây hại (sậu, bệnh) nặng trong sản xuất.

–  Công nghệ, quy trình sản xuất sử dụng nhiều hóa chất (phân bón, thuốc BVTV hóa học)

b) Lĩnh vực Chăn nuôi

–  Các giống vật nuôi bản địa.

c) Lĩnh vực Thủy sản

–  Công nghệ máy móc, thiết bị kèm công nghệ sản xuất các loại ngư cụ có tính chọn lọc thấp, có khả năng gây hại môi trường.

–  Công nghệ sử dụng hóa chất độc hại trong nuôi trồng thủy sản và bảo quản thủy sản.

–  Công nghệ tạo giống thủy sản bằng phương pháp biến đổi gien.

–  Công nghệ chế biến bột cá dạng hở.

d) Lĩnh vực Lâm nghiệp

–  Công nghệ sản xuất ván sợi theo phương pháp ướt.

–  Công nghệ sản xuất trang sức đồ gỗ, lâm sản chứa lưu huỳnh hoặc tồn dư hợp chất hữu cơ dễ bay hơi hàm lượng cao.

–  Công nghệ sản xuất thuốc bảo quản lâm sản chứa thạch tín (arsenic).

đ) Lĩnh vực Trồng trọt

–  Công nghệ sử dụng các loài vi sinh vật phi bản địa bao gồm động vật, thực vật và vi sinh vật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, bảo vệ thực vật và các lĩnh vực khác.

–  Công nghệ tạo giống cây trồng, vật nuôi bằng phương pháp biến đổi gien trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp.

–  Công nghệ nuôi trồng, sản xuất, chế biến thực phẩm sử dụng chất bảo quản thực phẩm, chất kích thích tăng trưởng chưa được thử nghiệm độ an toàn.

II. Công nghệ chuyển giao từ Việt Nam ra nước ngoài

a) Lĩnh vực Thủy sản

–  Công nghệ sản xuất giống, nuôi, trồng thủy sản thuộc sản phẩm xuất khẩu có giá trị kinh tế

b) Lĩnh vực Trồng trọt

–  Công nghệ sản xuất, nhân giống các loại cây trồng thuộc danh mục quý hiểm hạn chế xuất khẩu

Danh mục công nghệ cấm chuyển giao

a) Lĩnh vực Bảo vệ thực vật:

– Công nghệ nhân, nuôi sinh vật gây hại cây trồng.

– Công nghệ sản xuất phân bón, thuốc BVTV cấm sử dụng ở Việt Nam ảnh hưởng tới sức khỏe và môi trường.

b) Lĩnh vực Chăn nuôi

–   Các giống vật nuôi, nguồn gien quý hiếm (cấm xuất khẩu).

c) Lĩnh vực Lâm nghiệp

–  Công nghệ sản xuất keo dán gỗ Urea-Formaldehyhe (UF), Melamine Urea-Formaldehyhe (MUF) và Phenol-Formaldehyde có hàm lượng Formaldehyde tự do vượt quá giới hạn (Formaldehyde class > E2).

–  Công nghệ sản xuất thuốc bảo quản lâm sản chứa Pentachlorophenol (PCP), DDT.

–  Công nghệ sử dụng các loài sinh vật ngoại lai (động vật, thực vật và vi sinh vật) thuộc danh mục các loài ngoại lai xâm hại.

d) Lĩnh vực Trồng trọt

–  Công nghệ sử dụng các loài vi sinh vật phi bản địa bao gồm động vật, thực vật và vi sinh vật thuộc Danh mục các loài ngoại lai xâm hại.

–  Công nghệ sản xuất phân bón hỗn hợp NPK theo phương pháp thủ công (chảo quay, trộn thô).

Nguồn: Khuyennongvn.gov.vn được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Vỗ béo, thụ tinh nhân tạo ở đàn bò

Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia khẳng định, trong kế hoạch tái cơ cấu ngành chăn nuôi mà Bộ NN-PTNT đang triển khai, giống là khâu then chốt mở đầu cho cả quá trình chuyển đổi, vì vậy việc ứng dụng thụ tinh nhân tạo (TTNT) là tiền đề nhằm nâng cao chất lượng bộ giống Quốc gia. Dù vậy, quy trình TTNT chưa được áp dụng rộng rãi, thực hiện chương trình Sind hóa đàn bò đã lâu nhưng đến năm 2016 mới chỉ đạt 57%, riêng các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc là 21%.

“Sử dụng kỹ thuật vỗ béo trong chăn nuôi gia súc mang lại hiệu quả cao, công nghệ chuyển giao đơn giản, dễ thực hiện, rút ngắn thời gian nuôi giúp cho người nông dân nâng cao ít nhất giá trị kinh tế từ 10 – 15% so với phương thức truyền thống.

Từ những lý do đó, việc triển khai dự án là cần thiết tại các cùng chăn nuôi chính, góp phần chuyển hướng chăn nuôi sang hình thức bán thâm canh và thâm canh hàng hóa”, bà Hạnh chia sẻ.

Đối với mô hình cải tạo đàn bò ưu tiên lựa chọn các xã có tỷ lệ bò lai thấp, chủ yếu đang áp dụng bằng phương pháp phối giống trực tiếp, đảm bảo số lượng bò cái nền đạt tiêu chuẩn, nằm trong độ tuổi sinh sản. Tương tự, bò tham gia mô hình vỗ béo phải đảm bảo đúng đối tượng, không sử dụng vào mục đích cày kéo, vắt sữa, sinh sản. Từ những yếu tố trên, dự án đã sàng lọc và lựa chọn được 630/856 hộ đăng ký, chiếm tỷ lệ 73,6% thực hiện trình diễn trên 9 mô hình, bao gồm 4 mô hình cải tạo và 5 mô hình vỗ béo.

Năng suất, chất lượng đàn bò tham gia mô hình có nhiều ưu điểm vượt trội hơn

Tham gia mô hình, các hộ phải tự đối ứng 50%, phần còn lại sẽ được nhà nước hỗ trợ. Cụ thể 1 con bò cái nền có chửa được cấp 120 kg thức ăn hỗn hợp, 0,5 liều tinh, 0,5 lít nitơ; với bò vỗ béo là 135kg thức ăn hỗn hợp, 0,5 liều thuốc nội ký sinh trùng, 0,5 liều thuốc ngoại ký sinh trùng, 0,5 liều sán lá gan.

Đặc biệt, tại mỗi điểm trình diễn sẽ có 2 cán bộ chuyên ngành chăn nuôi thú y, có kinh nghiệm hoạt động khuyến nông thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn quy trình kỹ thuật cho các hộ cũng như theo dõi tình hình sinh trưởng của đàn bò.

Ghi nhận thực tế tại các địa phương cho thấy năng suất, chất lượng đàn bò tham gia mô hình có nhiều ưu điểm vượt trội so với trước đây. Áp dụng phương pháp nhân giống bằng TTNT giúp tăng nhanh tổng đàn, cải thiện khả năng di truyền. Với 616 con bò được TTNT, dự kiến đến đầu năm 2018 sẽ cho ra đời số bê lai tương ứng. Qua khảo sát cho thấy, mỗi con bê lai 1 tuổi có giá trị cao hơn bò nội khoảng 6 – 6,5 triệu đồng/con,

Trong khi đó, bò vỗ béo được tiêm, tẩy nội ngoại ký sinh trùng từ trước, kết hợp với việc sử dụng lượng thức ăn xanh hợp lý nên tăng trọng nhanh, bình quân đạt 740,1 gr/con/ngày, vượt so với yêu cầu 40,1 gr/con/ngày, tương ứng 5,7%. Riêng tại Hòa Bình, mỗi con bò sau 3 tháng vỗ béo cho lãi từ 3 – 3,5 triệu đồng, hiệu quả kinh tế tăng lên 12 – 15% so với các hộ không tham gia dự án.

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ bò lại thuộc chương trình dự án tăng lên rõ rệt. Cụ thể, tại phường Bắc Sơn (thị xã Bỉm Sơn) tăng từ 49,89% lên 76,15%; tại xã Thạch Đồng (huyện Thạch Thành) tăng từ 46,92% lên 61,58%.

Bà Trịnh Thị Hòa trú tại khu phố 5, phường Bắc Sơn cho biết: “Tham gia dự án giúp tôi nắm vững được phương pháp phát hiện động dục, quy trình phối giống nhân tạo thay thế cho dùng đực nhảy và đưa giống bò BBB vào áp dụng, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng giá trị kinh tế.”

Bà Trịnh Thị Hòa cho biết chất lượng bò được cải thiện rõ rệt

Ông Nguyễn Viết Thái, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Thanh Hóa khẳng định, kết quả bước đầu được đông đảo bà con nông dân đón nhận, đánh giá cao, trong tương lai việc nhân rộng mô hình hoàn toàn khả thi.

Theo nhanong.com.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Sử dụng vitamin C cho gà

Vitamin C tham gia quá trình hô hấp tế bào, tăng cường các phản ứng oxy hóa khử, kích thích sự sinh trưởng và đổi mới tổ chức tế bào, tăng cường khả năng tạo huyết sắc tố, thúc đẩy sự đông máu, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, chống stress, tạo điều kiện gia tăng năng suất và phẩm chất trứng, tinh trùng, có tính chất chống ôxy hóa trong cơ thể.

Vitamin C được tổng hợp trong cơ thể nhưng trong những trường hợp gia cầm bị bệnh hoặc trong tình trạng stress thì nên cung cấp Vitamin C qua thức ăn hoặc nước uống cho gia cầm với liều 100 – 500 mg/ kg thức ăn.

Vitamin C giúp gà chống stress, tạo điều kiện gia tăng năng suất

Khi thời tiết nóng, chủng ngừa, cân gà hoặc đàn gà bị bệnh truyền nhiễm thì dùng Vitamin C liều cao giúp cho đàn gà mau chóng ổn định và vượt qua những yếu tố bất lợi. Vitamin C (acid Ascorbic) có vai trò quan trọng  trong quá trình phòng chống stress, giúp cơ thể tăng khả năng chống chịu với những điều kiện bất lợi của môi trường.

Vì vậy, trong chăn nuôi gà sẽ thường xuyên sử dụng vitamin C điển hình như sau: Trước và sau khi chủng ngừa: trước khi chủng ngừa 1 2 ngày và sau khi chủng ngừa 3 5 ngày cần cung cấp Vitamin C để giúp gà tạo kháng thể tốt, hạn chế bị sốc do chủng ngừa. Trong mùa nắng nóng: Thường xuyên cung cấp Vitamin C trong thức ăn hoặc nước uống để giúp gà ổn định năng suất và tăng sức chịu đựng.

Trong những tháng chuyển mùa cần cung cấp Vitamin C thường xuyên để giúp gà tăng sức kháng bệnh. Trước khi và sau khi chuyển gà sang chuồng mới (như chuyển từ chuồng gà sang chuồng gà hậu bị, chuyển từ chuồng gà hậu bị sang chuồng gà đẻ,…): Cung cấp vitamin C để hạn chế những sốc do rượt đuổi, dồn ép gà,… Khi thấy chất lượng vỏ trứng không tốt (nhiều trứng non, trứng sần sùi, vỏ trứng mỏng,..). Khi sử dụng kháng sinh,…cũng cần sử dụng Vitamin C.

Chú ý là muốn sử dụng Vitamin C đạt hiệu quả cao, nên cho gà sử dụng Vitamin C trước khi xảy ra stress từ 12 14 giờ. Bên cạnh đó,Vitamin C rất dễ bị hư và bị giảm tác dụng trong điều kiện sản xuất và bảo quản không tốt, như: ánh sáng, độ ẩm cao, nhiệt độ cao.

Một số biểu hiện khi gà bị thiếu vitamin:

  • Gà thiếu vitamin A sẽ chậm phát triển, giảm đẻ tỷ lệ nở phôi thấp.Mắt mờ, chân, da, mào khô, sừng hóa.
  • Gà thiếu vitamin B1 chân yếu, đầu nghẹo, không đi được, ăn kém, gầy còm.
  • Thiếu vitamin B2 hấp thụ thức ăn kém, gà chậm lớn.
  • Thiếu vitamin PP (axít Nicotinic hay Nicotinamid) miệng loét, viêm khớp, viêm ruột.
  • Thiếu vitamin B12 gà thiếu máu, chậm lớn.
  • Thiếu vitamin C sức đề kháng gà yếu, kém chịu nóng.
  • Thiếu vitamin D xương mềm, gà đi tập tễnh, khớp xương biến dạng, gà đẻ xượng rỗng, vỏ trứng mỏng, giảm tỷ lệ đẻ.
  • Thiếu vitamin E gà phù đầu, sưng xuất huyết não, gà con đi lại khó khăn, đi hay ngã hoặc đầu hay cúi giữa 2 bàn chân. Gà trống kém hoạt động, tỷ lệ nở thấp.

Khắc phục: Bổ sung vitamin vào thức ăn, cho uống liên tục 3 5 ngày hay Multivit 1g/1lít nước hoặc 0,5 kg thức ăn,Vitamin ADE, B-complex,…

Theo nhanong.com,vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Cam Ranh: Làm giàu từ “nuôi bồ câu bằng nhạc”

Giữa cánh đồng trơ trụi nắng cháy ở thôn Hiệp Thanh, xã Cam Thịnh Đông (TP. Cam Ranh, Khánh Hòa) lại mọc lên một trang trại nuôi chim bồ câu với số lượng lớn hơn 2.000 con bằng phương pháp độc đáo cho chim bồ câu nghe nhạc, đã mang lại hiệu suất kinh tế cao, mỗi tháng thu được hàng chục triệu đồng mà không phải tốn nhiều công sức.

Đó là mô hình nuôi chim bồ câu khá đặc biệt và dường như duy nhất của cả nước được ông Thiều Quang Toàn. Trang trại chăn nuôi chim bồ câu được đầu tư một cách quy mô, cùng với đó là cách chăn nuôi khoa học của ông chủ trang trại này. Hàng ngàn cặp bồ câu được nuôi nhốt trong lồng xếp thành dãy dài rất đẹp và ngăn nắp. Khi ông tình cờ xem, đọc được phương pháp các hộ dân cho gia súc nghe nhạc năng suất sẽ tăng hơn bình thường.

Khi đó thử áp dụng vào mô hình chăn nuôi chim bồ câu của mình đã thay đổi tình hình và có được hiệu quả kinh tế cao. Sau những lần đó ông tìm kiếm sách vở, học hỏi báo đài về các kỹ thuật nuôi chim bồ câu. Nhờ đó mà lợi nhuận kinh tế của ông cũng khá hơn nhiều, tăng hơn 50% so với khi chưa áp dụng phương pháp nghe nhạc.

Hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn nhờ phương pháp đặc biệt này.

Hàng ngày cứ việc áp dụng theo lịch trình, từ 7 giờ sáng cho chúng ăn, 8 giờ mở nhạc đến 3 giờ chiều mới tắt. “Nhưng chỉ mở một loại nhạc belero, hay thể loại nhạc trữ tình nhẹ nhàng, sâu lắng chúng rất thích nghe, phải điều chỉnh âm lượng vừa phải chúng mới có thể ổn định, không bay nhảy lung tung”, ông Toàn cho hay.

Nguồn: Theo Phụ Nữ News được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi vịt biển ứng phó với biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu gây nhiều thách thức cho người dân và sản xuất nông nghiệp. Việc triển khai mô hình nuôi vịt biển đang được xem là xu hướng mới nhằm đa dạng hóa vật nuôi, thích ứng với biến đổi khí hậu, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập.

Nghiên cứu giống mới chuyển giao

Theo Cục Chăn nuôi, Việt Nam có đàn thủy cầm đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Thủy cầm là con vật dễ nuôi, có khả năng tận dụng các phế phẩm nông lâm nghiệp, côn trùng, thủy sinh làm thức ăn.

Thời gian qua, chăn nuôi thủy cầm đã có những bước phát triển nhảy vọt từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự phát, dần chuyển thành chăn nuôi tập trung quy mô lớn. Năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, lợi nhuận cao, khiến nuôi thủy cầm nhiều địa phương đã trở thành nghề chính.

Hàng năm số đầu vịt tăng bình quân gần 7%, sản lượng thịt vịt, ngan hơi đạt trên 200 ngàn tấn/năm, trứng đạt gần 2 tỷ quả. Việt Nam đang có bộ giống thủy cầm rất phong phú, đa dạng, làm chủ được công nghệ SX con giống thủy cầm bố mẹ với năng suất và chất lượng cao. Các giống vịt siêu thịt, siêu trứng cao nhất thế giới đều được nhập về, đưa vào SX rất hiệu quả.

Nuôi vịt biển đang được xem là xu hướng mới thích ứng với biến đổi khí hậu

Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi gia cầm VIGOVA, giống vịt biển có một số ưu điểm như dễ nuôi, nuôi được ở nước mặn, nước lợ và nhiễm phèn. Tuy nhiên, với mỗi nguồn nước có độ mặn khác nhau thì đều có quy trình nuôi phù hợp.

Giống vịt này năng suất thịt và trứng khá trong nhóm vịt chuyên dụng, cụ thể năng suất trứng đạt từ 235 – 245 quả/mái/năm; vịt thương phẩm nuôi khoảng 9 tuần sẽ đạt được 2,7 đến 2,8 kg, tùy theo điều kiện chăn nuôi. Thực tế ở vùng ĐBSCL, vịt nuôi 70 ngày đã đạt được 2,8 kg cho hiệu quả kinh tế cao.

Ông Dương Xuân Tuyển, GĐ Trung tâm Vigova cho biết: “Trong mấy năm qua, Trung tâm được Bộ NN-PTNT giao nuôi giữ đàn giống gốc chọn lọc nhân thuần. Đến nay chúng tôi đã có được một số giống vịt thuần để nhân nhanh số lượng giống cung cấp cho các tỉnh Nam bộ”.

Theo ông Tuyển, hiện trung tâm đang chọn lọc, nhân thuần và lai chéo các dòng thuần để có giống vịt bố mẹ và vịt thương phẩm cung cấp cho sản xuất. Mỗi năm Vigova đang cung cấp hàng trăm ngàn con giống cho các tỉnh Nam bộ. Ngoài ra, VIGOVA còn nghiên cứu được một số giống vịt khác như vịt siêu thịt, siêu nạc, siêu trứng.

Liên kết phát triển chăn nuôi

Đến cuối năm 2016, tổng đàn vịt khoảng 71,28 triệu con, tập trung nhiều nhất ở vùng ĐBSCL, với tỉ lệ 37,03%, tiếp đến ĐBSH 25,71%, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 23,13%, còn các vùng khác dưới 10%. Đặc biệt, một số nơi và cơ sở chăn nuôi đã liên kết thành lập các THT, HTX… hỗ trợ nhau về vốn, tiêu thụ, hình thành chuỗi và xây dựng thương hiệu vịt biển.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng Châu, Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Long An, trong 2 năm triển khai dự án nuôi vịt kiêm dụng PT, vịt biển nuôi thịt, Long An đã phát triển được 16.000 con. Năm 2016 đã phân bổ 1.600 vịt PT và 6.400 con vịt biển cho các huyện Tân Trụ, Cần Đước. Năm 2017, đã có 8.000 con vịt biển phân cho các xã Tân Phước Tây (Tân Trụ), xã Thạnh Vĩnh Đông (Châu Thành), mỗi hộ 800 con. Các hộ được hỗ trợ 100% con giống 1 ngày tuổi và vật tư, thức ăn (30%), được tập huấn kỹ thuật nuôi vịt biển.

Vịt biển có sức kháng bệnh rất tốt

Kết quả đánh giá cho thấy, vịt thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi của địa phương, tỉ lệ nuôi sống trên 95%. So với các giống vịt địa phương thì vịt biển có sức kháng bệnh tốt, ít xảy ra bệnh. Tất cả các hộ chăn nuôi vịt biển đều có lãi, nuôi 70 ngày lãi gần 14 triệu đồng/800 con, đây là mức thu nhập khá với nông dân.

Tương tự, ông Lưu Thành Long, TTKN Sóc Trăng cho biết, năm qua nhiều hộ chăn nuôi ở Sóc Trăng nuôi vịt biển đều có lời. Thực tế cho thấy giống vịt này dễ nuôi, thích nghi với môi trường phèn mặn, khả năng sinh trưởng nhanh.

TS.Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng vụ KH, CN- MT cũng cho rằng, giống vịt biển đang bắt đầu triển khai nuôi ở ĐBSCL, là mô hình phát triển đúng hướng. Còn ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi nhấn mạnh, khu vực ĐBSCL có nhiều lợi thế nuôi vịt, đặc biệt là nuôi vịt chạy đồng, chiếm 37% tổng số đầu vịt; chiếm 39% tổng sản lượng trứng. Đây cũng là khu vực có đàn vịt lớn và gần đầu mối tiêu thụ thịt vịt là TP.HCM.

Theo ông Trọng, VIGOVA cần tiếp tục nghiên cứu các giống vịt tốt, cao sản phục vụ phát triển chăn nuôi và biến đổi khí hậu, chuyển giao cho các địa phương nuôi. Theo định hướng đến năm 2020 sẽ phát triển lên 100 triệu con vịt, trong đó khoảng 40 triệu vịt chuyên trứng.

Theo nongnghiep.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Đeo kính cho gà mang lại lợi nhuận vượt trội

Ông chủ trẻ 9X Vũ Bá Quý, ở thôn 323 xã Đỉnh Sơn, Anh Sơn (Nghệ An) nuôi hàng ngàn con gà. Bí quyết để đàn gà khỏe mạnh, ngoài việc cho ăn thức ăn đa dạng, anh Quý còn cho gà “đeo kính”.

Hàng ngàn con gà được đeo kính ở Đỉnh Sơn, Anh Sơn. 

Hàng nghìn con gà thịt có cả gà trống, gà mái, nhưng 100% chúng đều được “đeo kính” trông rất lạ. Anh Quý cho biết: Anh bắt đầu công việc chăn nuôi gà thịt từ năm 2012. Với việc nuôi gà tập trung số lượng lớn nên thường xuất hiện cảnh gà cắn mổ nhau khiến gà bị trọc lông vùng lưng, cổ, đầu, thậm chí gây thương tích, dễ nhiễm một số bệnh, còi cọc, chậm lớn và con gà nhìn “xấu mã”, khách hàng kén mua, giá thành giảm.
Cách đây hơn 1 năm, tình cờ xem trên mạng có người “đeo kính” cho gà để tránh gà chọi nhau, anh liền mày mò tìm hiểu. Sau khi biết được địa chỉ, anh Quý được đặt mua 1 nghìn chiếc về áp dụng vào trang trại gà của mình.
Anh Quý chia sẻ: Kính cho gà được anh mua với giá giao động từ 600 đồng- 1.200 đồng/chiếc, có thể tái sử dụng 2- 3 năm nên tính ra chi phí rất nhỏ nhưng hiệu quả lại cao.
Cách sử dụng kính cho gà cực kỳ đơn giản, đợi khi gà đạt trọng lượng 0,5- 0,7kg lúc này gà bắt đầu có dấu hiệu cắn mổ nhau, anh Quý chỉ việc đặt phần lõm của kính ôm phần trên của mỏ gà, chỉnh 2 lỗ nhỏ ở phần lõm của kính khớp với lỗ mũi của gà, dùng then nhựa hình mũi tên xuyên qua lỗ nhỏ của kính và lỗ mũi của gà để cố định kính là xong.
Anh Quý khẳng định, việc đeo kính không làm ảnh hưởng đến bất kỳ sinh hoạt hàng ngày nào của con gà. Do chiếc then nhựa chỉ to bằng 1/3 lỗ mũi của gà nên không gây ảnh hưởng đến việc hô hấp, ăn uống. Đeo kính cho gà mục đích để che tầm mắt nhìn thẳng của con gà, nên gà không bao giờ chọi nhau, đuổi cắn nhau, gà phát triển rất nhanh.

Đeo kính cho gà khá đơn giản.

Với kinh nghiệm nuôi gà thịt lâu năm, anh Quý xây dựng 2 trại gà rộng gần 500m2 trên diện tích 0,5 ha vườn. Trại gà được lát nền bê tông, thưng kín xung quanh tránh gió lùa vào mùa đông, có cửa thông gió vào mùa hè và đều sử dụng đệm lót sinh học, vừa đảm bảo môi trường vừa giúp đàn gà sinh trưởng và phát triển tốt.
Bên cạnh đeo kính cho gà để có được mẫu mã gà đẹp, anh Quý chọn nuôi theo hướng sinh học, không sử dụng chất cấm trong chăn nuôi nên cho thịt dai và thơm ngon. Ngoài các loại thức ăn chính là lúa, ngô, anh Quý còn bổ sung thêm các loại thức ăn khác như cỏ, côn trùng để bổ sung thêm chất dinh dưỡng.
Hiện tại trang trại anh Quý có 1.100 con gà thịt đang vào thời điểm gần xuất bán, mỗi năm anh nuôi 2 lứa, mỗi lứa 5-6 tháng, từ 1.000- 1.200 con. Mỗi lứa xuất bán gần 1,5 tấn gà thịt, với giá từ 90.000- 100.000 đồng/kg, mỗi năm sau khi trừ chi phí cho anh thu nhập từ 100- 150 triệu đồng.
Ông Đinh Viết Hạnh – Chủ tịch hội nông dân xã Đỉnh Sơn cho biết: Trang trại nuôi gà thịt đeo kính của anh Vũ Bá Quý ỏ thôn 323 là một mô hình điểm của hội nông dân xã Đỉnh Sơn, chỉ mới ở tuổi 24 nhưng anh Quý đã nhạy bén, sáng tạo trong phát triển kinh tế, giúp cho gia đình vượt qua mọi khó khăn từng bước vươn lên làm giàu ở một vùng quê nông thôn thật đáng khâm phục.

Theo báo Nghệ An, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể

Brad Johnson – một chuyên gia về phát triển cơ xương ở gia súc đã dẫn dắt một nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể.

Giáo sư Brad Johnson từ trường Đại học Tài nguyên thiên nhiên và Khoa học nông nghiệp hợp tác với Giáo sư Stephen B. Smith từ trường Đại học Texas A & M đã khám phá ra chìa khóa để tìm ra miếng thịt ngon nhất nằm ở màu vân mỡ của nó, và họ đã phát hiện ra một cách để làm tăng vân mỡ mà không làm tăng độ béo.

Johnson cho biết: Chìa khóa nằm ở việc cô lập một thụ thể trong tế bào tạo mỡ của vân mỡ, đó là những tế bào mỡ cạnh mô cơ. Kích hoạt các thụ thể đó, được gọi là thụ thể bắt cặp với prôtêin G-coupled 43 (GPR 43) tạo ra chất béo và chất béo là những thành phần quan trọng trong vân mỡ.

“Chúng tôi cảm thấy nếu có thể điều tiết thụ thể này trong vân mỡ, chúng ta có thể tăng vân mỡ mà không làm cho gia súc béo hơn”, Johnson nói. “Khi gia súc bị béo, hiệu quả thức ăn sẽ giảm và người tiêu dùng sẽ cắt bỏ tất cả phần mỡ béo dư thừa. Nhưng nếu vân mỡ là cái mà người tiêu dùng muốn, chúng tôi có thể làm tăng vân mỡ vào những thời điểm khác nhau trong chu trình cho ăn mà không làm cho gia súc béo hơn, và đó sẽ là một lợi ích rất lớn cho ngành công nghiệp thịt bò”.

Nghiên cứu kiểm tra biện pháp tăng vân mỡ cho thịt bò mà không làm tăng độ béo tổng thể của bò

Mặc dù vân mỡ và mỡ dắt có thể trông giống nhau trên cùng một miếng thịt thăn vai, có một sự khác biệt sinh học giữa mỡ dắt và vân mỡ, và nó ảnh hưởng đến vị ngon của thịt bò. Vấn đề then chốt nằm trong thành phần của tế bào mỡ tạo ra mỡ dắt và vân mỡ.

Tế bào mỡ dưới da thường được gọi là mỡ dắt. Tế bào mỡ trong cơ thường được gọi là vân mỡ và có thể nhìn thấy ở dạng thớ giữa các phần của mô thịt bò, hoặc thịt đỏ. Điều mà Johnson và Smith đã thực hiện được thông qua các biện pháp sinh học và sinh hóa là cô lập các tế bào mỡ và phát triển chúng trong hệ thống nuôi. Trong những thử nghiệm đó, Johnson và Smith đã phát hiện ra sự khác biệt giữa các tế bào mỡ dưới da và các tế bào mỡ bắp.

Tế bào vân mỡ có kích thước nhỏ hơn nhiều và đường kính lớn hơn các tế bào mỡ dưới da, có xu hướng tập trung lại với nhau.

Một khác biệt nữa là vấn đề trao đổi chất, hoặc nguồn năng lượng để tạo ra mỡ dắt hoặc vân mỡ. Tế bào mỡ của mỡ dắt sử dụng acetate – một axit béo dễ bay hơi được tạo ra trong dạ cỏ của bò. Tuy nhiên, tế bào vân mỡ đòi hỏi phải có glucose, Johnson cho biết đó là một nguồn năng lượng cao cấp cho cả người và động vật.

Phát hiện lớn nhất là thụ thể GPR 43 trong tế bào mỡ của vân mỡ làm tăng sản sinh ra các chất béo, tăng sản sinh vân mỡ mà không làm tăng chất béo. Johnson nói. “Trên thực tế, từ một quan điểm cơ học, kết quả cuối cùng là bạn có một số lượng lớn các vân mỡ và một số lượng lớn mỡ dắt. Vân mỡ cần glucose để chuyển hóa. Mỡ dắt có thể làm điều đó với acetate”.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Nuôi lợn rừng trên vùng đất cát ven biển

Sau khi xây dựng mô hình kinh tế tổng hợp, ông Trương Tiến Lương đã mạnh dạn đưa giống lợn rừng về nuôi ngay tại vùng rừng đước ven biển xã Thạch Hải (huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh). Ý tưởng mới cùng với sự táo bạo đã mở ra hướng chăn nuôi hiệu quả, thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Ông Trương Tiến Lương sinh ra thôn Liên Hải (xã Thạch Hải), vùng đất miền biển chịu nhiều hệ lụy từ dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê. Phần lớn diện tích đất đai địa phương đều nằm trong quy hoạch của mỏ sắt, hoang hóa nhiều năm liền, đất đai chủ yếu các loại cây hoang dại phủ kín, đời sống người dân xã Thạch Hải gặp muôn vàn khó khăn. Bởi vậy, bản thân ông luôn đau đáu khát vọng làm giàu ngay trên chính miền quê khắc nghiệt này.

Ông Trương Tiến Lương với mô hình nuôi heo rừng ven biển

Nhận thấy vùng Bàu Soi nằm cạnh mỏ sắt Thạch Khê có tiềm năng nhưng bị bỏ hoang hóa lâu năm, ông làm đơn xin UBND xã Thạch Hải cho mượn gần 4ha để phát triển chăn nuôi, trồng trọt. Được chính quyền địa phương đồng ý, tháng 9/2016, HTX Liên Hợp được thành lập với 10 thành viên tham gia do ông Lương làm giám đốc.

“Lúc mới vào đây đường sá không có, toàn bộ khu vực này đều được bao phủ bởi những vườn tràm và các loại cây hoang dại. Anh em xắn tay áo dọn dẹp cả tháng trời mới giải tỏa được mặt bằng. Bước đầu, HTX trồng thử các loại cây ăn quả trên cát như cam, bưởi, ổi… Sau thời gian thấy cây phát triển tốt các thành viên tiếp tục mở rộng sang chăn nuôi dê, gà, bò… với số lượng hàng trăm con nhằm tái đầu tư cho cây ăn quả. Việc chăn nuôi tại HTX Liên Hợp chủ yếu dùng các sản phẩm phụ nông nghiệp như cám gạo, vỏ lạc, bột đậu, ngô… nên được người dân tin dùng”, ông Lương cho biết.

Với ý tưởng tạo ra bước đột phá ở vùng quê miền biển, ông Lương bàn với các thành viên của HTX đưa giống lợn rừng về nuôi. Cuối năm 2016, ông ra Hải Dương mua 20 con lợn giống và lợn thịt về thả nuôi tại khu rừng tràm bỏ hoang lâu nay.

“Lúc mới đưa về lợn bỏ ăn vì không hợp khẩu vị. Ở ngoài Bắc họ chủ yếu cho ăn loại cám mạch nhưng đưa loại cám này về đây giá thành đội lên rất cao. Các thành viên HTX phải thay nhau ra biển mua cá vụn về chế biến để cho lợn ăn nhằm kích thích khẩu vị. Sau một thời gian, đàn lợn rừng đã thích ứng được, sinh trưởng tốt và tăng đàn nhanh. Ưu điểm của giống lợn này là hầu như không mắc bệnh tật, ăn rất tạp nên dễ nuôi và cho chúng chạy cát nên thịt càng săn, ít mỡ và ngon. Đến nay, đàn lợn rừng đã tăng lên hơn 100 con, trị giá hơn 1 tỷ đồng”, ông Lương phấn khởi.

Để nuôi một con lợn rừng từ khi mới đẻ đến khi xuất chuồng (50 – 60kg) mất khoảng 1 năm, chủ yếu ăn bằng thức ăn tự nhiên như bã đậu, vỏ lạc, cám ngô… Bình quân mỗi con lợn 1 ngày ăn hết khoảng 5.000 đồng, rất ít so với nuôi lợn thịt công nghiệp và lợn thịt truyền thống. Tính đến cuối năm, nếu công việc thuận lợi, đàn lợn rừng của HTX Liên Hợp sẽ có tổng trọng lượng khoảng 6 tấn, dự kiến xuất khoảng 3 tấn lợn thịt ra thị trường với giá 160 triệu đồng/tấn. Trừ các chi phí có thể đem lại lợi nhuận gần 300 triệu đồng.

Cũng theo ông Lương, việc đưa giống lợn rừng về vùng cát là một cách làm mới và khá mạo hiểm. Ngoài mục đích phát triển kinh tế, việc chăn nuôi này còn mục đích bảo vệ nguồn gen động vật hoang dã ngày càng cạn kiệt, cung cấp nguồn thực phẩm sạch, tránh sự săn bắt động vật hoang dã trên rừng.

Theo nhanong.com.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.