Xây dựng mô hình sản xuất xoài và nhãn theo VietGAP

Ngày 19/12, Viện Cây ăn quả miền Nam (Sofri) tổ chức hội thảo tổng kết Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất xoài và nhãn theo VietGAP ở vùng Nam Bộ phục vụ xuất khẩu”. 

Theo Viện Sofri, diện tích cây ăn quả các tỉnh phía Nam hiện đạt trên 596.000.000 ha, chiếm 56% diện tích cả nước, trong đó vùng ĐBSCL có khoảng 347.614.900 ha.

Nhờ ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi giống cây trồng, sản xuất chuyên canh, thâm canh đã giúp năng suất và sản lượng một số loại cây ăn trái phía Nam đạt trên 4,6 triệu tấn, chiếm 62% sản lượng cả nước; trong đó ĐBSCL đạt hơn 3 triệu tấn.

GS.Nguyễn Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Sofri phát biểu khai mạc.

Đối với cây nhãn được trồng tập trung tại các tỉnh BR-VT, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp; xoài trồng tập trung tại các tỉnh Đồng Nai, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp. Cả hai loại trái này đều có nhiều tiềm năng trồng rải vụ để phục vụ xuất khẩu hiệu quả.

TS.Lê Quốc Điền, Giám đốc trung tâm chuyển giao tiến bộ kĩ thuật – Viện Sofri, kiêm Chủ nhiệm Dự án cho biết: “Dự án được triển khai từ năm 2017-2019, khoảng 80 hộ dân tại 6 tỉnh vùng ĐBSCL tham gia thực hiện, với 160 ha nhãn, xoài 200 ha. Đến nay, cả hai loại trái xoài và nhãn đều mang lại hiệu quả kinh tế và thu nhập cao cho nông dân”.

TS.Lê Quốc Điền, Chủ nhiệm Dự án kiểm tra các vườn cây trái ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất.

Theo TS. Điền, thông qua dự án, nông dân được ứng dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh xoài, nhãn theo quy trình VietGAP, giúp hàng trái đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Dự án cũng đã xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất, quản lý tạo liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu với nông dân theo chuỗi giá trị sản phẩm xoài, nhãn xuất khẩu vào thị trường Úc, Mỹ, Nhất, Newzealand…

Nhà vườn thu hoạch xoài trong vùng dự án.

Kết quả từ dự án đã làm thay đổi tư duy sản xuất cho nông dân, ghi chép nhật ký rất đầy đủ. Nông dân áp dụng tốt kỹ thuật tỉa cành tạo tán, xử lý ra hoa thành công, tiến hành đồng bộ bao trái xoài từ 30% ban đầu đến tỉ lệ đạt 100% khi tham gia vào dự án. Thông qua tập huấn, nông dân đã nắm bắt được kỹ thuật quản lý tốt các nhóm sâu bệnh kiểm dịch xuất khẩu.

Nhân rộng mô hình dự án trồng xoài.

Dự án kết thúc, các địa phương bắt đầu cho nhân rộng các mô hình hiệu quả từ trong dự án này. Viện Sofri vẫn tiếp tục hỗ trợ tập huấn kỹ thuật cho nông dân các tỉnh nhằm giúp nông dân nắm bắt cập nhật được các kỹ thuật mới trong sản xuất và thông tin thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nông dân Đà Lạt làm nông sản siêu sạch

Ăn thử rau, trái tại vườn

Sản xuất gần 1.000m2 dưa baby, mỗi ngày, gia đình anh Nguyễn Tiến Thắng, phường 10 (TP Đà Lạt, Lâm Đồng) cung cấp hàng trăm kg cho khách hàng. Vừa tỉa bớt lá ở gần gốc, anh Thắng vừa thổ lộ: “Làm vườn bây giờ không thể theo lối “ăn xổi, ở thì” mà phải làm tỉ mỉ, làm bằng cái tâm. Dưa có sạch thì sức khỏe người làm, người ăn mới được cải thiện và tất nhiên, nông sản đạt chất lượng cao thì giá cũng cao và dễ bán hơn”.

Để minh chứng cho điều vừa nói, anh Thắng hái trái dưa trên cây và ăn ngay tại vườn. Theo nông dân 35 tuổi này, vườn cây được gia đình anh chăm sóc theo quy trình VietGAP và sử dụng các chế phẩm sinh học để chăm bón.

Cũng vì thế mà khu vườn rộng lớn không xuất hiện mùi hôi của phân bón hay mùi hắc của thuốc bảo vệ thực vật. Năm 2018, nhờ thực hành sản xuất sạch, làm vì chất lượng nên sau khi thăm vườn, giám đốc một hợp tác xã đã đặt vấn đề liên kết, bao tiêu toàn bộ sản phẩm dưa của gia đình anh Thắng để cung cấp cho đơn vị thứ 3.

Nông dân Đà Lạt đang thực hành sản xuất nông sản sạch để đảm bảo sức khỏe cho người làm vườn và khách hàng.

Chung chí hướng, gia đình anh Cao Bá Quát ở phường 12 (TP Đà Lạt) cũng áp dụng quy trình sản xuất sạch trên diện tích gần 4ha cà chua, rau cải, dưa leo Nhật… Ở vườn cà chua cherry, những nông dân miệt mài thu hái trái chín để kịp chuyến hàng cho khách. Tại đây, trái cây được đảm bảo về chất lượng nên người làm vườn cũng có thể hái và ăn trực tiếp.

“Cứ 2 tuần là đối tác đến kiểm tra cà chua một lần. Chỉ cần dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt mức hay yếu tố nào đó ảnh hưởng chất lượng là họ chấm dứt hợp đồng ngay. Do vậy, chúng tôi làm rất kỹ”, anh Cao Bá Quát chia sẻ.

Theo nông dân trẻ tuổi, từ khâu làm đất, đặt giống đến chăm sóc đều thực hiện một cách bài bản, nghiêm ngặt, ghi chép nhật ký đầy đủ. Ở những luống cải, anh Quát không sử dụng thuốc để diệt cỏ mà trực tiếp nhổ bỏ để đảm bảo vệ sinh. Đối với việc chăm bón, nông dân này sử dụng nguồn phân có yếu tố vi sinh để vừa đảm bảo sự sinh trưởng cho cây, vừa đảm bảo môi trường xanh sạch cho vườn tược.

Chất lượng được đảm bảo

Một cán bộ Sở NN-PTNT tỉnh Lâm Đồng cho hay, hiện nay, nông dân Đà Lạt có xu hướng sản xuất rau, củ, quả sạch. Đây là tín hiệu tích cực trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này cũng giúp nông sản làm ra có được sự canh tranh trong thị trường.

Các vườn rau, củ, quả được người dân áp dụng quy trình chăm sóc đạt chuẩn để đảm bảo chất lượng.

Ông Nguyễn Phúc Tín, Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Lâm Đồng cho biết, công tác quản lý đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm của tỉnh có nhiều tiến bộ. Các nông sản, thực phẩm chủ lực như rau, quả, cà phê cơ bản đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm. Điều kiện an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm được cải thiện hơn.

Các yếu tố như ô nhiễm hóa chất, vi sinh vật trong rau, thịt, thủy sản có chiều hướng giảm. Cũng theo ông Tín, việc xây dựng các chuỗi thực phẩm an toàn, diện tích sản xuất VietGAP, 4c, UTZ, HACCP… có tiến bộ khi người dân quan tâm, tham gia tích cực. “Đây cũng là yếu tố giúp sản phẩm được tiêu thụ ngày càng tăng. Đặc biệt là rau, củ, quả”, ông Tín thổ lộ.

Theo Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Lâm Đồng, năm 2019, chi cục đã thực hiện 18 đợt kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông – lâm – thủy sản trên phạm vi toàn tỉnh. Thực hiện phân tích các chỉ tiêu về an toàn thực phẩm trên 53 mẫu và có kết quả an toàn 100%.

Nông sản sạch, có thể ăn tại vườn nên giá trị cũng được nâng cao, tăng sức cạnh tranh.

Cơ quan chức năng cũng tổ chức 5 cuộc thanh tra đối với 5 cơ sở, lấy các mẫu gừng, cà phê, trà bồ công anh kiểm tra và các mẫu này đều đảm bảo an toàn thực phẩm. Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản cũng tổ chức 5 đợt kiểm soát chuỗi liên kết rau, củ, quả, chè, cà phê đối với 30 chuỗi ở các huyện, thành phố của tỉnh và có kết quả an toàn.

Theo ông Nguyễn Phúc Tín, thời gian tới, chi cục tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về an toàn thực phẩm. Tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhà sản xuất và người dân về tầm quan trọng của an toàn thực phẩm. Đồng thời đẩy mạnh thanh, kiểm tra, xử lý nghiêm trường hợp vi phạm.

Mô hình canh nông đảm bảo chất lượng nông sản

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Lâm Đồng, thời gian qua, Chi cục đã lấy 200 mẫu nông sản gồm dâu tây, xà lách, cà chua, ớt, cải thảo, atisô… ở các cơ sở du lịch canh nông để kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Kết quả cho thấy 200/200 mẫu đều an toàn, không vượt ngưỡng quy định. Theo chi cục, hiện nay, các cơ sở du lịch canh nông đều chú trọng phát triển chất lượng sản phẩm, đặt tiêu chí vì sức khỏe người sản xuất và người tiêu dùng lên hàng đầu.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

 

Mô hình trồng ớt Zopezo xuất khẩu

Đây là giống ớt được trồng vào vụ đông, dễ trồng, dễ chăm sóc, ít sâu bệnh, có thời gian sinh trưởng trên 6 tháng.

 

Giống ớt Zopero được trồng bằng phương pháp trồng trên màng phủ nông nghiệp.

Thực hiện mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng kém hiệu quả, năng suất thấp sang trồng cây có hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với từng vùng sinh thái, vụ đông năm 2018, tổ liên kết sản xuất nông sản trồng ớt ở xã Tình Cương, huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) gồm 4 thành viên do ông Phạm Văn Mùi, khu Minh Tiến, xã Tình Cương làm chủ nhiệm đã liên kết với Công ty GOC đưa vào trồng cây ớt Zopezo xuất khẩu sang thị trường nước Mỹ, được Công ty GOC chuyển giao khoa học kỹ thuật, cung cấp giống, thu hái tận vườn bao tiêu sản phẩm.

Đây là giống được trồng vào vụ đông, dễ trồng, dễ chăm sóc, ít sâu bệnh, có thời gian sinh trưởng trên 6 tháng. Nguồn phân bón chủ yếu là sử dụng phân vi sinh, nên đảm bảo an toàn nông sản.

Sau khi trồng từ 70- 80 ngày thì thu hoạch liền trong vòng 4 tháng, mỗi tháng thu hái 3 đến 4 đợt. Quy trình trồng, chăm sóc được Công ty GOC kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt.

Chia sẻ với chúng tôi, ông Phạm Văn Mùi ở khu Minh Tiến, xã Tình Cương cho biết, sau khi làm đất xong thì được Công ty GOC kiểm tra thành phần của đất, kiểm tra phân bón, được thì tiến hành dùng màng phủ lên để giữ độ ẩm. Làm xong đục lỗ, cây giống do công ty cấp cây trồng. Trong quá trình trồng thì thời gian sinh trưởng phát triển tương đối tốt, khí hậu hợp nên cây ớt sinh trưởng trong khoảng 20 – 30 ngày cho ra hoa.

Khâu chăm sóc ớt cũng rất đơn giản, nhưng đòi hỏi phải tưới nước đủ ẩm, đảm bảo độ ẩm của đất đạt 70%. Liên tục 12/24 giờ trong ngày các thành viên trong tổ tập trung làm sạch cỏ dại, bón phân, vun gốc, tỉa cành…. Trước khi cây ra hoa, đậu quả và suốt trong quá trình thu hoạch, thường xuyên loại bỏ những lá ớt già cỗi, lá bị bệnh dưới gốc nhằm giúp cây phát triển tốt, phòng ngừa được sâu bệnh phá hại.

Năng suất ớt trung bình đạt 1,2 tấn quả/sào. Với giá bán 7.500 đồng/kg, sau khi trừ chi phí giống, công chăm sóc, màng phủ mỗi sào ớt cho thu lãi trên 5 triệu đồng/vụ, tổng thu lãi trên 200 triệu đồng/vụ. Như vậy, so với trồng lúa thì trồng ớt Zopezo xuất khẩu lãi gấp 2- 3 lần so với cây trồng khác.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Gieo lạc bằng máy chỉ 15 phút xong 1 sào

Lạc được gieo bằng máy tỷ lệ mọc tốt hơn, khoảng cách đảm bảo và đất được giữ ẩm nên củ mọc đều.

Trong giai đoạn 2017 – 2019, Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Khuyến nông (CETDAE) được Bộ NN-PTNT giao chủ trì dự án khuyến nông Trung ương: “Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp, áp dụng cơ giới hóa SX lạc tại các vùng trồng chính”.

Qua 3 năm triển khai, dự án đã nhận được những tín hiệu rất khả quan từ các địa phương trên cả nước.

Đại biểu dự hội thảo đầu bờ tại xã Liên Minh.

Tham quan mô hình cánh đồng lớn SX lạc L23 trên quy mô 15ha, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản (Nam Định), chúng tôi thấy bà con rất phấn khởi, bởi những hiệu quả mà mô hình đem lại.

Đây là vụ đầu tiên CETDAE phối hợp với Cty CP Tư vấn đầu tư và Dịch vụ nông nghiệp Việt Nam, UBND huyện triển khai thử nghiệm máy làm đất kết hợp gieo trồng thay thế máy làm đất và công cụ gieo hạt bằng tay đã được triển khai 2 năm trước đây.

Trên diện tích thử nghiệm 7ha, toàn bộ bờ thửa được phá bỏ, ban chỉ đạo tổ chức cắm mốc lộ giới từng hộ. Toàn bộ diện tích lạc được chăm sóc cùng quy trình, thu hoạch chung và sản lượng được chia theo diện tích của từng hộ.

Giám đốc HTX Lương Kiệt, Nguyễn Văn Kế cho biết, mô hình áp dụng cơ giới hóa giúp lạc sinh trưởng, phát triển tốt và hiệu quả hơn. Việc sử dụng máy làm đất kết hợp gieo hạt thay thế cho máy làm đất và công cụ gieo hạt cầm tay giúp bà con tiết kiệm được công lao động, giảm chi phí SX.

Ông Kế phân tích: Gieo hạt bằng tay phải làm nhiều khâu hơn như rạch hàng, tra hạt, lấp hạt, mất khoảng 2 công/sào; còn gieo bằng máy chỉ mất 15 – 20 phút là gieo xong 1 sào (360m2). Lạc được gieo bằng máy tỷ lệ mọc tốt hơn, khoảng cách đảm bảo và đất được giữ ẩm nên củ mọc đều.

Đối với đào củ bằng máy, chỉ mất 20 – 30 phút/sào, trong khi đó nhổ bằng tay phải mất 1 ngày/1 sào (ngày làm 8 tiếng). Như vậy, nếu nhổ lạc bằng máy sẽ tiết kiệm thời gian và công sức rất nhiều.

Về bứt củ, nếu thực hiện bằng tay thì mất khoảng 1,5 công/sào, còn bứt củ bằng máy chỉ mất 20 phút/sào. Qua đó, giúp giảm chi phí và thời gian thu hoạch, nâng cao hiệu quả SX.

“Ngoài những ưu điểm trên, mô hình còn đưa giống lạc mới về địa phương. Giống lạc L23 rất thích hợp với thổ nhưỡng nơi đây, cây lên đồng đều, khỏe, lạc đều quả, chắc và đẹp mã, năng suất ước đạt khoảng 4,5 – 5,0 tấn/ha.

Trong khi đó, trước đây, địa phương chủ yếu trồng giống lạc Trạm dầu 207, đã bị thoái hóa nên dễ nhiễm sâu bệnh, cho năng suất thấp, chỉ từ 3 – 3,5 tấn/ha. Tính sơ bộ vụ này, chúng tôi thu nhập cao gấp 2 lần mô hình cũ. Vụ tới, chúng tôi tiếp tục mở rộng mô hình để bà con biết và tham gia”, ông Kế nhấn mạnh.

Theo dõi chỉ tiêu năng suất tại ruộng.

Nông dân Vũ Mạnh Tường (đội 3, xã Liên Minh) chia sẻ, trong SX lạc, khâu nhổ lạc và bứt củ lạc là khâu nặng nhọc nhất.

Trước đây, chúng tôi phải thức dậy từ 3 – 4h sáng để đi nhổ lạc, rất vất vả. Từ khi tham gia vào mô hình SX thâm canh và áp dụng cơ giới hóa cho lạc, chúng tôi chỉ cần mang bao tải ra đầu bờ để thu lạc về, tiết kiệm công lao động, chi phí SX.

Ông Bùi Văn Kiên, Q. Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Vụ Bản đánh giá, mô hình đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Sử dụng máy liên hoàn làm đất, lên luống, gieo hạt làm giảm 30% chi phí so với làm đất và gieo bằng công cụ đẩy tay.

Đồng thời, áp dụng máy đào củ và máy bứt củ sẽ làm giảm công lao động, rút ngắn thời gian thu hoạch để chuyển sang gieo cấy lúa mùa, giảm chi phí SX, giải quyết bài toán thiếu nguồn lao động và bỏ hoang ruộng đồng.

“Chủ trương đẩy mạnh SX lạc theo hướng thâm canh, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ đã được UBND huyện quan tâm từ nhiều năm qua. Huyện cũng có chủ trương hỗ trợ các địa phương có diện tích trồng lạc lớn xây dựng các mô hình mẫu từ đó nhân rộng ra các xã trên địa bàn huyện”, ông Kiên cho biết thêm.Phạm Văn Dân, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao công nghệ và Khuyến nông, chủ nhiệm dự án cho hay, đây là năm thứ 3 trung tâm triển khai dự án tại 5 tỉnh trên địa bàn cả nước. So với cây lúa, cây lạc có những khó khăn hơn trong việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong các khâu. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chúng tôi đã hoàn thành tốt mục tiêu của dự án đề ra.

Theo ông Dân, để mô hình có thể dễ dàng áp dụng vào SX cần sự vào cuộc của chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch và tổ chức SX, tạo cánh đồng lớn. Bên cạnh đó, phải xây dựng các chính sách hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng để phát huy hiệu quả nguồn hỗ trợ của nhà nước.

Ngoài ra, các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu quy trình thâm canh lạc phù hợp với áp dụng cơ giới hóa đồng bộ và xây dựng mối liên kết “4 nhà” nhằm phát triển các vùng SX lạc đạt hiệu quả cao và bền vững.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Giải pháp sản xuất hoa bền vững

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp Sở NN-PTNT Hải Phòng vừa tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề: “Giải pháp phát triển sản xuất hoa bền vững vùng đồng bằng sông Hồng”.

Lãi cao

Theo Viện Nghiên cứu Rau quả, nước ta là một quốc gia có tiềm năng về sản xuất hoa và trong những năm gần đây diện tích và sản lượng hoa tăng lên nhanh chóng. Năm 2017, cả nước có khoảng 25,46 nghìn héc ta trồng hoa. Diện tích này lớn gấp 1,7 lần so với diện tích trồng hoa năm 2011 và diện tích gia tăng của năm 2014 gấp 1,56 lần so với năm 2011.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Trần Văn Khởi phát biểu tại diễn đàn

Riêng vùng đồng bằng sông Hồng, diện tích hoa năm sau luôn cao hơn năm trước và sản xuất hoa gia tăng khá ổn định ở Hà Nội và Nam Định… Nhiều mô hình đạt thu nhập từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng/ha. Thu nhập bình quân trồng hoa, cây cảnh trên cả nước năm 2014 là 285 triệu đồng/ha/năm.

So với giá trị thu nhập/ha canh tác toàn ngành trồng trọt là 82 – 83 triệu đồng/ha/năm, mức thu nhập này gấp gần 3,5 lần. So sánh với một số loại cây trồng chính hiện nay cho thấy, lợi nhuận thu được từ 1ha trồng hoa cao hơn 10 – 15 lần so với trồng lúa và 7 – 8 lần so với trồng rau… Vì vậy, sản xuất hoa đã đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp và đặc biệt đóng góp vào xây dựng NTM.

Ngoài ra, sản phẩm hoa của Việt Nam sản xuất ra không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu. Vào những thời điểm nhu cầu hoa cao như Tết hoặc các dịp lễ hội thì nước ta còn phải nhập khẩu…

Ông Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả chia sẻ, trước năm 2000, nước ta chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh truyền thống như quất, đào, mai, hồng, cúc, lay-ơn, huệ… Những năm gần đây, một số chủng loại hoa mới cao cấp đã dần được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.

Riêng vùng đồng bằng sông Hồng, diện tích hoa năm sau luôn cao hơn năm trước và SX hoa gia tăng khá ổn định ở Hà Nội và Nam Định… Nhiều mô hình đạt thu nhập từ 800 triệu đến 2,5 tỷ đồng/ha. Thu nhập bình quân trồng hoa, cây cảnh trên cả nước năm 2014 là 285 triệu đồng/ha/năm.  So với giá trị thu nhập/ha canh tác toàn ngành trồng trọt là 82 - 83 triệu đồng/ha/năm, mức thu nhập này gấp gần 3,5 lần. So sánh với một số loại cây trồng chính hiện nay cho thấy, lợi nhuận thu được từ 1ha trồng hoa cao hơn 10 - 15 lần so với trồng lúa và 7 - 8 lần so với trồng rau… Vì vậy, SX hoa đã đóng góp vào sự thay đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp và đặc biệt đóng góp vào xây dựng NTM.  Ngoài ra, sản phẩm hoa của Việt Nam SX ra không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu. Vào những thời điểm nhu cầu hoa cao như Tết hoặc các dịp lễ hội thì nước ta còn phải nhập khẩu...  Ông Đặng Văn Đông, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả chia sẻ, trước năm 2000, nước ta chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh truyền thống như quất, đào, mai, hồng, cúc, lay-ơn, huệ... Những năm gần đây, một số chủng loại hoa mới cao cấp đã dần được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.
Ban Chủ tọa và Ban cố vấn

“Có sự thay đổi trên là do nhu cầu của người tiêu dùng luôn hướng đến những chủng loại hoa, cây cảnh mới lạ, có chất lượng cao. Ngoài ra, do sự hội nhập với bên ngoài và do có đóng góp rất lớn của các cơ quan khoa học trong việc lai tạo, thu thập, tuyển chọn các giống hoa, cây cảnh mới”, ông Đông nêu 3 lý do.

Chia sẻ tại diễn đàn, ông Nguyễn Đình Chuyến, Phó Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng đã khái quát một số tiềm năng, thế mạnh trồng hoa, cây cảnh của thành phố tại các làng hoa truyền thống. Hiện, một số vùng trồng hoa đang tích cực nâng cao giá trị sản xuất, trồng hoa theo công nghệ cao.

“Hải Phòng có khoảng 20.000ha sản xuất tập trung. Trong đó diện tích trồng hoa chiếm khoảng 700ha. Các vùng trồng hoa duy trì khá tốt. Hàng năm, vào dịp tết các vườn đào, vườn hoa tiêu thụ với số lượng lớn. Nhờ sự cần cù, chịu khó mà cuộc sống của nông dân được cải thiện, thu nhập từ trồng cây hoa cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác…”, ông Chuyến nói.

Giải Pháp

Phát biểu tại diễn đàn, Q. Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Trần Văn Khởi cho hay: sản xuất hoa là một ngành đặc thù, có vị trí quan trọng trong trồng trọt. Diện tích, năng suất và hiệu quả kinh tế sản xuất hoa ngày càng tăng cao. Ngành sản xuất hoa mang lại giá trị tinh thần, hình thành nhân sinh quan một cách sống hòa đồng, yêu thiên nhiên, mang lại giá trị vật chất, góp phần xây dựng NTM.

Miền Bắc nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng có nhiều lợi thế phát triển ngành hoa như vị trí địa lý, khí hậu, điều kiện đất đai. Đây cũng là vùng có nhiều cơ quan nghiên cứu, cho nên tiến bộ kỹ thuật ở vùng này rất nhiều… Đặc biệt là sự khéo tay, tinh tế của người trồng hoa.

Đoàn đại biểu tham quan mô hình sản xuất hoa lan ứng dụng công nghệ cao tại Cty CP nông nghiệp công nghệ cao Châu Giang (huyện Thủy Nguyên)

Hơn nữa, đây là một nghề sản xuất đem lại kinh tế cao, không đòi hỏi nhiều về đất đai, nước tưới, vật tư, lại dễ áp dụng công nghệ cao và đang trở thành lĩnh vực hấp dẫn của nông dân, đặc biệt là các vùng ven đô.

Thực tế sản xuất đã có nhiều mô hình doanh nghiệp, trang trại, gia trại đầu tư sản xuất hoa mang lại giá trị kinh tế cao và rất cao, đáp ứng nhu cầu chơi hoa nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, sản xuất hoa đang gặp nhiều khó khăn như sản xuất nhỏ lẻ; manh mún; thị trường còn rủi ro; doanh nghiệp đầu tư ít…

Ông Khởi đã đưa ra một số giải pháp để phát triển hoa bền vững hơn nữa. Một là, quy hoạch vùng sản xuất, kết hợp tận dụng lợi thế các vùng sản xuất truyền thống để tạo ra các ngành nghề. Đây là điều kiện gắn với sản xuất công nghệ cao, nhà kính, nhà lưới, sản xuất quy mô công nghiệp, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất hoa.

Hai là, kết hợp sản xuất hoa, cây cảnh với du lịch sinh thái, du lịch danh lam thắng cảnh để nâng cao giá trị của ngành trồng hoa. Kết hợp khu, vùng sản xuất hoa với đào tạo học sinh, sinh viên, đặc biệt là cấp tiểu học, trung học cơ sở thông qua trải nghiệm thực tế để hình thành nhân sinh quan một cách sống yêu thiên nhiên.

Ba là, đầu tư cho nghiên cứu chọn tạo, phục tráng nhập nội thuần hóa và các biện pháp kỹ thuật phù hợp với sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Tăng cường xúc tiến, quảng bá để mở rộng thị trường tiêu thụ hoa từ vùng đồng bằng sông Hồng đến các tỉnh khác, vừa đáp ứng nhu cầu hoa phổ thông với các loại hoa đặc thù truyền thống.

Đoàn đại biểu tham quan mô hình trồng đào cổ xã Đặng Cương (huyện An Dương)

Ngoài ra, xúc tiến hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất hoa, trước hết là hình thành HTX sản xuất hoa kiểu mới, nâng cao năng lực sản xuất thông qua đào tạo, tập huấn, trình diễn mô hình, tham quan học tập hoạt động khuyến nông các cấp.

Hỗ trợ, hoàn thiện cơ chế chính sách cho sản xuất trồng trọt nói chung và hoa, cây cảnh nói riêng. Đặc biệt là có chính sách thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước để đầu tư vào sản xuất hoa.

Diễn đàn có khoảng 200 đại biểu tham gia đến từ 6 tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Tại diễn đàn, Ban chủ tọa và Ban cố vấn đã giải đáp hàng chục câu hỏi của người dân. Câu hỏi tập trung vào các vấn đề như dịch bệnh, chính sách hỗ trợ, kỹ thuật chăm sóc một số loài hoa…

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

 

 

 

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây rau ngót.

Cây rau ngót (Sauropus androgynus (L) Merr.) là cây trồng không kén đất, có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên để cây cho năng suất cao, cần chú ý những biện pháp kỹ thuật sau:

1. Chuẩn bị đất trồng:

– Rau ngót có khả năng sinh trưởng trên nhiều loại đất, nhưng muốn có năng suất cao, cần chọn đất thịt nhẹ, thịt trung bình, đất cát pha, không bị úng ngập nhưng không quá khô, độ pH từ 5,5- 7,0, vùng đất chủ động nước tưới. Tốt nhất là nên chọn loại đất thịt pha đất sét vừa dễ canh tác mà lại giữ ẩm tốt.

– Cày xới đất tơi xốp và bón lót phân hữu cơ hoai mục kết hợp hỗn hợp phân đạm, lân, kali để giúp cây phát triển ngay giai đoạn đầu sau khi bén rễ.

2. Chuẩn bị giống:

2.1. Giống

Có 2 loại:

– Rau ngót lá to: Sinh trưởng khỏe, thân lá màu xanh đậm, phiến lá to và mỏng, phẩm chất ngon.

– Rau ngót lá nhỏ: Thân, lá có màu xanh nhạt, phiến lá nhỏ và dày, đường gân giữa cuống lá có màu xanh nhạt, ít bị sâu bệnh hại.

2.2. Phương pháp nhân giống:

– Nhân giống hữu tính (từ hạt): Tỷ lệ nảy mầm của hạt thường rất thấp và thời gian bắt đầu cho thu hoạch lâu.

– Nhân giống vô tính (giâm cành): Hiện đa số nông dân áp dụng phương pháp này. Để nhân giống đạt nên chú ý những vấn đề sau:

+ Chọn cành khỏe không bị sâu bệnh hại, cành không già, không non (cành vừa hóa nâu) để làm cành giống.

+ Dùng tro trấu hoặc trấu đã được ủ hoai để làm giá thể giâm cành. Liếp giâm tùy theo kích thước vườn, thường liếp giâm có chiều rộng 1-1,2m, chiều cao mặt liếp khoảng 10cm.

+ Cắt xéo từng đoạn cành dài 20 – 25 cm đem giâm, cành đặt nghiêng so với mặt liếp khoảng 450, vùi đất sâu 2/3 đoạn cành rồi lấp đất kỹ để cây nảy nhiều chồi. Để cành mau ra rễ, trước khi giâm ta nhúng cành vào dung dịch NAA (Naphthaleneacetic acid).

Chọn cành khỏe, không bị sâu bệnh hại, cành vừa hóa nâu để làm giống.

3. Thời vụ:

– Rau ngót có thể trồng quanh năm, tốt nhất là vào mùa mưa. Thời vụ trồng tốt nhất là vụ Xuân khoảng từ tháng 2 – 4 và vụ Thu từ tháng 8 – 9.

– Rau ngót được trồng bằng phương pháp nhân vô tính, trồng một lần và thu hoạch 2-3 năm.

Cây rau ngót sau giâm cành 15 ngày.

4. Mật độ, khoảng cách:

– Chia luống 1,3- 1,5m, mặt luống rộng 1,0- 1,2m, rãnh 0,3 m; trồng với khoảng cách cây cách cây 25- 30cm, hàng cách hàng 50- 60 cm, mỗi hố có thể trồng 2 cây.

– Chuẩn bị giống từ 9,5- 10 vạn hom/ha, cũng có thể tách thân từ cây gốc của năm trước để nhân thẳng ra ruộng.

5. Phân bón:

– Lượng phân bón tính cho 1.000 m2 (tùy theo nền đất có thể tăng hoặc giảm lượng phân vô cơ) như sau:

+ Phân chuồng hoai mục: 1,5 – 2 tấn (đã trộn ủ với 1-1,5 kg chế phẩm nấm Trichoderma)

+ Phân vô cơ: Urê 20- 24 kg + Super lân 40- 50 kg + Kali clorua 6- 8 kg.

– Cách bón:

Bón lót (kết hợp khi làm đất): Toàn bộ lượng phân hữu cơ hoai mục và Super lân + 3- 4 kg Kali clorua.

Bón thúc chia làm 2 lần bón:

+ Lần 1: Sau trồng 15- 20 ngày, sử dụng phân Urê 7- 8 kg. Trong thời gian này, người trồng có thể kết hợp sử dụng thêm phân bón lá NPK 30-10-10 để bổ sung vi lượng cho cây.

+ Lần 2: Sau lần 1 từ 10- 15 ngày với liều lượng còn lại. Có thể bón theo hàng hoặc bón theo hốc, bón cách gốc 15- 20cm, kết hợp làm cỏ, vun gốc cho cây.

Lưu ý: Do cây rau ngót thu hoạch liên tục kéo dài 2- 3 năm, do vậy sau mỗi đợt thu hoạch, cần bón bổ sung từ 0,5- 0,7 tấn phân chuồng hoai mục vào gốc, kết hợp tưới NPK để bổ sung dinh dưỡng cho cây.

Bên cạnh việc sử dụng các loại phân hữu cơ và phân hóa học thì người nông dân còn sử dụng kết hợp thêm các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thuộc nhóm auxin và gibberellin (GA3). Xử lý GA3 có tác dụng kích thích gia tăng chiều cao chồi rau ngót nhưng không ảnh hưởng đến hàm lượng diệp lục tố (chlorophyll) và trọng lượng tươi rau ngót giai đoạn thu hoạch. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng GA3 với nồng độ từ 10- 80 ppm phun trên rau ngót, thời gian cách ly (PHI) 7 ngày, không để lại dư lượng GA3 trên rau khi thu hoạch.

– Nguồn nước tưới: Sử dụng nguồn nước sạch để tưới (nước sông hoặc nước giếng khoan). Tuyệt đối không được sử dụng nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước bị ô nhiễm, nước thải từ bệnh viện. Luôn giữ độ ẩm đất 80-85%.

– Thường xuyên vệ sinh vườn và làm cỏ. Khi bón phân kết hợp vun gốc và tưới giữ ẩm cho vườn cây thường xuyên.

– Khi thu hoạch cần kết hợp cắt cành tỉa tán, tạo cho cây có bộ khung cân đối, giúp vườn rau thông thoáng và hạn chế sâu bệnh hại.

– Vào tháng 11-12 hàng năm, khi thấy cây đã cao (20- 25 cm), lá hơi vàng và ít lá (thời kỳ cây ngừng sinh trưởng) ta nên thực hiện biện pháp sau:

+ Trẻ hóa cây: Nhằm giúp cây đâm nhiều chồi, tăng năng suất bằng cách đốn cây. Dùng dao hay kéo cắt sát gốc cách mặt đất 15cm, các lần cắt sau cách vết cắt cũ 7-10 cm, tỉa thưa bớt các cành già.

+ Xới rãnh sâu 10- 15cm giữa 2 hàng, bón bổ sung lượng phân như sau (tính cho 1.000 m2): 0,7- 1 tấn phân chuồng hoai mục + 7- 8 kg Urê + 10- 15 kg Super lân + 5- 7 kg Kali clorua, trộn đều, lấp đất lại và tưới đủ ẩm để cây bung các đợt chồi mới, vườn rau được trẻ hoá, sung sức hơn.

7. Phòng trừ sâu bệnh:

7.1. Sâu hại chính

– Rầy xanh (Empoasca sp.): Gây hại nặng vào các tháng nắng nóng, khô hạn. Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC, Cyperan 25EC), Fipronil (Regent 800WG) hoặc chế phẩm nấm xanh,…

– Nhện đỏ (Tetranychus sp.): Sống tập trung dưới mặt lá, gây hại nặng trong điều kiện khô hạn. Cần phát hiện sớm để phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Propargite (Comite 73EC), Diafenthiuron (Pegasus 500SC), Fenpyroximate (Ortus 5SC).

– Bọ phấn (Bemisa myricae): Vừa gây hại, vừa là môi giới gây bệnh virut, cần phòng trừ triệt để bằng các loại thuốc có hoạt chất như Cypermethrin (Sherpa 20EC), Lambda -cyhalothrin (Karate 2,5EC),…

– Bọ trĩ (Thrip sp.): Phòng trừ bằng các loại thuốc có hoạt chất như Emamectin benzoate (Dylan 2EC), Imidacloprid (Admire 50EC, Confidor 100SL), Cyfluthrin (Baythroid 50 SL).

7.2. Bệnh hại chính

– Bệnh phấn trắng (Erysiphe sp.): Gây hại nặng trong điều kiện khô hạn, nắng ấm. Phòng trừ khi bệnh mới xuất hiện bằng các thuốc có hoạt chất như: Metalaxyl + Mancozeb (Vinomyl 72BTN), Carbendazim (Vicarben 50HP), Hexaconazole (Anvil 5SC), Cyfluthrin (Bayfidan 25EC).

– Bệnh xoăn lá (virut): Cần diệt trừ môi giới truyền bệnh là bọ phấn; nên nhổ bỏ những cây bị bệnh ra khỏi vườn để tránh lây lan; nếu nặng thì phá bỏ trồng lại.

Lưu ý:

– Rau ngót có đặc tính sinh trưởng tốt, ít bị sâu bệnh hại, thường hay bị một số sâu hại chủ yếu như cuốn lá, sâu xanh, rầy rệp nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp với phương châm phòng là chính. Áp dụng đúng kỹ thuật canh tác để hạn chế phát sinh gây hại:

+ Chọn giống từ vườn sạch bệnh.

+ Thường xuyên vệ sinh vườn, cắt tỉa bỏ cành già, cành bị sâu bệnh hại đem tiêu hủy.

+ Sử dụng phân hữu cơ hoai mục kết hợp trộn ủ chế phẩm sinh học (nấm Trichoderma) diệt trừ nguồn bệnh và trứng sâu.

– Khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:

+ Chúng ta nên thực hiện tốt quy tắc 4 đúng (đúng loại, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách); ưu tiên sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học.

+ Phải đảm bảo thời gian cách ly từ 7- 14 ngày trước thu hoạch.

8. Thu hoạch:

– 45- 60 ngày sau trồng có thể tiến hành thu hoạch đợt đầu tiên, các đợt tiếp theo cách nhau 25- 35 ngày.

– Thu hoạch rau ngót bằng cách lấy kéo hoặc dao cắt cành hoặc hái lá. Sản phẩm sau thu hoạch phải được đựng trong bao bì chuyên dụng.

Dùng kéo cắt cành để thu hoạch rau ngót.

Nguồn: khuyennongvn.gov.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Liên kết trồng dưa lưới, hiệu quả bền vững

Chỉ cần diện tích 1.000-2.000m2, mỗi nhà màng trồng dưa lưới có thể thu hoạch được 4 vụ/năm, doanh thu cả trăm triệu đồng/công/vụ. Nếu có hợp đồng liên kết đầu ra ổn định, canh tác dưa lưới sẽ nhanh thu hồi vốn, mang lại lợi nhuận lâu dài cho nông dân.

Từ thành công của chàng kỹ sư trẻ…

Ở huyện đầu nguồn An Phú, nhắc đến Nguyễn Văn Đệ (xã Vĩnh Lộc), những nông dân lớn tuổi còn phải nể phục bởi anh được xem là người đầu tiên thành công với dưa lưới, một loại cây trồng vốn mới mẻ với vùng đất đã “quen” với lúa, rau màu.

Là một kỹ sư nông học (tốt nghiệp năm 2006), anh Đệ đã bắt đầu với những công việc trái ngành trước khi “kết duyên” với cây dưa lưới từ năm 2014. Để khởi nghiệp tại quê nhà, anh đã đến nhiều nơi học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. “Lần đầu trồng, thấy dưa bị nứt tôi cũng hơi lo lắng. Sau khi tìm hiểu, biết đây là giai đoạn nứt trái để tạo lưới nên mới yên tâm. Tôi cố gắng vừa canh tác, vừa rút kinh nghiệm để tìm ra quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng” – anh Đệ chia sẻ.

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật An Giang kiểm tra chất lượng trái dưa lưới do anh Thảo trồng

Nhờ sản phẩm được tiêu thụ nhanh với giá cao, chỉ sau 2 năm canh tác, anh Đệ đã trả hết nợ ngân hàng (vay đầu tư nhà lưới) và bắt đầu có lời. Nhận thấy tiềm năng loại cây trồng này còn lớn nên anh nâng diện tích nhà lưới lên 2.500m2, trồng đa dạng các giống dưa xuất xứ từ Đài Loan và Thái Lan. Anh còn liên kết với nông dân cùng thực hiện quy trình canh tác an toàn và làm đầu mối thu gom sản phẩm của họ. Chàng kỹ sư trẻ đã xây dựng nhãn hiệu dưa “Mr.Đệ”, được ngành chức năng cấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Anh Đệ cho biết, với giá thu mua lại từ 25.000 – 30.000 đồng/kg, đảm bảo nông dân có lời ít nhất 35 triệu đồng/vụ/1.000m2. Nếu mỗi năm canh tác được 4 vụ thì sau khoảng hơn 2 năm, nông dân đã lấy lại được vốn đầu tư nhà màng. “Sau khi liên kết ổn định với 6 nông dân ở An Giang và Cà Mau, phát triển 10.000m2 dưa lưới, tôi đang mở rộng liên kết sang Vĩnh Long, Kiên Giang, TP. Cần Thơ để dần nâng diện tích lên gấp đôi. Bên cạnh dưa lưới, tôi đang thử nghiệm quy trình trồng dưa hấu, cà chua tí hon, dưa lê theo hướng an toàn để chuyển giao cho nông dân, nhằm đa dạng sản phẩm, tăng hiệu quả canh tác” – anh Đệ nhấn mạnh.

…đến thắng lợi của những nông dân chịu thay đổi

Một trong những nông dân đang liên kết thành công với kỹ sư Nguyễn Văn Đệ là anh Dương Hiếu Thảo (ấp Mỹ Phó 3, xã Tân Hòa, Phú Tân). Được anh Đệ tận tình hướng dẫn quy trình canh tác an toàn, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá 28.000 đồng/kg, anh Thảo cùng bạn của mình đã mạnh dạn đầu tư 350 triệu đồng xây dựng nhà màng 1.000m2, thiết kế hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân hữu cơ tự động. Vụ đầu tiên, anh trồng 2.600 gốc dưa lưới trong những chậu nhựa, được nối hệ thống tưới nhỏ giọt vào tận gốc. “Khi dưa lưới được 7 ngày tuổi, cao từ 10-15cm thì tiến hành quấn đọt lên dây. Công việc này cần 2 người quấn liên tục trong 40 ngày. Khi cây được 2,5m thì ngắt đọt. Trồng trong nhà màng nên ít bị sâu bệnh, nhất là không có bọ trĩ, bọ phấn trắng. Trong chiếc bồn chứa 2.000 lít, mình hòa sẵn phân hữu cơ. Mỗi ngày, bật hệ thống tưới tự động trong 1-2 giờ là được” – anh Thảo chia sẻ.

Ngay vụ dưa đầu tiên, mỗi gốc đều cho ít nhất 1 trái, trọng lượng bình quân trên 2kg, đạt yêu cầu về độ đường, tiêu chuẩn thu mua. Với 2.600 gốc dưa, sau 85 ngày canh tác, anh Thảo thu hoạch được hơn 5 tấn trái, giao hết cho anh Đệ giá 28.000 đồng/kg. Tính ra, doanh thu khoảng 140 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí giống, dinh dưỡng hữu cơ, nhân công khoảng 50 triệu đồng, nhóm anh Thảo thu lời 90 triệu đồng. Nếu tiếp tục đà thắng lợi này, chỉ sau 1 năm với 4 vụ dưa, nhóm anh Thảo đã có thể lấy lại vốn đầu tư nhà màng và bắt đầu thu lợi nhuận không dưới 200 triệu đồng/công từ năm thứ 2.

Kỹ sư Nguyễn Văn Đệ cho biết, với hệ thống nhà màng được lắp ráp bằng khung thép vững chắc thì 5 năm sau mới phải bảo trì. Trong thời gian này, người sản xuất đã thu được lợi nhuận khá nên hoàn toàn có thể tái đầu tư mở rộng, tăng diện tích liên kết.

“Dưa lưới là loại cây trồng cho năng suất cao, kỹ thuật sản xuất không khó, thời gian canh tác ngắn, giá trị thương phẩm tốt. Điều quan trọng là khi canh tác, cần có hợp đồng liên kết thu mua nhằm ổn định đầu ra, đảm bảo quy trình sản xuất an toàn, chất lượng” – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư lưu ý.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Trồng dâu tây “hái” ra tiền.

“Nếu so sánh về đơn vị quy mô diện tích thì hiện nay không có cây trồng nào cho thu nhập cao như dâu tây”, ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo (Sơn La), chia sẻ.

Du khách trải nghiệm hái và mua dâu tây tại các nhà vườn ở H.Mộc Châu.

Hợp tác xã Tân Thảo nằm ở bản Tân Quế, xã Cò Nòi (H.Mai Sơn, Sơn La) hiện có 7 ha trồng dâu tây. Dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi vừa qua, nhiều hộ có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ bán cây dâu tây làm cảnh. Cận tết cũng là thời điểm nhiều nhà vườn bắt đầu có dâu tây chín. Dâu tây loại có vị chua được bán với giá 80.000 – 150.000 đồng/kg; loại ngọt giá cao hơn, từ 250.000 – 300.000 đồng/kg và hái đến đâu đều có khách đặt mua đến đấy.

Cho thu nhập quanh năm

Ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo, cho biết trong số 7 ha dâu tây thì có khoảng 3 ha người dân trồng bán làm cây cảnh chơi tết. Sau 10 năm dâu tây được trồng tại Sơn La, nhiều xã ở H.Mai Sơn có khí hậu trong lành, mát mẻ đang là mảnh đất giúp dâu tây trở thành cây trồng mới đem lại thu nhập cao cho nông dân.

Cũng theo ông Lâm, dâu tây hiện được trồng theo diện tích mỗi ruộng khoảng 1.000 m² để phù hợp đầu tư hệ thống nhà lưới, tưới nước tự động. Chi phí ban đầu mỗi ruộng khoảng 100 triệu đồng nhưng bù lại, cây dâu tây cho nguồn thu nhập rất đa dạng. “Bắt đầu từ tháng 11, nhà vườn bán cây dâu tây làm cảnh, từ tháng 12 đến tháng 5 thì bán quả chín, còn lại thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 có thể bán cây làm giống”, ông Lâm giải thích.

Ông Lâm cho biết, dâu tây trồng tại H.Mai Sơn hiện có năng suất khá cao, mỗi cây có thể cho thu hoạch 0,4 – 0,5 kg quả, tính ra mỗi ruộng có thể đạt năng suất trên 1,6 tấn quả, chỉ bán tươi đã có thu nhập trên 100 triệu đồng. “Nếu cộng cả chi phí bán giống, bán cây cảnh và quả tươi thì mỗi ruộng dâu 1.000 m² hiện đang cho thu nhập từ 200 – 250 triệu đồng. So sánh về quy mô diện tích thì không có cây trồng nào ở địa phương cho thu nhập nhiều, nhanh hồi vốn như dâu tây”, ông Lâm quả quyết.

Quả dâu tây đang mang lại cho người nông dân nguồn thu nhập cao.

Còn tại xã Đông Sang (H.Mộc Châu, Sơn La), trang trại dâu tây Chimi, mô hình khởi nghiệp của chàng trai Vũ Văn Lực (29 tuổi), là địa chỉ không thể bỏ qua của nhiều khách du lịch khi đến Mộc Châu. Vườn dâu tây tại đây rộng 4 ha, nằm giữa những vạt rừng thông mơ mộng. Những ngày trước và sau tết, mỗi ngày nhà vườn đón hàng ngàn khách đến thăm. Du khách được phát giỏ mây rồi vào vườn hái quả theo sự hướng dẫn của nhân viên, mỗi ki lô gam dâu tây ở đây có giá 350.000 đồng nhưng khách đều vui vẻ móc hầu bao khi lần đầu tiên được trải nghiệm tự mình hái những quả dâu tươi đỏ mọng, chụp ảnh với vườn dâu.

Cũng ở trang trại này, ngoài dâu tây tươi, nhóm của anh Lực tổ chức chế biến nhiều sản phẩm bánh dâu tây, nước ép dâu tây, mứt dâu tây, dâu tây sấy dẻo… để du khách có nhiều lựa chọn mua hàng. Theo một nhân viên thu ngân, doanh thu mỗi ngày lễ, tết ở trang trại này không dưới 100 triệu đồng. Dâu tây cũng khiến lượng khách tìm về khu du lịch rừng thông Bản Áng trên địa bàn xã Đông Sang tăng vọt.

Tiềm năng còn rất lớn

Quê ở Ninh Bình, tốt nghiệp đại học tại Hà Nội nhưng anh Vũ Văn Lực chọn Mộc Châu làm điểm khởi nghiệp trồng dâu tây sau chuyến học tập kinh nghiệm ở Đà Lạt (Lâm Đồng). Theo anh Lực, khí hậu Mộc Châu khá tương đồng với Đà Lạt nhưng nếu có kỹ thuật chăm sóc tốt, quả dâu tây ở Mộc Châu thậm chí còn có năng suất, chất lượng tốt hơn. Khởi nghiệp từ năm 2015 nhưng hiện dâu tây từ trang trại của anh đã có lượng khách quen tiêu thụ quả tươi rất lớn. Ngay từ ban đầu, anh Lực định hướng mô hình của mình chủ động chế biến quả dâu tây thành nhiều sản phẩm, tạo nhiều kênh phân phối, bán hàng khác nhau. Nhờ đó, diện tích trồng dâu tây năm 2015 chỉ có 2.000 m² thì nay đã tăng lên 4 ha vẫn đảm bảo thị trường tiêu thụ. Chỉ sau vài năm khởi nghiệp, mô hình đã cho doanh thu tiền tỉ và hiện đang giải quyết việc làm trực tiếp cho 40 lao động địa phương.

Theo ông Nguyễn Đình Lâm, khoảng 80% sản lượng dâu tây của Hợp tác xã Tân Thảo được bán quả tươi, 20% còn lại đưa vào chế biến. Trong đó, phần lớn khách hàng cá nhân, một số ít đưa vào chuỗi cửa hàng bán lẻ. Với diện tích hiện tại, Hợp tác xã Tân Thảo chưa có đủ sản lượng để cung ứng vào siêu thị nên dâu tây còn tiềm năng rất lớn để phát triển, mở rộng diện tích.

Thống kê của Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La cho thấy cây dâu tây trồng đầu tiên tại cao nguyên Mộc Châu vào khoảng năm 2012 do một số hộ dân mang giống từ Đà Lạt (Lâm Đồng) ra trồng. Cho đến năm 2014, nhiều doanh nghiệp đầu tư mở rộng trồng dâu tây với giống dâu Nhật Bản. Có giá trị kinh tế cao nên trong khoảng 5 năm trở lại đây, diện tích dâu tây ở Sơn La không ngừng tăng lên. Cho đến cuối năm 2018, diện tích dâu tây toàn tỉnh Sơn La đạt 43,3 ha với tổng sản lượng ước đạt 593 tấn. Dâu tây trồng chủ yếu ở các huyện Mộc Châu, Mai Sơn và Vân Hồ. Ngay trong tháng 1 vừa qua, UBND tỉnh Sơn La tổ chức lễ hội dâu tây tại Hà Nội để giới thiệu và quảng bá thương hiệu cho loại quả này.

Trao đổi với Thanh Niên, ông Nguyễn Thành Công, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La, cho biết hàng tấn quả dâu tây đã được tiêu thụ tại Hà Nội bước đầu cho thấy loại quả này được người tiêu dùng nhiệt tình đón nhận. Giá bán dâu tây trung bình trong khoảng 200.000 – 300.000 đồng/kg, chỉ bằng một nửa dâu tây nhập khẩu từ Hàn Quốc, Mỹ, Úc nhưng chất lượng tương đương sẽ là lợi thế lớn cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

“Dù là cây trồng mới và đang được nhân rộng diện tích nhưng dâu tây với lợi thế diện tích trồng nhỏ, cho thu nhập lớn đang là cây trồng có giá trị kinh tế cao nhất hiện nay. UBND tỉnh Sơn La cũng đặc biệt quan tâm đến cây trồng này bằng cách hỗ trợ về cơ chế chính sách, Sở NN-PTNT tỉnh hỗ trợ tư vấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật để tiếp tục mở rộng diện tích cây trồng này khi sản lượng dâu tây hiện nay chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường”, ông Công nói.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Làm giàu bằng mô hình nuôi dê, ếch, mỗi năm thu trên nửa tỷ đồng.

Ông Nguyễn Thái, 53 tuổi, quê ở ấp Bình Điền, xã Bình Ninh, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long là một nông dân có ý chí vươn lên làm giàu từ chăn nuôi.

Khởi đầu ông xây chuồng trại nuôi dê. Sau vài năm phát triển, đàn dê từ 10 con đã tăng lên hàng trăm con, trong đó có 30 con sinh sản. Ông cho biết nhiều năm nay giá dê luôn ở mức ổn định, nhất là gần đây thịt dê lúc nào cũng hút hàng, giá cao giúp cho người nuôi phấn khởi. Bình quân mỗi tháng ông bán ra từ 7 – 10 con dê thịt với giá 110.000đ/kg dê đực và 80.000đ/kg dê cái. Trọng lượng bình quân mỗi con từ 30 – 40 kg. Ngoài ra ông còn bán dê giống với giá từ 1,4 triệu đến 2 triệu đồng/con 3 tháng tuổi.

Ông Nguyễn Thái bên hồ ếch giống.

Thuận lợi lớn nhất của ông là nhờ có 4 công đất nhà trồng cỏ voi, cỏ sữa cho dê ăn nên đàn dê tăng trưởng nhanh, trừ hết các chi phí, mỗi năm còn lời trên 200 triệu đồng.

Cuối năm 2017 ông lại phát triển mô hình nuôi ếch Thái Lan trong hồ lót bạt. Hiện ông đã đầu tư xây được 24 hồ, mỗi hồ rộng 4 x 5 mét để nuôi ếch giống, mỗi đơt 45 ngày xuất bán 40.000 con, giá mỗi con từ 800 – 1.100đ. Ngoài ra, ông còn nuôi thêm 50.000 con ếch thương phẩm, giá bán dao động từ 30.000 – 40.000đ/kg.

Ông khẳng định nuôi ếch tuy vất vả nhưng lợi nhuận hấp dẫn. Thành công lớn nhất của ông là tính cần cù, chịu khó học hỏi từ các cuộc hội thảo do Trạm Khuyến nông huyện tổ chức. Thứ hai là tinh thần sáng tạo, dám nghĩ dám làm.

Khi hỏi tại sao ông chọn con dê và con ếch để nuôi mà không chọn con khác? Ông trả lời một cách tự tin: Trước khi bắt tay vào xây dựng chuồng trại, tôi đã bám sát vào nhu cầu của thị trường. Hiện nay thịt dê đang hút, thịt ếch được nhiều người chọn lựa vì đây là hai con vật tương đối an toàn về vệ sinh thực phẩm.

Từ một nông dân nghèo, chỉ sau vài năm chọn mô hình đa con ông đã vươn lên làm giàu trên mảnh đất quê nhà, biến ước mơ thành hiện thực, mỗi năm thu nhập trên 500 triệu đồng khiến cho nhiều người thán phục.

Ngoài sản xuất kinh doanh giỏi, ông Thái còn là một nông dấn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với nhiều người, giúp nhiều hộ thoát nghèo và vươn lên khá giả từ nuôi dê và nuôi ếch.

Chưa dừng lại ở đây, lúc nào ông cũng tìm tòi, nghiên cứu chọn những vật nuôi có giá trị kinh tế cao để phát triển theo mô hình kinh doanh đa dạng. Hiện ông thả nuôi rắn ri cá trong vèo được 60 con đang trong thời kỳ sinh sản. Đây là một mô hình độc đáo mang lại hiệu quả rất cao.

Là người đi đầu trong phong trào phát triển kinh tế hộ gia đình, ông được nhiều bà con nông dân tín nhiềm bầu làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Khuyến nông xã Bình Ninh, gồm 19 thành viên, đa số là những người nhiệt tình và quyết tâm vươn lên làm giàu, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Ông Nguyễn Văn Thành, Trưởng trạm Khuyến nông huyện Tam Bình nhận xét ông Nguyễn Thái là một nông dân tiêu biểu về sản xuất kinh doanh giỏi, người đi đầu trong phong trào nuôi dê và nuôi ếch ở địa phương.

Ông đã hết lòng chia sẻ kinh nghiệm của mình đối với nhiều người nhằm nhân rộng các mô hình mang lại hiệu quả cao.

Ông Thái chăm sóc đàn dê.

Cũng từ thành quả trên, ông Thái đã nhận được nhiều giấy khen cũa xã và của huyện về thành tích sản xuất kinh doanh giỏi.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Trồng xen cây Hoài Sơn trong vườn tiêu cho lợi nhuận kép.

Cây Hoài Sơn (củ mài) dễ trồng, khi trồng xen trong vườn tiêu bón phân cho tiêu cũng là bón phân cho cây Hoài Sơn, lấy ngắn nuôi dài nếu có rủi ro về giá, tiết kiệm được chi phí đầu tư nhưng thu lợi nhuận kép.

Anh Nhâm giới thiệu cách trồng Hoài Sơn xen tiêu.

Khi giá tiêu ở mức thấp, thu không đủ bù chi khiến nhiều nông dân ở huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu) không mặn mà đầu tư để giữ vườn tiêu. Tuy nhiên anh Lâm Ngọc Nhâm, Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp – Thương mại – Du lịch Bầu Mây (xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) lại có lãi nhờ trồng xen cây Hoài Sơn (củ mài).

Chúng tôi đến tham quan vườn tiêu 10 ha trồng xen với cây Hoài Sơn của anh Nhâm đang thời kỳ thu hoạch. Những trụ tiêu sai trái đang độ chín trên cao, mà trong lòng đất cũng đang lộ thiên những củ Hoài Sơn chờ thu hoạch. Anh Nhâm nói: Cách đây 3 năm (2015) khi giá hồ tiêu xuống thấp, Công ty đã thử nghiệm nhiều cây trồng cộng sinh trong vườn tiêu và thành công với cây Hoài Sơn.

Theo anh Nhâm, Hoài Sơn là cây mọc hoang dại tự nhiên dưới các tán lá cây trong rừng và có nhiều loài (khoảng 20 loài). Cây Hoài Sơn trồng tại vườn được lấy từ vùng núi Mây Tàu thuộc huyện Xuyên Mộc. Là loại cây thân leo, nhưng khi đưa vào trồng trong vườn tiêu, cây được điều khiển phát triển bò trên phần diện tích đất trống.

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây Hoài Sơn giữ độ ẩm cho đất, làm cho đất tơi xốp, vườn tiêu không phải làm cỏ. Thân rễ phình to thành củ ăn sâu xuống đất, có nhiều rễ con làm cho mặt đất nứt tạo độ thông thoáng và lưu dẫn nguồn nước thoát cho cây tiêu, chống xói mòn.

Lá cây Hoài Sơn phát triển tốt, là thức ăn của sâu nhưng vẫn không ảnh hưởng đến năng suất củ. Vì thế mà trên cây tiêu cũng giảm được các loài sâu và côn trùng, từ đó giảm được việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm công chăm sóc.

Với chiều cao cây tiêu 5 – 6 mét là môi trường lý tưởng cho cây Hoài Sơn phát triển. Sự sinh trưởng cộng sinh này không cạnh tranh về ánh sáng. Bón phân cho cho cây tiêu cũng là bón phân cây Hoài Sơn, tiết kiệm chi phí, tạo giá trị kinh tế tăng thêm trên cùng đơn vị diện tích canh tác.

Cây Hoài Sơn thường trồng vào đầu mùa mưa, một hàng tiêu trồng xen một hàng Hoài Sơn, cây cách cây 20 cm. Với diện tích 1 ha, trước khi trồng cần bón lót 15 tấn phân chuồng ủ hoai, 250kg phân NPK loại 16-16-8. Sau một tháng bón thúc tăng lượng phân NPK lên khoảng 500-700 kg/ha. Mỗi ha đất trồng tiêu, trồng xen khoảng 20.000 gốc cây.

Trong vòng sáu tháng là cây có thể cho thu hoạch củ. Mỗi cây cho một củ có trọng lượng khoảng từ 0,5-3kg. Mỗi ha trồng tiêu khi trồng xen cây Hoài Sơn nếu chọn được giống tốt, rõ nguồn gốc, bón phân cân đối, áp dụng kỹ thuật canh tác thì năng suất có thể cho từ 30-40 tấn củ.

Củ Hoài Sơn ( củ Mài ).

“Củ Hoài Sơn có giá trị kinh tế cao (khoảng 120-150 ngàn đồng/kg). Ngoài việc dùng để ăn, còn làm dược liệu điều chế thuốc quý chữa các bệnh như ăn uống khó tiêu, mồ hôi trộm, tiểu đường, giúp phụ nữ sau sinh ăn ngon miệng và hấp thu tốt. Chính những đặc tính ưu việt đó, sắp tới Công ty sẽ chế biến củ Hoài Sơn thành sản phẩm Sữa Hoài Sơn, đưa ra tiêu thụ thị trường trong nước và quốc tế”, anh Nhâm chia sẻ.

Cây Hoài Sơn dễ trồng, khi trồng xen trong vườn tiêu bón phân cho tiêu cũng là bón phân cho cây Hoài Sơn, lấy ngắn nuôi dài nếu có rủi ro về giá, tiết kiệm được chi phí đầu tư nhưng thu lợi nhuận kép.

Đây được xem là mô hình trồng xen cây cộng sinh điển hình, tạo điều kiện thuận lợi để canh tác vườn tiêu bền vững cần được khuyến khích nhân rộng trong bối cảnh giá tiêu không được thuận lợi như mong muốn của người dân.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.