“Huấn luyện viên” cá chình bông

Không cần nuôi trong suối nước mát, không cần thức ăn tươi sống mà cá chình vẫn khỏe, lớn nhanh… Đó là những điều khác biệt mà anh Phương Trung (Ninh Giang, Ninh Phước, Ninh Hòa, Khánh Hòa) “huấn luyện” cho cá chình giống của mình và chinh phục được nhiều khách hàng đặt mua…

CHO CÁ “Ở” TRONG BỂ XI MĂNG

Không như những gì tôi tưởng tượng về một trại giống ương cá chình nằm ven chân núi, ven suối hay trong bè trên sông… như vẫn thường thấy, trại giống của anh Trung lại là một trại tôm giống cũ, nằm ven biển, toàn là bể xi măng. Vậy mà, lượng cá chình nuôi trong khu bể vốn để ương tôm post này hàng năm cung cấp cho thị trường đến 1,5 triệu con cá chình giống quý hiếm. “Ở đây chắc nóng lắm, cá chình liệu có thích hợp?” – tôi thắc mắc.

Không trả lời vội, dẫn tôi đi sâu vào khu trại, nơi hàng ngàn con cá chình đang vào cữ ăn, anh Trung chậm rãi nói: Hiện nay trên thế giới chưa có nước nào cho cá chình sinh sản nhân tạo. Cá chình giống hiện nay đều được bắt từ môi trường tự nhiên. Vì vậy, dù nghề nuôi cá chình bông sinh lợi rất lớn, giá cá thương phẩm loại 1 (2-5kg/con) lên đến 400.000 đồng/kg, nuôi 1.000 con, đến khi thu hoạch có thể cho thu lãi đến vài trăm triệu đồng. Nhưng “rào cản” lớn nhất của nghề này lại chính là con giống, khan hiếm, không chủ động về số lượng, chất lượng cũng như độ đồng đều. Cá được thu về từ việc đánh bắt ngoài thiên nhiên rất dễ bị xây xát, đuối sức nên tỷ lệ cá chết rất cao.

Hai năm trước, anh tình cờ quen biết một chuyên gia Đài Loan, người đã giới thiệu cho anh biết về nghề nuôi cá chình bông cũng như hứa hẹn với anh về nguồn cung cấp giống dồi dào, ổn định. Và đó chính là thời điểm anh bắt đầu “bén duyên” với cá chình. Anh đã bỏ ra không ít tiền đi hàng chục tỉnh thành trong nước học hỏi các mô hình nuôi và ước tính nhu cầu giống. Vận dụng kinh nghiệm nhiều năm làm trong nghề nuôi thủy sản, kinh nghiệm của những tháng ngày mày mò nghiên cứu cho cua, cá ngựa, tôm sú, tôm chân trắng đẻ nhân tạo, anh mạnh dạn nhập cá chình giống chỉ bằng que tăm từ Đài Loan về nuôi ương.

Cá chình là loài cá nước ngọt và ưa vùng nước lạnh (chúng được xếp vào nhóm cá nước lạnh nội địa). Để cá thích nghi được với môi trương mới, anh đã mua thiết bị và thiết kế lại khu trại tôm post của mình. Anh đặt một hệ thống ống nước, lấy nước bơm từ giếng lên xả vào các bể cá, đồng thời xả nước từ bể ra ngoài. Mục đích là tạo ra một môi trường nước chảy thường xuyên ra – vào bể cá, bảo đảm nước không bị quá nóng khi nhiệt độ ngoài trời lên cao và tạo nên một môi trường nước chảy thích hợp với cá chình như ở suối. Ban đầu hệ thống anh làm và sự chăm sóc cá còn chệch choạc nên cá chết nhiều. Vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đến nay cách làm của anh đã thành công, tỷ lệ cá sống đến trên 95%, đặc biệt là sau khóa “huấn luyện” cá giống của anh có thể thích nghi với điều kiện sống khác hẳn với môi trường thiên nhiên. Cá không chỉ có thể chịu nhiệt tốt mà còn không sợ ánh sáng, chuyển sang ăn nổi, lớn nhanh trong cả môi trường nước không hoàn toàn ngọt ở những vùng nước bị nhiễm mặn.

LUYỆN ĂN “CÁM TỔNG HỢP”

Kể về chuyện này, anh Trung tự hào cho biết: Sau khi đã nắm được phương pháp huấn luyện cho cá chình giống sống tốt trong môi trường bể xi măng tôi mới thấy sự bất tiện của việc cho chúng ăn bằng thức ăn tạp tươi sống. Không chỉ vì việc băm nát cá tạp 2 lần/ngày rất mất thời gian, việc bảo quản cá cho thật tươi cũng rất nhiêu khê. Mặt khác, quá trình cá bắt mồi không đồng đều, rồi mồi rớt, lắng, dư thừa trong bể nếu không thường xuyên mất công vệ sinh kỹ sẽ gây ô nhiễm nguồn nước. Đó là chưa kể khi cá bị bệnh, trộn thuốc vào thức ăn tạp cũng không mấy hiệu quả, thuốc bị tan ra trong nước…

Vậy là, chàng thanh niên vốn ham mê tìm tòi cái mới này bắt tay vào nghiên cứu làm thức ăn công nghiệp cho cá chình. Từ kinh nghiệm làm thức ăn cho tôm ngày trước, chỉ trong thời gian ngắn anh đã chế biến thành công loại thức ăn công nghiệp với đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cá chình bông.

Để cá bắt mồi đồng đều, khắc phục và hạn chế việc thức ăn dư thừa trong bể gây ô nhiễm nước, khi cho cá ăn, anh cho vào cám một ít nước rồi nhào kỹ. Cứ mỗi bể cá, anh treo vào 2 – 3 rá nhựa. Mỗi ngày, trước mỗi cữ ăn, anh gõ mạnh vào thành thau nhôm phát ra tiếng leng keng như hiệu lệnh giờ ăn rồi mới múc từng cục lớn thức ăn đã nhào dẻo thả vào rá. Nhiều lần như vậy, cá quen, cứ hễ nghe tiếng gõ là cá tự động “tập hợp” quanh rá, rỉa cục cám cho đến khi no…

Bằng những biện pháp “huấn luyện” khoa học, sáng tạo và cách chăm sóc cá chu đáo, chỉ trong vòng 6 tháng cá chình tăm đã lớn đến cỡ 50 – 100 con/kg bán làm giống với giá 18.000 đồng/con. Cách làm này cho anh thu lãi hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Nguồn: Nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Hoàn thiện công nghệ ươm và nuôi thương phẩm cá chình hoa theo hướng công nghiệp

Nhóm nghiên cứu tại Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III do ThS. Hoàng Văn Duật dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện công nghệ ươm giống và nuôi thương phẩm cá chình hoa (Anguilla marmorata) theo hình thức công nghiệp”.

Cá chình có giá trị dinh dưỡng cao được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, nghề nuôi cá chình ngày càng gặp nhiều khó khăn vì nguồn cá chình giống tự nhiên ngày một cạn kiệt. Do đặc điểm sinh sản đặc biệt của cá chình nên hiện chưa có nơi nào trên thế giới sản xuất thành công giống cá chình nhân tạo đáp ứng nhu cầu nuôi thương mại. Hầu hết nguồn giống hiện tại đều dựa vào đánh bắt tự nhiên với số lượng hạn chế nên sản lượng cá chình nuôi trên thế giới ngày càng giảm sút.

Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế để trở thành một trong những nước có sản lượng cá chình hàng đầu thế giới, nhờ có điều kiện khí hậu và nguồn nước rất thuận lợi, có nguồn giống ở các tỉnh miền Trung với sản lượng trên 10 triệu con/năm. Nếu sử dụng nguồn lợi này để nuôi thương phẩm thì sản lượng có thể đạt tới 8.000 – 10.000 tấn/năm. Tuy nhiên, công nghệ nuôi cá chình còn lạc hậu, sử dụng thức ăn là cá tạp, môi trường và dịch bệnh đều khó kiểm soát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ nên năng suất và hiệu quả thấp.

Vì vậy, nhóm nghiên cứu tại Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III do ThS. Hoàng Văn Duật dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện công nghệ ươm giống và nuôi thương phẩm cá chình hoa (Anguilla marmorata) theo hình thức công nghiệp” nhằm mục tiêu hoàn thiện quy trình công nghệ ươm giống và nuôi thương phẩm cá chình theo hình thức công nghiệp đạt năng suất cao, sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Đề tài đã thu được một số kết quả nhất định trong việc giải quyết kỹ thuật ươm cá chình bột trắng lên thành cá giống, chủ động tạo ra một số lượng cá giống cung cấp cho thị trường, mở đầu cho giai đoạn phát triển mới của nghề nuôi cá chình.

Mô hình ươm giống với quy mô gia đình sẽ được áp dụng tại các trang trại ươm giống ở các tỉnh có nguồn cá chình bột trắng phong phú là Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và các tỉnh có nhu cầu lớn tiêu thụ cá giống là Bạc Liêu, Sóc Trăng.

Mô hình nuôi quy mô công nghiệp hiện đại trong nhà xưởng với hệ thống lọc sinh học tuần hoàn đòi hỏi phải đầu tư lớn, yêu cầu trình độ kỹ thuật vận hành cao sẽ được chuyển giao cho một số công ty nuôi thủy sản áp dụng.

Kết quả của dự án mở ra khả năng cung cấp số lượng lớn cá giống chất lượng cao cho nuôi thương phẩm, giúp nghề nuôi cá chình tận dụng tối đa nguồn lợi giống khai thác từ tự nhiên.

Công nghệ mới với hệ thống nuôi tuần hoàn, năng suất cao, bổ sung oxy nguyên chất, sử dụng thức ăn công nghiệp, kiểm soát môi trường và dịch bệnh, sẽ làm tăng lòng tin của các nhà đầu tư, mở ra hướng mới góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá chình theo hướng công nghiệp, hiện đại.

Nguồn: Khoahocphothong được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Đặc điểm sinh học của cá chình

Cá Chình là loài cá có thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên để nuôi tốt đòi hỏi chúng ta không chỉ có kinh nghiệm phong phú và phải có một phương pháp nuôi khoa học, tạo mọi điều kiện cho cá phát triển là ưu tiên hàng đầu, mau lớn. Đồng thời, phải nắm rõ các đặc điểm sinh học để có chế độ nuôi và chăm sóc phù hợp. Dưới đây là một số đặc điểm sinh học nổi trội của cá chình.

Cá chình

Môi trường

Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt.

Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.

Da và ruột cá có khả năng hô hấp, dưới 15o chỉ cần giữ cho da cá ẩm ướt là có thể sống được khá lâu. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.

Cá chình là loài cá có phạm vi thích nhiệt rộng. Nhiệt độ từ 1 – 38oC cá đều có thể sống được, nhưng trên 12oC cá mới bắt đầu mồi. Nhiệt độ sinh trưởng là 13 – 30oC thích hợp nhất là 25 – 27oC.

Hàm lượng ôxy hoà tan trong nước yêu cầu phải trên 2 mg/1, 5 mg/l là thích hợp cho sinh trưởng, vượt quá 12 mg/l dễ sinh ra bệnh bọt khí.

Tập tính ăn và sinh trưởng

Cá chình là loại cá ăn tạp, trong tự nhiên thức ăn của cá là tôm, cá con, động vật đáy nhỏ và côn trùng thuỷ sinh.

Khi còn nhỏ thức ăn chính của cá là động vật phù du nhóm Cladocera và giun ít tơ.

Sau 2 năm nuôi, cá đạt kích cỡ 50 – 200g. Nếu thức ăn tốt sau 1 năm nuôi kể từ lúc vớt ngoài tự nhiên có thể đạt cỡ 4 – 6 con/kg.

Cá chình trưởng thành

Cá sinh trưởng chậm, nhất là cỡ từ 300g trở nên tốc độ sinh trưởng chỉ bằng 1/10 tốc độ sinh trưởng của giai đoạn cá có trọng lượng 70 – 100g.

Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn tương đương nhau, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40cm con đực lớn chậm hơn con cái.

Tập tính sinh sản

Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng.

Cá con mới lớn có hình lá liễu, sau 1 năm mới trôi dạt vào cửa sông. Trải qua nhiều biến thái hình thành cá chình hương màu trắng, cá ngược dòng sắc tố đen tăng dần thành màu đen.

Cá chình con

Việc sinh sản nhân tạo cá chình đến nay chưa có nước nào nghiên cứu thành công. Tất cả cá giống đều dựa vào việc khai thác từ tự nhiên ngoài cửa sông hoặc ven biển. Ở nước ta cá chình phân bố nhiều từ Quảng Bình vào đến Bình Ðịnh, đặc biệt là vùng hồ Châu Trúc ở Bình Ðịnh có cá chình phân bố, hằng năm cung cấp một lượng cá giống quý cho nhân dân trong vùng để nuôi.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Vì sao cá chình được nhiều người miền Tây thích nuôi?

Phong trào nuôi cá chình trong lồng bè hay ao đất ở miền Tây đang phát triển mạnh bởi loài này đầu ra ổn định, giá bán cao, đem về thu nhập khá.
Vùng đầu nguồn, đặc biệt ở huyện An Phú, thị xã Tân Châu là nơi nuôi cá chình trong lồng bè lớn nhất tỉnh An Giang. Cá chình có thịt ngon, ngọt nên được thị trường rất ưa chuộng.

Ông Lý Văn Phú, ở ấp Tân Thạnh, thị trấn Long Bình, huyện An Phú nuôi 5 bè cá chình gần 10.000 con cho hay, sau 24 tháng nuôi, cá có khả năng đạt cân nặng từ 2 đến 4 kg/con và thu hoạch được. Càng nuôi lâu, cân nặng cá càng lớn, giá trị càng cao. Cá giống càng lớn, thời gian nuôi càng rút ngắn. Mức tăng trọng bình quân đối với loại cá này, ông Phú cho biết, khoảng 1 – 1,5 kg/con nếu người nuôi cho ăn đầy đủ. Theo lời ông, cá chình có giá trị kinh tế cao, được thị trường chuộng mà người nuôi ít bị rủi ro hơn so với nuôi các loại khác như các basa, cá tra. Trung bình một năm, ông Phú bắt bán một đợt từ 15 đến 20 tấn. Trừ chi phí, ông lãi trên dưới 400 triệu đồng.


Thu hoạch cá chình ở An Giang. 

Ở ấp Phú Quý, xã Phú Lộc, thị xã Tân Châu, anh Lê Quang Thống là một trong những người nuôi nhiều cá chình, với 6 lồng, mỗi lồng 800 – 1.000 con. Mỗi năm, anh xuất bán 2 lần. Cá được nuôi theo kiểu luân canh, bán hết lứa này người nuôi lại đi tìm mua con giống khác về thả. Chi phí đầu tư thức ăn cũng không quá cao vì cá chủ yếu ăn mồi xay nhuyễn trộn cám vào 2 lần sáng và chiều.

Hiện nay, các nhà hàng nổi tiếng ở Long Xuyên, TP. Cần Thơ và TP.HCM đang săn tìm mua cá chình với số lượng lớn để chế biến thành nhiều món ăn đặc sản. Không chỉ bán trong nước, anh Thống còn mở thêm công ty thu mua cá bống tượng, bông lau và cá chình. Sau đó, anh đemlên thành phố, liên kết với một công ty chế biến thủy sản tại TP.HCM xuất bán qua thị trường Nhật, Trung Quốc…

Cá chình loại sống khỏe và có thể nuôi ghép với nhiều loại khác cùng trong bè để tăng nguồn lợi nhuận. Ông Phan Văn Tâm, ở xã Phú Hội, huyện An Phú cho biết, ông có 2 bè cá chình nuôi ghép với chạch lấu, cá heo. Những loại cá này có cùng “khẩu vị” nên người nuôi sẽ tiết kiệm được tiền thức ăn khi thả chung cả 3 vào một lồng. Việc thả chung như vậy cũng giúp cá phát triển tốt, ít bệnh. Từ việc nuôi chung 3 loại cá một lồng, mỗi năm, ông thu về trên 600 triệu đồng lợi nhuận.

Tại vùng bán đảo Cà Mau, mô hình nuôi cá chình trong ao đất cũng đem lại kết quả khả quan. Ông Huỳnh Văn Tuấn (ngụ ấp Chủ Chọt, xã Ninh Thạnh Lợi A) cho biết, loại cá này dễ nuôi, ít bệnh, chi phí thấp và không đòi hỏi nhiều công chăm sóc. Người nuôi có thể tận dụng cá, ốc… trong tự nhiên để làm thức ăn cho cá chình.

Chị Lê Thị Oanh, thương lái mua cá chình ở tại chợ Châu Đốc cho biết, cá càng to thì giá càng cao. Loại trên 2 kg/con có thể từ 380.000 đến 450.000 đồng/kg, nhỏ hơn cũng khoảng 320.000 đồng/kg. Hiện tại, các thương lái cũng phải cạnh tranh nhau, đặt tiền trước cho chủ nuôi để mua được hàng.

Thành “tỷ phú” nhờ nuôi cá chình, ông Nguyễn Hữu Ánh (Tân Thành, TP.Cà Mau) vẫn khiêm nhường và tiếp tục giúp đỡ những người khác cùng nuôi loài cá này để vươn lên làm giàu.


Cá chình nuôi càng lâu năm cá càng có giá trị cao.

Giá trị thương phẩm cao, đem lại hiệu quả nhưng chi phí đầu tư loại cá này tương đối lớn, đòi hỏi người nuôi phải có vốn mạnh. Con giống cá chình cũng là vấn đề khó khăn khi hiện tại, người nuôi chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên. Tại huyện Hồng Dân (Bạc Liêu), bà con nông dân cho biết đang nuôi 2 loại phổ biến là cá chình bông và chình mun, nhưng khó khăn nhất là mua con giống. Giá giống ngoài việc rất cao còn mang tính hên xui, khi người nuôi mua trên thị trường trôi nổi. Nguồn cung giống hiện tại chủ yếu là các đại lý ở miền Trung đem vào bán với giá 500.000 đồng/kg loại 20 con/kg.

Theo các hộ nuôi cá chình ở huyện Hồng Dân, vừa qua có một công ty của Hàn Quốc đã xuống địa phương để tham quan mô hình. Theo đánh giá của phía Hàn Quốc, vùng đất Hồng Dân rất phù hợp để con cá chình phát triển. Dự tính thời gian tới, phía đối tác sẽ cho xây dựng một nhà máy chế biến thịt cá chình thương phẩm tại địa phương. Ngoài ra, đối tác sẽ cung cấp nguồn cá giống, tập huấn kỹ thuật, chuyển giao quy trình nuôi cá chình theo hướng công nghiệp và bao tiêu sản phẩm cho nông dân.

Nguồn : Zing.vn, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

kỹ thuật nuôi cá chình bông trong bể xi măng

Cá chình là loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao và dễ nuôi. Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng có tài nguyên ao hồ để nuôi, vì vậy nhiều hộ nuôi đã tự tạo cơ hội cho mình bằng cách nuôi cá chình bông trong bể xi măng.

1. Lựa chọn địa điểm nuôi

Nơi có nguồn nước sạch, cung cấp nước thường xuyên, vị trí xây nơi yên tĩnh, chủ động việc cấp và thoát nước, thuận tiện giao thông. Tốt nhất là nơi có nguồn nước chảy tự nhiên như sông, suối. Đảm bảo đạt nhiệt độ của nước 25 – 27oC, hàm lượng oxy hòa tan 5mg/l, độ pH 7,5 – 8,5.

2. Thiết kế bể nuôi

Bể có diện tích tốt nhất từ 100m2 trở lên, hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tròn được xây bằng gạch, bên trong láng nhẵn.

Độ sâu của bể 1,5 m, trên thành bể xây gờ ngang 10 cm để cho cá khỏi đi. Có hệ thống cống cấp thoát nước riêng biệt. Ống cấp nước cách mặt bể 50 cm, tốt nhất nên thiết kế bể nuôi có nước chảy ra vào thường xuyên, trang bị máy bơm nước tự động tắt mở khi nước đầy. Nên lắp thêm giàn phun mưa để tạo thêm oxy mỗi buổi sáng.

Để tránh tạp chất gây ô nhiễm, cho nước qua một bể lọc (có cát, than, sỏi…) chiếm 20 – 30% diện tích bể.

Vì cùng tập tính sống đáy và tính trú ẩn nên khi nuôi chung cá chình và bống tượng ta tạo nơi trú ẩn bằng ống nhựa hoặc tre, miếng đanh hoặc đổ một lớp cát dày 20 cm để cá vùi mình và thả bèo chiếm ¼ diện tích bể. Trên bể có mái che, lưới để giảm ánh nắng rọi vào nhiều.

Đối với bể mới xây, ngâm phèn chua 100 g/m2, ngâm 2 lần, 2 ngày/lần, sau đó chà bằng bẹ chuối, phơi nắng 30 ngày, cấp và xả nước 3 – 4 lần.

3. Chọn giống và thả cá

Nên có một bể nhỏ khoảng 50 m2 để lựa chọn giống, phân cỡ, phòng trị bệnh. Cá giống được gom về và lưu giữ trong bể này thời gian 5 – 7 ngày để kiểm tra và chọn lọc trước khi thả nuôi.

Chọn giống kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, linh hoạt, không xây xát, thương tổn. Với cá bống tượng, chọn giống dưới đuôi có hình chữ V màu đen, lật ngửa thấy vảy bụng và lưng phải đều, các tia vi còn nguyên, cá nhiều nhớt, màu lưng của cá hơi xám, da bóng, mang phùng ra thật to và các tia vi xòe ra hết cỡ.

Mật độ nuôi từ 4-6 con/m2, kích cỡ 100 gam/con.

Trước khi thả cá, nên tiến hành sát trùng cho cá bằng dung dịch muối có nồng độ 2% trong thời gian 5-10 phút, thuốc tím 10 – 20g/m3 15-30 phút để loại trừ kí sinh và sát trùng vết thương do xây xát trong quá trình đánh bắt và vận chuyển.

Trước khi thả giống phải ngâm bao nilon chứa cá xuống ao từ 20 – 30 phút để nước nuôi và nước trong túi chứa cá tương đương nhau, từ từ cho nước trong bể vào túi, sau đó thả cá. Vị trí thả nơi đầu nguồn nước vào.

4. Cho ăn

Thức ăn nuôi cá chình và bống tượng là cá tạp, cá biển, trùn, ốc, nhái cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nếu thức ăn là cá tạp, trước khi cho ăn nên sát trùng bằng muối ăn 0,5 kg muối/3lít nước trong thời gian 30 phút. Để tăng cường sức khỏe cho ăn cá băm nhỏ hợp cỡ mồi theo kích cỡ cá nuôi hoặc thức ăn tự chế biến hấp, để nguội, phối hợp trộn 1% vitamin C, kháng sinh, 3 – 5% dầu gan cá. Tập cho cá quen với thức ăn tĩnh, trong 2-3 ngày đầu để cho cá đói: dùng cá tạp tươi rửa sạch, bỏ hết nội tạng, cắt nhỏ 2-3 cm cho cá ăn. Năm ngày đầu trộn với 3g men tiêu hoá/1kg thức ăn + vitamin C + dầu mực để kích thích cá bắt mồi.

Cho cá ăn ngày 2 lần vào lúc sáng sớm (6-7h) và chiều mát (18-19h), lượng thức ăn mỗi ngày bằng 3-5% tổng trọng lượng đàn cá. Sau khi cho cá ăn khoảng 6 đến 10 giờ, kiểm tra lại sàng ăn để xem khả năng cá ăn mồi, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp ở lần kế tiếp.

Dụng cụ cho cá ăn là sàng tre đan thưa (kích thước 0,8m x 1m), nhẵn hoặc bằng sàng lưới cước được đặt cách mặt nước 20 -40cm. Cho hoàn toàn thức ăn vào sàng ăn, mật độ sàn 70-100 m2/sàng.

Để tận dụng và giảm chi phí thức ăn, có thể nuôi ghép rô phi, mật độ là 0,5-1 con/m2 để cá rô phi sinh sản làm thức ăn.

5. Chăm sóc quản lý

Khi nuôi cần chú ý đến khả năng cung cấp nguồn nước, chất lượng nước và các yếu tố môi trường khác như hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ nước, pH… để có biện pháp kỹ thuật xử lý thích hợp. Vệ sinh bể khoảng định kỳ 5 – 7 ngày phải cọ sạch bể.

Hàng ngày có một vài lần bơm phun mưa tạo oxy, nhất là vào buổi sáng sớm. Mỗi ngày gom chất thải, thức ăn thừa lắng ở đáy lại và xả ra ngoài. Giặt nhá, sàn cho ăn sau khi kiểm tra.

Mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 ngày, để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, dùng vợt không dùng tay bắt cá. Nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn.

Việc phòng bệnh cho cá rất quan trọng, định kỳ 10-15 ngày dùng vôi bột với liều lượng 10-20 g/m3 hoà nước tạt để ngừa bệnh cho cá. Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm. Cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng. Thường xuyên bổ sung vitamine C để tăng sức đề kháng cho cá và định kỳ trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 4-5g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột cho cá. Theo dõi các hoạt động của cá, kịp thời phát hiện cá bị bệnh cách ly để điều trị.

6. Thu hoạch

Trước khi thu cho cá nhịn ăn một ngày. Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt. Thu cuối vụ thì tát cạn. Cá chình đạt kích cỡ từ 1 kg/con sau một năm nuôi. Cá lớn thu trước cá nhỏ dưới kích cỡ để lại nuôi tiếp. Cá thu được nhốt trong bể nước sạch có sục khí, hoặc giai để cho cá khỏe, chịu đựng được mật độ cao thuận tiện cho việc vận chuyển sống đến thị trường tiêu thụ.

Nguồn: nongnghiep được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Phòng và trị bệnh cho cá chình

Phòng bệnh

Trước khi thả cá, ta cải tạo và xử lý nước thật kỹ bằng vôi công nghiệp và Vimekon. Cá giống trước khi thả nên tắm bằng muối (4 – 5kg/100 lít nước để diệt khuẩn, nấm, ký sinh trùng…)

Phải chọn giống nơi uy tín, chất lượng, cá cần phải đáp ứng một số chỉ tiêu như: nhanh nhẹn, đồng cỡ, nhớt nhiều, không bị xây xát, dị tật, không bị mắc câu… tốt nhất nên chọn cá ương từ cá lá liễu lên cá giống 10 con/kg. đây là vấn đề quan trọng nhất để giảm thiểu rủi ro.

Chọn nguồn cá chình giống uy tín, sạch bệnh

Sau khi đã thả giống phải thường xuyên định kỳ xử lý nước 1 tháng/lần cho ao như: Virkon: 0,5kg/1000m3 nước hoặc thuốc tím 1,5kg/1000m3. Sau đó dùng Zeolite từ 5-10kg/1000m2 kết hợp cấy men vi sinh để ổn định môi trường.

Sử dụng thức ăn tươi sống tránh hôi thối, kém chất lượng kết hợp với VitaminC để tăng cường sức đề kháng cho cá hoặc trộn Oxytetrcyline để cá tăng cường hấp thu qua đường tiêu hóa.

Thường xuyên theo dõi cá để phát hiện bệnh

Trị bệnh

Bệnh do vi khuẩn

Bệnh thối mang:

Nguyên nhân: Do vi khuẩn dạng sợi Myxococus piscicolas gam âm gây ra, do ao, lồng, bè không được vệ sinh tốt, quá nhiều mùn bã hữu cơ.

Triệu chứng: Vi khuẩn xâm nhập vào phá hoại mang cá làm cho mang bị viêm loét và nắp mang bị sưng đỏ, cung mang, sợi mang có mủ, nhiều nhớt, mang bị mòn dần, xuất huyết, hoại tử. Thông thường thối mang thường kết hợp với nhiễm trùng máu và xuất huyết.

Bệnh thối vây:

Do vi khuẩn Flexibacter columnaris gây ra. Bệnh này thường xảy ra khi nhiệt độ thấp trên dưới 15 độ C, cá bị stress hoặc thiếu dinh dưỡng.

Trên cá xuất hiện những đốm trắng nhất là phần đầu và vây. Vây bị đỏ, tia màng bị hoại tử hoặc tưa rách, cá giảm ăn. Bên cạnh đó cá bị nhiễm độc tố do vi khuẩn gây ra, sau đó vi khuẩn gây tổn thương vào hệ thống tuần hoàn. Cá bị bệnh này có thể chết hàng loạt trong vòng 48 giờ.

Bệnh xuất huyết:

Do vi khuẩn Psedomonas, Aeromonas spp. gây ra. Bệnh này xuất hiện quanh năm do thức ăn không được quản lý tốt. Khi bị bệnh, cá xuất hiện những nốt đỏ trên thân, quan sát rõ nhất là ở hậu môn và 2 tia vây dưới bụng.

Đối với các bệnh do vi khuẩn (thối vây, thối mang, xuất huyết) ta dùng 1 trong các hoá chất sau: Doxery (1kg/5-6 tấn cá) kết hợp với Vime-N333 (1kg/10 tấn cá) hoặc Vimefloro FDP(1lít/15tấn cá) kết hợp vớiVimenro (1kg/10 tấn cá). Ngoài ra ta có thể dùng Vime-Glucan (1kg/6 – 10 tấn cá), Glusome 115 (1kg/500 kg thức ăn) trọn với thức ăn cho cá ăn để tăng cường hệ thống miễn dịch và sức đề kháng tự nhiên cho cá.

Bệnh do ký sinh trùng:

Bệnh nội ký sinh do giun ký sinh trong ruột lấy hết dinh dưỡng của cá. Bệnh làm cá ốm đầu to, màu sắc sậm, chậm lớn. Nếu xảy ra ở cá con sẽ làm cho chức năng của bóng hơi bị phá hủy, không khí từ bóng hơi vào xoang cơ thể, cá mất khả năng giữ thăng bằng, nếu nhiễm ở nhiệt độ thấp cá sẽ chết.

Để trị bệnh ta tiến hành xổ lãi cho cá liên tục từ 2 – 3 ngày bằng 1 trong các sản phẩm sau: Vime-Clean:1-1,5kg/200kg thức ăn; Kill-Site:1kg/20-30 tấn cá; Parasitol:1kg/9-10 tấn cá.

Bệnh ngoại ký sinh xuất hiện nhiều nhất vào lúc giao mùa hoặc trời mưa nhiều, nhiệt độ thấp. Do nấm thuỷ mi, trùng bánh xe, rận cá và sán lá…ký sinh trên da. Bệnh làm cho da cá bị loét, viêm, nhiễm dẫn đến cá bị tuột nhớt rồi chết.

Đối với bệnh này ta có thể dùng: Fresh water: 1kg/1.500m3; Kill-Algae: 1lít/1.000m3

Biện pháp phòng và trị bệnh tổng hợp các bệnh trên như sau: Chọn giống đồng cỡ, khỏe, tốt, không nhiễm bệnh. Nên mua giống ở những cơ sở có uy tín. Cá bệnh chết được chôn vào hố cách ly, rắc vôi.

Tránh bắt cá làm xây xát, không để cá bị bệnh ngoài da tạo điều kiện cho vi khuẩn cơ hội tấn công gây bệnh phát triển. Không để cá bị sốc sẽ dễ mẫn cảm với bệnh, định kỳ 10 – 15 ngày/lần sử dụng một trong các hóa chất sau để xử lý nước: Vime-Protex: 1lít/2,000m3 nước; BKC 80%: 1kg/2.000m3 nước; Vimekon: 1kg/2.000m3 nước.

Sử dụng lúc trời mát: Sáng 7 – 8 giờ hoặc chiều 4 – 5 giờ. Sau đó có thể dùng Vime-Yucca 1kg/2.000m3 nước hoặc Zeolite hạt 20 – 30kg/1.000m2 tạt đều ao để hấp thu khí độc và làm sạch đáy ao.

Vào những lúc thời tiết lạnh, nhiệt độ thấp nên tăng cường tạt vôi nông nghiệp CaCO3 với liều lượng 20 – 30kg/1.000m3. Trong quá trình nuôi cần bổ sung đầy đủ dinh dưỡng nhất là Vitamin, Premix, để cá có sức đề kháng cao như: De-Amin, Vime-Glucan, Vitamin C Antistress, Elecamin…

 

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

 

Kỹ thuật ương giống cá chình

Ở Việt Nam nghề nuôi cá Chình đang ở bước khởi đầu, việc nghiên cứu thử nghiệm đang được các Viện, Trường thực hiện. Người dân ở các tỉnh chủ yếu nuôi theo hình thức quang canh tận dụng nguồn giống và thức ăn sẵn có tại địa phương để nuôi.

Cá chình

Một trong những vấn đề khó khăn nhất của việc phát triển nghề nuôi cá Chình ở nước ta là nguồn giống. Do nguồn giống cá Chình hiện nay, hoàn toàn phụ thuộc vào khai   thác tự nhiên. Hình thức khai thác giống của ngư dân ở nước ta mang tính thủ công, lạc hậu và nhiều hình thức mang tính hủy diệt như: Dùng hóa chất, thuốc nổ, xung  điện…nên nguồn lợi giống cá Chình ngày càng giảm sút, chất lượng con giống không đảm bảo.

Dưới đây là một số kinh nghiệm kỹ thuật ương giống nhằm giúp ích cho bà con:

Địa điểm

– Chọn vị trí cao không bị lũ lụt, thoáng mát, có đầy đủ ánh sáng mặt trời.

– Nơi có nguồn điện cung cấp ổn định, đường giao thông thuận lợi, an ninh trật tự tốt.

– Không nên xây dựng ao ở những vùng đất bị nhiễm phèn. Vùng bị ngập úng kéo dài.

– Phải bảo đảm nguồn nước dùng để ương cá Chình giống bao gồm nguồn nước sông, suối, nước ngầm phải đảm bảo chất lượng không bị ô nhiễm hóa chất độc hại hoặc do chất thải của các nhà máy…

Lựa chọn loài nuôi

Hiện nay, ở nước ta có 2 loài đang được ương:

  • Cá Chình Bông (Anguilla marmorata)

Cá Chình Bông (Anguilla marmorata)

  • Cá Chình Nhật Bản (Anguilla japonica).

Cá Chình Nhật Bản (Anguilla japonica)

Cách thức khai thác và lựa chọn giống

Có ba phương pháp khai thác cá chình ngoài tự nhiên:

– Dùng đèn tập trung cá theo tập tính huớng quang của nó vào ban đêm rồi dùng vợt để vớt.

– Ðặt lưới đăng cố định ở cửa sông nơi có cá con phân bố để đánh bắt

– Dùng 2 thuyền lưới vây để vây cá ở cửa sông ven biển rồi phân loại giữ lại cá chình.

– Cỡ giống: 5000-7000 con/kg

– Giống ương phải đồng đều kích cỡ, bơi lội hoạt bát, bơi ngược dòng nước chảy, cơ thể không bị xây sát, nhiễm bệnh.

Chuẩn bị bể ương

Trước khi thả cá 15-20 ngày cần chuẩn bị bể ương:

– Bơm nước sạch vào hệ thống bể ương dùng Chlorin nồng độ 30-50ppm ngâm trong 5-7 ngày để khử trùng. Sau đó tháo cạn, vệ sinh thật sạch, để bể khô.

Chuẩn bị bể nuôi cá chình

– Trước khi thả giống 2-3 ngày cho nước vào. Nguồn nước cấp phải được lắng lọc cẩn thận, các yếu tố môi trường phù hợp.

– Mức nước lấy vào bể ương ban đầu cao 30-40cm sau đó tăng dần độ cao mực nước trong bể lên 70-80cm.

Khử trùng cá giống

Dùng 1 trong 3 loại hoá chất để tiêu độc cho cá :
– KMnO4 : 1 – 3 ppm;
– CuSO4 : 0,3 – 0,5ppm;
– Formalin : 1 – 3 ppm.

Thả cá

Cá giống khi vận chuyển đến nơi ương trước lúc thả cần tuân thủ các bước:

– Cần cân bằng nhiệt độ và các yếu tố môi trường trước lúc thả bằng cách ngâm các túi đựng cá từ 30-60 phút sau đó cho nước vào từ từ rồi thả cá ra.

– Các thao tác phải nhẹ, nhanh không làm cá bị xây sát, mất nhớt.

– Sau khi thả cá khoảng 30 phút cần kiểm tra cá và dùng vợt vớt những con cá yếu, bị xây sát ra khỏi bể.

Mật độ thả cá

1500 -2500 con/m³ (0,3 – 0,5kg cá/m³)

Mật độ nuôi cá chình bông

Chăm sóc và quản lý bể ương

  • Cho cá ăn

– Sau khi thả giống 1-2 ngày bắt đầu cho cá ăn, thức ăn được để trong sàn cho ăn mỗi bể nên có từ 1-2 sàn ăn riêng biệt.

Trong tuần đầu thức ăn bao gồm: Trùng chỉ, trứng cá tươi. Lượng thức ăn 15-30% trọng lượng thân, thời gian cho ăn sáng 6-7 giờ, chiều 16-17 giờ, tối 22-23 giờ.

Tuần thứ hai: Cho ăn trùn chỉ có bổ sung thêm thức ăn công nghiệp hoặc chế
biến.

– Cách chế biến thức ăn cho cá: Trùng chỉ xay nhuyễn cho vào thau sau đó cho thức ăn tổng hợp vào và cho nước sạch vào từ từ trộn đều, khi thấy thức ăn đã có độ kết dính kiểm tra không dính tay là được. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm các chất như dầu gan cá, dầu thực vật (3-5%), Vitamin (0,5-1%) để tăng hàm lượng Protein trong thức ăn và tăng sức đề kháng cho cá.

– Trước khi cho ăn nên tắt hết thống nước, sục khí nhằm tránh thức ăn bị trôi. Tùy theo lượng cá, tình trạng sức khỏe và các yếu tố môi trường đặc biệt là nhiệt độ để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp. Sau khi cho cá ăn xong phải vệ sinh sàn ăn sạch sẽ, mở hệ thống nước và sục khí.

  • Quản lý chất lượng nước

– Hàng ngày, phải kiểm tra các yếu tố môi trường như: pH, nhiệt độ, độ trong… để có sự điều chỉnh kịp thời.

– Sau khi cho cá ăn phải thay nước kết hợp xi phong nhằm loại bỏ lượng thức ăn dư thừa và chất thải của cá..
Ngoài ra, phải thường xuyên kiểm tra thiết bị điện và máy sục khí. Đảm bảo cung cấp thường xuyên, đầy đủ trong suốt quá trình ương.

  • Phòng bệnh cho cá

– Quản lí tốt chất lượng nước trong quá trình nuôi.

–  Thường xuyên vệ sinh bể ương đúng quy trình kỹ thuật.

–  Thức ăn cung cấp phải đảm bảo chất lượng và số lượng.

– Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khỏe của cá để có biện pháp xử lý kịp thời.

Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm trong ao đất

Cá chình bông là loài cá có giá trị kinh tế cao, lại dễ nuôi và ít rủi ro hơn so với cá tra, cá ba sa.. nên được nhiều người nuôi ưa chuộng.

Cá chình bông – Anguilla marmorata

Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn nên có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác. Da và ruột cá có khả năng hô hấp nên ở nhiệt độ <15ºC, cá có thể sống được khá lâu khi da cá ẩm ướt. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.

Cá chình là loài cá rộng nhiệt (từ 1 – 38ºC), nhưng trên 12 độ C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ phù hợp cho sinh trưởng là 13 – 30ºC, thích hợp nhất là 25 – 27ºC.

1. Ao nuôi

Diện tích trung bình 800 – 1.200 m2, mức nước trung bình 1,0 – 1,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nước cao nhất trong ao ít nhất là 60cm. Ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Ðáy ao là cát hoặc cát bùn.

2. Mật độ thả

Chỉ thả giống sau khi tẩy dọn ao kỹ. Thời điểm thả từ trung tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 4, khi nhiệt độ nước > 13ºC. Mật độ thả tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi, phương thức nuôi và kích thước cá giống.

Chọn giống cá chình từ công ty uy tín

Nếu muốn đạt năng suất 15 tấn/ha, thả 12-15 con/m² (cỡ 20g/con) hoặc 9-12 con/m²(cỡ 50g/con). Nếu muốn đạt năng suất 100 tấn/ha, thả 300-350 con/m².

3. Quản lý ao nuôi

3.1. Thức ăn và cho ăn

Có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi và thức ăn công nghiệp. Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định thời gian, định địa điểm.

+ Định chất: Thức ăn có độ đạm . Nếu dùng thức ăn tươi, cần phải tươi, rửa sạch, sát trùng kỹ sau đó cắt nhỏ mới đem cho ăn.

Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 – 75%, tinh bột 25 – 30% và một ít vi lượng, vitamin.

Thức ăn tươi sống là cá, trai, hến. Trước khi cho ăn, cần trần cho thịt cá gần chín sau đó dùng dây thép xâu xuyên lại treo trong ao. Cũng có thể bỏ cá vào trong lồng lưới sắt. Nếu cho ăn trai hến thì nên thái thành miếng nhỏ cho ăn.

Thức ăn tổng hợp nên lấy thức ăn động vật làm chính, thí dụ như bột cá, nhộng tằm. Cá Chình không ăn thức ăn chìm xuống dưới đáy bị ô nhiễm, do đó thức ăn tổng hợp không chìm, không bị rữa mới tốt. Nguyên liệu phụ có thể là khô dầu, các chất khoáng, vitamine, bột máu, men v.v… Để cho thức ăn tổng hợp lâu tan trong nước có thể dùng bột củ đậu, khoai lang đánh nhuyễn trộn với thức ăn đã nghiền sẵn.

Bổ sung dưỡng chất:

Thời gian tiêu hóa hết thức ăn của cá chình là 6 giờ. Thông thường người ta phải trộn thêm vào thức ăn cá chình một ít men bia, men tiêu hóa đường, elisa của khuẩn đơn bào và vi khuẩn sống trong ruột v.v…

• Men bia: là hỗn hợp các nấm men và bã bia sau khi đã sấy khô. Men bia chứa 40–50% protein thô, 1 lượng lớn vitamine nhóm B và kích tố sinh trưởng chưa biết tên. Có thể phối hợp với tỷ lệ 2 – 3%.

• Men đường mật: Chứa nhiều sinh tố nhóm B, thu được bằng cách phun trong chân không ở nhiệt độ thấp. Có mùi rất thơm, làm tăng tính ăn của cá Chình.

• Elisa của khuẩn đơn bào: thu được trong quá trình lên men đường củ cải, có vị thơm ngọt của men, cho cảm giác ngon, có nhiều các protein, chất khoáng, vitamine và nhiều chất kich thích sinh trưởng chưa biết tên. Chất này dễ tiêu hóa, cá Chình thích ăn. Hàm lượng protein thô trên 65%, chất béo thô trên 4,5%. Tỷ lệ pha trộn vào thức ăn khoảng 1 – 2%.

• Hỗn hợp các vi khuẩn sống bao gồm các chủng Lactobacillus.sp, Pediococcus acidilatici cùng với các chất nuôi cấy. Mỗi gam hỗn hợp này có khoảng trên 120.000 vi khuẩn sống. Nó có tác dụng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng ở phần ruột non và gia tăng nhu động phần ruột già rút ngắn thời gian tiêu hóa thức ăn. Trong ruột cá những vi sinh vật này sẽ cạnh tranh với các vi sinh vật có hại về mặt không gian và chất dinh dưỡng làm cho chúng không phát triển được thậm chí bị tiêu diệt. Đặc biệt là loài Pediococcus acidilatici có tính kháng cự khá mạnh, sức ức chế vi sinh tạp có thể mạnh gấp 10 lần vi khuẩn Lactobacillus.

• Các chất bổ gan, mật:

Để tăng cường chức năng tiêu hóa, khả năng chịu đựng điều kiện chất lượng nước kém do nuôi với mật độ cao hoặc lạm dụng sử dụng hóa chất cần thiết phải bổ sung vào thức ăn một lượng thuốc bắc, axit mật (bile acid) và những chất bổ gan mật khác.

+ Sài hồ (Bupleurum chinense) có tính đắng, hơi hàn, có chứa nhiều steroidal saponins, các loại axit béo thăng hoa, có tác dụng kháng virus, diệt ký sinh trùng và giữ cho gan khỏi bị tổn thương.

+ Bản lam căn (Radix Isatidis ) tên tiếng Anh là Indigowoad Root có vị đắng, tính hàn. Thành phần chủ yếu gồm có Indican có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Mỗi kg thức ăn bổ sung độ 10 – 15g thuốc này.

+ Axit mật (Bile acid): có thể xúc tiến hấp thụ mỡ, vitamine, cholesterol. Giải các chất độc trong thức ăn có nhiều mỡ để lâu ngày. Mỗi tấn thức ăn bổ sung khoảng 100g.

+ Định địa điểm: phải cố định vị trí đặt sàng cho ăn. Sàng cho ăn là khung hình vuông kích cỡ 90 x 50 cm căng lưới nilon, mắt lưới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió.

+ Định lượng: Thức ăn tươi mỗi ngày cho ăn 20 – 30% tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong ao. Khi nhiệt độ thấp hoặc quá nóng vào mùa hè (trên 30oC) nên giảm bớt khẩu phần. Yêu cầu thức ăn thả xuống sau 20 phút phải ăn hết.

+ Định thời gian: cho ăn 1 lần vào lúc 9 giờ sáng.

5 phút sau khi trộn đều thức ăn với dầu, nước, cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được.

Sàn cho ăn nên đặt ở vị trí giữa hoặc gần đáy, nhưng cũng có thể để sát tầng mặt để tiện quan sát hoạt động bắt mồi của cá. Bên trên sàn cho ăn nên che ánh nắng mặt trời. Cho ăn vào lúc 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.

Đề phòng cá chình bỏ ăn, có thể dùng các phương pháp sau:

• Phải che nơi cho ăn.

• Cần tăng thêm điểm cho ăn để số cá thể tản mát vẫn có thể tìm được thức ăn.

• Có thể đưa thức ăn vào lồng có kích cỡ mắt lưới khác nhau để cá to không cạnh tranh thức ăn với cá nhỏ.

• Nên có biện pháp phòng bệnh sớm đối với các loại bệnh như: bệnh đốm trắng, trùng bánh xe, sán lá Dactylogyrus v.v…Nếu những loài này ký sinh sẽ làm cho chúng yếu dễ tạo điều kiện con khác ăn thịt.

• Trong cùng một ao nên thả cá giống cùng cỡ, cá nhỏ rất dễ bị cá lớn truy đuổi, suốt ngày trốn tránh, không kiếm được thức ăn. Nên phân loại cá hàng tháng.

3.2. Lọc phân đàn

Định kỳ phân cỡ cá 1 tháng/lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 – 2 ngày, lùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, không dùng tay bắt cá.

3.3. Quản lý chất lượng nước

Ao nuôi năng suất 15 tấn/ha cần lắp bộ sục khí 1,5 – 2,0 kw cho 1000 m2. Căn cứ vào thời tiết cụ thể mà mỗi ngày mở máy 3 – 4 lần giúp cho ôxy phân phối đều trong các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.

Nếu có điều kiện thì nuôi bằng nước chảy. Nếu nuôi trong ao nước tĩnh, cần thay 1/10 lượng nước trong ao khi nhiệt độ cao. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có mưa to hoặc nước lũ, cần ngừng cho ăn, không thay nước. Trường hợp ao bị nước lũ tràn vào, nên dùng thuốc tím 1,5 ppm hoặc vôi sống 15-20 ppm để ổn định chất lượng nước. Không nên sử dụng nước lũ để thay nước ao.

Nguồn: Khuyennongvn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi

Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong nghề nuôi tôm nước lợ hiện nay, việc thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường là hết sức quan trọng. Việc kiểm tra này giúp người nuôi nhận biết, có đánh giá thực tế về môi trường ao nuôi với các thông số pH, độ kiềm, độ mặn, oxy hòa tan v.v.. từ đó có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Tuy nhiên theo ghi nhận của chúng tôi, ngoại trừ các trại sản xuất con giống là có quan tâm đến vấn đề này, còn lại phần lớn các hộ nuôi tôm chưa biết đến lợi ích của việc kiểm tra này.
Nhằm giúp bà con đo các yếu tố môi trường ao nuôi chính xác, bài viết xin đề cập một số vấn đề cần lưu ý như sau:

Nguyên tắc chung:

Các điểm thu mẫu để đo phải đại diện và phản ánh đúng chất lượng nước trong từng ao nuôi và toàn khu nuôi.
Các điểm thu mẫu trong khu nuôi bao gồm: Nước nguồn, ao lắng, ao nuôi, ao xử lý chất thải, mương thải. Đảm bảo sau khi đo xong, người nuôi sẽ có cái nhìn toàn diện về tình hình môi trường trong cả khu vực nuôi.
Đối với công tác thu mẫu ở từng ao nuôi, có 2 cách đo như sau:
Cách 1: Trong mỗi ao, chọn ra 3 điểm theo đường chéo, đưa máy xuống đo sau đó lấy trung bình

Các vị trí lấy mẫu nước trong 1 ao nuôi

Cách 2: Thu mẫu ở 3 điểm theo đường chéo vào lọ, trộn đều sau đó đưa máy vào đo 1 lần. Cách này có thể sẽ tiết kiệm hóa chất (nếu sử dụng hóa chất để phân tích).

Chọn thông số và xác định chu kỳ theo dõi:

Để đánh giá chất lượng nước người nuôi có thể quan sát bằng các giác quan, trên cơ sở màu sắc, mùi vị kết hợp với đo các thông số chất lượng nước bằng các máy móc, thiết bị.
Các chỉ tiêu môi trường cần theo dõi trong ao nuôi: Nhiệt độ, pH, độ kiềm, oxy hòa tan, độ mặn, độ trong, màu nước, NH3, H2S. Đây là các chỉ tiêu có liên quan chặt chẽ đến sức khỏe của tôm, nếu các chỉ số môi trường đều ở trong ngưỡng cho phép tôm sẽ bắt mồi mạnh, mau lớn, tỷ lệ sống cao, ít bị bệnh tật.

Các thông số như nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ trong, độ sâu, màu nước: theo dõi và đo 2 lần/ngày vào lúc 5-6 giờ sáng và 2-3 giờ chiều. Các thông số khác như NH3, H2S, độ kiềm, độ mặn: định kỳ đo 2 lần/tháng, đồng thời kiểm tra đột xuất khi tôm có dấu hiệu bất thường, giá trị pH trong ngày biến động mạnh.

Quy chuẩn quốc gia về thông số môi trường trong ao nuôi tôm nước lợ (QCVN 02 – 19 :2014/BNNPTNT)

Phương pháp đo một số chỉ tiêu môi trường:

Nhiệt độ
Dụng cụ phổ biến nhất để đo nhiệt độ trong ao nuôi là nhiệt kế thủy ngân, bên cạnh đó một vài máy đo oxy hòa tan cũng có tích hợp chức năng đo nhiệt độ.
Đối với nhiệt kế thủy ngân: Nhúng ngập nhiệt kế xuống nước, để khoảng 3 phút, sau đó nghiêng nhiệt kế và đọc kết quả. Chú ý không nên rút nhiệt kế lên khỏi mặt nước trong quá trình đọc kết quả vì như vậy sẽ không chính xác.
Đối với máy đo: Đầu tiên cần phải khởi động máy và hiệu chỉnh theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sau đó nhúng điện cực xuống vị trí cần đo, lắc hoặc rê đầu điện cực trong nước cho tới khi các số trên màn hình ổn định (không nhảy) thì dừng lại. Đọc kết quả và ghi vào sổ nhật ký, sau đó rửa đầu đo bằng nước sạch, đậy nắp.
pH
Để đo pH ao nuôi có thể sử dụng máy đo pH hoặc bộ test kit pH.
Cách sử dụng test pH và máy đo pH theo hướng dẫn nhà sản xuất. Thao tác sử dụng máy đo pH tương tự thao tác đã hướng dẫn ở phần đo nhiệt độ.
Yếu tố pH trong ao nuôi phụ thuộc vào thổ nhưỡng của đất, lượng vôi bón, mật độ tảo và chế độ thay nước.
Độ mặn
Người nuôi có thể sử dụng khúc xạ kế để đo độ mặn trong ao nuôi. Khi dùng khúc xạ kế, đầu tiên cần phải kiểm tra máy bằng nước cất, hiệu chỉnh độ mặn về 0. Lấy 1 giọt nước nhỏ lên đầu đọc, đậy nắp sao cho giọt nước lan đều khắp mặt kính. Đưa máy về phía có nguồn sáng, đọc kết quả và ghi vào sổ nhật ký, sau đó lau đầu đọc bằng khăn sạch, đậy nắp.
Oxy hòa tan
Để đo oxy hòa tan trong ao nuôi bà con có thể dùng máy đo oxy hoặc bộ test kid oxy. Muốn quản lý tốt oxy hòa tan cần phải duy trì được màu nước tốt và sử dụng linh hoạt máy sục khí. Cần tăng cường quạt nước vào ban đêm, khi trời âm u hoặc khi nhiệt độ nước ao nuôi tăng cao.
Độ trong
Thiết bị đo độ trong thường sử dụng là đĩa secchi.

Thả đĩa theo phương thẳng đứng, hạ từ từ xuống nước cho tới khi không phân biệt được 2 màu đen/trắng trên mặt đĩa. Đọc kết quả trên dây hoặc thước, đó chính là độ trong của nước ao (đơn vị là cm).
NH3, H2S
NH3 và H2S là các khí độc, tác động đến hô hấp của tôm, nếu xuất hiện dài ngày sẽ làm giảm sinh trưởng, tôm còi cọc chậm lớn, nồng độ cao sẽ gây chết tôm. NH3 sẽ độc hơn khi pH cao, còn khi pH thấp thì H2S sẽ độc hơn. Trên thị trường có bán các bộ test kit để đo nồng độ NH3, H2S trong ao nuôi, với ưu điểm nhỏ gọn, giá thành rẻ bà con có thể mua về sử dụng.
Để phòng ngừa tác hại của NH3 và H2S: cần phải có nguồn nước cấp sạch và chủ động, có hệ thống máy quạt nước đầy đủ. Trong quá trình nuôi cần tăng cường sử dụng zeolite và các chế phẩm vi sinh xử lý môi trường.
Độ kiềm
Độ kiềm có vai trò quan trọng trong việc tạo vỏ, lột xác của tôm. Độ kiềm liên hệ mật thiết tới sự biến động của giá trị pH và sự ổn định màu nước (tảo). Trong khoảng độ kiềm thích hợp pH rất ít khi dao động. Nuôi tôm ở độ mặn thấp, độ kiềm thường xuyên thay đổi. Cần hết sức chú ý bón vôi định kỳ để tăng độ kiềm của ao. Dụng cụ thường dùng để đo độ kiềm trong ao nuôi là các bộ test kit có bán trên thị trường.

Ngoài cách đo thông thường, có thể sử dụng thiết bị công nghệ cao, tích hợp nhiều chức năng để nhiều thông số môi trường cùng một lúc. Điển hình như các sản phẩm của công ty Farmtech Vietnam :

Hệ thống mạng cảm biến môi trường không dây (Environment Wireless Sensor Network).

Ứng dụng rộng rãi trong việc giám sát môi trường theo thời gian thực hiện tại đã có thể giám sát 54 chỉ tiêu về không khí và nước (Bao gồm việc đo các Ion trong nước), các chỉ số khác. Hệ thống sử dụng các công nghệ kết nối mạng để có thể tổng hợp số liệu từ nhiều điểm tổng hợp số liệu môi trường tốt nhất trước khi gửi kết quả cho người sử dụng.
Tại thời điểm hiện tại hệ thống ứng dụng công nghệ mạng không dây mới nhất, tiết kiệm điện năng và sử dụng các công nghệ cảm biến nhạy nhất xuất xứ từ Châu Âu.

Hệ thống mạng cảm biến môi trường không dây (Environment Sensor Network) là hệ thống gồm những thiết bị thu thập dữ liệu có thế kế nhỏ, cơ động, sử dụng điện năm thấp và các công nghệ không dây như : Bluetooth, Wifi, 802.15.4, Zig bee, Lora để kết nối truyền, tổng hợp dữ liệu, tính toán dữ liệu tại chỗ trước khi truyền về hệ thống trung tâm.

Trọn bộ AE Sensor, giúp quản lý môi trường ao nuôi toàn diện

Phao giám sát môi trường (Floating Wireless Environment System)

Phao giám sát môi trường ao nuôi cho phép giám sát các thông số môi trường trong ao nuôi như oxy trong nước, nhiệt độ. Pin năng lượng mặt trời giúp phao có thể tự hành mà không cần nguồn điện, bình dự phòng đủ thời gian cho phao hoạt động 3 ngày trong điều kiện không có ánh sáng mặt trời. Thiết bị có khả năng truyền dữ liệu về bộ thu thập dữ liệu với khoảng cách tối đa 15 km.

Hệ thống phao giám sát môi trường

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam