Hứa hẹn tiềm năng cá anh vũ

Anh vũ (Semilabeo notabilis Peters, 1881) là một loài cá quý, thịt thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao. Việc đưa cá anh vũ vào nuôi đang mở ra một hướng đi mới nhiều hứa hẹn.

Đặc điểm sinh học

Cá anh vũ thuộc họ cá chép (Cyprinidae), bộ cá vược (Cypriniformes), mình thon dài màu xám tro, bụng màu vàng nhạt, có 2 đôi râu. Râu mõm lớn hơn râu hàm. Miệng có môi trên rộng, nhiều u tròn nổi. Rãnh sau môi dưới không có. Kích cỡ mắt trung bình, vây lưng không có tia gai cứug và có màu xám, vây ngực, vây bụng, vây hậu môn có màu xám pha vàng. Vảy vừa phải, xếp đều đặn, phủ kín toàn thân.

Cá anh vũ sống chủ yếu trong các ghềnh đá ngầm, nơi có nguồn nước chảy mạnh ở thượng lưu sông Hồng, sông Kỳ Cùng và sông Lam, thuộc các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Lạng Sơn và Nghệ An.

Đây là loài cá có tốc độ sinh trưởng chậm, ngoài tự nhiên tốc độ tăng trưởng của cá khoảng 0,2 – 0,3 kg/năm, kích cỡ cá trưởng thành 30 – 70cm, trọng lượng có thể đạt 5kg. Cá tham gia sinh sản sau 2 – 3 năm tuổi, mùa sinh sản bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 4 (dương lịch), trong các hang động dưới đáy sông.
Ngoài tự nhiên, cá chỉ xuất hiện vào cuối thu đầu đông khi trời có sương mù, không có mưa trên thượng nguồn, nước trong. Mùa hè mưa nhiều, nước nguồn đục hầu như cá không xuất hiện.

Triển vọng trong nuôi trồng

Cá anh vũ được xếp vào hàng “ngũ quý hà thủy”. Hiện nay, trên thị trường mỗi kilogam cá đánh bắt ngoài tự nhiên có giá hàng triệu đồng. Do giá trị cao, nhu cầu lớn nên ngư dân tại các khu vực sông nơi cá phân bố ráo riết săn bắt, thậm chí cả trong mùa sinh sản. Do vậy, cá anh vũ có nguy cơ tuyệt chủng rất cao.

Trước tình hình trên, Trung tâm Quốc gia Giống thuỷ sản nước ngọt miền Bắc (Phú Tảo, Gia Lộc, Hải Dương) đã thực hiện đề án ”Bảo tồn, tái tạo và phát triển nguồn gen cá anh vũ”. Kết quả, đã nghiên cứu sinh sản thành công và hoàn thiện quy trình nuôi thương phẩm cá anh vũ bằng thức ăn công nghiệp, mở ra một triển vọng lớn đối với nghề nuôi cá quý hiếm.

Theo ông Nguyễn Anh Hiếu, Phó Giám đốc Trung tâm thì triển vọng của nghề nuôi đối tượng đặc sản này là rất khả thi. Cá anh vũ tốc độ sinh trưởng chậm nhưng bù lại có giá trị kinh tế. Đối tượng này có thể nuôi trong ao nước chảy, trong lồng bè và những nơi có nguồn nước trong sạch và có hàm lượng ôxy hòa tan cao (4mg/l trở lên). Mùa vụ thả giống từ tháng 5 dương lịch, mật độ 2 – 3m2/con. Thức ăn cho cá nên kết hợp giữa thức ăn nhân tạo và tự nhiên, thời gian nuôi từ 1 năm trở lên mới có thể thu hoạch.

Cá anh vũ mới được thuần hóa từ tự nhiên nên sự thích nghi của nó đối với môi trường nuôi chưa cao. Do vậy cần đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống ao nuôi, lồng nuôi bài bản và phải nắm rõ quy trình kỹ thuật. Mặt khác, do cá có tốc độ sinh trưởng chậm nên thời gian nuôi dài, ở môi trường nuôi nhân tạo cá thường mắc một số bệnh ngoài da nên chế độ chăm sóc cũng khắt khe hơn… Việc nuôi thành công loài cá này không chỉ giúp một loài cá quý hiếm thoát nguy cơ tuyệt chủng, mà còn góp phần đa dạng trong nuôi trồng thủy sản.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Vài nét về cá Ali mũ đỏ

Cá Ali Mũ Đỏ – Lethrinops Red Cap làm chúng ta liên tưởng tới “cô bé quàng khăn đỏ”. Một tấm thân nuột nà nhỏ nhắn với cái trán đỏ tươi chính là những gì mà mọi người thường nghĩ về chúng.

Tên thông dụng: Lethrinops Red Cap

Tên khoa học: Lethrinops sp. ‘Red Cap’ Mdoka

Kích thước trung bình: 15 cm

Thiết lập bể cá: Phong cách đá đặc trưng của hồ Malawi với nhiều không gian bơi lội

Kích thước bể cá tối thiểu: 300 lít

Khả năng tương thích: Thích hợp thả cùng với các loại cá ali hồ Malawi như Hap hoặc Aulonocara (peacock)

Điều kiện nước: Nhiệt độ 25 – 28 độ C, PH 7,6 – 8,6

Nuôi dưỡng: Những con cá ali Mũ Đỏ ăn khá tạp, tuy nhiên trong môi trường bể nuôi, bạn nên lựa chọn thức ăn chuyên dụng cho các dòng cá ali châu Phi.

Phân biệt giới tính: Cá ali Mũ Đỏ đực lớn hơn và nhiều màu sắc hơn khi trưởng thành. Cá nhỏ rất khó để phân biệt đực cái.

Nuôi dưỡng: Cá ali Mũ Đỏ – Lethrinops Red Cap là loài sinh sản ngậm trứng giống hầu hết các loại cá ali Châu Phi khác. Con đực sẽ tán tỉnh và bắt cặp với một con cái, sau khi nó đẻ trứng, cá đực sẽ thụ tinh. Quá trình cứ thế tiếp diễn khi tất cả trứng được thụ tinh. Con cái sẽ giữ trong miệng từ 3-4 tuần, trong thời gian này chúng sẽ không ăn uống.

Thông tin bổ sung: Đây là một trong những loài cá ali hồ Malawi ít xuất hiện trong các bể cá người chơi. Ngay cả những đơn vị kinh doanh cũng không thường xuyên nhập về dòng cá này. Đây là mộ dòng cá khá ngoan hiền, bạn nên tránh thả với các dòng cá côn đồ hung hãn như Mbuna. Những con cá hiền lành và ít hung hăng như Peacock và Hap rất được hoan nghênh thả cùng.

Nguồn: Tropicalfish được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giới thiệu vài nét về cá Ali vỏ ốc

Thú chơi cá Ali nói chung và các tình yêu hồ Tanganyika nói riêng đang phần nào tìm lại thời phát triển rực rỡ.

Tuy không bộp chộp và nóng vội như thời mới yêu hồi đầu thập niên, phong trào hiện nay phát triển bền vững và chững chạc bởi những người chơi tâm huyết và có kiến thức. Fman xin cập nhật thông tin về một chủng cá hồ Tanganyika có tập tính ăn đáy và hình dạng như cá bống, mà nói đúng ra thì chúng chính là cá bống của hồ Tanganyika.

Kích thước bể cá tối thiểu: 30 gallon

Mức độ chăm sóc: Dễ dàng

Tính cách: Bán tích cực

Điều kiện nước: 72-82 ◦ F, KH 10-20, pH 7,8 -9,0

Kích thước tối đa: 6 cm

Màu sắc: Xanh, vàng

Chế độ ăn uống: Ăn thịt

Khả năng tương thích: Xem biểu đồ

Xuất xứ: Hồ Tanganyika

Họ: Cichlidae

Cá Vỏ Ốc – Gold Ocellatus Cichlid sống lang thang trong những vỏ ốc quanh bờ hồ Tanganyika, Châu Phi. Kích thước khiêm tốn của chúng thuộc loại gần như nhỏ nhất so với các cá thể Cichlidae khác. Cá Ali Vỏ Ốc có màu sắc chủ đạo và hơi xanh kim loại, với vây lưng và vây bụng to quá khổ, khi chúng sung lên tạo nên một dáng vẻ ấn tượng và độc đáo, và đây cũng chính là một phần giá trị quan trọng trong việc chúng được ưa chuộng trong các bể ali hồ Tang.

Vẻ đẹp của cá ali Vỏ Ốc

Bạn nên nuôi những bé ali Vỏ Ốc này trong một bể cá có kích thước từ 30 gallon trở lên để chúng có thể sinh trưởng và phát triển tốt nhất, cùng với một vài cá thể nhỏ bé của hồ Tanganyika nữa là tuyệt vời. Kết hợp thêm đá, nền cát và vài cái vỏ ốc, thì đấy chính là thiên đường cho chúng rồi đấy.

Cá Ali Vỏ Ốc để trứng, và việc nhân giống cũng khó khăn hơn bình thường rất nhiều, các cá thể cũng phát triển rất chậm, phải mất vài năm để chúng có thể trưởng thành về mặt giới tính. Ở độ tuổi trưởng thành, con đực thường lớn hơn con cái. Để ép đẻ, bạn nên trang bị cho chúng nhiều vỏ ốc vào nhé, sau 3,4 ngày trứng sẽ nở, để an toàn thì bạn nên di chuyển những thiên thần bé nhỏ này sang một bể khác. Cho các bé ăn tôm tươi và thức ăn nghiền nhỏ.

Chế độ ăn uống của những chú bống bé nhỏ này nên là thịt, tôm ngâm nước muối, và một số thức ăn chuyên dụng khác.

Nguồn: Live Aquaria được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Một số loại cá Ali đẹp

Thời gian gần đây, số lượng người biết đến cá ali tăng lên rất nhanh, những người quan tâm đến ali cũng ngày một nhiều hơn.

Cá Ali thường được phân loại theo màu sắc hình dạng

+ Cá ali xanh vằn

Tên khoa học: Maylandia zebra

Tên tiếng Anh: Zebra Malawi Cichlid

Tên tiếng Việt: Cá Ali xanh vằn; Cá Huyết trung cấp hồng

+ Cá Ali vàng

– Tên tiếng Anh: Yellow princes

– Tên tiếng Việt: Cá Ali vàng; Cá Hoàng tử Phi

– Nguồn cá: Sản xuất nội địa

+ Cá Ali Sao – Tropheus Duboisi Cichlid

Họ: Cichlidae

Kích thước tối đa: 13 cm

Màu sắc: Đen, xanh, trắng, vàng

Chế độ ăn uống: Ăn rong, tảo

+ Cá Ali Venustus – Venustus Cichlid

Mức độ chăm sóc: Dễ dàng

Điều kiệnnhiệt độ : 24 – 28 (C)

Kích thước tối đa: 25 ( cm )

Màu sắc: Xanh, trắng

Chế độ ăn uống: Ăn tạp

Xuất xứ: Châu Phi

+ Cá Ali đỏ

Cũng có đặc điểm giống các loại Ali trên

+ Cá Ali- Pseudotropheus Demasoni

Có tên là tiếng anh là Benga Peacock hoặc New Yellow Regal

cá có nguồn gốc từ Tanzania

+ Cá Ali- Aulonocara Baenschi

Tên thường gọi: Benga Peacock hoặc New Yellow Regal

Rất nhiều loài cichlids chỉ thích ăn một loại thức ăn nhưng Ali Aulonocara có thể ăn đa dạng các loại thức ăn.

+ Ngoài ra còn nhiều loại Ali khác : Như Ali trắng mắt đỏ, Ali xanh ……

Ali gấu trúc

Ali heo xanh

Ali trắng mắt đỏ

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bố cục đá đẹp cho bể cá Ali

Phong trào chơi cá Ali ngày càng nở rộ, bắt đầu phát triển mạnh từ 3 năm trở lại đây, cá ali đang là một trong những thú chơi đầy cá tính và đam mê của người chơi cá cảnh Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.

Đối với bể cá ali, mỗi người chơi lại có những sở thích riêng trong việc sắp xếp bố cục cho bể. Có người thích một nền cát trắng với một Background 3D hoặc Tranh 3D dán phía sau. Có người lại thích một bể cá ali với bố cục đá hoành tráng, với những tảng đá lớn trong bể. Có người lại thích sử dụng những loại đá đặc biệt để làm giả cảnh một bể cá nước mặn, hay sử dụng cây nhựa để tạo nên màu xanh trong bể cá.

Dưới đây là những bố cục bể cá Ali đẹp mà cá cảnh Thái Hòa sưu tập được, hi vọng nó sẽ giúp ích phần nào cho những người mới chơi đang có ý định setup một bể cá ali cho riêng mình.

Dưới đây là một số hình ảnh về thiết kế bể cá Ali đẹp:

Cách nuôi cá Ali cảnh theo chuẩn kĩ thuật nhất

Là một trong những loài thuộc họ thủy sinh, cá cảnh Ali đã khiến nhiều người chơi say mê bới những màu sắc thực sự nổi bật. Kỹ thuật nuôi cá Ali cũng không quá phức tạp nếu bạn tuân thủ đúng những quy tắc dưới đây. Hãy cùng tìm hiểu nhé !

Cá Ali là loài thuộc dòng thủy sinh nên cũng tương đối dễ nuôi

1. Đặc điểm sinh học trong cách nuôi cá Ali

– Chiều dài cá (cm): 20

– Nhiệt độ nước (C): 24 – 28. Đây là nhiệt độ thích hợp nhất cho cá cảnh Ali sinh trưởng và phát triển tốt. Ngoài ra, nhiệt độ còn giúp quản lý tính hung dữ của cá vì nhiệt độ cao thì vòng sinh học nhanh hơn, cá ăn nhiều, mau lớn nhưng cũng mạnh mẽ và hiếu chiến hơn. Nhiệt độ thấp thì ngược lại. Do vậy khi bạn muốn “bón thúc” cho cá mau lớn thì có thể cho thêm máy sưởi và khi chúng đã lớn có thể giảm nhiệt xuống ở mức độ trên.

– Độ cứng nước (dH): 10 – 25

– Độ pH: 7,6 – 8,8

– Tính ăn: Ăn động vật

– Hình thức sinh sản: Đẻ trứng

– Tầng nước ở: Giữa – đá

– Sinh sản: Tỉ lệ đực cái khi tham gia sinh sản là 1:3. Cá cái đẻ trứng lên giá thể cứng trong bể, cá đực thụ tinh ngoài, sau đó cá cái gắp trứng lên miệng để ấp. Thời gian cá cái ấp trứng và giữ con trong khoang miệng khoảng 3 tuần.

2. Cách nuôi cá Ali chuẩn kĩ thuật

– Chọn giống: Mặc dù cá Ali là loại cá khoẻ, dễ thích nghi, nhưng để giảm thiểu nguy cơ thất thoát cá trong quá trình nuôi vẫn cần lưu ý một số vấn đề. Khi chọn cá, bạn nên nghiên cứu kích thước tối đa của cá để tránh trường hợp bể trở nên quá chật chội về sau, lúc đó xử lý lại cũng rất khó. Khi chọn cá, cố gắng chọn cá cùng một hồ. Ở Hà Nội thì cá Ali phổ thông chủ yếu là Malawi. Vì mặc dù cá Ali dễ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài, nhưng nếu chúng ta tạo được môi trường gần nhất với môi trường tự nhiên thì chúng sẽ phát triển mạnh mẽ nhất.

– Kích thước bể cá: Cá Ali được cho là sinh động, hấp dẫn nhất khi chúng rượt bơi lôi, rượt đuổi nhau ở gần các đồ vật trang trí trong bể. Do vậy, với cùng một thể tích nước, các bạn cần cân đối các chiều với nhau, đặc biệt là chiều cao. Ví dụ, với kích thước ba chiều là 100x40x60, nếu là CxDxR thì rõ ràng không phù hợp, vì cá có rất ít không gian để di chuyển. Cũng với kích thước đó, nếu là DxRxC thì sẽ tốt hơn, bể bạn có đủ chiều dài cho cá rượt đuổi nhau. Nhưng bạn cũng đừng quên xem xét khả năng tuyệt vời hơn là DxCxR, khi đó bể cá có độ dài, tăng chiều sâu và độ cao vừa phải để bạn trang trí thêm các đồ trang trí…

Trong cách nuôi cá Ali, bạn cần chú ý cách chọn giống và kích thước bể

– Phông nền: Phông nền bạn nên chọn phông đồng nhất một màu hoặc ít nhất là có một mầu chủ đạo. Đừng chọn màu nào quá chói (đỏ, cam, vàng chanh) vì như vậy khi ngắm cá sẽ có cảm giác nhức mắt. Cũng không nên chọn phông phong cảnh quá phức tạp (dải san hô), cá sẽ bị lẫn vào phông nền, giảm bớt sự thích thú khi quan sát.. Nhiều người thường chọn màu xanh nước biển, dịu mắt và cũng làm nổi các đồ vật trang trí trong bể. Ngoài ra nếu tìm được những phông theo kiểu 3D và phù hợp với đồ vật trang trí trong bể của bạn thì cũng rất đẹp nhưng hơi kì công.

– Nền: Đặc tính của cá Ali là đặc biệt thích đào nền nên bạn có thể cho nền bằng cát, sỏi…nhưng cần phải lưu ý kích thước. Kích thước tối đa của sỏi không nên to quá miệng của cá vì thông thường cá đào nền bằng cách ngậm vào và thổi ra chỗ khác. Lưu ý nền càng nhỏ, càng khít thì càng đỡ được hiện tượng chất bẩn lọt xuống và lưu giữ ở bên dưới.

Màu của nền cũng ảnh hưởng đến màu của cá. Màu sáng khiến cho màu của cá có cảm giác bị bợt đi, màu tối giúp màu của cá sặc sỡ hơn. Do vậy bạn nên chọn màu sao cho tương phản với màu của đại đa số cá trong bể, lúc đó nhìn cá sẽ nổi bật trên màu nền. Có một lưu ý nhỏ nhỏ là trước khi rải nền các bạn nên có vật liệu lót ở dưới. Bạn nên thiết kế nền bể cá dày bởi cá Ali là loài đào bới rất khỏe

– Đèn: Với cá ali, vai trò của ánh sáng trong quá trình sinh trưởng không quan trọng tuyệt đối như quá trình lên màu của cá rồng hay cây thủy sinh do vậy chọn đèn chủ yếu để tăng thêm vẻ đẹp cho bể cá. Loại đèn phổ biến thường dùng là xanh và trắng vì đèn trắng bên trong để sáng bể, đèn xanh bên ngoài tạo cảm giác về màu. Đối với màu xanh có loại đèn actinic blue trông ánh sáng rất lung linh tuy nhiên giá cả cũng cao hơn chút. Một số tài liệu còn nói rằng nên kết hợp xanh và tím/hồng vì như vậy cá sẽ nổi bật còn bể sẽ có độ sâu.

– Đồ vật trang trí: Cá ali sống trong nước cứng, độ pH tương đối cao. Do vậy vật trang trí phù hợp nhất vẫn là đá và cũng phù hợp với môi trường tự nhiên của nó. Lũa cũng có khi được sử dụng vì đặc tính tạo nhiều hang hốc và nhẹ, nhưng lũa có thể làm giảm pH (do tiết ra acid hoà tan trong nước). Đá và lũa chính là hai loại đồ trang trí phổ biến nhất trong bể Ali.

Một số người thích sử dụng san hô (loại khối to) để mô phỏng cảnh biển cho giống hơn. Đây cũng là một ý tưởng hay vì với màu sắc sẵn có và sự lanh lợi của cá Ali, nếu kết hợp với san hô khối và ánh sáng phù hợp thì cảnh sắc sẽ không hề thua kém cảnh biển. Tuy nhiên lưu ý một điều là cá Ali rượt đuổi, chui rúc, liếc mình trên bề mặt khác rất nhiều nên nếu khối đá san hô quá gai góc thì có thể làm cá bị trầy xước khi bơi lội hoặc khi gặm rêu, từ đó dễ bị nấm và chết. Đối với những loại đồ vật trang trí nặng như đá lớn, cũng không nên đặt trực tiếp lên đáy bể mà nên có lớp lót để phân tán lực ra cho đều. Lớp lót này cũng nên chọn màu dễ nguỵ trang, vì trong quá trình nuôi thì trường hợp cá đào đến lộ cả lớp lót này là tương đối nhiều.

– Yêu cầu sục khí: Trung bình.

Cá Ali là loại cá phàm ăn nên bạn cần đầu tư hệ thống lọc tương đối một chút, ví như có một cái lọc tràn trên, vật liệu lọc sử dụng luôn san hô nếu được để giữ pH cao. Cá ali không thích luồng nước quá mạnh nên hãy cố gắng tìm cách xử lý luồng nước vào bể cho nhẹ nhàng.

– Yêu cầu lọc nước: Ít.

– Thức ăn: Cá Ali chủ yếu là ăn động vật như cá con, côn trùng, giáp xác, trùng chỉ, thức ăn viên …

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi Bào ngư treo trên biển

Cùng với một số hình thức nuôi phổ biến như vãi (gieo) đáy, nuôi công nghiệp… nuôi bào ngư treo trên biển mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Vị trí nuôi

Khu vực nuôi có nguồn nước sạch, đạt tiêu chuẩn cho nuôi thủy sản, không bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải khu dân cư. Dòng triều thông thoáng, giao thông thuận lợi, đảm bảo một số điều kiện đối với các yếu tố lý hóa, cụ thể: Ðộ sâu của nước đạt trên 10 m, lưu tốc nước 0,5 – 1,0 m/s, nhiệt độ 11 – 280C, độ mặn 30‰, ôxy hòa tan trên 4 mg/l, pH 7,4 – 8,6.

Lồng nuôi

Lồng nuôi bào ngư làm theo kiểu nhiều tầng. Hệ thống lồng được thiết kế bằng chất dẻo polyethylene màu sẫm hoặc polyvinyl chloride (PVC) không độc. Lồng gồm 6 tầng, kích thước mỗi tầng là 40x30x13 cm. Nguyên liệu làm khung lồng thường là gỗ thông, kích thước 2,5×3,6 m. Cứ 10 khung kết thành 1 giàn, 3 giàn lại được nối với nhau để tạo thành 1 ô. Xung quanh mỗi ô sử dụng 15 chiếc phao nổi hình cầu, có sức nổi 75 kg/chiếc.

Chọn giống

Phải chọn những con giống khỏe mạnh, đã được kiểm dịch và được ương nuôi tại bản địa. Chiều dài vỏ con giống bào ngư hơn 1,5 cm, ngoại hình đầy đặn, không có dị hình, lực bám mạnh.

Việc vận chuyển giống bằng phương pháp vận chuyển khô. Mỗi túi lưới đựng 500 con giống, các túi được cho vào hộp xốp cách nhiệt, vận chuyển bằng xe hoặc thuyền đến khu nuôi. Thông thường, tỷ lệ sống khi vận chuyển đạt trên 99%.

Thả giống

Theo dõi thời tiết để đảm bảo thả giống thời điểm thích hợp nhất. Tránh thả khi có mưa to, gió lớn, nhiệt độ quá lạnh hay quá nóng. Lưu ý sự chênh lệch nhiệt độ và độ mặn giữa môi trường ao ương con giống và khu thả giống không quá 20C và 2‰.
Mật độ thả 100 con/tầng. Tầng nước nuôi treo lồng bào ngư được đảm bảo luôn ở mức 3 – 5 m.

Cho ăn

Thức ăn chủ yếu cho bào ngư là tảo bẹ (Laminaria) tươi và khô, tảo bẹ muối và cho ăn thích hợp từng thời điểm khác nhau. Từ tháng 4 – 6 bào ngư ăn tảo bẹ tươi; tháng 7 – 9 thức ăn là tảo bẹ muối, có bổ sung các loại tảo tự nhiên hoặc thức ăn nhân tạo dạng bản mỏng; tháng 10 đến tháng 3 năm sau bào ngư sử dụng tảo tía hoặc tảo bẹ muối làm thức ăn.

Cho ăn lượng khoảng 10 – 30% trọng lượng cơ thể bào ngư. Tuy nhiên, lượng thức ăn có thể thay đổi tùy theo nhiệt độ nước và mức độ tiếp nhận thức ăn của bào ngư. Thông thường, 2 – 3 ngày cho ăn 1 lần, mùa hè có thể 3 ngày 1 lần và mùa đông nếu nhiệt độ thấp dưới 120C thì cho ăn 4 ngày 1 lần. Trước khi cho ăn phải dọn thức ăn thừa và bùn đọng.

Ðiều chỉnh mật độ nuôi

Để đảm bảo tốc độ sinh trưởng, cần tiến hành phân loại con giống khi chiều dài vỏ đạt trên 3 cm. Một năm phân chia 2 lần, thời điểm thích hợp nhất là vào cuối mùa thu và đầu mùa xuân. Việc phân chia giống được tiến hành trên giàn, các bào ngư có kích thước tương đương nhau sẽ ở cùng 1 tầng. Trong quá trình cần thường xuyên vệ sinh lồng bằng cách dùng dụng cụ loại bỏ các vật bám trên lồng lưới như hàu (Ostrea), sum (Balanus)… Mật độ nuôi thả con giống được xác định theo loại kích cỡ của bào ngư.

Quản lý hàng ngày

Kiểm tra tình trạng bắt mồi và hoạt động của bào ngư. Kịp thời điều chỉnh lượng cho ăn và ghi chép đầy đủ.

Thường xuyên kiểm tra lồng và vệ sinh, làm sạch các dị vật và địch hại xung quanh lồng nuôi bào ngư. Phát hiện những bào ngư dị thường hoặc đã chết, tìm nguyên nhân và áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp.

Định kỳ xác định các chỉ tiêu chất nước như nhiệt độ nước, độ mặn, pH, ôxy hòa tan, lấy mẫu nước đi phân tích và ghi chép cẩn thận.

Phòng bệnh

Thực hiện phòng bệnh ngay từ thời điểm chọn vị trí nuôi phù hợp. Trong quá trình nuôi, tăng cường công tác quản lý, luôn bảo đảm mật độ nuôi thích hợp.

Sử dụng thức ăn tươi, không dùng thức ăn đã thối rữa và biến chất.

Ðịnh kỳ loại thải và tẩy sạch các sinh vật có hại trên lồng lưới và một số tảo tạp, phòng tránh trường hợp các mắt lưới bị bịt kín không cho dòng nước thông suốt từ trong ra ngoài lồng lưới.

Đối với nuôi bào ngư, quá trình nuôi thường xuất hiện bệnh mụn nhọt (pustuls) do một số loại vi khuẩn thuộc giống Vibrio gây ra. Thời gian mắc bệnh này kéo dài, tỷ lệ chết cao, tính nguy hại lớn. Phương pháp phòng trị chủ yếu hiện nay là sử dụng vaccine kháng khuẩn.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi kết hợp tôm hùm với bào ngư và xẹm xanh

Nghề nuôi tôm hùm phát triển nhanh và tập trung ở một số khu vực hẹp nên chất thải của hoạt động nuôi tích luỹ ngày càng nhiều gây tác động xấu đến môi trường. Để duy trì và phát triển nghề nuôi thuỷ sản theo hướng bền vững thì không còn con đường nào khác là phải hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường.

Ý tưởng nuôi kết hợp được nhiều nhà khoa học đề cập đến như nuôi khép kín gồm cá, vẹm, rong biển. Chất thải của cá làm gia tăng nguồn dinh dưỡng trong thuỷ vực tạo điều kiện cho tảo biển phát triển. Tảo làm thức ăn cho vẹm, phân thải của vẹm lại bổ sung dinh dưỡng cho rong biển. Vẹm được chế biến thành thức ăn cho cá, sau đó thức ăn dư thừa từ các lồng nuôi cá lại thúc đẩy sự phát triển của vẹm, rong biển và tảo, tạo nên vòng chuyển hoá dinh dưỡng và năng lượng khép kín trong thuỷ vực. Viện Nghiên cứu NTTS III thực hiện đề tài nhà nước “Nghiên cứu công nghệ và xây dựng quy tình nuôi kết hợp đa đối tượng hải sản trên biển theo hướng bền vững”. Đề tài thuộc chương trình KC 06 thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Địa điểm được triển khai tại Xuân Tự, huyện Vạn Ninh, Khánh Hoà.

Hai lồng nuôi tôm hùm 25m2/lồng, mật độ thả 100con/lồng, kích thước tôm ban đầu trên 100 gam/con. Một lồng nuôi đơn, một lồng ghép thêm các đối tượng vẹm xanh, rong sụn và bào ngư. Tỷ lệ ghép giữa tôm hùm, vẹm xanh, rong sụn là 2:25:30 (theo trọng lượng). Vẹm xanh được nuôi bằng phương pháp treo dây xung quanh lồng, kích thước giống 2-3cm/con. Mỗi dây vẹm bố trí 4 cụm (0,5 kg vẹm giống/cụm). Rong sụn được treo bằng dây trong và xung quanh lồng và cách mặt nước 50cm. Rong giống thả cỡ 1,5kg/1mdây. Cách 20cm treo một cụm.

Bào ngư được thả nuôi bằng lồng nhựa xung quanh lồng nuôi tôm hùm. Lồng nuôi bào ngư có kích thước 30x40x25cm. Mật độ thả ương: 200 con/lồng. Sau 1 tháng nuôi chuyển sang các rổ có mắt lưới lớn hơn để nuôi thương phẩm. Mật độ: 20-30 con/lồng. Viện Nghiên cứu NTTS III đã tiến hành nuôi bào ngư ở các mật độ khác nhau 10, 20, 36, 75 và 88 con/lồng. Mỗi mật độ bố trí nuôi bào ngư theo các nhóm kích thước khác nhau. Thức ăn cho bào ngư là rong câu chỉ vàng, rong sụn.

Theo dõi các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan, độ mặn, đo 1 lần/tuần. Các yếu tố như nitrate, phosphate, ammonium-nitrogen, tổng N, tổng P được xác định 1 lần/tháng.

Theo dõi tốc độ sinh trưởng: Định kỳ 15 ngày đo trọng lượng và chiều dài các đối tượng nuôi 1 lần.

Thức ăn cho tôm hùm là các loại cá tạp, thân mềm, tôm nhỏ, cua…Thường xuyên vớt bỏ thức ăn thừa, kiểm tra đáy lồng. Hằng ngày lặn kiểm tra thức ăn thừa, sức khoẻ tôm, chất đáy, địch hại như cua, ghẹ, cá nóc…quanh lồng. Lượng thức ăn và thức ăn dư thừa được cân đo hằng ngày để xác định hệ số tiêu tốn thức ăn.

Kết thức thí nghiệm, Viện nghiên cứu NTTS III đã tổng kết và đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi như sau:

Hàm lượng ni tơ (N), phốt pho (P) tổng số trong nền đáy lồng nuôi ghép thấp hơn nuôi đơn.

Tốc độ sinh trưởng trung bình về trọng lượng của tôm hùm ở lồng nuôi đơn là 0,48%/ngày và 0,53%/ngày ở lồng nuôi ghép, sinh trưởng của bào ngư là 1,47%/ngày, vẹm xanh là 0,57%/ngày và của rong sụn là 3,97%/ngày.

Không có sự khác nhau về sinh trưởng khi nuôi bào ngư ở các mật độ 10, 20, 36 và 75 con/lồng. Tuy nhiên, ở mật độ 88 con/lồng thì tốc độ sinh trưởng có sự sai khác ý nghĩa thống kê, đó là tốc độ sinh trưởng của bào ngư giảm. Tỷ lệ sống của bào ngư giảm khi tăng mật độ nuôi.

Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ghép cao hơn nuôi đơn, lợi nhuận thu được tăng 42,44% trong khi chi phí đầu tư chỉ tăng thêm 16,42%, tổng chi phí sản xuất tăng 39,37%.

Nguồn: Viện NTTS III được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm Bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne,1758)

Vùng biển Việt Nam có 4 loài bào ngư phân bố gồm bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1864), bào ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791), bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linne, 1758) và bào ngư dài (Haliotis varia Linne, 1758). Trong các loài đó, bào ngư vành tai phân bố khá phổ biến ở vùng biển miền Trung và miền Nam. Đây là loài có nhiều tiềm năng phát triển nuôi do kích thước cơ thể lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh.

1. Kỹ thuật sản xuất giống

1.1. Nuôi vỗ thành thục bào ngư bố mẹ trong hệ thống bể xi măng

– Chọn tuyển những con đực và cái có chiều dài vỏ từ 60 – 80mm, không bị tổn thương đưa vào nuôi trong các lồng nhựa treo trong bể xi măng

– Nhiệt độ nước trong bể duy trì ở 27-300C; độ mặn: 30- 340/00; nước chảy ra vào bể nuôi với vận tốc 15 l/phút

– Thức ăn là rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica) tươi

– Lượng thức ăn bằng 30 – 40% khối lượng cơ thể

1.2. Kích thích sinh sản

– Sau khi bào ngư thành thục được bắt vào bể đẻ với tỷ lệ đực/cái là 1/7 hoặc 1/10

– Kích thích bào ngư sinh sản bằng sốc nhiệt kết hợp với hệ thống nước chảy và thay đổi chu kỳ chiếu sáng ngày và đêm trong bể.

– Trứng thụ tinh được lọc, rửa sạch và chuyển qua bể ấp với mật độ 5 – 10 trứng/ml.

1.3. Ương nuôi ấu trùng trôi nổi

– Sau 5-7 giờ trứng nở, thu ấu trùng Trochophore đưa vào bể ương với mật độ 5-10con/mml

– Sau 22 giờ ấu trùng Trochophore biến thái chuyển thành ấu trùng Veliger bơi lội tự do trong nước nhờ vành tiêm mao, chưa ăn thức ăn ngoài, dinh dưỡng bằng noãn hoàng.

1.4. Ương nuôi ấu trùng bám (spat) và bào ngư con

– Sau 40-48 giờ kể từ lúc trứng được thụ tinh, ấu trùng Veliger chuyển thành ấu trùng bám và xuống sống bám vào các bản nhựa có tảo đáy Navicula sp. làm thức ăn và bắt đầu ăn thức ăn tảo đáy.

– Mật độ ương thích hợp là 200-300 con/bản tảo (25x25x0,2)cm

– Sau hai tháng, ấu trùng bám chuyển thành bào ngư con có chiều dài vỏ 3-5mm. Mật độ ương giai đoạn này là 50-100 con/bản tảo

– Sau 3 tháng thu được con giống 10-15mm, chuyển ra nuôi thương phẩm trong bể xi măng hoặc trong lồng treo bè ngoài biển.

2. Kỹ thuật nuôi thương phẩm

Có 2 loại hình nuôi thương phẩm bào ngư vành tai: Nuôi trong lồng treo ở bể xi măng và nuôi trong lồng treo trên bè ngoài biển

2.1. Nuôi trong lồng treo ở bể xi măng

– Lồng nuôi bằng nhựa hình chữ nhật kích thước 40x40x28cm

– Mật độ nuôi ban đầu 60 – 100 con/lồng.

– Khi bào ngư nuôi đạt kích thước 20-25mm, san thưa lồng nuôi với mật độ 30-35 con/lồng. Lồng được treo trong bể xi măng 15-20m3.

– Điều kiện môi trường nuôi: nhiệt độ 26-310C, độ mặn 30-340/00, độ oxy hoà tan >4ml/l.

– Thức ăn là rong câu chỉ vàng, 3-4 ngày cho ăn một lần, lượng thức ăn bằng 30% trọng lượng cơ thể. Tạo dòng nước luân chuyển tuần hoàn trong bể nuôi với tốc độ 15-20 lit/phút. Bào ngư đạt kích thước thương phẩm 5-6cm sau 9-10 tháng nuôi.

2.2. Nuôi trong lồng treo trên bè

– Lồng nuôi được làm bằng lưới có kích thước 40x30x28 cm

– Mật dộ ban đầu là 40-60 con/lồng

– Điều kiện môi trường nuôi: nhiệt độ 26-310C, độ mặn 30-340/00, độ oxy hoà tan >4ml/l.

– Thức ăn là rong câu chỉ vàng, 3-4 ngày cho ăn một lần, lượng thức ăn bằng 30% trọng lượng cơ thể. Bào ngư đạt kích thước thương phẩm 5-6cm sau 9-10 tháng nuôi.

Nguồn: Viện NTTS III được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sinh sản Bào ngư chín lỗ

Kỹ thuật nuôi Bào ngư chín lỗ:

Bào ngư chín lỗ Haliotis diversicolor

I. Phạm vi:

– Bãi nuôi có nề​n đáy là các đá phiến xếp tầng, đá tảng lớn tạo nên các hang hốc cho bào ngư ẩn nấp. Nơi có nhiều thực vật biển như rong mơ (Sargassum), rong câu (Gracilaria), rong đông (Hypnea)… phân bố.

– Nước có độ mặn cao, ổn định: 29-32‰; nhiệt độ: 18-30oC; độ pH: 7,5-8,5; hàm lượng ôxy hoà tan≥ 5 mg/l; Các thông số môi trường khác nằm trong giới hạn cho phép đối với vùng nuôi trồng thủy sản theo QCVN 10-MT:2015/BTNMTQuy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước biển.

– Bãi nuôi có nước lưu thông tốt, độ trong mực nước > 1,5m; độ sâu mực nước nuôi đạt từ 1-3 m so với 0 m hải đồ; lưu tốc dòng chảy từ 1-5 cm/s.

– Bãi nuôi có hoặc đã có bào ngư tự nhiên phân bố; được địa phương giao hoặc cho thuê mặt nước sử dụng;nằm trong vùng quy hoạch nuôi trồng thủy sản của địa phương.

– Bãi nuôi không bị ảnh hưởng bởi các chất thải từ các khu chăn nuôi, nước thải sinh hoạt, vận tải thuỷ. Thuận tiện cho đi lại, trông coi, chăm sóc, quản lý bào ngư nuôi.

II. Nội dung quy trình

1. Chuẩn bị bãi nuôi

– Bãi nuôi thương phẩm bào ngư phải đảm bảo các điều kiện về phạm vi áp dụng.

– Diện tích bãi nuôi từ 3.000 m2 trở lên. Nếu nền đáy bãi nuôi ít gồ ghề, ít hang hốc, có thể xếp thêm đá làm giá thể cho bào ngư bám và ẩn nấp.

– Sử dụng hệ thống dây, phao neo (hoặc các cọc bê tông đổ cố định trên vùng triều) để đánh dấu, xác định vùng nuôi. Có biển báo hiệu vùng nuôi (nếu cần thiết).

2. Chuẩn bị con giống và thả giống

2.1. Tiêu chuẩn con giống:

– Có chất lượng tốt, khoẻ mạnh, hình dạng hoàn chỉnh, không dị hình, lực bám mạnh.

– Không mang mầm bệnh, được kiểm dịch trước khi đưa ra vùng nuôi (theo Thông tư số26/2016/TT-BNNPTNT ngày 30/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT).

– Kích thước chiều dài vỏ con giống đạt tối thiểu đạt 8 – 10 mm.

2.2. Vận chuyển con giống:

– Vận chuyển con giống vào lúc chiều mát hoặc buổi tối, tránh vận chuyển lúc thời tiết nắng nóng.

– Phương pháp vận chuyển:

1. Vận chuyển ướt:

+ Vận chuyển gần (dưới 3 giờ): Bào ngư giống được thu dồn và cho bám vào các bản nhựa. Đặt các bản nhựa trong các thùng xốp có nước sấp hết bản nhựa. Phủ một lớp mỏng rong biển tươi lên trên mặt và giữa các bản nhựa. Mỗi bản nhựa (kích thước: 40 cm x 30 cm) cho bám khoảng 200-300 con giống. Sục khí trong suốt quá trình vận chuyển.

+ Vận chuyển xa (từ 3-12 giờ): Bào ngư giống được thu nhốt vào trong các ống nhựa PVC, đường kính ống 70-80 mm, chiều dài ống 100-150 mm, hai đầu ống bịt lưới, trong ống cho một ít rong biển tươi (chiếm 1/3-1/4 ống). Mỗi ống nhốt khoảng 150-200 con giống. Cho các ống nhựa PVC vào các túi nilon có chứa nước (đảm bảo sấp hết các ống nhựa). Mỗi túi nilông (kích thước: 80 x 50 cm) chứa khoảng 10-15 ống PVC (khoảng 2.000 – 2.500 con giống). Bơm đầy không khí vào trong túi, buộc chặt, đặt túi vào trong các thùng xốp cách nhiệt, cho 3-4 viên đá nhỏ (đường kính khoảng 10 cm) xung quanh bên trong thùng xốp. Đậy chặt lắp, duy trì ổn định nhiệt độ trong thùng xốp khi vận chuyển 20-22oC. Sau 6-7 giờ vận chuyển, thay nước trong túi và bơm lại khí một lần.

2. Vận chuyển khô: Vận chuyển xa (từ 12-24 giờ). Bào ngư giống được thu vào trong các lồng nhựa có lắp đậy (kích thước lồng: 50 x 30 cm chứa khoảng 500 con giống). Cho lồng nhựa vào trong thùng xốp, đáy thùng có 1 lớp vải ẩm. Hạ từ từ nhiệt độ trong thùng xốp xuống khoảng 8-10oC (trong 1 giờ). Duy trì nhiệt độ trong thùng xốp trong quá trình vận chuyển bằng túi đá khô lạnh đặt sẵn trong thùng.

2.3. Kỹ thuật thả giống:

– Sau khi vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi nuôi, cần tiến hành làm cho bào ngư thích nghi với môi trường nuôi mới trước khi thả:

+ Với phương pháp vận chuyển bằng thùng xốp có sục khí: Cho thùng xốp xuống mặt biển khu vực nuôi. Múc dần nước biển tại khu vực nuôi vào các thùng xốp để bào ngư thích nghi dần với điều kiện môi trường nuôi mới (trong khoảng 10-15 phút).

+ Với phương pháp vận chuyển bằng túi nilon có bơm khí: Cho toàn bộ túi nilon chứa bào ngư giống xuống khu vực nuôi. Sau 10-15 phút, mở miệng túi nilôn để nước biển dần dần vào trong hoà lẫn với nước vận chuyển bào ngư có sẵn trong túi.

+ Với phương pháp vận chuyển khô: Chuẩn bị sẵn các thùng xốp có chứa nước biển vùng nuôi, hạ nhiệt độ nước trong thùng xuống còn 8-10oC bằng nhiệt độ trong thùng khi vận chuyển. Cho toàn bộ lồng nhựa chứa bào ngư khi vận chuyển vào trong thùng xốp, xục khí mạnh. Nhiệt độ nước trong thùng xốp tăng dần theo nhiệt độ môi trường và bào ngư sẽ dần hồi tỉnh.

– Thời gian thả giống: Quanh năm, tránh thả giống vào thời điểm nắng nóng. Tốt nhất là tháng 3-5 dương lịch hàng năm.

– Thời điểm thả giống: Vào lúc chiều muộn khi thời tiết mát mẻ(16-17 giờ chiều).

– Mật độ thả: 5-10 con/m2.

– Kỹ thuật thả: Khi thủy triều xuống thấp, đưa cả ống nhựa PVC chứa bào ngư giống xuống đáy. Bỏ lưới bịt ở hai đầu ống, ống đặt nằm ngang, đè đá chặt lên thành ống để cố định ống không bị xê dịch. Cũng có thể tách bào ngư rồi cho bám vào các viên đá, khi thả tiến hành đưa các viên đá có bào ngư bám vào trong các hang hốc trên nền đáy. Sau một thời gian, bào ngư sẽ tự bò đi, bám vào các vật bám và phát tán ra xung quanh.

3. Chăm sóc, quản lý

3.1. Chăm sóc:

Thức ăn của bào ngư là hỗn hợp rong biển: rong mơ, rong câu, rong đông…

– Từ tháng 12 năm trước đến tháng 5 năm sau: Đây là mùa phát triển của rong biển nên không cần bổ sung thức ăn, bào ngư sử dụng thức ăn sẵn có tại bãi nuôi.

– Từ tháng 6 đến tháng 11: Đây là mùa rong tàn lụi, bãi nuôi không đủ cung cấp thức ăn cho bào ngư, cần tiến hành bổ sung thức ăn từ rong biển nuôi trồng (rong câu) hoặc rong khô (rong mơ phơi khô). Khi cho ăn rong khô, ngâm rong trong nước biển từ 12-16 tiếng để rong nở ra và mềm hơn. Sau đó rong được rửa sạch, buộc chặt vào đá rồi thả đều xuống vùng nuôi. Cho ăn vào lúc 16-17 giờ chiều tối.

– Khi cho ăn bổ sung thức ăn, định kỳ cho ăn 5-7 ngày/lần. Lượng cho ăn như sau:

Stt Kích thước vỏ bào ngư nuôi (mm) Tỷ lệ (%) thức ăn/trọng

lượng bào ngư nuôi

Lượng cho ăn (kg)/1 lần cho ăn/10.000 cá thể
1 8 – 20 80 – 100 3,0-6,0
2 20 – 30 70 – 80 6,0 – 8,0
3 30 – 40 60 – 70 8,0 – 10,0
4 40 – 50 50 – 60 10,0 – 12,0
5 50 – 60 40 – 50 12,0-14,0
6 > 60 30 – 40 14,0- 16,0

Lượng cho ăn có thể được điều chỉnh theo tình hình thực tế sử dụng thức ăn của bào ngư.

3.2. Quản lý:

– Thường xuyên gia cố, thay thế, sửa chữa hệ thống dây phao neo; hệ thống cọc bê tông và các biển báohiệu vùng nuôi.

– Trông coi bảo vệ, đảm bảo an ninh, an toàn khu vực bãi nuôi bào ngư.

– Định kỳ hàng tháng tiến hành lặn kiểm tra, đánh giá tình hình bào ngư nuôi, tốc độ tăng trưởng cũng như nguồn thức ăn tự nhiên tại bãi nuôi để có hướng bổ sung.

– Phòng bệnh: Cần sử dụng nguồn giống bào ngư sạch bệnh cho nuôi thương phẩm. Con giống phải được kiểm dịch trước khi vận chuyển, thả nuôi. Trong quá trình nuôi, khi cần bổ sung thức ăn, trước khi cho ăn thức ăn cần được rửa sạch, ngâm trong Iodine 2ppm.

4. Thu hoạch bào ngư thương phẩm

– Sau thời gian nuôi 24-30 tháng, bào ngư đạt kích cỡ thương phẩm 40-50 con/kg, tỷ lệ sống 25-30%, tiến hành thu hoạch.

– Thu hoạch bào ngư lúc thủy triều xuống thấp nhất, thời tiết mát. Thu tỉa những cá thể đạt kích cỡ thương phẩm, những cá thể chưa đạt kích cỡ tiến hành nuôi tiếp.

– Cách thức thu hoạch: Lặn bắt bào ngư. Sử dụng móc sắt dài 40-50 cm, một đầu hình chữ L, một đầu nhọn để giật, cậy bào ngư bám dưới đá trong các hang hốc; hoặc lật đá để bắt bào ngư.

– Vận chuyển: Bào ngư thu gom vào rọng, thả dưới nước và vận chuyển theo thuyền. Khi vào bờ, tiến hành úp phần thịt của hai cá thể bào ngư lại với nhau để tránh cơ thể bị mất

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.