Tan nát hàng ngàn lồng bè thủy sản vùng tâm bão đi qua

Ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa đang chịu ảnh hưởng vô cùng nặng nề của cơn bão số 12. Hàng ngàn lồng bè nuôi tôm cá bị cuốn trôi, bão đánh phá hư hỏng, nhiều hộ dân thiệt hại hàng trăm, thậm chí hàng tỷ đồng.
Huyện Vạn Ninh là địa phương có diện tích nuôi thủy, hải sản lớn của tỉnh Khánh Hòa. Theo UBND huyện Vạn Ninh, tính đến nay, bão số 12 đã khiến gần 12.400 lồng bè thủy sản của địa phương này bị thiệt hại hoàn toàn.
Tại xã Vạn Thắng (Vạn Ninh) có hàng chục hộ nuôi tôm hùm với hàng trăm lồng bè bị bão nhấn chìm hoàn toàn. Không giấu được nỗi buồn, anh anh Lê Thanh Bình (trú thôn Quảng Hội 2, Vạn Thắng, Vạn Ninh) cho biết: “Vụ tôm hùm vừa qua tôi thả nuôi 1000 con tôm hùm giống. Tôm nuôi được 7 tháng rồi. Cơn bão ập đến đã cuốn đi tất cả. Tính cả tiền giống, tiền chi phí thức ăn, làm lồng bè thì nhà tôi đã mất khoảng 1 tỷ đồng”.
Tương tự như gia đình anh Bình, năm nay, chị Trần Thị Hoài (thôn Quảng Hội 2, Vạn Thắng) cũng bị bão cuối trôi, phá hủy lồng bè nuôi 5000 con tôm hùm lớn nhỏ, thiệt hại lên đến gần 3 tỷ đồng.
Ở khu vực Đầm Môn (xã Vạn Thạnh, Vạn Ninh) cũng có hàng trăm hộ dân sinh sống bằng nghề khai thác và nuôi trồng thủy hải sản. Trong đó phần lớn là nuôi tôm hùm và cá chim, cá bớp.

Một số hộ gia đình “may mắn” còn lại xác lồng

Chi sẻ với PV, một người dân thôn Đầm Môn cho biết, gia đình chị vay mượn ngân hàng hơn 300 triệu đồng để nuôi tôm hùm, đến nay cũng được hơn 5 tháng tuổi. Bão đến bất ngờ quá, cuốn hết tất cả. Bây giờ cả gia đình chị không biết trông phải trông cậy vào đâu.
Nói trong cay đắng, ông Tư Bụi (Đầm Môn, Vạn Thạnh) cho biết: “Ngay khi có thông tin bão đổ bộ, cán bộ xã và xóm ngay lập tức đã thông báo với bà con để đưa thuyền vào nơi tránh trú. Tuy nhiên toàn bộ tài sản với gần 80 lồng bè nuôi tôm hùm của tôi bão đập nát, ước tính thiệt hại gần 2 tỷ đồng”.
Theo thống kê sơ bộ của BCH PCTT – TKCN tỉnh Khánh Hòa, ngoài huyện Vạn Ninh toàn tỉnh còn có nhiều địa phương nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng như Nha Trang, Ninh Hòa, Cam Ranh… với 22.700 lồng bè nuôi tôm cá bị trôi hoàn toàn và chưa thể thống kê được mức thiệt hại cụ thể.
Một số hình ảnh ghi lại cảnh tan hoang của những lồng bè thủy sản sau bão Con Voi do bà Phan Thị Vân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thủy sản I cùng các cán bộ của Viện có mặt tại hiện trường ghi được:

Theo NNVN, kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Cấp 1.000 tỷ đồng khắc phục hậu quả bão, lụt

Tại hội nghị trực tuyến với một số tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên chiều 6-11, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cấp 1.000 tỷ đồng để khắc phục hậu quả do bão số 12 gây ra. Đồng thời, những tỉnh bị thiệt hại nặng như: Khánh Hòa, Phú Yên… sẽ được hỗ trợ ít nhất 500 tấn gạo và thuốc men để phục vụ công tác ứng cứu.

Chiều 6-11, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì cuộc họp trực tuyến với một số tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên về công tác khắc phục hậu quả cơn bão số 12. Dự họp tại điểm cầu Khánh Hòa có các ông: Lê Thanh Quang – Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Tấn Tuân – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Lê Đức Vinh – Chủ tịch UBND tỉnh, cùng đại diện các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, bão số 12 đã gây ra thiệt hại nặng nề với 46 người chết, 15 người bị thương. Hơn 1.350 nhà bị sập đổ và 114.860 nhà bị tốc mái, hư hỏng. Đến nay, đã có hơn 1.280 tàu cá bị chìm, hư hỏng; khoảng 5.300ha lúa, 14.850ha rau màu bị ngập, thiệt hại. Khánh Hòa là tỉnh bị thiệt hại nặng nhất.

Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai đề nghị Thủ tướng hỗ trợ thêm lực lượng để các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên khôi phục mạng lưới điện và viễn thông một cách sớm nhất; Chính phủ sớm có chính sách hỗ trợ người dân ở những tỉnh bị thiệt hại nặng.

Báo cáo tại cuộc họp, ông Lê Đức Vinh cho biết, đến thời điểm này tỉnh Khánh Hòa có 27 người chết. Ngoài ra, còn có 133 người bị thương và 5 người mất tích. Về nhà ở, toàn tỉnh có 993 nhà sập hoàn toàn, 97.851 nhà tốc mái, trong đó tập trung chủ yếu ở TP. Nha Trang, thị xã Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh. Về chăn nuôi, có nhiều chuồng trại bị sập, tốc mái, dẫn đến bị cuốn trôi và chết khoảng 241.000 con gia cầm, 400 con heo và 130 con bò. Toàn tỉnh có khoảng 25.311ha cây trồng bị thiệt hại, trong đó có hơn 3.800ha lúa, 1.317ha rau màu, 2.300ha cây hàng năm, hơn 2.600ha cây ăn quả. Về thủy sản, có hơn 1.200ha đìa tôm, cá bị vỡ, 24.320 lồng nuôi thủy sản bị cuốn trôi, hơn 1.000 tàu thuyền bị đánh chìm. Bên cạnh đó, bão còn làm 28,6km bờ sông bị sạt lở, 12km kênh mương bị đứt gãy, sạt lở khoảng 42km đường giao thông bê tông. Về công nghiệp, có 720 trụ điện bị gãy, hàng trăm kilômet dây truyền tải bị đứt, 50 trạm biến thế bị hư hỏng. Ngoài ra, còn có 79 cơ sở y tế bị tốc mái, hư hỏng trang thiết bị, hàng nghìn cây xanh bị gãy.

Ông Lê Đức Vinh kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo hỗ trợ khẩn cấp cho Khánh Hòa 25.000 tấn gạo; 200.000 viên sát khuẩn Aquatasbs, 5.000kg Cloramin B để khử khuẩn, làm sạch nước; 30.000 lít chất sát trùng để khử trùng tiêu độc ở môi trường chăn nuôi, khu vực buôn bán gia súc, gia cầm; 50.000 lít hóa chất Chlorine để xử lý mầm bệnh và phòng bệnh các vùng nuôi trồng thủy sản; 15.000 liều vắc xin tai xanh. Về kinh phí, tỉnh đề nghị Trung ương hỗ trợ 1.155 tỷ đồng, trong đó 400 tỷ để sửa chữa các công trình y tế, trường học, trụ sở cơ quan, các công trình hạ tầng kỹ thuật; 500 tỷ đồng để khắc phục các công trình giao thông, thủy lợi, công trình sạt lở bảo vệ bờ…

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chia sẻ, gửi lời chia buồn đến các gia đình có người bị nạn, đồng thời biểu dương các cấp, các địa phương trong việc ứng cứu bão lụt. Thủ tướng yêu cầu chính quyền các cấp tiếp tục chỉ đạo đồng bộ công tác khắc phục hậu quả của bão để nhân dân không bị đói, không bị màn trời chiếu đất, không bị dịch bệnh. Đảm bảo giao thông đi lại ở các quốc lộ, tỉnh lộ và lượng thuốc men cần thiết. Các địa phương cần giải quyết tốt chế độ cho người dân, không để người dân thiếu ăn và dịch bệnh xảy ra. Tại cuộc họp, Thủ tướng đã quyết định hỗ trợ 1.000 tỷ đồng cho các tỉnh bị thiệt hại do bão số 12; đồng thời hỗ trợ một lượng gạo cần thiết cho các tỉnh, trong đó những tỉnh bị thiệt hại nặng như Khánh Hòa, Phú Yên ít nhất 500 tấn, các tỉnh bị thiệt hại nhẹ hơn 200 tấn.

Nguồn: Baokhanhhoa.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

10.000 lồng tôm hùm tan nát sau bão số 12

Cơn bão số 12 Damrey đã đi qua nhưng những thiệt hại mà nó để lại hậu quả khá nặng nề. Thiệt hại nặng nhất là đối với những người ngư dân nuôi trồng thuỷ sản. Hàng trăm gia đình ở xã Xuân Thịnh (thị xã Sông Cầu, Phú Yên) mất trắng mùa tôm hùm, thiệt hạị hàng trăm tỷ đồng sau khi bão số 12.

Tàu thuyền bị dạt vào trong bờ sau trận bão lịch sử

Nguồn: Zing.vn

Dù không phải là nơi tâm bão đổ bộ nhưng người dân vịnh Xuân Đài vẫn chịu thiệt hại lớn khi hàng nghìn lồng nuôi tôm hùm từ 4 – 7 tháng tuổi, chuẩn bị thu hoạch bị sóng đánh hư hỏng, mất tôm.

Hàng nghìn lồng tôm bị hư hỏng nặng sau cơn bão số 12

Nguồn: Zing.vn

Sau khi bị sóng đánh hư hỏng, nhiều lồng tôm trôi ra biển, dạt vào vách núi và vào bờ thôn Vịnh Hảo, xã Xuân Thịnh, thị xã Sông Cầu. Có lồng tôm bị gió hất lên cành cây, vào nhà dân sống cạnh biển.

Theo anh Nguyễn Văn Thể (thôn Vịnh Hảo, xã Xuân Thịnh), bão số 12 đánh hư tất cả các lồng, số ít còn sót lại được người dân vá lưới để thả lại xuống biển tiếp tục nuôi lại tôm hùm. Mỗi người dân trung bình nuôi 20-30 lồng tôm, có nhà nuôi đến 70-80 lồng. Người dân xã Xuân Thịnh chỉ biết chắt chiu các lồng cũ để vớt vát chút tôm còn sót lại sau khi bão đánh tan cả 1 vùng nuôi tôm lớn ở vịnh Xuân Đài.

Ngư dân mang lồng tôm bị hư hỏng còn sót lại lên bờ vá lưới

Nguồn: Zing.vn

Anh Nguyễn Văn Thể bưng lồng tôm bị hư hỏng lên bờ vá lưới, buộc thép trước khi thả lại xuống biển. “Vụ tôm hùm vừa qua tôi thả nuôi 1.000 con tôm giống. Tôm nuôi được 7 tháng rồi. Cơn bão ập đến đã cuốn đi tất cả. Tính cả tiền giống, tiền chi phí thức ăn, làm lồng bè thì nhà tôi đã mất khoảng 1 tỷ đồng”, anh Thể nói. Theo người dân, lâu nay chưa có cơn bão nào đổ bộ làm lồng tôm hư hỏng, mất sạch tôm như năm nay. Những năm trước trời mưa, lụt lớn nước ngọt đổ ra vịnh thì tôm chết. Lần này tôm vừa mất mà lồng còn hư hỏng, thiệt hại lớn, có nhà mấy tỷ đồng.

Hình ảnh người dân vá lưới

Nguồn: Zing.vn

“Chỉ còn 1 đến 2 tháng nữa gia đình tôi đã thu hoạch tôm hùm rồi, giờ bão cuốn đi sạch. Vừa mất không có tiền bán tôm còn không biết lấy tiền đâu trả ngân hàng. Cả nhà mong còn 1,2 lồng nhưng tìm hoài không còn, mất sạch rồi”, anh Lê Khánh (45 tuổi, thôn Vịnh Hảo) buồn bã. Cũng theo anh, người dân chỉ biết chắt chiu lại những lồng hư hỏng nhẹ để vá lưới, buộc thép thả lại xuống biển tiếp tục nuôi tôm. Nhiều nhà buộc phải làm lại lồng nuôi tôm mới với giá 5-7 triệu/lồng.

Hình ảnh hàng nghìn lồng tôm hùm dính chặt vào nhau cùng trôi dạt vào bờ biển ai cũng quặn lòng

Nguồn: Zing.vn

Theo news.zing.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Tác dụng của bột bã mía và mật rỉ đường trong ao nuôi tôm

Hiện nay, sử dụng giải pháp sinh học để ổn định chất lượng nước cũng như hạn chế dịch bệnh trong nuôi tôm đang ngày càng trở nên phổ biến. Trong đó, bột bã mía và mật rỉ đường được xem là nguyên liệu rẻ tiền nhưng lại có tác hiệu quả trong việc kiểm soát các yếu tố chất lượng nước.

Bột bã mía trong nuôi tôm

Bã mía chiếm từ 20-30% trọng lượng mía đem ép. Tùy theo giống mía và thổ nhưỡng của nơi trồng mà thành phần hóa học trong mía sẽ thay đổi. Bã mía sau khi đem sấy khô, nghiền thành bột sẽ có các thành phần chính là: Cellulose(Xơ): 45-55%, Hemicellulose: 20-25%, Lignin: 18-24%, Tro: 1-4%, Sáp <1%.

Trong ao nuôi tôm, bột bã mía có tác dụng ổn định môi trường nước, giúp phát triển hệ vi sinh có lợi, cung cấp chất khoáng cho tảo, bổ sung các chất Fe, Zn cho tôm nuôi… Theo “vua tôm” Võ Hồng Ngoãn thì quy trình sử dụng bột bã mía trong ao nuôi tôm như sau:

+ Sau khi cải tạo ao, sẽ dùng bột bã mía để gây màu nước với liều lượng 1kg/100m3 nước. Đối với ao thuần thì bón 5 ngày/1 lần, riêng ao đã bị chai nền đáy thì cần bón 2 ngày/1 lần.

+ Trong 2 tháng đầu, người nuôi không cần sử dụng chế phẩm sinh học hay khoáng bổ sung vào nước mà chỉ bón định kỳ bột bã mía 10kg/1000m3 nước ao. Lưu ý cần phải kiểm tra các yếu tố môi trường nước(mật độ vi khuẩn trong nước, PH, kiềm…) trước khi bón 1 ngày và sau khi bón 2 ngày. Điều này, sẽ giúp ước lượng chính xác liều lượng bột bã mía cần sử dụng.

+ Sau 2 tháng nuôi, tôm đã lớn, lượng chất thải cũng nhiều hơn. Do đó, ngoài việc sử dụng bột bã mía định kỳ, cần bổ sung thêm chế phẩm sinh học để môi trường nước luôn ổn định.

+ Trong quá trình nuôi, cần theo dõi kỹ màu nước , các yếu tố môi trường, để có sự điều chỉnh hợp lý lượng  bột bã mía cần bón.

Mật rỉ đường

Mật rỉ đường chiếm 3-5% trọng lượng mía đem ép, và có thành phần chính gồm: Nước 20%, đường saccaro 35%, đường khử 20%, Tro 15%, Protetin 5%, Sáp 1%, Bột 4%,và một số loại khoáng Fe, Al, Ca, Mg, P, K.

Trong ao nuôi, tôm chỉ sử dụng 20-30% lượng đạm trong thức ăn, phần còn lại sẽ chuyển hóa loại đạm có độc là NH3 và NO2.

Do đó, các nhà khoa học đã tận dụng cơ chế hoạt động của các loại vi khuẩn dị dưỡng là sử dụng carbon và nitơ để tổng hợp protein, nhằm loại bỏ hai chất độc hại này. Điểm mấu chốt ở đây, là cần bổ sung nguồn carbon cho ao nuôi tôm. Và mật rỉ đường chính là sự lựa chọn thích hợp cho giải pháp này.

Các thử nghiệm tại cơ quan nghiên cứu của Úc đã cho rằng bón mật rỉ đường với liều lượng 30 lít/ha là thích hợp nhất, vì sẽ rất an toàn, hữu ích giúp giảm chi phí và giảm được pH trong ao nuôi.

Ngoài việc hòa với nước tạt đều khắp ao, mật rỉ đường còn được sử dụng để ủ với men vi sinh để xử lý nước trong nuôi trồng thủy sản: ủ mật đường với men vi sinh từ 3-6 h sục khí liên tục và tạt xuống ao.

Kết Luận: Mật rỉ đường và bột bã mía đều là những phế phẩm trong nông nghiệp, khi sử dụng trong thủy sản mang lại nhiều lợi ích như giúp giảm chi phí đầu tư, cho ra sản phẩm sạch, góp phần bảo vệ môi trường. Hi vọng, đây cũng sẽ là một giải pháp giúp ngành nuôi tôm công nghiệp bền vững hơn trong tương lai.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Ngăn chặn dịch bệnh từ thức ăn và nguồn dinh dưỡng tối ưu cho nuôi trồng thủy sản

Ngành thủy sản phát triển và thay đổi nhanh chóng với sự gia tăng các hệ thống nuôi nước ngọt, nước mặn bằng thức ăn ép đùn. Trong khi, bột cá trở thành vấn đề nóng của ngành thức ăn thủy sản bởi thế giới vẫn đang nỗ lực tìm kiếm nguồn protein bền vững có khả năng thay thế.

Phần 1: Chặn dịch bệnh từ nguồn thức ăn

Nguồn protein động vật dồi dào nhất và có thể trở thành nguyên liệu thức ăn thủy sản chính là những nguồn protein trong ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm; gồm sản phẩm phụ từ gia cầm, bột gia cầm, bột lông vũ, bột huyết, bột xương heo và sản phẩm phụ từ động vật nhai lại. Đây thực sự là nguồn protein vô tận. Ngoài những sản phẩm này, còn có nhiều loại bột protein thực vật có nguồn gốc từ các loại hạt có dầu, hạt ngũ cốc và các loại protein đậm đặc từ đậu Hà Lan, khoai tây, đậu lupin.

Có lẽ, nguồn protein tiềm năng và đáng chú ý nhất chính là nguồn protein vi sinh vật từ nguồn chất thải và chất nền trong ngành nông nghiệp chi phí thấp, gồm protein đơn bào (SCP), nấm men đơn bào, tảo đơn bào. Một nguồn protein là bột protein từ các loại động vật không xương sống (như côn trùng, giun nhiều tơ) cũng đang ngày càng được quan tâm. Thế nhưng chỉ trừ khi chúng ta sản xuất được hàng nghìn tấn sản phẩm này, thì chúng mới được coi là nguồn protein không giới hạn.

Tuy nhiên, dù là nguồn thức ăn nào, chúng đều có thể trở thành hiểm họa gây ra dịch bệnh nếu chất lượng không đảm bảo. Thời gian qua, dịch bệnh AHPND và EMS đã tàn phá các trang trại nuôi tôm. Nguồn thức ăn từ vật sống chưa qua tiệt trùng trong suốt chu kỳ nuôi tôm bố mẹ, tôm giống (gồm cả việc sử dụng các loại giun nhiều tơ sống, Artemia và sinh khối) và một lượng ít các loại thức ăn từ bột đầu tôm trong pha nuôi tăng trưởng đều tiềm ẩn hiểm họa dịch bệnh.

Thật tiếc chưa có nhiều quốc gia quản lý an toàn thức ăn chăn nuôi thủy sản bằng luật pháp, ví dụ như hệ thống quản lý sản xuất các loại thức ăn chăn nuôi tổng hợp. Do đó, việc làm thế nào để đảm bảo người nông dân tiếp cận được nguồn thức ăn chăn nuôi chất lượng, đáp ứng mọi tiêu chí dinh dưỡng của các vật nuôi trong khâu tăng trưởng và khỏe mạnh vẫn còn là vấn đề nan giải.

Để đảm bảo nguồn thức ăn không còn là mầm mống của dịch bệnh cho các trại thủy sản, chúng ta cần vạch ra những bước đi cụ thể cho chuỗi cung ứng thức ăn chăn nuôi. Để làm được việc này, có hai hướng khả thi. Trước tiên, những nguồn nguyên liệu thức ăn từ động vật hay thực phẩm sống khi bán ra thị trường buộc phải đảm bảo sạch bệnh hoặc được khử trùng trước khi vận chuyển. Thứ hai, nguồn thức ăn đó cũng phải được khử trùng trong suốt giai đoạn chế biến dù là chế biến bằng công nghệ ép đùn hay xạ chiếu tia gamma. Ngoài ra, việc cho vật nuôi ăn lại nguồn thức ăn chế biến từ chính nó (ví dụ dùng bột đầu tôm để nuôi tôm) nên bị cấm bằng cơ chế luật pháp cứng rắn; mục đích ngăn chặn sự xuất hiện dịch bệnh từ các nguồn thức ăn chế biến bằng vật nuôi nhiễm bệnh.

Phần 2: Nguồn dinh dưỡng tối ưu

Những vướng mắc lớn nhất trong ngành sản xuất thức ăn thủy sản, cụ thể là ngành thức ăn nuôi tôm hiện nay lại nằm ở các trại nuôi và khâu quản lý. Theo tôi, ngành công nghiệp nuôi tôm phải học hỏi và đi theo ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm ở khía cạnh an toàn sinh học và dứt khoát từ bỏ hệ thống nuôi mở trong ao để phát triển và xây dựng hệ thống nuôi khép kín theo các tiêu chuẩn an toàn sinh học đầy đủ.

Ngoài ra, một nguồn thức ăn nuôi tôm được đánh giá là thành công hay không lại phụ thuộc vào khâu quản lý thức ăn ở trang trại đó, đây chính là nhiệm vụ của người nông dân (những người trực tiếp tham gia sản xuất). Các “vệ tinh” xung quanh là các công ty sản xuất thức ăn và chính phủ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và hỗ trợ người nông dân hoạt động. Hầu hết trại nuôi tôm tại châu Á đều do nông dân làm chủ và hoạt động theo quy mô nhỏ với nguồn lực tài chính và cơ hội tiếp cận kênh thông tin khoa học kỹ thuật chính thống còn rất hạn chế. Ngành tôm nuôi cũng sẽ nối gót ngành cá vây nuôi từ việc tăng cường sử dụng các loại thức ăn ép đùn nhằm cải thiện dinh dưỡng và tăng trưởng cho tôm cho đến gia tăng nguồn thức ăn an toàn sinh học. Cuối cùng là giảm chi phí thức ăn trên mỗi đơn vị sản phẩm, chú trọng sản xuất các loại phụ gia thức ăn nhạy cảm nhiệt, enzymes, vitamin, chất tạo màu và probiotics.

Khi bạn quản lý thức ăn tốt, thì cũng góp phần mang lại thành công cho cả trang trại. Cần phải nhớ rằng, ngành nuôi trồng thủy sản đang được coi là chìa khóa giải bài toán an ninh lương thực, nhất là khi dân số toàn cầu bùng nổ. Cá và các loại thủy sản có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp chất dinh dưỡng cho con người. Đây là một trong 3 nguồn protein chủ lực cho con người sau ngũ cốc và sữa, chiếm 6,5% tổng nguồn cung protein toàn cầu hoặc 16,4% tổng nguồn cung protein động vật. Tuy nhiên, nguồn thủy sản tự nhiên không thể đáp ứng được nhu cầu của thế giới khi dân số gia tăng suốt 2 thập kỷ qua và do đó nuôi trồng thủy sản trở thành tia hy vọng về một nguồn cung protein bền vững. Mặt khác, thủy sản là nguồn dinh dưỡng có giá phù hợp với người tiêu dùng, thậm chí ở những quốc gia châu Phi nơi có thu nhập thấp và ở châu Á. Riêng khu vực châu Á, cá và sản phẩm thủy sản là nguồn protein chủ lực sau ngũ cốc và các loại rau, chiếm 7,5% nguồn cung protein toàn khu vực và 21,9% nguồn cung protein động vật nói riêng.

Từng nghiên cứu sâu về dinh dưỡng thủy sản, tôi luôn mong chờ mọi cá nhân và tập thể trong ngành nuôi trồng thủy sản nhận thức được giá trị thực của từng sản phẩm mà họ đang sản xuất. Đó không chỉ là những sản phẩm chứa hàm lượng dưỡng chất quan trọng hàng đầu như DHA hay EPA, mà tất cả các dưỡng chất khác như các loại protein chất lượng cao, tốt cho tiêu hóa; từ đó đưa thủy sản thực sự trở thành một “siêu thực phẩm” – sự lựa chọn dinh dưỡng tối ưu cho con người.

Nguồn: Tiến sĩ Albert C.J.Tacon được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bảo vệ thủy sản mùa mưa lũ

Đối với những đối tượng nuôi trong ao , đầm, hồ ( ao nuôi vỗ cá bố mẹ, ao ương giống và ao nuôi thương phẩm )

– Kiểm tra và tu bổ lại bờ ao chắc chắn đảm bảo giữ được nước. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi.
– Tại cống xả tràn đặt lưới chắn hình chữ V để tăng diện tích thoát nước nhằm tránh cá thoát ra ngoài khi có lũ lụt lớn xảy ra.
– Tháo bớt nước trong ao, chuẩn bị đăng chắn, dụng cụ cọc tre, cuốc xẻng để gia cố sửa chữa hệ thống bờ, cống, có lưới chắn phòng tràn bờ gây thất thoát thủy sản nuôi khi mưa to, gió lớn. Rải vôi xung quanh bờ ao phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi.
– Bổ sung vitamin C vào thức ăn để giúp cá, tôm tăng sức đề kháng. Đối với tôm 1 kg Vita – C/ 500 kg thức ăn, đối với cá 2g Vita – C/1kg thức ăn
– Sau mỗi đợt mưa bão cần tiến hành thu dọn kịp thời cành, lá cây trong ao; đồng thời tiến hành kiểm tra chất lượng nước trong ao nuôi để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp như bón vôi (1 – 3 kg/100m2) để ổn định môi trường, điều chỉnh màu nước hoặc có thể thay nước khi cần thiết.
Những ao nuôi đạt cỡ thương phẩm nên thu hoạch để hạn chế thiệt hại.Đối với những ao nuôi tôm thương phẩm bà con cần chú ý theo dõi và bổ xung oxy hợp lý bằng quạt nước hoặc máy bơm đồng thời tránh phân tầng nước trong ao nuôi. Chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng điện lưới bị cắt. Bờ ao phải đắp cao hơn mức nước cao nhất ít nhất 0,4-0,5m trở lên, Ao nuôi cần có hệ thống thu gom nước mưa xung quanh, tránh nước mưa xung quanh đổ dồn xuống ao, làm pH giảm đột ngột, có thể làm cá chết hàng loạt.

Đối với những mô hình nuôi cá lúa

– Gia cố bờ ruộng chắc chắn và đắp bờ cao hơn mực nước 0,5 m để vượt lũ, xung quanh ruộng nuôi phải bố trí nhiều cống thoát nước.
– Phải căng lưới bao xung quanh bờ ruộng và thường xuyên kiểm tra để khắc phục trường hợp lưới rách hoặc nước chảy làm trống dưới chân lưới sẽ thất thất thoát
– Thường xuyên kiểm tra lưới, hệ thống cống, bờ và đắp lại những nơi xung yếu chống tránh tình trạng vỡ bờ. Dọn sạch đăng cống, mương rãnh để nước thoát nhanh.
– Chuẩn bị máy bơm tiêu úng khi cần thiết.( chuẩn bị thêm máy phát điện nếu có để đề phòng điện lưới bị mất )
– Phương án phòng tránh lũ lụt cần phải được tính toán cho cả vùng nuôi.

Đối với những mô hình nuôi lồng bè trên sông và hồ nước lớn

– Kiểm tra lại lồng bè, gia cố lại hệ thống dây neo, phao lồng và di chuyển vào nơi kín gió, có dòng chảy nhẹ để tránh gió bão làm hỏng lồng
– Trong trường hợp lồng không thể di chuyển cần hạ độ sâu của lồng để giảm bớt sóng, gió.
– Thường xuyên vệ sinh lồng sạch sẽ, thông thoáng để thoát nước và treo túi vôi trước dòng chảy để phòng bệnh cho cá.
– Chuẩn bị thuyền máy, phao cứu sinh hỗ trợ khi cần thiết.
– Đối với người nuôi trồng thủy sản.Tuyệt đối không ở lại chòi canh, lồng bè nuôi khi có mưa bão lớn đổ vào nhằm đảm bảo an toàn tính mạng cho người nuôi thủy sản.Có kế hoạch sơ tán dụng cụ thiết bị, vật tư, thức ăn…Theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết: mực nước lũ trên các con sông và tình hình mưa bão trên các phương tiện thông tin đại chúng để chủ động đối phó nhằm bảo vệ thuỷ sản nuôi một cách có hiệu quả.

Đối với nuôi tôm nước lợ

– Những vùng nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh trong vùng đầm hiện nay, người nuôi cần kiểm tra hoạt động của tôm nuôi và môi trường nước trước và sau mưa để có biện pháp xử lý kịp thời, tăng cường gia cố, tu sửa bờ ao, cống lấy nước để hạn chế hư hỏng, sạt lở làm thất thoát sản phẩm.
– Thường xuyên theo dõi, cập nhật dự báo thời tiết để có biện pháp thu hoạch trước khi lũ lụt xảy ra.
– Để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế hoạch điều tiết nước như trước khi mưa to cần phải lấy nước có độ mặn thích hợp vào ao và để mực nước trong ao cao nhất. Trong khi mưa nên tránh các hoạt động làm xáo trộn nước trong ao nuôi và sau khi mưa cần nhanh chóng rút bớt nước ở tầng mặt của ao bằng cách tháo các cánh phai của cống thoát.
– Những vùng nuôi tôm quảng canh cải tiến thân thiện môi trường, nuôi theo hình thức đánh tỉa thả bù, người nuôi khẩn trương tận thu các sản phẩm: tôm; cua; cá, tránh thất thoát sản phẩm khi bão lụt xảy ra
– Đối với các vùng đất bị chua phèn, rắc vôi quanh bờ phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Đồng thời cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi điện lưới bị mất
– Các vùng nuôi tôm trên cát chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão từ biển đổ vào, người nuôi cần phải quan tâm đến việc củng cố ao nuôi vững chắc, chủ động nguồn nước phục vụ cho sản xuất. Tích cực áp dụng các biện pháp phòng bệnh cho tôm khi thời tiết thay đổi bất thường.

Đối với nuôi thủy sản trên biển

Tiến hành thu hoạch trước mùa mưa lũ nếu cá, tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Nếu không thể thu hoạch trước mùa mưa lũ, cần kiểm tra lại lồng bè, tu sửa lại những chỗ xung yếu, củng cố lại các dây neo, tìm vị trí an toàn để di chuyển lồng, bè vào những nơi kín gió, nơi không bị ảnh hưởng nước ngọt, dòng chảy nhẹ để tránh khi bão gió lớn xô đẩy làm vỡ lồng, bè.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phòng bệnh cho cá nuôi mùa mưa lũ

Các dạng bệnh ký sinh trùng trên cá nuôi (đặc biệt là bệnh ngoại ký sinh trùng) thường phát sinh nhiều trong mùa mưa, lũ. Lý do là trong mùa mưa, nhiệt độ môi trường nước thường xuống thấp- nhất là vào những lúc thời tiết âm u, mưa lũ kéo dài và hàm lượng chất hữu cơ thường tập trung cao trong nước do sự rửa trôi của vật chất hữu cơ xuống các ao, hầm, sông, kênh, rạch. Đây là yếu tố tạo điều kiện cho các ký sinh trùng như: Trùng bánh xe, trùng mỏ neo, trùng quả dưa, sán lá … phát sinh và phát triển trong môi trường nước.


Để phòng trị các dạng bệnh ngoại ký sinh trùng trên cá, ngư dân thường sử dụng các loại hoá chất như: Formol, thuốc tím, phèn xanh (sulphat đồng), vôi, muối..
Nhưng hiện nay, trước xu hướng hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước do các hoá chất độc hại cùng với phương châm “phòng bệnh hơn trị bệnh”, rất mong bà con nông dân thực sự quan tâm đến công tác phòng bệnh và chỉ sử dụng các loại hoá chất không làm ô nhiễm môi trường nước (vì hoá chất Formol, thuốc tím, phèn xanh độc hại làm ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng, cần hạn chế sử dụng- đặc biệt là hạn chế trong mô hình nuôi cá bè và cá đăng quần, và việc sử dụng các loại hoá chất trên thường gây sốc cho cá trong quá trình sử dụng).


Hai loại hoá chất nên dùng để phòng bệnh cho cá nuôi (thường gặp nhất là các bệnh ngoại ký sinh trùng) trong mùa mưa lũ, đó là muối (NaCl) và vôi nông nghiệp (CaCO3)
+ Vôi và muối cho vào túi vải treo ở 4 gốc nơi cho cá ăn và nên bắt đầu treo khi cho cá ăn (mỗi loại một túi cho mỗi góc) với liều lượng:
– Nuôi bè và đăng quần: Vôi: 2-5 kg/túi, muối 10-20kg/túi.
– Nuôi ao hầm: Vôi: 1-2kg/túi, muội-10kg/túi
+ Liều lượng trên có thể thay đổi trong phạm vi cho phép tuỳ theo qui mô, diện tích nuôi và thể tích nước của đàn cá nuôi. Định kỳ 10-15 ngày thực hiện một lần. Nếu phát hiện đàn cá nuôi có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ dội, trên da và mang có nhiều nhớt, cá bệnh chết với số lượng ít và tăng không đáng kể thì thực hiện việc treo vôi và muối trong 3 ngày liên tục (trong mô hình nuôi ao hầm thì mỗi ngày thay 10-15% thể tích nước ao). Đồng thời đem mẫu cá bệnh nhờ cán bộ thuỷ sản hỗ trợ trong việc chuẩn đoán bệnh cá.

Bên cạnh đó, có thể sử dụng thêm lá xoan, dây giác, cỏ mực đập giập bọc lại bằng lưới cước treo ở đầu bè hoặc ở chỗ cho ăn với liều lượng mỗi lần treo từ 5-10kg để nâng cao hiệu quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trùng trong mùa mưa, lũ.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh

NGUỒN HÀNG

Để kinh doanh cá cảnh, bạn phải đến trại cá giống để mua cá về bán. Cá có giá từ 3.000 đồng đến vài triệu đồng/ cặp tùy loại cá, nên mua nhiều để được hưởng giá gốc.

PHỤ KIỆN

Trước tiên là bể chứa, hồ kính. Giá của bể từ 200.000 đồng/bể tùy loại. Ban đầu, chỉ nên mua 2–3 bể loại nhỏ hoặc vừa, khi nào việc kinh doanh ổn định thì trang bị thêm. Ngoài ra, cần có máy sục khí, bộ lọc nước, cây thủy sinh, vợt bắt, san hô để trang trí bể cá thêm thu hút. Bên cạnh đó còn có thức ăn, kệ để đựng bể cá, dung dịch vệ sinh bể. Có thể dễ dàng mua được những vật dụng này tại các siêu thị, chợ đầu mối.

XỬ LÝ NƯỚC

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh là cần phải chú ý tới nguồn nước. Nếu ở thành thị, chủ yếu dùng nước máy, bạn phải xử lý nước máy vì chúng có nhiều clo (chất tẩy) dễ làm chết cá. Để khử clo, bạn cho nước vào chậu lớn, đặt ở nơi có nhiều ánh sáng trời (có gió càng tốt, ít nhất 9 giờ) để clo mau bốc hơi hơn. Có thể dùng dung dịch khử clo (10.000 đồng/ lọ) song cũng đừng quá lạm dụng vì các thành phần hóa học trong dung dịch cũng có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cá. Đối với nước giếng, khả năng nhiễm phèn hoặc mặn cao, bạn dùng máy sủi để xử lý độ pH trong nước giếng, hoặc dùng than hoạt tính để khử.

TUÂN THỦ NGIÊM NGẶT CÁC QUY TẮC

Nhiệt độ thích hợp cho một bể cá nuôi là 26 – 28°C. Cần dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ thường xuyên. Nếu nước quá lạnh, dùng cây sưởi nhiệt (có bán ở các tiệm phụ kiện cá cảnh) để cân bằng lại.

• Ánh sáng: Ánh nắng trực tiếp hoặc tăm tối, thiếu nắng đều khiến cá dễ bị bệnh. Nên bổ sung đèn chiếu sáng cho hồ, dưới 8 giờ/ngày, với công suất nhỏ. Tốt nhất nên đặt hồ cá ở nơi râm mát.

• Ô-xy: Dùng máy sục khí (có bán ở các cửa hàng phụ kiện) để cung cấp ô-xy, giúp cá thở tốt hơn. Đối với những hồ có diện tích trên 70cm, bổ sung máy lọc nước để làm sạch nước cho hồ.

• Vệ sinh: Khi thay nước hồ cá, giữ lại khoảng 30% lượng nước cũ trong hồ và hòa với số nước mới thay để cá không bị chết do sốc nước, chênh lệch độ pH. Đối với những cặn bã, dùng ống bơm bằng tay để hút.

NẮM BẮT THỊ TRƯỜNG

Kinh nghiệm kinh doanh cá cảnh cho thấy, khách chơi cá cảnh theo phong trào, phong thủy. Vì vậy, cần thông qua các kênh thông tin điện tử để biết loại cá nào đang thịnh, hoặc ít nhất những loài nào đang được mọi người nuôi phổ biến để đáp ứng đúng lúc. Bán cá cảnh cũng bám thời sự, cá càng lạ càng hợp thời thì càng bán đắt.

BÍ QUYẾT KINH DOANH

Tổng vốn cần khoảng 40 triệu đồng cho các khoản gồm bể kính, phụ kiện, mặt bằng và những giống cá phổ thông như bảy màu, lia thia, hồng két. Muốn kinh doanh những dòng cá cao cấp la hán, hồng long, cần đầu tư vài trăm triệu đồng và bổ sung thêm kiến thức.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Tập thể hình, ép cân cho cá lăng đen để tạo chất lượng độc đáo

Nuôi cá lăng đen vốn không xa lạ với người dân ở các tỉnh miền Bắc. Tuy nhiên, tuyệt chiêu giảm cân cho cá để chất lượng cá ngon hơn, săn hơn, bán đắt hơn thì quả là mới mẻ. Người đang sở hữu tuyệt chiêu đó là anh Cao Xuân Kiền ở bến phà Phú Hậu, xóm 9, xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Tập thể hình cho cá

Các mô hình nuôi cá với số lồng bè khủng cho sản lượng hàng trăm tấn mỗi năm tôi đã gặp không ít. Nhưng nuôi cá lớn không phải để bán ngay mà phải tập luyện cho con cá làm sao giảm hết mỡ như các vận động viên thể hình 6 múi rồi mới đem đi bán thì quả thật tôi mới gặp lần đầu.

Tôi theo anh Kiền từ TP Phủ Lý đến bến phà Phú Hậu, huyện Lý Nhân để tìm hiểu về những con cá đang được luyện tập giảm cân mỗi ngày. Anh Kiền cho biết, ngày xưa từng đi dọc con sông Kinh Thầy (Hải Dương) nhìn nhiều người nuôi cá trên những cái bè nổi đã khiến anh rất thích thú. Gắn bó với công việc nhà nước gần chục năm cũng không làm giảm được niềm đam mê sông nước, nên anh Kiền bỏ ngang công việc để về bến phà Phú Hậu lập nghiệp nuôi cá.

Khu vực nuôi cá của anh Kiền ở bến phà Phú Hậu 

Bắt đầu khởi nghiệp từ năm 2013, với số vốn đầu tư ban đầu khoảng 600 triệu đồng, anh tập trung nuôi cá lăng đen với quy mô chỉ  6 lồng. Sau khi nuôi được 2 năm, anh mới nảy ra ý tưởng thử nghiệm các bước để ép cân cho cá.

Chuyện là, trong một lần ngồi taxi, anh Kiền được tài xế mách nước muốn có món cá ngon, trước tiên bỏ cá vào chậu nước pha muối khoảng 15 phút; cá xót, vận động nhiều nên thịt săn chắc, ăn rất ngon.

Về nhà anh làm thử ngay, thấy con cá gặp muối bơi nhanh quanh chậu, sau đó đem nấu lên ăn quả thật thịt cá ngon hẳn hơn mọi hôm. Đêm đó, anh có suy nghĩ khác về cách tìm đầu ra cho toàn bộ số cá mình đang nuôi ở bè. Lúc đầu, anh áp dụng thử 10 con, sau thấy hiệu quả, từ đó mạnh dạn nghĩ đến chuyện ép cân cho cá.

Một con cá lăng đen giống, anh Kiền nuôi khoảng 2 năm đạt từ 3-4 kg, có con đột biến thì được 5kg, với nguồn thức ăn hàng ngày chủ yếu là cá rô phi.

Cá sau khi được ép cân trong 30-40 ngày thì giảm khoảng 8 lạng, lúc đó ruột cá rất sạch, thịt săn, bụng không còn mỡ. Những con cá khi mang đi ép cân hoàn toàn không ăn gì trong những ngày này, thế nhưng đến lúc bán cá vẫn khỏe.

Ngày trước, trong quá trình ép cân vì chưa có kinh nghiệm nên thỉnh thoảng có con bị chết. Thế nhưng, sau 2 năm trau dồi kinh nghiệm, đến nay anh ép cân cho cá không còn nào bị chết nữa.

Để ép cân cho một con cá lăng đen, anh Kiền phải nghiêm khắc luyện tập cho chúng từ 20-40 ngày, gồm 2 giai đoạn.

Đầu tiên bắt cá dưới lồng nuôi lên cho riêng vào một cái lồng ép nhỏ ở bè, lúc này bắt đầu cho cá nhịn trong 5-10 ngày để cá quen với việc nhịn ăn. Vài ngày sau rắc 1kg muối trắng vào bể khoảng 2 khối nước, sau đó dội nước trực tiếp vào cá để chúng vận động thải hết thức ăn từ trong ruột ra và sát trùng để cá không bị lở loét.

Bên cạnh đó, hàng ngày những con cá này đều được đánh dẻo theo đúng số lần và thời gian quy định. Cách đánh dẻo cho cá rất đơn giản, mỗi ngày kéo cá lên lửng 2 lần để cá vận động nhiều hơn. Trước khi đánh dẻo phải cho cá nghỉ ăn 2 ngày để cá vận động nhiều không bị chết, nếu cá ăn no mà kéo dẻo liền thì cá chết ngay.

Anh Kiền đang đánh dẻo cho cá 

Biểu diễn cho tôi xem, anh bước ngay đến bên cái lồng ép, đôi tay anh cầm lưới thật chặt từ từ kéo lên, những con cá đang bình yên dưới nước bất chợt vùng vẫy quẫy mạnh đuôi khi được kéo lên, nước văng tung tóe cả một vùng.

Sau gần nửa tháng huấn luyện, anh tiếp tục vận chuyển những con cá này về bể đặt ở nhà rồi tiếp tục cho cá nhịn ăn trên 10 ngày xong mới đem bán. Cá thả tại bể được dùng bằng nước máy đã khử clo, mỗi ngày anh đều thay nước trong bể 1 hoặc 2 lần.

Cách đây 2 năm, khi nuôi đại trà thì giá bán cá phải theo thị trường. Bây giờ cá lăng đen sau khi được ép cân anh bán với giá 100-120 ngàn/kg, trong khi giá cá bình thường ở chợ chỉ khoảng 80-90 ngàn/kg. Năm ngoái, giá cá lăng xuống thấp nhưng anh vẫn đảm bảo được lợi nhuận, khi giá xuống sâu thì anh vẫn hòa chứ không lỗ nặng như một số hộ nuôi khác. Nhiều người khi thử ăn đều mua cá của anh dù giá cao hơn ở chợ nhưng người dân vẫn chấp nhận mua.

Nơi anh Kiền chuyên ép cân cho cá 

Bây giờ quy mô nuôi đã được anh Kiền phát triển đến 14 lồng, các lồng anh đang nuôi gồm: cá lăng đen, lăng vàng, trắm cỏ. Số cá trắm cỏ khoảng vài tấn đang chuẩn bị thu hoạch sau nửa năm nuôi. Hiện, trung bình mỗi năm anh bán được 40-50 tấn cá lăng đen, ngoài ra anh cũng đang nuôi thử vài chục con cá lăng vàng vì giống này khó nuôi nên không dám đầu tư mạnh.

Thu hút nhiều người tham gia

Anh Kiền tâm sự, mới vào nghề nuôi cá ai cũng gặp khó khăn do chưa có kinh nghiệm nuôi và chọn cá giống chưa chuẩn nên không mang lại lợi nhuận cao. Đợt mới nuôi anh cũng bị dịch bệnh làm thiệt hại nhiều về giống cá như: cá chép, lăng đen.

Do vậy, để giảm thiệt hại cho người nuôi nơi đây khi giá cả lên xuống bấp bênh, anh Kiền đã vận động những hộ nuôi xung quanh thành lập HTX Chăn nuôi thủy sản Phú Phúc với 12 thành viên được nuôi theo mô hình của anh, quy mô HTX hiện tại đạt khoảng 50 lồng. Theo anh Kiền, khi xây dựng HTX sẽ tạo thành 1 chuỗi cho nhiều người tham gia giảm thiểu rủi ro và đảm bảo được nguồn cung cho thị trường.

Để thuyết phục nhiều người làm giống mình và quảng bá thương hiệu cá ép cân cho bản thân, anh mời nhiều người đến ăn thử cá ép cân và một con cá bình thường thì mọi người đều thấy thịt con cá sau khi ép cân ăn dai và ngon hơn nhiều. Từ đó, tiếng lành đồn xa, dân sành ăn ai cũng biết đến chất lượng những con cá mà anh đem bán.

Những con cá đã được ép cân chuẩn bị mang đi bán 

Hiện, anh đang tập trung phát triển mạnh thương hiệu cá ép cân cho bản thân mình. Cách đây 3 tháng, anh đã mở hẳn một trang website chuyên bán cá sạch trên mạng, đồng thời bán tại nhà thêm nhiều loại cá như: cá lăng đen, chép giòn, cá quả, trắm đen. Bây giờ, anh đang có rất nhiều đơn đặt hàng tại nhiều tỉnh trong cả nước như: Huế, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng… Cá khách đặt do tự tay anh làm sạch rồi ướp đá gửi thùng xốp, hoặc ai muốn gửi cá tươi thì anh cho cá vào túi bóng bơm oxy và cho đá lạnh vào trong, rồi bỏ thùng xốp gửi đi.

Anh Kiền cho hay: “Quan trọng nhất là phải tạo chất lượng cá mình bán ra luôn đảm bảo ngon. Một con cá nặng 4kg, nếu không ép cân thì bán được 320 ngàn đồng (giá 80 ngàn đồng/kg). Nếu ép cân, con cá đó chỉ còn 3,2 kg nhưng bán giá 120 đồng/kg. Như vậy, nếu so sánh thì cá ép cân vẫn lời được khoảng 50 ngàn đồng. Khi mình bán lên đến số lượng hàng chục tấn thì lợi nhuận mang về cao hơn nhiều so với bán cá đại trà. Có lúc giá cá lăng lên cao đỉnh điểm, giá cá ở chợ 120 ngàn/kg, còn cá tôi ép cân thì bán được đến 180 ngàn/kg”.

Sau câu chuyện, tôi được anh Kiền mời một bữa cơm thịnh soạn với món cá lăng hấp và nấu chua. Đêm đó, tôi còn được mời ngủ lại trên bè để tận hưởng hương vị cuộc sống vùng sông nước đầy thú vị…

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Vì sao tôm chậm lớn?

Tôm chậm lớn hay tôm còi ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của vụ nuôi do vậy cần theo dõi trọng lượng tôm hằng ngày để phát hiện kịp thời nguyên nhân làm tôm chậm lớn từ đó đưa ra giải pháp kịp thời.

Tác hại của tôm chậm lớn

1. FRC của tôm cao tốn kém thức ăn.

2. Tôm chậm lớn kéo dài thời gian thu hoạch làm tăng chi phí nuôi.

3. Làm giảm giá trị tôm nuôi, giảm năng suất sản lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân và cách phòng bệnh của tôm chậm lớn

1. Chất lượng con giống kém

Nếu nguồn giống bố mẹ cho đẻ càng nhiều lần thì chất lượng tôm giống càng kém hoặc tôm giống kém chất lượng do quá trình chăm sóc, vận chuyển chưa đúng cách. Do vậy phải lựa chọn tôm giống có chất lượng, tuyệt đối không thả giống trôi nổi trên thị trường.

Phương pháp lựa chọn tôm giống: Lựa chọn con giống của nhà sản xuất có uy tín. Xét nghiệm PCR và test khuẩn trên môi trường thạch. Nếu tôm không đạt chuẩn kiên quyết loại bỏ.

2. Tôm mắc bệnh còi MPV (Monodon Baculovirus) và HPV (Hepatopancreatic virus)

Dấu hiệu tôm bắt mồi kém, vỏ sậm màu, bơi lội lờ đờ, dễ bị ký sinh trùng hoặc rong bám, nặng hơn chết rải rác trong thời gian nuôi.

Chưa có biện pháp trị: Ngay khi phát hiện tôm bệnh phải bắt bỏ những con tôm bị còi ra khỏi ao bằng cách đặt chà ( dùng rò tre nhỏ bỏ cành cây lá khô, dụ bắt tôm còi)

Biện pháp phòng:

+ Không dùng tôm giống có nhiễm mầm bệnh MBV.

+ Tẩy dọn ao, bể nuôi như phương pháp phòng chung. Thường xuyên diệt khuẩn môi trường ao nuôi.

+ Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Không để tôm sock trong quá trình nuôi.

+ Kiểm dịch nguồn tôm bố mẹ trước khi cho đẻ.

+ Xử lý nước nguồn nước kỹ trước khi ấp trứng thì có thể sản xuất được đàn tôm Postlarvae không nhiễm virus MBV.

3. Tôm bị bệnh phân trắng

Sau khi tôm bị mắc bệnh phân trắng nếu không kịp thời chữa trị tôm yếu dần khả năng hấp thu chất dinh dưỡng kém làm cho tôm bị chậm lớn.

Khi phát hiện tôm bị bệnh phân trắng cần có biện pháp điều trị kịp thời.

4. Vi bào từ trùng

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) ký sinh trong tế bào gan tụy của tôm, chúng sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan tụy khiến cho tôm nuôi không đủ dinh dưỡng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Phòng: Xét nghiệm con giống trước khi thả nuôi, tuyệt đối không để cua còng vào ao, diệt giáp xác thật kỹ khi thả nuôi.

Khuyến cáo: sử dụng vôi nóng (CaO) xử lý ao để có thể đạt độ pH đáy ao trong quá trình cải tạo cao hơn 11 – 12 để làm chết mầm bệnh EHP.

5. Mật độ quá dày, sinh khối lớn

Khi nuôi tôm mật độ quá dày, những chất dinh dưỡng cần thiết cung cấp cho tôm không đủ để tôm phát triển và lột xác.

Khuyến cáo: nuôi tôm thâm canh thì mật độ thích hợp là dưới 100con/m2. Định kỳ bổ sung khoáng vào thức ăn tôm và khoáng tạt vào ao nuôi. Nếu đánh khoáng nên đánh vào buổi tối.

6. Lạm dụng kháng sinh trong phòng, trị bệnh

Người dân thường sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho tôm và dùng quá liều kháng sinh khi trị bệnh giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm làm tôm chậm lớn.

Lưu ý khi sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm: dùng đúng liều đúng chu trình 5-7 ngày tránh lờn thuốc. Sau đó cần bổ sung sorbitol 2g/1kg thức ăn nhằm giúp tôm đào thải kháng sinh, sau khi dùng men vi sinh 3 ngày phải cho tôm ăn men đường ruột.

>> Không sử dụng kháng sinh phòng bệnh cho tôm giống và tôm nuôi, vì sẽ gây lờn thuốc và giảm khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm.

7. Thức ăn kém chất lượng, chất lượng nước ao nuôi xấu

Thức ăn kém chất lượng cũng là nguyên nhân làm tôm chậm lớn do tôm không đủ dinh dưỡng để tăng trưởng. Do đó phải bảo quản thức ăn đúng nơi quy định. Không được để bao thức ăn dưới sàn đất.

Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường nước (Độ kiềm, Fe, NO2, NH3..) trong ao để nhanh chóng điều chỉnh.

Không được sử dụng thuốc trừ sâu để cải tạo ao.

Trên đây là những nguyên nhân phổ biến làm cho tôm bị chậm lớn, chúc bà con một vụ mùa bội thu.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.