Thủy sản đơn tính

Ở một số loài thủy sản nước ngọt, giới tính đực hoặc cái sẽ có kích thước và chất lượng vượt trội hơn hẳn giới tính cò lại. Tuy nhiên, khi đưa vào nuôi thương phẩm thì đa số thường nghiêng về giới tính bất lợi cho người nuôi. Vì vậy, người nuôi có xu hướng tạo vật nuôi đơn tính toàn đực hoặc toàn cái nhằm tăng hiệu quả kinh tế.

Hiện nay, có khá nhiều phương pháp được ứng dụng trong thực tế như: lai xa, xử lý bằng hormon sinh dục, kỹ thuật nhiễm sắc thể, thông qua con siêu đực, siêu cái hoặc kết hợp giữa nhiều phương pháp với nhau.

Cá rô phi

Cá rô phi là loài thuộc chi Oreochromis, có số lần sinh sản trong năm tới 12 – 13 lần, vì vậy, nếu trong đàn cá nuôi có số lượng con cái quá nhiều thì sản lượng thu hoạch sẽ thấp. Nguyên nhân, do các con cái phải tích lũy chất dinh dưỡng để phát triển buồng trứng nhằm đáp ứng nhiều lần sinh sản trong năm, do đó tốc độ tăng trưởng giảm khiến sản lượng thấp.

Cá Rophi đực có kích thước vượt trội

Phương pháp dùng hormone chuyển đổi giới tính: Người nuôi có thể trộn hormone vào thức ăn cho cá; ngâm (tắm) cá vào dung dịch trộn hormone hoặc tiêm hormone vào cơ thể. Phương pháp này được ứng dụng trên khá nhiều loài rô phi khác nhau để tạo đàn toàn đực. Kết quả từ phương pháp này cho thành công tới 95 – 97%. Hormone sử dụng trong phương pháp này gồm hai nhóm: Androgen chuyển giới tính từ cá cái thành cá đực và Oestrogen chuyển từ đực thành cái. Với nhóm Androgen, người nuôi có thể sử dụng hormone 19-nor-ethynylestotestosteron (thuộc nhóm mạnh nhất) hoặc Methytestosteron được tổng hợp nhân tạo có hiệu lực không thua kém và cũng có hiệu quả đối với nhiều loài cá, trong đó có cá rô phi. Nhóm Oestrogen có 2 loại phổ biến: Oestradiol-17b và Ethynyloestradiol. Phương pháp được tiến hành theo sơ đồ sau:

Cá bột => Oestrogen trộn vào thức ăn => cá cái

Cá bột => Androgen trộn vào thức ăn => cá đực

Phương pháp lai xa: Dựa trên việc xác định thành công giới tính, từ đó tiến hành lai hai loài cá rô phi thuộc hai nhóm khác nhau sẽ thu được ở thế hệ con lai F1 có 100% cá đực. Với phương pháp này, cá bố mẹ sau thời gian nuôi vỗ khoảng 45 – 60 ngày, bắt cá đực và cái mổ kiểm tra mức độ thành thục của tuyến sinh dục đực và cái. Mức độ thành thục khoảng 70% trên tổng số quần đàn, tiến hành ghép cá bố mẹ phục vụ cho sinh sản. Trong thời gian cá bố mẹ sinh sản, người nuôi sẽ tiến hành thu và vớt trứng. Tùy thuộc vào nhiệt độ nước của ao trong quá trình sản xuất giống mà xác định lịch thu trứng. Nhiệt độ nước 20 – 23oC thì chu kỳ thu trứng là 10 – 12 ngày; nhiệt độ nước 27oC trở lên thì chu kỳ thu trứng chỉ là 7 ngày.

Cá rô đồng

Cá rô đồng thuộc chi Anabas, con cái thường có tốc độ tăng trưởng vượt trội so con đực vì sinh sản ít lần trong năm, tích lũy nhiều mỡ và khối lượng buồng trứng rất lớn, chứa nhiều dinh dưỡng làm trọng lượng con cái lớn hơn con đực rất nhiều.

Cá rô đồng đực (dưới) có kích thước lớn hơn so với cá cái (trên)

Trước đây, người nuôi đã áp dụng phương pháp thủ công bằng hình thức lọc đàn cá thông qua mắt lưới (còn gọi là chặt đầu con), tuyển lại những con có kích thước lớn hơn để nuôi riêng. Đa số những con lớn đều là những con cái, có tốc độ phát triển nhanh hơn và quá trình tuyển lựa này phải được thực hiện 2 – 3 lần trong 1 chu kỳ nuôi, tỷ lệ con cái sẽ đạt 65 – 70%. Mới đây, một nghiên cứu đã thành công trong  sản xuất giống cá rô đồng toàn cái bằng phương pháp tạo cá đực đặc biệt. Giải pháp này nhằm tạo ra những cá đực đặc biệt, mang bộ nhiễm sắc thể cái (XX). Phương pháp cho thế hệ cá con với tỷ lệ cá cái 75 – 92%, trong khi ở điều kiện sản xuất bình thường, tỷ lệ cá cái chỉ khoảng 40%.

Tôm càng xanh

Ở loài tôm càng xanh (tên khoa học Macrobranchium rosenborgii) do con cái thường phải ôm trứng nhiều lần trong chu kỳ sống, ngay cả khi trọng lượng cơ thể còn nhỏ chúng đã tham gia sinh sản và phải sử dụng nhiều chất dinh dưỡng nuôi buồng trứng. Nhưng do điều kiện môi trường không phù hợp (tôm càng xanh đẻ trứng và trứng phải nở trong môi trường nước mặn) nên trứng dần thoái hóa và thải ra môi trường bên ngoài mang theo nhiều dinh dưỡng.

Tôm càng xanh đực (trên) có kích thước lớn hơn hẳn so với con cái (dưới)

Hiện, có 2 phương pháp sản xuất đàn giống tôm càng xanh toàn đực: Phương pháp vi phẫu tạo con cái giả và phương pháp tiêm sợi đôi iRNA chuyển giới tính tôm đực. Đối với phương pháp vi phẫu: Cắt tuyến sinh dục đực của 1 con tôm đực trưởng thành; sau đó, cho giao phối với một con tôm đực khác có ngoại hình tốt và tốc độ tăng trọng nhanh để sản xuất ra 1 đàn giống tôm càng xanh toàn đực. Phương pháp tiêm sợi đôi iRNA: Ở tôm càng xanh và các đối tượng giáp xác khác, sự biệt hóa của tuyến đực có liên quan gen Insulin-like. Gen này điều khiển sự phát triển và biệt hóa tôm con thành con đực. Nguyên tắc của tiêm iRNA là tạo liên kết bất hoạt gen này, do đó tuyến đực không thể hoạt động để chuyển tôm con thành con đực mà sẽ phát triển thành con cái. Với công nghệ này, sau khi tôm chuyển cái thì tỷ lệ thành thục là 95% và số tôm thành thục này tham gia sinh sản đạt 98 – 100%.

Cá chình

Cá chình (Anguilla sp) loài loài thủy sản di cư sinh sản phức tạp nên chưa thể sản xuất giống nhân tạo được. Cá cái có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn và kích thước cơ thể lớn hơn cũng như chất lượng thịt thơm ngon hơn so với cá chình đực.

Công ty nuôi trồng thuỷ sản mới NovaEel  đã thành công trong việc biến cá chình thủy tinh đực thành cá cái, và nuôi chúng ở mật độ cao, các sản phẩm này không gây nguy hại cho sức khoẻ con người. Phương pháp chuyển đổi giới tính trên cá chình bằng cách sử dụng một loại estrogen có tên là estradiol có thể cái hóa này ngay cả trước khi cá chình phát triển bất cứ đặc điểm sinh dục nào có thể nhìn thấy. Điều quan trọng hơn là sau vài ngày hàm lượng estradiol của chình trở lại bình thường,không để lại dư lượng nào trong mô nên đặc biệt an toàn với người tiêu dùng.

Hiện phương pháp này mới chỉ có công ty nuôi trồng thuỷ sản mới NovaEel áp dụng thành công và ở Việt Nam chưa có công nghệ này.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cua (Phần 2)

1. Bệnh rung chân (rũ còng)

Các cơ bị rung hoặc liệt, di chuyển chậm chạp, không phản ứng với các tác động bên ngoài, cua dừng ăn và trở nên bất động, cơ thể đổi màu hơi đen, xám hoặc hơi trắng; cơ thịt có màu đỏ; gan tụy thối rữa.

  • Tác nhân gây bệnh

Do virus và ký sinh trùng rickettsia.

  • Phòng trị

– Giữ gìn môi trường sống trong sạch cho cua nuôi. Ao đầm nuôi phải xây dựng ở nơi có nguồn nước tốt, độ mặn từ 15 – 25 phần ngàn, pH từ 7,5 – 8,2.

– Cải tạo ao thật kỹ trước khi thả nuôi. Phơi đáy từ 5 – 10 ngày, nếu đáy nhiều bùn thì vét bớt bùn, rác.

– Bón vôi khắp đáy và trên bờ ao, quét vôi trong và ngoài đăng chắn, làm tốt khâu cải tạo, sát trùng, loại bỏ các chất cặn bã, chất thải của quá trình nuôi trước; duy trì quản lý chất lượng nước tốt và có chế độ dinh dưỡng hợp lý cho cua.

– Hiện chưa có biện pháp chữa trị hữu hiệu nên tốt nhất chọn cua đồng đều, khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, tốt nhất nên lấy giống cua sản xuất nhân tạo, ương trong giai đạt kích cỡ 1,5 – 2 cm.

– Trước khi thả nên sát trùng bằng dung dịch formaline 20 – 30 ppm hoặc sunphát đồng 2 – 4 ppm trong vòng 20 – 30 phút. Có thể dùng thuốc phun vào ao trong thời gian kể từ lúc bắt đầu thả nuôi, nồng độ thuốc thấp hơn 7 – 10 ppm so với nồng độ tắm cho cua. Chỉ nên dùng với ao nhỏ, mật độ nuôi cao.

– Để phòng các mầm bệnh trong thức ăn, nhất là thức ăn tươi sống, ta có thể khử trùng thức ăn trước khi cho cua ăn. Thức ăn rửa sạch ngâm trong thuốc tím nồng độ 5 – 10 ppm trong 20 – 30 phút. Rửa lại bằng nước sạch rồi cho cua ăn. Tốt nhất nên cho cua ăn thức ăn được nấu chín.

2. Bệnh hoại tử do vi khuẩn Vibrio

Phần phụ bụng và cơ bị hoại tử, cơ thể biến đổi màu sắc, hình thành các khối u màu trắng bên trong mô cơ thể (đặc biệt là mang); cơ thể yếu và hoạt động chậm chạp, biếng hoặc không ăn.

  • Tác nhân gây bệnh

Vibrio anguillarum, V. alginolyticus, V. parhaemolyticus.

  • Phòng trị

– Thả nuôi với mật độ thích hợp, nên thả 1 con/m², trong quá trình lưu giữ chăm sóc chú ý tránh làm xây xát cua, đảm bảo chất lượng nước tốt; sát trùng bể ương cua bằng dung dịch KMnO4 15 – 20 ppm (mg/l); ngâm dụng cụ ương nuôi trong 50 ppm chlorin trong thời gian 1 giờ; khử trùng nước ngọt bằng 10 ppm chlorin; phun trong ao 1 ppm terramycin.

– Phun trong ao 2 – 3 mg/l terramycin hoặc 1 mg/l norfloxac một ngày một lần, trong 3 – 5 ngày, có thể dùng thức ăn trộn terramycin (0,1 – 0,2 g/kg trọng lượng cơ thể cua) cho ăn ngày 1 – 2 lần trong 7 ngày liên tục.

3. Bệnh thủng vỏ

Ban đầu những đốm màu hơi trắng trên phần bụng giáp đầu ngực và dần chuyển thành các tổn thương loét có màu nâu đen; có thể nhìn thấy vỏ, màng và lớp cơ bên trong. Bệnh thủng vỏ hiếm khi gây chết cua, nhưng nếu vỏ bị bào mòn và đục thủng trên diện rộng có thể tạo điều kiện cho các vi khuẩn thứ cấp cũng như ký sinh trùng xâm nhiễm gây bệnh.

  • Tác nhân gây bệnh

Bệnh thủng vỏ do các tổn thương, xây xát do điều kiện nuôi nhốt không thích hợp, mật độ dày, môi trường nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn Vibrio sp., Pseudomonas sp., Aeromonas sp., Spirillum sp., Flavobacterium sp., Vibrio vulnificus, V. parahemolyticus, V. splendidus và V. orientalis xâm nhập gây bệnh.

  • Phòng trị

– Chăm sóc cẩn thận, tránh gây sốc, xây xát cua, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh gây ô nhiễm môi trường nước.

– Sử dụng vôi bón 15 – 20 ppm; duy trì chất lượng nước tốt và có độ dày lớp bùn đáy thích hợp (5 – 10 cm). Cung cấp một lớp đất cát dày thích hợp cua có thể đào được, tác dụng làm giảm stress cho cua và giảm các chất bẩn bám trên cơ thể cua.

– Định kỳ thông qua quá trình thay nước hoặc bắt mẫu, tiến hành chà và quét rửa phần lưng cho cua bằng bông gòn nhúng trong dung dịch i-ốt nhằm ngăn chặn chất dơ bám trong suốt quá trình nuôi và lưu giữ nhằm hạn chế việc phát triển của nguyên sinh động vật, là nơi cư trú của vi khuẩn phân giải kitin.

– Sử dụng chlorin 2 ppm và cho cua ăn thức ăn có trộn thuốc (sulfonamides 0,1 – 0,2% hoặc 0,05 – 0,1% terramycin) trong 5 -7 ngày liên tục; phun thuốc trong ao với liều 2,5 – 3 ppm terramycin mỗi ngày một lần, liên tục trong 5 – 7 ngày.

4. Bệnh đen mang

Biểu hiện ban đầu là các tơ mang chuyển màu nâu đen, sau đó chuyển hoàn toàn thành màu đen, cua di chuyển chậm chạp, biếng ăn, hô hấp khó khăn. Cua yếu, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh xâm nhiễm, gây chết cua.

  • Tác nhân gây bệnh

Quá trình chuẩn bị ao không kỹ, điều kiện môi trường xấu do thiếu sự trao đổi nước, chất bùn lắng nhiều.

  • Phòng trị

– Thả cua đúng lịch thời vụ, làm tốt khâu cải tạo, giữ lớp bùn đáy có độ dày thích hợp (5 – 10 cm). Trong thời gian thường xảy ra dịch bệnh dùng vôi nông nghiệp CaCO3 2 -3 kg/100m2 hòa nước tạt đều khắp ao; Tăng cường trao đổi nước, định kỳ tiến hành thay nước và cung cấp nước vào ao đảm bảo chất lượng nước tốt. Tránh cho ăn quá nhiều.

– Dùng vôi bón vào ao với liều lượng 15 – 20 mg/l.

5. Bệnh teo cơ (rệp cua)

  • Tác nhân gây bệnh

Do ký sinh trùng Sacculina sp. bám vào phần thịt của khoang mai, có thể thấy qua lỗ thoát ở gốc càng cua. Rệp phát triển nhanh về số lượng và gây cản trở hoạt động của cua, hút chất dịch trong thịt cua, làm cua gầy và chết.

  • Phòng trị

– Sát trùng ao bằng chlorin 10 ppm hoặc 100 ppm formalin và tháo bỏ lớp bùn đáy trước khi thả giống, loại bỏ những con cua bệnh, không thả cua bị nhiễm bệnh, thả cá rô phi 0,1 con/m2 để chúng sử dụng ký sinh trùng này làm thức ăn.

– Giảm độ mặn dưới 1 phần ngàn hoặc chuyển cua qua nước ngọt, tắm cua trong dung dịch formalin 20 – 30 ppm trong 20 – 30 phút hoặc dung dịch CuSO4 8 ppm hoặc KMnO4 20 ppm trong 10 – 20 phút, nếu phun dưới ao thì sử dụng 0,7 ppm của hỗn hợp có tỉ lệ 5:2 CuSO4 và FeSO4.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Bệnh và cách phòng trị bệnh ở cua (Phần 1)

Cua hiện đang là một trong những loài hải sản đang được người dân nuôi trồng nhiều nhất, tiềm năng phát triển từ cua khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi cua thường mắc phải các bệnh mà người dân cần đề phòng như sau:

1. Bệnh nổi hạt đốm trắng – đen

  •  Nguyên nhân

Do 4 loài ốc sống ở vùng nước nóng, độ mặn thấp trong vùng triều cửa sông. Các loại ốc này thải vào nguồn nước các ấu trùng của vi khuẩn thường là các vi sinh vật thuộc nhóm lá gan và sau đó lây nhiễm vào cua. Giai đoạn đầu, rất ít khi phát hiện được nếu không có kính hiển vi.

  •  Dấu hiệu bệnh lý

Cua bị bệnh bỏ ăn, yếu, không lột xác được, rêu và tảo bám trên mai, yếu dần rồi chết. Trên thân có những đốm trắng đôi khi có cả những đốm đen.

  • Phòng trị
    – Tắm cho cua bằng Sulfat đồng nồng độ 0,5g/m3 có sục khí, thời gian chữa trị kéo dài 8 – 10 ngày.
    – Rải vôi bột thường xuyên để diệt khuẩn và tiệt trùng.

2. Bệnh đen mang

  •  Nguyên nhân

Do các ký sinh trùng sán lá đơn chủ xuất hiện nhiều sau khi nước có độ mặn thấp hoặc sau khi có mưa lớn, Sán lá đơn chủ trắng nhỏ như sợi tơ đục thủng mang gây hoại tử mang cua. Nấm, vi khuẩn dạng sợi, hay khi nồng độ các khí độc Amoniac và Sulfua hydro cao trong môi trường đầm nuôi.

  • Dấu hiệu bệnh lý

Mang cua có những đốm đen, các tơ và áo mang chuyển màu đen một thời gian mang có mùi rất tanh, thối từng phần cho tới toàn bộ mang cua. Thân cua bị bệnh phần vỏ ngoài có các đốm đen, sau đó gây mù mắt. Xuất hiện cả giai đoạn cua con và cua trưởng thành. Sau khi mắc bệnh cua bỏ ăn, gây yếu, hô hấp kém nằm im không hoạt động.

  • Phòng trị

 – Tắm cho cua bằng Formol với nồng độ 16 – 30ml/m3 nước trong 15 – 20 phút, có sục khí, thời gian điều trị 6 – 8 ngày.

– Tắm cho cua bằng dung dịch Sulfat đồng với nồng độ 0.6g/m3, mỗi lần tắm trong 6 – 8 phút có sục khí. Thời gian chữa trị 6 – 8 ngày.

 – Dùng vôi bột để diệt các ký sing trùng, vi khuẩn.

– Khi có dấu hiệu bệnh hoặc thời tiết xấu, mà kéo dài dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixicacid trộn vào thức ăn với lượng 40 -60g/1kg thức ăn để phòng bệnh. Thời gian phòng bệnh 6 – 8 ngày.

3. Bệnh đốm trắng – vàng trên vỏ

  • Nguyên nhân

Nếu cua có đốm trắng – vàng nhưng biểu hiện vẫn khỏe mạnh vận động và cảm giác bắt mồi nhanh thì đó là dấu hiệu sinh lý bất thường trước khi lột xác. Màu sắc này có thể trong nước giàu canxi và magiê hay vôi bột bám là bình thường. Các đốm trắng – vàng này sẽ hết sau khi lột xác.

  • Dấu hiệu bệnh lý
    Cua gầy yếu, chậm lột xác hoặc lột xác kéo dài, cua bỏ ăn rồi chết. Trên mai và yếm xuất hiện đốm trắng -vàng.
  • Phòng trị
    – Sử dụng thức ăn tươi sạch, cho ăn vừa đủ, thức ăn thừa phải dọn sạch.
    – Trộn thêm kháng sinh như Norfloxacin, Nalidixic acid,… và các vitamin A, C bổ sung vào thức ăn để tăng sức đề kháng.

4. Bệnh teo chân

  •  Nguyên nhân
    Do đáy ao nhiễm bẩn, thức ăn thừa nhiều, vệ sinh ao hồ kém, nhiễm Vibrospp. Ngoài ra do sự biến động thất thường của yếu tố nhiệt độ, cua không tự điều chỉnh cân bằng được nhiệt độ cho mình dẫn đến cua bị nhiễm lạnh
  • Dấu hiệu bệnh lý

Bệnh biểu hiện, cua dùng càng vận động như muốn bò đi nhưng không nhích lên được, người ta gọi đây là bệnh cua vặn mình. Thân gầy yếu, các chân bò, chân bơi teo tóp, cua lười vận động, phản xạ bắt mồi chậm.

  • Phòng trị
    – Đảm bảo độ sâu ao nuôi nhằm ổ định nhiệt độ.
    – Vệ sinh tốt ao hồ nuôi tạo môi trường tốt cho cua.
    – Tắm cho cua bằng dung dịch Oxytetracyline với nồng độ 0.5 – 3 g/m3. Thời gian tắm 20 – 30 phút, điều trị 6 – 8 ngày.
    – Trộn kháng sinh Oxyteraccyline và dầu thực vật vào thức ăn với liều lượng 50mg/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 6 – 8 ngày.
    – Dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixic acid trộn vào thức ăn hàng ngày với liều 40 – 60g/1 kg thức ăn để phòng bệnh.

5. Sinh vật bám trên cua

  • Nguyên nhân

Giáp xác chân tơ sống ở biển, ấu trùng bơi lội tự do trong nước nhưng trưởng thành sống định cư hoặc ký sinh trên con cua.

Cua bị sinh vật bám trên mai

  • Dấu hiệu bệnh lý

Biểu hiện sinh vật bám trên vỏ, thân, mang, phần phụ cua.

  • Phòng bệnh
    Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua lột

Ao nuôi

Ao nuôi cua lột có kích cỡ nhỏ (100 – 200 m²), hình chữ nhật nhưng độ rộng ao không quá 5m để tiện quản lý và thu hoạch. Giữa ao nên có trảng rộng 1m. Đáy ao nên có dạng sét hay sét pha cát. Bờ ao không cần phải rào chắn, tuy nhiên, cần phải chắn cẩn thận ở cống. Duy trì nước ao ở mức 0.6-0.8m. Cần cải tạo ao kỹ trước khi nuôi.

Ngoài ra, cần có thêm một giai đóng bằng khung gỗ và lưới xanh kích cỡ 3×1.5 x0.5m đặt ngập 0.3-0.4m trong ao khi để chứa cua sắp lột khi thu hoạch từ ao nuôi.

Cua lột

Thả giống và chăm sóc

Mùa vụ nuôi cua lột có thể quanh năm, tuy nhiên tập trung nhất vào tháng 3-7dl. Hàng năm. Cua giống có kích cỡ nhỏ khong 50-100g/con cua lớn sẽ chậm lột vỏ. Cua giống là những cua chắc thịt, cứng và màu sậm. Trước khi th cần loại bỏ càng và chân cua bằng cách chặt hay bẻ chót chân, chót càng rồi cua sẽ tự bỏ càng chân của chúng. Tuy nhiên, phi giữ đôi chân bơi lại để cua hoạt động. Biện pháp này có tác dụng kích thích cua lột xác sớm. Mật độ thả là 20con/m2 hay hơn tùy theo kích cỡ cua giống.

Cách cho ăn, quản lý và chăm sóc tương tự như các dạng khác.

Cua lột, còn gọi là cua cốm hay cua 2 da

Thu hoạch

Sau 5 ngày nuôi, cua bắt đầu mọc nu, càng và chân. Ngày thứ 10-12 cua đã sẵn sàng lột xác. Đặc điểm của cua lúc này là: mai cứng và giòn, mầm chân và càng có màu đỏ sậm và dài khoảng 1.5cm. Khi cua bắt đầu lột xác sẽ có vòng nứt quanh mai.

Vào giai đoạn lột xác, hàng tháng tháo cạn nước ao còn khoảng 30 – 40cm để mò bắt cua sắp lột cho vào giai đã chuẩn bị sẵn. Thời điểm mò bắt cua vào lúc nước sắp lớn để khi bắt xong thì cấp nước mới vào ngay tránh ao bị đục lâu. Chú ý không để sót cua sắp lột vì nếu chúng lột trong ao nuôi cua sẽ không còn giá trị như nhu cầu trên thị trường. Cua đã chuyển vào giai có thể lột ngay sau đó hay trong vòng một ngày. Sau khi lột 1-2 giờ, cua sạch nhớt, bớt mềm nhũn, hơi no nước thì phi vớt lên giữ ẩm trong giỏ tre có lót vi hay cỏ ướt. Để nơi mát, kín gió và có thể chuyển đến nơi tiêu thụ trong vòng một ngày sau đó. Yêu cầu sản phẩm cua lột là phải mềm, không mọng nước và nguyên vẹn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua gạch

Phương tiện nuôi

Các phương tiện dùng để nuôi cua gạch có thể là ao rào đăng và lồng. Khi nuôi cua trong ao và rào đăng thì diện tích nuôi và các bước chuẩn bị cũng tương tự như nuôi cua con lên cua thịt hay cua ốp thành cua chắc. Nếu nuôi trong lồng, nên làm lồng có kích cỡ 3x 2 x1.5m. Vật liệu sử dụng có thể là tre, đước… Khoảng cách giữa các thanh tre đóng vách lồng cách nhau 1-1.5cm. Miệng lồng rộng 0.5×0.5m và có nắp đậy. Để cua phân bố đều tăng không gian sống và hạn chế gây thương tích hay ăn nhau nên chia lồng ra 2-3 ngăn bằng vách tre. Dùng các thùng nhựa thể tích 20lít hay bó tre để giữ lồng nổi. Mức nước giữ trong lồng phải đảm bảo 0.8-1m. Nước sông nơi đặt lồng phải trong sạch, lưu tốc thích hợp và nhất là độ mặn phải đảm bảo cho cua lên gạch (28 -32‰).

Thả giống và chăm sóc

Mùa vụ nuôi từ tháng 6-12 . Nhưng tháng nuôi chính là từ tháng 7-9 hàng năm. Cua giống có kích cỡ từ 200 – 400g và chỉ chọn cua cái. Cua giống phải có vỏ cứng, màu xanh đậm, yếm tròn phủ giáp mặt bụng của phần đầu ngực và mép vỏ có nhiều lông tơ. Dùng que ấn phần yếm xuống từ bên ngoài nơi giáp yếm với mai cua, cua tốt sẽ có chấm màu vàng nhạt bên trong. Để cua phát triển gạch đồng loạt, cần chọn cua giống đồng đều về chấm gạch. Có thể dùng cua ốp cái để nuôi thành cua gạch nhưng thời gian sẽ kéo dài. Mật độ nuôi từ 3-5con/m2 nếu nuôi trong ao, rào đăng và 30-60kg/lồng khi nuôi trong lồng (khong 15-20con/m3).

Thức ăn và tỉ lệ cho ăn cũng giống như cua thịt. Không nên để cua đói vì chúng rất dễ sát hại nhau nhất là khi nuôi với mật độ cao. Cho cua ăn ngày hai lần, đối với nuôi trong ao và chuồng thì nên cho ăn lúc nước lớn để không gây đục nước, nuôi cua lồng thì cho ăn lúc nước đứng để tránh xây xát.

Dọn sạch thức ăn thừa hàng ngày và cọ rửa lồng để tránh bị nhiễm bẩn. Nuôi cua trong ao hàng ngày thay nước như các trường hợp trên.

Thu hoạch

Theo cách nuôi này, sau 10-14 ngày sau khi nuôi từ cua chắc và chớm gạch hay 20-25 ngày khi nuôi từ cua ốp, cua bắt đầu có đầy gạch và phải kiểm tra hàng ngày. Khi khoảng 60-80% cua đều đạt đầy gạch có thể thu hoạch đồng loạt. Cua đầy gạch có thể tiếp tục nuôi lại thêm một thời gian nữa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua ốp thành cua chắc

Nuôi cua ốp lên chắc là hình thức nuôi cua sau khi lột xác còn mọng nước, vỏ mềm trở thành cua đầy thịt, rắn chắc hơn với giá trị cao hơn.

Có thể nuôi trong các ao nhỏ (300-1000m2), đầm hay bãi triều có rào ví bằng đăng tre (diện tích vài chục đến vài trăm mét vuông hay lớn hơn). Riêng với nuôi trong ao, kết cấu ao và các bước chuẩn bị cũng tương tự như nuôi cua con thành cua thịt.

Khi nuôi cua ốp lên chắc, có thể chọn cả cua giống đực và cái cỡ trên 300g/con để có giá cao. Cua giống đang ở giai đoạn mọng nước, vỏ còn mềm màu nhạt và không bị thương tích. Mật độ nuôi khoảng 2-3con/m2. Mùa vụ nuôi và chăm sóc như cua thịt.

Cua ốp ăn tích cực và chủ yếu là ăn động vật thủy sinh gồm cá, nghêu, móng tay, don, còng, ba khía… Khi nuôi phải chuẩn bị nguồn cung cấp thức ăn đầy đủ và mua thức ăn dự phòng. Cá tạp (cá nhỏ) rửa sạch, cá lớn cắt thành từng miếng nhỏ 2- 3 phân, còng bẻ đôi, rải đều quanh ao, chuồng đăng, vào lồng cho cua ăn; lượng thức ăn dạng tươi sống hàng ngày khoảng 5% – 8% trọng lượng cua. Dùng sàng để kiểm tra sức ăn của cua. Cho thức ăn vào sàng cho xuống ao, ngày hôm sau nhấc lên nếu cua ăn hết thì cho thêm, nếu vẫn còn thừa thì cho giảm. Cua thường bắt mồi vào buổi chiều tối và ban đêm.

Cho cua ăn mỗi ngày một lần vào lúc 17g – 19g. Những ngày không có được thức ăn tươi sống có thể cho cua ăn cá hoặc tép khô. Không để cua đói không cho ăn một ngày. Hàng ngày thay nước cho cua : 30 – 50% lượng nước, ba ngày thay toàn bộ nước. Giữa đợt nuôi thấy ao bị bẩn nhiều thì xả cạn nước, gạn cua và làm vệ sinh, vớt bỏ thức ăn thừa ở đáy. Công việc này có thể tiến hành vào lúc trời mát và sau khi có nước thủy triều lên thì cho nước vào ao. Lúc nước chảy mạnh có thể cọ rửa chuồng đăng, lồng làm cho nước lưu thông tốt cho chuồng đăng, lồng. Thường xuyên kiểm tra bờ ao, chuồng đăng, lồng, không để sơ suất, có lỗ hổng cua có thể thoát ra ngoài. Kiểm tra tình trạng của cua, nếu phát hiện cua bị bệnh thì tìm biện pháp chữa; làm sạch môi trường, dùng kháng sinh hoặc dùng thuốc sát trùng nhẹ, tùy loại bệnh mà cua mắc phải.

Sau khi nuôi 10-14 ngày có thể kiểm tra cua nếu cua có mai cứng, màu sắc đậm và chắc thịt thì thu hoạch. Cua đực dùng bán thịt còn cua cái có thể nuôi tiếp thành cua gạch. Trọng lượng trong quá trình nuôi có thể tăng 30-40%.

Nuôi cua ốp thành cua chắc

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Cua hoàng đế hấp dẫn tới mức nào?

Vài nét về cua hoàng đế

Cua hoàng đế (Ranina ranina, Linnaeus, 1758) là một loài cua biển, có kích thước khá to, thường bằng bàn tay xòe. Chiều dài cơ thể có thể phát triển đến 150 mm, và nặng tới 900 g. Ở những vùng nước biển sâu, có những con nặng hơn 1 kg. Mai phía trước rộng hơn, màu nâu đỏ với 10 đốm trắng.

Cua hoàng đế chủ yếu hoạt động về đêm, ban ngày thường chôn vùi trong đất. Cua có mình khum tròn, giống như hình dáng loài rùa, đầu cua chúi xuống, có màu đỏ hồng, mai hình vuông, càng ngắn, đầu cua dài và có nhiều râu. Cua có bộ áo giáp dày và cứng, màu vàng rực như hoàng bào hay chiến bào, li ti gai nhọn xuôi theo thân, càng to, cạnh sắc như dao. Khác với cua thường, mỗi con cua hoàng đế chỉ có 6 chân và 2 càng.

Cua hoàng đế

Cua hoàng đế phân bố nhiều ở vùng biển phía đông nam Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, chúng thường xuất hiện ở những vùng biển sạch, có đáy cát vàng và nguồn nước trong xanh như các vùng biển Quy Nhơn (Bình Định), Phú Yên, Tuy Phong (Bình Thuận), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Cam Ranh (Khánh Hòa).

Trên thế giới, tổng quan về đặc điểm sinh học, kích thước, sức sinh sản và mùa vụ sinh sản tự nhiên của cua hoàng đế tại các vùng biển khác nhau đã được công bố như tại Haiwaii (Fielding và Haley, 1976), Nhật Bản (Minagawa et al., 1993), Australia (Kennelly và Watkins, 1994), Thái Lan (Krajangdara và Watanabe, 2005), Philippines (Baylon vàTito, 2012). Còn tại Việt Nam, các nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản của đối tượng này rất ít được quan tâm thực hiện.

Loài cua siêu đắt

Tại một nhà hàng ở Hà Nội, cua hoàng đế được bán với giá trên 4 triệu đồng/kg. Người ta đặt ra câu hỏi: vì sao loài cua này có giá đắt khủng khiếp đến thế?

Cua hoàng đế (cua huỳnh đế) là loài hải sản quý, đắt giá hàng đầu thế giới vì thịt ngon, hơn nữa bởi sự khó khăn, nguy hiểm trong việc đánh bắt. Trên thế giới, nói đến cua hoàng đế, người ta thường nhắc đến vùng biển Alaska lạnh giá của Mỹ với hai loài của hoàng đế đỏ và xanh nổi tiếng.

Cua hoàng đế Alaska chỉ sống ở những vùng biển nước rất lạnh và sâu (200-400m). Chúng sở hữu những cặp chân dài, lớp vỏ cứng nhưng thớ thịt lại mềm mại. Thịt cua hoàng đế có hương vị đặc biệt, thơm ngon nhất trong tất cả các loại cua.

Đánh bắt của hoàng đế

Cua Alaska chỉ thoảng hương biển mặn, thanh và thơm thay vì đậm mùi bùn như nhiều giống cua khác. Những tảng thịt trắng ngọt, dai dai ẩn sau lớp vỏ hồng hào, điểm chút đậm đà của đại dương, ngon nhất là nướng mọi trên lửa, không cần tẩm ướp cầu kỳ.

Mùa đánh bắt cua Alaska bắt đầu vào mùa thu ngoài khơi Alaska và khu vực quần đảo Aleutian (biển Bering). Mùa cua diễn ra rất nhanh. Ngoài Mỹ, Nga cũng là nước xuất khẩu nhiều cua hoàng đế vì sở hữu diện tích mặt nước cực bắc rộng lớn, chưa kể những vùng biển quốc tế ở Bắc cực.

Mùa đánh bắt cua hoàng đế thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. Thời gian ấn định cho một mùa cua liên tục bị thu hẹp, có thời điểm mùa đánh bắt cua đỏ chỉ diễn ra trong 4 ngày.

Cua hoàng đế được người sành ăn khắp thế giới ưa chuộng nhưng khi loài cua đỏ từ vùng biển của Nga tràn vào biển Na-uy, các nhà môi trường đã lên tiếng cảnh báo loài sinh vật ngoại lai này đang đe dọa cả hệ động vật biển địa phương. Cua hoàng đế đỏ tại biển Na-uy đã gia tăng số lượng với tốc độ chóng mặt, càn quét và tàn phá mọi thứ trên đường đi của chúng.

Hải sản cao cấp bậc nhất

Bởi sự quý hi hữu, đánh bắt khó khăn, lại có giá trị dinh dưỡng cao mà cua hoàng đế có giá thành rất đắt đỏ, trên 1 triệu đồng/1kg cua. Cua hoàng đế từ đó trở thành cái tên giới thượng lưu thường săn đón trong bữa ăn cao cấp của mình. Không chỉ có vậy, cua hoàng đế đáp ứng đầy đủ mĩ vị cho một món hải sản hạng sang, thịt cua săn chắc, thơm ngon, giàu đạm, có tác dụng cung cấp dưỡng chất cho cơ thể và đặc biệt tăng cường sinh lực cho phái mạnh.

Cua hoàng đế có giá trị dinh dưỡng rất cao, thớ thịt săn chắc, trắng muốt, ngọt thịt, thoảng hương biển mặn mòi và rất bổ dưỡng. Do vậy, cua hoàng đế là một trong những món thu hút thực khách nhất.

Sức hấp dẫn từ cua hoàng đế

Mọi món ăn chế biến từ cua hoàng đế đều rất hấp dẫn, nổi bật được hương vị đặc trưng cũng như sự dị biệt, thứ hạng của loại cua này. Phần chân và càng cua lại cung cấp những miếng giết mổ ngon và giàu chất dinh dưỡng nhất. Ngoài ra, cua hoàng đế hấp được cho là món tinh tế nhất, giữ nguyên được hương vị, độ ngọt tự nhiên của cua. Cắn miếng cua dày giết, chắc và thơm, kiên cố bạn sẽ bị chinh phục bởi món ngon thượng hạng này.

Càng cua bổ dưỡng của cua hoàng đế

Giá trị dinh dưỡng cao giúp bồi bổ cơ thể là lý do khiến nhiều thực khách sẵn sàng bỏ ra hàng chục triệu đồng để thưởng thức món ăn độc đáo này.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cua đồng trong ao và trong ruộng

Cua đồng (hay còn gọi là điền giải), là một loài trong họ Cua đồng thuộc nhóm Cua nước ngọt và phân bố nhiều tại Việt Nam. Tại Việt Nam, thuật ngữ này thường dùng để chỉ chung cho những loài cua nước ngọt sống trong môi trường đồng ruộng và thường gặp nhất là cua đồng có tên khoa học Somanniathelphusa sinensis sinensis H.Milne-Edwards thuộc họ Parathelphusidae.

Cua đồng

Nuôi cua là một trong những nghề mới hấp dẫn và có tiềm năng hiện nay. Dưới đây là một số kiến thức kỹ thuật cơ bản cung cấp cho bà con:

1. Chuẩn bị ao nuôi, ruộng nuôi

  • Đối với ao nuôi

– Nguồn nước phải chủ động, không ô nhiễm.
– Có cống cấp và cống thoát nước riêng biệt.
– Đáy ao tốt nhất là đất thịt, có lớp bùn dày 20cm là vừa.
– Ao nuôi có diện tích từ 300-1.000m², độ sâu 0,8-1,2m.
– Xung quanh bờ phải rào bằng đăng tre, tấm nhựa hoặc lưới cước đặt nghiêng về phía ao không cho cua thoát ra được.

Chuẩn bị ao nuôi cua đồng

  • Đối với ruộng nuôi

Chọn ruộng nuôi địa thế ruộng bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận lợi, chất nước không bị ô nhiễm, chất đất là loại đất thịt.
– Diện tích mỗi ruộng từ 1/3 ha đến 2/3 ha là vừa, nhỏ quá chất nước không ổn định, lớn quá khó quản lý.
– Đào mương nuôi tạm ở góc ruộng hoặc ở ria ruộng, rộng 4-6 m, sâu 1-1,5 m, diện tích khoảng 3—5% diện tích ruộng.
– Đào mương bao quanh và mương giữa. Mương bao quanh chân bờ về phí trong 1m, sâu 0,8-1,0m, rộng 3-5m. Nếu ruộng rộng, đào thêm ở giữa ruộng hình chữ “+” hoặc “#” rộng 1-1,5m, sâu 0,5-0,8m. Tổng diện tích cả 3 loại mương chiếm khoảng 15-20% diện tích đất ruộng.

Ruộng nuôi cua đồng

– Lấy đất đào mương để đắp bờ ruộng cho cao và to ra. Chú ý nện đất chặt để nước bị rò rỉ. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng săm hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt.
– Đặt lưới chắn xung quanh ruộng. Nếu lưới bằng nilon mỏng thì phải đóng cọc cao hơn mặt bờ 40-50cm, lấy dây thép buộc nối các đầu cọc với nhau, gấp đôi tấm nilon lên dây thép cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi vùi sâu trong đất bờ từ 15-20cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa hoặc fibroximăng… thì chỉ cần vùi xuống đất 15-20 cm, đầu trên cao hơn mặt đất ít nhất là 40cm, bốn góc lượn hình cung.
– Dùng vôi sống hàm lượng 75-105 kg/1000m² hoà nước rải đều khắp mương.
– Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, rau dừa nước, bèo cái…khoảng 1/3 mặt nước.

2. Cải tạo ao, ruộng nuôi

Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành tát cạn nước để diệt hết địch hại của cua và tiêu diệt mầm bệnh, bằng cách bón vôi 7-10 kg/100 m², phơi nắng 3-5 ngày sau đó cấp nước vào ao, đối với ruộng thì cấp nước vào nhưng không cho nước tràn lên ruộng, chỉ khi nào đến thời kỳ lúa sắp làm đòng mới cấp nước lên ruộng cho cua lên ruộng tìm thức ăn.
– Tiến hành gây màu nước cho ao bằng phân chuồng hoặc phân hóa học để tạo nguồn động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua giống mới thả.
– Trong ao, ruộng nuôi nên chất chà làm nơi trú ngụ cho cua lúc cua lột xác tránh bị hao hụt, có thể thả thêm bèo, rau muống, rau dừa nước … để che phủ ao vào những ngày nắng gắt. Độ che phủ khoảng 1/3 diện tích mặt ao.

3. Chọn và thả giống

– Thời vụ thả giống thường từ tháng 2 – 4 hàng năm
– Chọn con giống khỏe mạnh, không bị bệnh tật, đầy đủ càng và chân, màu sắc tươi sáng không bị đóng rong có thể chọn cua đực để nuôi góp phần tăng năng suất và giá trị thương phẩm.

Cua đồng giống

Nguồn: Danviet.vn

Mật độ: nuôi ao: 10-15 con/m2, nuôi ruộng: 5-7 con/m2.
– Không nên thả cua trực tiếp xuống ao mà phải thả từ mé bờ ao cho cua tự bò xuống ao, ruộng tránh hiện tượng cua bị sốc môi trường.

4. Chế độ chăm sóc

– Thức ăn cho cua rất đa dạng thiên về động vật bao gồm cá tạp, ốc, hến, khoai lang, khoai mì…thức ăn nên bằm nhỏ vừa cỡ miệng cua.
– Khẩu phần ăn từ 5-8 % trọng lượng cua/ngày và được chia làm 2 lần trong ngày, sáng sớm ăn 20 – 40% và chiều ăn 60 – 80 % trọng lượng thân. Thức ăn phải còn tươi không bị ôi thiu, nấm mốc.
– Cần cho cua ăn thức ăn vừa đủ để đảm bảo chất lượng nước vừa giúp cua tiêu hóa tốt thức ăn và hạn chế hao phí thức ăn, hạ giá thành nuôi. Trong ao ruộng nuôi cần bố trí một số sàng ăn để đánh giá tình trạng bắt mồi của cua và đồng thời căn cứ vào điều kiện thời tiết mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

Căn cứ vào mùa vụ, nhiệt độ nước và giai đoạn sinh trưởng của cua để cho ăn hợp lý.
– Từ tháng 3 đến tháng 5, cua chủ yếu ăn thức ăn tinh. Thức ăn nên làm thành các nắm bột nhão nhỏ. Lượng thức ăn từ 20-30% trọng lượng cua.
– Từ tháng 6 đến tháng 9, cua ăn khoẻ, mau lớn nên cần cho ăn thêm rong cỏ, khoai sắn, bổ sung thức ăn viên hoặc thức ăn tự chế từ cá tạp.
– Từ tháng 10 trở đi, cần tăng thêm thức ăn từ động vật. Lượng thức ăn từ 7-10% trọng lượng cua.
– Mỗi ngày cho cua ăn 2 lần, buổi sáng sớm và chiều tối. sáng cho ăn từ 20-40%, chiều cho ăn chính là 60-80% tổng lượng thức ăn hàng ngày.
– Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thời tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày.

5. Quản lý

– Thường xuyên thay nước cho ao, ruộng nuôi khoảng 1 tuần/lần để kích thích cua lột xác và bắt mồi mạnh, mỗi lần thay nước từ 1/4-1/3 lượng nước trong ao, mương.
– Định kỳ bón vôi cho ao ruộng nuôi 15 ngày/lần với liều lượng 2-3 kg/100m2 hòa vào nước, lấy nước trong tạt đều khắp ao.
– Thường xuyên kiểm tra đăng chắn cống, bờ rào chắn để tránh cua thất thoát ra ngoài.

6. Thu hoạch

Thời điểm thu hoạch chủ yếu là vào tháng 10.
– Khi cua đạt kích thước thương phẩm được giá cao có thể tiến hành thu hoạch.
– Thu tỉa bằng cách đặt lờ, lợp… tát cạn, bắt bằng tay nếu thu toàn bộ.
– Cua nhỏ không đủ cỡ thương phẩm được để lại nuôi tiếp cho vụ sau.

Thu hoạch cua đồng

Nguồn http://kythuatnuoitrong.edu.vn được tổng hợp lại bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm : nuôi cua con thành cua thịt

Ao đầm nuôi

Có thể nuôi cua con thành thịt trong các dạng ao đầm riêng biệt hay nuôi kết hợp trong đầm nuôi tôm nước lợ, trong ruộng lúa với hình dạng và kích cỡ khác nhau. Tuy nhiên, một đầm hay ao nuôi tôm tốt nên có các đặc điểm như :

– Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước.

– Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 20cm).

– Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 7.5-8.5; độ mặn từ 10-25%o và nhiệt độ từ 28-33oC.

Ao nên có diện tích từ 300-1000m2, độ sâu 0.8-1.2 m với bờ có chiều rộng đáy 3m, mặt 1-1.5m và cao 1-1.5m và cao hơn mức triều cường ít nhất 0.5m. Xung quanh bờ phi rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước…và đặt hơi nghiêng vào ao sao cho cua không thoát ra được. Ao có cống cấp và thoát để dễ dàng cấp thoát nước cho ao, trước cống nên có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận, lớp ngoài nên có hình chữ V. Cũng có thể trồng cây như giá, đước hoặc làm giàn bằng lá dừa nước để che mát cho cua.
Nuôi trong ruộng lúa, nên chọn ruộng có diện tích khong 0.5-2 ha. Cách rào chắn giống như nuôi cua trong ao. Tuy nhiên, nên đào nhiều mương dọc ngang trong ruộng để cua trú ẩn. Mương nên rộng từ 1.5-2m và sâu 0.8-1m. Diện tích mương đào chiếm khong 20% diện tích ruộng.

Nuôi cua trong ao

Nuôi cua trong đầm nuôi tôm thì diện tích đầm có thể 2-10 ha hay lớn hơn. Việc rào chắn, quản lý, bảo vệ trong trường hợp này tương đối khó khăn. Tuy nhiên, cần đào nhiều mương sâu trong đầm (mức nước khoảng 1m) cho cua cư trú nhằm giảm sự thất thoát cua do vượt bờ.
Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành chuẩn bị ao như bón vôi với liều lượng 10-15kg/ha, lấy nước sạch.

Thả giống và chăm sóc

Mùa vụ nuôi cua con thành cua thịt có thể quanh năm nhưng phổ biến nhất vào khoảng tháng 2-5 . Lúc này nguồn giống phong phú điều kiện môi trường nước tương đối thuận lợi cho nuôi cua. Những tháng mùa mưa cũng có thể nuôi cua nhưng sự biến động lớn về nhiệt độ, độ mặn, độ phèn,… có thể ảnh hưởng xấu đến nuôi cua.
Hiện nay, nguồn giống nuôi vẫn dựa chủ yếu vào nguồn giống tự nhiên và thường phi vận chuyển rất xa. Phương pháp vận chuyển đơn giản và hiệu qu ở một số nơi là dùng bao chỉ, bao bố,…Khi vận chuyển nên tránh gió lùa, nắng, mưa trực tiếp lên cua và thỉnh thong dùng nước biển tưới cho cua để giữ độ ẩm. Tùy vào kích cỡ cua và loại ao đầm nuôi, mật độ và thời gian nuôi có khác nhau:
Nếu nuôi cua giống cỡ 50 – 100 con/kg thì thả mật độ 3 – 4 con/m² trong ao, 2 – 3 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 5 -6 tháng.

Nếu nuôi cua giống cỡ 20 – 35 con/kg thì thả mật độ 2 – 3 con/m² trong ao, 1 – 2 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 3 -4 tháng.

Nếu nuôi cua giống cỡ 10 – 12 con/kg thì thả mật độ 2 -3 con/m² trong ao, 1 con/m² trong đầm, ruộng. Thời gian nuôi 2 – 2,5 tháng.

Nuôi cua trong đầm

Khi nuôi cua trong ruộng lúa, có thể nuôi theo dạng luân canh vào mùa nước mặn hoặc ngay cả xen canh trong mùa nước ngọt khi lúa đã tốt. Cua có thể thả nuôi kết hợp trong đầm nuôi tôm quãng canh hay quãng canh cải tiến.
Nên thả cua khi độ mặn, nhiệt độ, độ phèn … nằm trong khoảng thích hợp, tiến hành thả cua lúc trời mát và nên thả trên bãi để cua tự bò xuống nước.
Thức ăn cho cua thịt rất đa dạng bao gồm: cá tạp, tôm còng, nhuyễn thể, rau, ngũ cốc,… Tỷ lệ cho ăn khong 5-10% trọng lượng cua và được chia làm hai lần trong ngày sáng và chiều mát thích hợp nhất là cho cua ăn lúc nước lớn.
Tiến hành thay nước hàng ngày khoảng 30-50% để giữ môi trường trong sạch. Hạn chế sử dụng nông dược khi nuôi cua trong ruộng lúa.

Thu hoạch

Khi cua đạt trọng lượng 200-350 gr/con có thể thu hoạch. Thu cua bằng cách đánh tỉa câu rập hay tháo cạn còn 30cm nước và bắt bằng tay nếu thu toàn bộ.

Nguồn : Đại học Cần Thơ, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật nuôi lươn tại nhà

Lươn là một họ cá nước ngọt trông tương tự cá chình sinh sống trong khu vực nhiệt đới, là loài động vật máu lạnh. Họ này bao gồm khoảng 18 loài trong 4 chi. Phần lớn có thể được tìm thấy trong lớp bùn của các ao hồ đang khô cạn.

Lươn

Trong những năm qua, nhiều gia đình ở nước ta đã lựa chọn mô hình nuôi lươn trên cạn như một cách làm giàu từ chăn nuôi vô cùng hiệu quả. Dưới đây là một số kỹ thuật nuôi lươn tại nhà cung cấp kiến thức cơ bản nhất cho bà con:

1. Kỹ thuật xây bồn nuôi lươn

  • Khi xây dựng bồn nuôi lươn, cần lựa chọn khu vực đất cao ráo, kín gió và có thể cung cấp được nguồn nước với chất lượng tốt. Việc xây dựng bồn nuôi lươn cũng vô cùng đơn giản và không đòi hỏi chi phí quá cao. Chỉ cần thực hiện một bồn chứa có diện tích khoảng 10 – 30 m², chiều cao mỗi bồn từ 1 – 1,3 m và phủ trên là tấm bạt nylon không thấm nước là hoàn tất chiếc bồn cơ bản.
  • Sau khi xây dựng bồn nuôi lươn cơ bản, đổ đất vào trong bồn.

Bồn nuôi lươn

Lưu ý: đất nên chiếm khoảng 1/2 – 2/3 diện tích để lươn có thể chui vào đó cư trú.

  • Đổ nước có chiều sâu 20-30cm, không để nước sâu quá sẽ ảnh hưởng đến tốc tộ tăng trưởng của lươn. Ngoài ra, loài động vật này thường chui rúc vào những chỗ tối, ít ánh sáng nên bạn có thể thả thêm lục bình, rau dừa để tạo bóng râm. Bạn cũng thể trồng thêm một số cây bên ngoài bồn để tạo bóng mát, giúp quá trình nuôi lươn được thuận lợi hơn.

2. Kỹ thuật chọn giống

  • Lươn chủ yếu sinh sản ngoài tự nhiên với số lượng lớn, do diện tích đất ruộng ngày một thu hẹp dẫn đến việc lươn ngày càng cạn kiệt. Khi chọn giống nên chú ý đến màu sắc của lươn để có được con giống tốt nhất.
  • Lươn được chia thành 3 loại cơ bản:

− Loại 1: lươn có màu vàng sẫm sẽ mang đến khả năng phát triển tốt nhất.

− Loại 2: lươn có màu màu vàng xanh sẽ cho tốc độ phát triển kém hơn

− Loại 3: lươn có màu xám tro thường khá chậm lớn

Trong ba loại trên, nên chọn loại 1 và không nên lựa chọn loại 3 khi muốn nuôi lươn cho năng suất cao.

Lươn giống

Sau khi lựa chọn được con giống, cần phải lưu ý đến kích thước lươn con để có thể thả nuôi tốt nhất. Khối lượng phù hợp sẽ là 40 – 60 con/kg, kích cỡ lươn tương đương với nhau, khỏe mạnh và nên thả nuôi với mật độ 60 – 80 con/m².

3. Quản lý và chăm sóc

  • Cho ăn: Khi bắt đầu nuôi lươn, loại động vật này cần mất một thời gian để quen với thức ăn hàng ngày. Vì vậy, trong tuần đầu tiên nuôi, chỉ nên cho lươn ăn giun đất và chỉ ăn vào buổi tối. Khi lươn đã quen với điều kiện nuôi thả của gia đình, bạn có thể cho lươn ăn ngày 2 bữa và có thể ăn các loại thức ăn khác nhau như cá, ốc, cua…. được nghiền nhỏ.

Để đảm bảo tốc độ phát triển cũng như sức khỏe, khi nuôi lươn bạn cần phải lưu ý không cho lươn ăn thức ăn ôi, với thức ăn thừa bạn nên vớt ra khỏi bồn tránh làm ô nhiễm nguồn nước.

  • Vệ sinh bồn: 

Với lươn mới thả, phải thay nước 7 ngày một lần. Sau đó, khi nuôi lươn được từ 2 tháng trở đi, phải thay nước 4 ngày/lần. Nếu để nước bẩn, lươn sẽ chết, mắc một số bệnh như lở loét,  nấm thủy mi, bệnh tuyến trùng, bệnh đĩa … hoặc không phát triển như ý muốn.

Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.