Sự tích lũy manganese trong hệ thống nuôi tôm Biofloc

Nghiên cứu này nhằm chứng minh sự tích lũy chất độc hại là manganese (Mn) và ảnh hưởng của nó đến tôm nuôi trong hệ thống Biofloc.

Trong hệ thống nuôi tôm tuần hoàn sẽ có sự mất mát các chất dinh dưỡng và tích lũy các chất độc hại. 

Nuôi tôm theo công nghệ Biofloc ngày càng phổ biến ở nước ta do nhiều ưu điểm như tiết kiệm nước, tỉ lệ sống cao, năng suất cao gấp nhiều lần nuôi bình thường, chất lượng thủy sản nuôi được đảm bảo và không gây ô nhiễm môi trường.

Nhưng do sự trao đổi nước thấp của những hệ thống này dẫn đến việc thiếu hụt yếu tố dinh dưỡng hoặc tích lũy các chất độc hại.

Sự tích tụ Mn (SBR) là nguyên nhân làm chậm quá trình phát triển của tôm nuôi. Do nước nuôi tôm có hàm lượng Mn cao chứa trong các hạt biofloc, các hạt biofloc này là thức ăn bổ sung cho tôm nuôi. Về cơ bản SBR có nhiều trong nước thải từ hệ thống nuôi tôm. Vật liệu flocs còn sót lại từ các lần xử lý nước trước còn gọi là “nước bẩn” . Các floc này trộn lẫn với các hạt floc mới và nó được dùng làm thức ăn bổ sung vào thức ăn cho tôm.

Thí nghiệm đánh giá tác động của Mn với tôm nuôi

Hai thử nghiệm được tiến hành như sau:

(i) Thử nghiệm thức ăn đầu tiên là một thí nghiệm kéo dài 6 tuần để xác định độc tính của mangan đối với tôm (Litopenaeus vannamei) trong khẩu phần không có bioflocs.

(ii) Thử nghiệm cho ăn thứ hai (5 tuần) là được thực hiện với các biofloc nói trên với hàm lượng mangan cao.

SBR được sử dụng đối với tôm nuôi trong giai đoạn khoảng 30 ngày tuối, ở giai đoạn này chất lượng nước nuôi tương đối tốt.
Nước sử dụng sau khi tách các hạt floc được sử dụng ngược lại vào hệ thống RAS và các hạt floc được sử dụng bổ sung cùng với thức ăn viên cho thấy tăng trưởng của tôm nhanh hơn so với chỉ đơn thuần dùng thức ăn viên.

Tuy nhiên, đến giai đoạn nuôi khoảng 60 ngày khi này chất lượng nước trở nên xấu hơn, do đó khi bổ sung các hạt floc vào thức ăn làm giảm tăng trưởng của tôm khoảng 30% so với việc không bổ sung.

Giai đoạn nuôi từ 60 ngày trở đi cho thấy hàm lượng Mn tích lũy dao động trong khoảng 0.9 – 1.1%, tương đương hàm lượng Mn có thể có trong thức ăn tôm khoảng 0.1 – 0.3% tùy thuộc vào lượng biofloc tạo thành.

Kết luận.

Mn đóng cai trò quan trọng trong nuôi tôm, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng Mn trong thức ăn tôm càng cao thì tôm càng chậm lớn, và hàm lượng này không được vượt quá 0.02%.

Sự tích lũy Mn trong nước nuôi tôm theo hệ thống Biofloc làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe tôm nuôi. Do đó cần cân nhắc cẩn thận đối với các cấp độ tiềm tàng của các nguyên tố vi lượng trong biofloc.

Nguồn: Tepbac.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cà Mau: Có 63/65 mẫu tôm giống nhiễm virut bệnh còi

Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau, cho biết: trong số 65 mẫu tôm giống thu tại một số cơ sở sản xuất tôm giống trên địa bàn các huyện Năm Căn, Ngọc Hiển và Trần Văn Thời để tiến hành xét nghiệm đối với 3 chỉ tiêu gồm: Đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi. Kết quả cho thấy, không phát hiện vi rút gây bệnh đốm trắng, đầu vàng. Tuy nhiên, có đến 63 mẫu tôm giống phát hiện nhiễm virut bệnh còi.

Người nuôi tôm nên chọn mua tôm giống ở những nơi có uy tín trên thị trường.
Trước thực trạng trên, Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau khuyến cáo các cơ sở sản xuất tôm giống tích cực nâng cao các biện pháp kỹ thuật, nhằm cải thiện chất lượng tôm giống, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ nhiễm bệnh, đặc biệt là bệnh còi, để phục vụ cho người nuôi đạt hiệu quả.

Đối với người nuôi tôm nên chọn mua tôm giống từ những cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tôm giống có uy tín trên thị trường, có nhãn mác, địa chỉ rõ ràng hoặc chọn mua tôm giống từ các cơ sở sản xuất có kết quả xét nghiệm mẫu tôm giống không phát hiện virut gây các bệnh đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi được cập nhật hàng tuần trên Trang Thông tin điện tử Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau.

Đối với các hộ nuôi tôm sú quảng canh cải tiến, thâm canh, bán thâm canh, khi mua giống cần lựa chọn những bể tôm giống không nhiễm virut gây bệnh đốm trắng, đầu vàng và bệnh còi. Ngoài ra, cần xét nghiệm thêm chỉ tiêu bệnh hoại tử gan tụy cấp trước khi thả nuôi.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Văn bản hóa quy trình nuôi tôm siêu thâm canh chuẩn

Sau khi kết thúc chuyến kiểm tra thực tế các hộ nuôi tôm siêu thâm canh tại xã Tân Hưng, huyện Cái Nước vào ngày 13/12, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử chỉ đạo ngành nông nghiệp trong tuần này phải hoàn thành văn bản chi tiết về quy trình nuôi tôm siêu thâm canh.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử (bìa trái) trao đổi cùng hộ ông Trần Văn Cương, ấp Tân Thuận, xã Tân Hưng về quy định của nuôi tôm siêu thâm canh.

Đến thời điểm này, huyện Cái Nước có hơn 23 ha nuôi tôm siêu thâm canh với 109 hộ dân tham gia. Trong đó tập trung nhiều nhất ở xã Tân Hưng Đông 20 hộ và Tân Hưng 19 hộ nuôi.

Qua kiểm tra, rà soát về quy trình nuôi, chỉ có 50 hộ nuôi đạt tiêu chuẩn quy định, còn lại 59 hộ nuôi không có ao lắng, ao xả thải và hệ thống dây dẫn điện không an toàn.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử trao đổi, hướng dẫn hộ ông Lê Văn Đạt, ấp Tân Hòa về thiết kế ao lắng, lọc tuần hoàn nước cho mô hình này, tránh xả thải trực tiếp ra môi trường bên ngoài.

Trước đó, thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh về rà soát, thẩm định quy trình nuôi tôm siêu thâm canh, UBND huyện đã tổ chức kiểm tra, nhắc nhở, ghi biên bản đề nghị hộ nuôi khắc phục hệ thống lưới điện và phải có ao xử lý nguồn nước thải, không xả thải trực tiếp ra kinh rạch.

Qua báo cáo của địa phương và kiểm tra thực tế 3 hộ nuôi tại xã Tân Hưng, đoàn nhận thấy, tại các hộ này đã hứa khắc phục nhưng thực tế vẫn không làm. Hệ thống lưới điện được kéo tạm bợ, thả dưới đất rất nguy hiểm. Ao xả thải không thiết kế ngăn lắng, lọc và tuần hoàn nước, vẫn còn xả thẳng ra môi trường bên ngoài.

Qua kiểm tra, trao đổi với người dân, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử cho rằng người dân chưa nắm được, chưa hiểu được nội dung cũng như ý nghĩa của các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của tỉnh về nuôi tôm siêu thâm canh. Các đoàn thẩm định trước đây vẫn chưa chi tiết được, chưa thể hiện được hết ý nghĩa và hướng dẫn cụ thể cho người dân. Còn huyện nói có tập huấn quy trình nuôi cho người dân nhưng kiểm tra thực tế người dân vẫn chưa được tập huấn…

Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Lê Văn Sử đề nghị Văn phòng UBND tỉnh tham mưu văn bản đánh giá sau chuyến khảo sát này; giao Sở NN&PTNT khẩn trương triển khai tổ kiểm tra môi trường nuôi trồng thủy sản và thẩm định quy trình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh. Qua đó cũng kiểm tra ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh đã được triển khai cụ thể đến từng hộ dân hay chưa. Phải hướng dẫn dân chi tiết về thiết kế ao nuôi, quy hoạch và xử lý môi trường vụ nuôi. Phải thể hiện thời gian khắc phục, thời gian kiểm tra lại và phải đảm bảo mọi người dân tham gia nuôi phải biết quy định này.

Về phía huyện phải hoàn thành văn bản chi tiết nội dung của biên bản về thẩm định quy trình nuôi tôm siêu thâm canh trong tuần này, tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp trong tuyên truyền cho người dân nuôi tôm. Làm thế nào cho mọi người đang nuôi tôm cũng như chuẩn bị nuôi nắm được quy định trên, có như vậy mới ngăn chặn được tình trạng gây ô nhiễm môi trường như hiện nay.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nhân rộng lót lưới mành thay cho lót bạt trong ao nuôi tôm

HTX Nuôi thủy sản năng suất cao Tân Hưng (huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau) đã đưa ra sáng kiến lót lưới mành đáy ao thay cho lót bạt trong nuôi tôm.

Nhân rộng lót lưới mành thay cho lót bạt trong ao nuôi tôm

Cách đây 1 năm, HTX Nuôi thủy sản năng suất cao Tân Hưng (huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau) vẫn còn khoảng 90% thành viên thiếu vốn sản xuất; thì sau vụ nuôi năm 2017, nhiều thành viên đã có trong tay bạc tỷ, nhờ hợp tác hỗ trợ nhau cùng áp dụng mô hình nuôi tôm tiên tiến.

Thành công vượi trội

Ngày 19/11, HTX Tân Hưng đang thu hoạch ao tôm thẻ chân trắng (TTCT) cuối cùng sử dụng sáng kiến lót lưới mành đáy ao của Giám đốc Huỳnh Xuân Diện. Dù thời gian nuôi (kể cả giai đoạn ương 20 ngày) chỉ mới 75 ngày, nhưng tôm đã đạt kích cỡ 54 con/kg, nhưng Giám đốc Diện vẫn còn thấy tiếc: “Do độ mặn hiện tại chỉ còn khoảng 4 – 5‰, nên buộc phải thu hoạch vì tôm bắt đầu chậm lớn, nếu không, chỉ khoảng 2 tuần nữa thôi là có thể thu tôm cỡ 30 con/kg”.

Thay vì nuôi bạt đáy như mọi năm, năm nay, anh Diện có sáng kiến thử nghiệm thay bạt đáy bằng loại lưới mành để giảm chi phí và cả 3 ao (1.600 m2/ao) đều thành công lớn. Anh Diện chia sẻ: “Nếu sử dụng bạt đáy, mỗi ao tốn khoảng 60 triệu đồng, còn sử dụng loại lưới mành này chỉ tốn 16 triệu đồng, nhưng mật độ thả nuôi, tốc độ tăng trưởng và năng suất thì vẫn như nhau”. Chỉ ao tôm đang thu hoạch, anh Diện cho biết: “Như ao này, mặc dù độ mặn xuống thấp, nhưng cũng chỉ 75 ngày tôm đã vào cỡ 54 con/kg, sản lượng ước tính nếu kéo hết cũng khoảng từ 4 tấn trở lên”.

Cũng theo anh Diện, HTX hiện có 60 thành viên, với 60 ha mặt nước nuôi TTCT thâm canh và bán thâm canh với mật độ thả nuôi 200 – 250 con/m2, tất cả đều nuôi 2 giai đoạn, có ao ương riêng và sang ao bằng kỹ thuật sang khô. “Nhờ nuôi 2 giai đoạn, nên chỉ cần 75 ngày là tôm thu hoạch đạt cỡ 50 – 60 con/kg, do đó mỗi năm có thể thả nuôi đến 4 vụ. Theo tổng kết sơ bộ, năm nay hầu hết người nuôi đều có lời, người lời cao nhất trên 800 triệu đồng/vụ, còn người thấp nhất khoảng 200 triệu đồng/vụ” – anh Diện phấn khởi chia sẻ thêm.

Liên kết cùng phát triển

Khi thành lập vào tháng 10/2016, các thành viên HTX Tân Hưng đều là những người nuôi tôm có kinh nghiệm, kỹ thuật lâu năm, nên việc tiếp cận, cập nhật mô hình nuôi mới cũng thuận lợi hơn. Tuy nhiên, do từ năm 2015 trở về trước, tình hình nuôi không mấy khả quan, nên có nhiều thành viên HTX thiếu vốn, khiến cho việc huy động vốn làm dịch vụ còn khó. Mặt khác, nguồn điện ở đây rất kém, nên việc triển khai nuôi thâm canh, mật độ cao, nhất là nuôi theo công nghệ Biofloc còn khó và chi phí cao.

Điểm mới trong mô hình nuôi là HTX thử nghiệm thành công trên 3 ao nuôi bằng phương pháp lót lưới mành toàn bộ ao nuôi thay cho lót bạt. Bên cạnh việc tiết kiệm chi phí đầu tư theo anh Diện, hình thức nuôi này còn giúp cho ao không bị đục do tôm không thể sục xuống bùn đáy ao để tìm kiếm thức ăn. “Ngoài tiết kiệm chi phí, ao nuôi không bị đục, qua thử nghiệm 3 vụ nuôi, tôi thấy tôm cũng rất mau lớn và màu sắc đẹp, đại lý thu mua rất thích, sẵn sàng trả giá cao”. Mặt khác, do không sử dụng kháng sinh, hóa chất cấm, nên giá bán tôm luôn cao hơn bên ngoài khoảng 3.000 đồng/kg.

Trong vụ nuôi vừa qua, dù nguồn vốn hạn chế, nhưng HTX cũng hỗ trợ được cho thành viên của mình mua con giống, thức ăn đến cuối vụ mới trả, nhưng vẫn rẻ hơn bên ngoài 1.000 đồng/kg đối với thức ăn và 10 – 15% đối với con giống. Ngoài ra, con giống cũng được phía doanh nghiệp cung ứng bảo hành trong 30 ngày, nếu có thiệt hại sẽ được phía doanh nghiệp hoàn trả 100%.

Trao đổi về tình hình liên kết trong cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, Giám đốc HTX Huỳnh Xuân Diện cho biết: “Cũng có nhiều doanh nghiệp tìm đến muốn liên kết với HTX, nhưng qua tìm hiểu, thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp này là doanh nghiệp nhỏ. Do đó, HTX cũng có trao đổi với UBND tỉnh để tranh thủ sự hỗ trợ, tạo điều kiện cho HTX được liên kết với các doanh nghiệp lớn trong cung ứng đầu vào lẫn đầu ra trong thời gian tới”. Hiện nay, vụ nuôi năm 2017 đã kết thúc, các thành viên HTX tranh thủ cải tạo lại ao nuôi, chờ con nước có độ mặn cao tới là thả nuôi vụ mới.

Nguồn: Thủy sản Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech Việt Nam.

 

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) đã giúp nhiều nông dân thoát khỏi cảnh nợ nần do nuôi tôm.

Mô hình nuôi ghép tôm cua, cá kình, cá đối mang lại hiệu quả cao, ít xảy ra dịch bệnh

Là người gây dựng cơ nghiệp từ nghề nuôi trồng thủy sản, những sáng kiến của chị Trần Thị Hồng Vân đã giúp nông dân thoát cảnh nợ nần, có thêm sinh kế mới. Vân được T.Ư Đoàn trao giải thưởng Lương Định Của 2017.

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) là giải pháp giúp hàng trăm hộ nuôi trồng thủy sản tại H.Quảng Điền thoát cảnh nợ nần, thua lỗ.

Trần Thị Hồng Vân đã dành nhiều tháng khảo sát trên các ao nuôi, tìm đọc tài liệu về nuôi trồng thủy sản để giải mã hiện tượng tôm sú dịch bệnh. Ngoài nguồn nước, Vân cho rằng người dân chỉ nuôi tôm sú, lượng thức ăn tồn dư quá nhiều cũng làm tăng ô nhiễm nguồn nước, làm phát sinh dịch bệnh. Bằng kiến thức đã tìm hiểu và tham vấn ý kiến các nhà khoa học, chị Vân tìm cách vận động người dân chuyển đổi giống nuôi trồng, đặc biệt là đưa cá đối vào nuôi xen ghép cùng các loại thủy sản khác.

“Người dân bao năm chỉ nuôi tôm sú, tâm lý bảo thủ nên chuyển đổi sang nuôi con khác thì không mặn mà, bỡ ngỡ, mình phải đến từng nhà kiên trì vận động làm thử”, chị kể lại.

Chị Vân đã thử nghiệm nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối trên diện tích 8 ha, được chính quyền địa phương ủng hộ, hỗ trợ miễn phí giống cá đối. Qua một vài đợt nuôi thử nghiệm, các ao nuôi đều cho năng suất cao, đặc biệt là không xảy ra dịch bệnh.

“Khi thả vào ao nuôi xen ghép, con cá đối có vai trò như đối tượng xử lý môi trường khi ăn thức ăn dư thừa và các mùn bã hữu cơ, phân của các loài khác khiến môi trường nước được cải thiện, loại bỏ tác nhân ô nhiễm do thức ăn dư thừa. Chi phí cho mô hình xen ghép này thấp hơn so với chỉ chuyên nuôi tôm sú. Người nuôi có thu nhập tăng thêm từ con cá đối với mức giá bán 80.000 – 120.000 đồng/kg”, chị Vân chia sẻ.

Thành công đó nhanh chóng được người dân nhân rộng. Sau 3 năm, diện tích ao nuôi chuyển đổi, xen ghép đã lên tới 643 ha, chiếm 99% tổng diện tích ao nuôi tại địa phương. Mô hình này cũng được chọn để nhân rộng trong toàn H.Quảng Điền, vực nghề nuôi thủy sản phát triển, kinh tế nhiều hộ gia đình đã phục hồi trở lại sau một thời gian dài rơi vào cảnh nợ nần do thất bại từ việc nuôi tôm.

Nguồn: Báo Thanh Niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chế phẩm vi sinh từ nuôi cho đến bảo quản

Ở Quảng Nam mô hình sử dụng chế phẩm sinh học EM chuối và chế phẩm dịch chiết gừng bảo quản sản phẩm tôm đã chứng minh tính thiết thực và hiệu quả cao có thể hướng đến nhân rộng để ngành sản xuất tôm bền vững.

EM chuối trộn vào thức ăn tăng cường sức đề kháng cho tôm.

Nuôi tôm cho sản lượng cao, an toàn

Lâu nay, nông dân Nguyễn Xuân Cần (thôn Kỳ Trần, xã Bình Hải, Thăng Bình) nuôi tôm không nhiều nhưng được những hộ khác khâm phục vì các vụ nuôi luôn thành công. Ở vụ vừa qua, với 6 ao nuôi có tổng diện tích 18.000m2, ông Cần thu hoạch 10 tấn tôm, bán được 1,6 tỷ đồng, qua đó thu lợi 1 tỷ đồng.

Bí quyết thành công của nông dân này là ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. “Sử dụng hóa chất và kháng sinh không phải là giải pháp nuôi tôm bền vững vì gây hại môi trường và sản phẩm không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Thay vào đó tôi sử dụng chế phẩm sinh học EM chuối – sản phẩm độc đáo xuất xứ từ Nhật Bản” – ông Cần chia sẻ.

Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm và bảo quản sản phẩm tôm nuôi đang là lựa chọn hiệu quả và hướng đến bền vững.

Chế biến EM chuối theo cách ông Cần hướng dẫn cũng khá đơn giản: xay nhuyễn 1kg chuối tây đã lột vỏ rồi khuấy đều với 1 lít EM trong bình có nắp đậy chặt. Sau 24 giờ có thể sử dụng 1 lít chế phẩm sinh học EM chuối trộn với 10kg thức ăn nuôi tôm. Nguyên tắc sử dụng chế phẩm sinh học của ông Cần là sử dụng đúng liều lượng, thời gian sử dụng vào buổi sáng, khoảng 8 – 10 giờ, lúc nắng ấm là phù hợp nhất vì hàm lượng ô xy hòa tan cao. Chế phẩm EM chuối có tác dụng tăng cường sức đề kháng và khả năng chống chịu của tôm nuôi khi có các điều kiện ngoại cảnh bất lợi, tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn cho tôm. Bên cạnh đó, EM chuối còn giúp tiêu diệt vi sinh vật có hại, hạn chế ô nhiễm môi trường.

Nuôi tôm ở vùng triều có nhiều hạn chế về nguồn nước, nhưng cũng nhờ sử dụng chế phẩm sinh học, hộ các ông Nguyễn Nam, Đỗ Văn Lành (khối phố Phú Sơn, phường An Phú, TP.Tam Kỳ) vẫn thu được sản lượng lớn, lãi hàng trăm triệu đồng sau mỗi vụ nuôi.

Ông Nguyễn Nam cho biết, ông sử dụng chế phẩm sinh học trong toàn bộ quá trình nuôi tôm, từ giai đoạn cải tạo ao nuôi đến khi thu hoạch. “Ban đầu tôi nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức quảng canh vì vùng triều ven sông không có lợi thế về quản lý môi trường nuôi tôm như trên cát. Sau đó, tôi đã chuyển sang thâm canh nhờ sử dụng chế phẩm sinh học có tính tương thích cao nên nuôi tôm rất trúng vụ” – ông Nam nói.

Ông Đỗ Văn Lành cho biết thêm, thời tiết càng khắc nghiệt nông dân càng nên dùng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm. Như chuẩn bị cho vụ nuôi mới năm 2018, ông sẽ dùng chế phẩm sinh học để xử lý bùn đáy hồ bằng cách pha với nước phun tiêu độc trong vòng 10 ngày. Tùy theo từng vụ nuôi, ông dùng các loại chế phẩm sinh học khác nhau phù hợp, được kiểm chứng kỹ càng.

Hiệu quả bảo quản

Mới đây, cơ sở thu mua tôm thương phẩm Thúy Ty (xã Tam Anh Bắc, Núi Thành) tiến hành thu mua tôm thẻ chân trắng ở ao nuôi của bà Nguyễn Thị Luận (xã Tam Hải, Núi Thành). Thay vì chỉ dùng đá ướp lạnh như mọi khi, doanh nghiệp này đã sử dụng chế phẩm sinh học gồm 50% dịch chiết gừng trong cồn 50%, cùng 50% dịch chiết riềng trong cồn 60% và các phụ gia an toàn là nisin nồng độ 200ppm, chitosan có nồng độ 0,5% để bảo quản sản phẩm theo tỷ lệ 1 lít chế phẩm sinh học pha với 2 lít nước biển và 7kg nước đá để bảo quản cho 10kg tôm thương phẩm.

Kết quả là tôm không có điểm đen nào trên thân; không bị rách vỏ; thịt tôm có màu sắc đặc trưng, săn chắc; đầu tôm dính chặt vào thân và không dập nát. Cơ sở Thúy Ty cho biết, nếu bảo quản bằng nước đá đơn thuần, chỉ sau 2 ngày tôm sẽ suy giảm chất lượng, giá bán ra bị giảm đến 30%. Trong khi đó, bảo quản bằng chế phẩm sinh học, thời gian giữ chất lượng sản phẩm tôm lâu hơn.

Nguồn: Báo Quảng Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tôm sinh thái nâng cao vị thế tôm Việt

Con tôm sinh thái không sợ hạn mặn, cũng không sợ ngọt hóa bất chợt như tôm nuôi công nghiệp. Tôm sinh thái chỉ cần nguồn nước thủy triều tự nhiên, không nhiễm bẩn.

Mô hình nuôi tôm sinh thái xuất hiện ở Cà Mau cách đây chỉ vài năm, nhưng đã nhận được hỗ trợ từ các dự án và các tổ chức quốc tế.

Nuôi tôm sinh thái theo mô hình luân canh lúa – tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao. 

Tỉnh Cà Mau có khoảng 70.000ha rừng ngập mặn tập trung chủ yếu ở các huyện Phú Tân, Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển. Trong đó, có 30.000ha nuôi tôm dưới tán rừng. Một số hộ nông dân được lâm trường cấp khoảng 4 – 5ha mặt nước và rừng để nuôi tôm sinh thái. Yêu cầu người đăng ký nuôi tôm sinh thái phải chọn mua con giống thật tốt ở những đơn vị sản xuất tôm uy tín và được kiểm định nghiêm túc. Đến nay, hơn 14.000ha đã được công nhận nuôi tôm sinh thái. Các hộ đăng ký nuôi tôm trên đã được chứng nhận vùng nuôi sinh thái. Đây là chiến lược phát triển để nâng cao vị thế tôm Việt Nam.

Ông Võ Minh Tuấn (huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) cho biết: Nuôi tôm sinh thái trong rừng ngập mặn là phương pháp nuôi tôm bền vững, hiệu quả ở chỗ giảm chi phí, ít tốn công chăm sóc vì tôm sống trong môi trường tự nhiên. Hơn nữa, ít dịch bệnh, mức độ rủi ro rất thấp, lợi nhuận cao.

Mô hình rừng – tôm mang tính chất bền vững.

Đầu ra sản phẩm được dự án MAM phối hợp với Cty CP Thủy sản Minh Phú cam kết thu mua toàn bộ với giá cao hơn giá thị trường khoảng 10 – 15% so với tôm thường. Tôm rất được thị trường ưa chuộng. Thêm một đặc điểm là tôm sống với bản năng tự nhiên nên có nhiều đặc điểm y như tôm tự nhiên. Đến những con nước triều cường, tôm lớn thường “chạy nước”, nghĩa là theo con nước mà đi.

Lãnh đạo Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho biết: Mô hình mà Minh Phú thực hiện được khởi đầu từ tôm nuôi sinh thái dưới tán rừng phòng hộ ven biển, tiếp đến là tôm – lúa và sau là tôm nuôi công nghiệp. Sở dĩ chọn con tôm sinh thái, tôm hữu cơ là do giá trị cao hơn từ 25 – 30% so với tôm nuôi thông thường. Nuôi trong môi trường sinh thái tự nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể dùng thức ăn hữu cơ để tăng năng suất nhưng không làm giảm đi giá trị của tôm khi chế biến xuất khẩu. Còn nuôi tôm công nghiệp, sẽ chọn nuôi theo mật độ thấp, vừa sức tải môi trường. Nuôi mật độ thấp không chỉ dễ nuôi, giảm nguy cơ dịch bệnh mà suất đầu tư cũng thấp, nông dân sẽ dễ đầu tư.

Về con giống, hiện nay các nước đã sản xuất được con giống kháng bệnh, gồm những bệnh rất nguy hiểm đối với nghề nuôi tôm là: EMS (chết nhanh) và đốm trắng, đang hướng tới kháng cả bệnh chậm lớn. Trong khi đó, Việt Nam vẫn còn loay hoay với con giống sạch bệnh.

Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho biết: Địa phương dự kiến sẽ nâng diện tích tôm sinh thái có chứng chỉ lên 20.000ha vào năm 2020, nhằm nâng cao diện tích rừng ngập mặn được bảo vệ. Hướng đến “một vùng bờ biển sinh thái”, vừa sản xuất tôm có giá trị kinh tế cao, vừa đảm bảo diện tích rừng ngập mặn và chống nước biển dâng cao. Hiện tại, tỉnh Cà Mau tiếp tục xây dựng hoàn thiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Nuôi tôm sinh thái tạo sản phẩm tôm sạch lại thân thiện với môi trường.

Nuôi tôm sinh thái tận dụng những điều kiện tự nhiên dưới tán rừng phòng hộ ven biển. 

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Tác hại thuốc chống nấm trong nông nghiệp đến động vật giáp xác

Theo một nghiên cứu mới của các chuyên gia từ Đại học Barcelona và Đại học Portsmouth (Anh) thuốc chống nấm và thuốc trầm cảm phát hiện trên các hệ thống sông làm giảm lượng thức ăn tôm ăn vào và tăng tốc độ bơi của tôm.

Thuốc chống nấm được dùng trong nông nghiệp ảnh hưởng đến giáp xác ngoài tự nhiên.

Ở châu Âu, châu Á, Australia và Nam Mỹ nguồn nước có hàm lượng cao các chất chống nấm được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Thuốc chống trầm cảm cũng được tìm thấy trong các con sông ở thủ đô nơi có hệ thống nước thải có hàm lượng thuốc cao.

Các sản phẩm hóa học này được đưa vào môi trường nước do không được loại bỏ hoàn toàn ở các nhà máy xử lý; chúng có thể tích lũy trong não của một số loài cá.  Và những ảnh hưởng của sự kết hợp của các chất độc khác nhau đã không được biết đến. Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phân tích ảnh hưởng của thuốc chống trầm cảm và thuốc diệt nấm tới sinh vật phù du và các loài giáp xác như tôm cua.

Giáo sư Alex Ford cho biết: “Hầu hết các con sông trên thế giới đều tiếp nhận chất gây ô nhiễm từ nước thải ngành nông nghiệp và các hệ thống nước thải có nồng độ thuốc cao. Dung dịch hỗn hợp các chất này có thể không gây chết người, nhưng gây tổn hại đến hệ sinh thái và thủy sinh vật.”

Giảng viên Isabel Muñoz từ Đại học Barcelona cho biết: “Nghiên cứu này cho thấy tác động của 2 chất này với hàm lượng thấp làm thay đổi hành vi của tôm Gammarus pulex, làm giảm lượng thức ăn ăn vào và tăng tốc độ bơi khi có độc tố. “

Nghiên cứu về hành vi bơi lội đã chứng minh rằng động vật bơi nhanh hơn sau khi tiếp xúc với thuốc diệt nấm và thuốc chống trầm cảm, tuy nhiên, khi chúng tiếp xúc với cả hai yếu tố, như trong nguồn nước bị ô nhiễm ngoài tự nhiên, sự phối hợp 2 chất này làm cho chúng bơi chậm hơn và dễ dàng trở thành con mồi cho những loài ăn thịt khác.

“Sự thay đổi hành vi bơi lội và ăn uống tác động tới sự phát triển, sinh sản và sự sống còn của động vật giáp xác, một thành phần quan trọng trong chuỗi thức ăn.” Tác giả cảnh báo.

Nguồn: Báo cáo của: University of Barcelona được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giá dịch vụ “ăn theo” nuôi tôm siêu thâm canh tăng mạnh

Với năng suất cao, ít rủi ro, đem lại lợi nhuận gần như gấp đôi so với các hình thức nuôi khác, loại hình nuôi tôm siêu thâm canh hiện nay đã và đang gây “bão” đối với người dân nuôi tôm trên địa bàn. Diện tích tôm nuôi tăng đột biến, kéo theo đó là những dịch vụ phục vụ nuôi tôm cũng có cơ hội “ăn theo”, nhiều nguy cơ tăng chi phí cho người nuôi.

Người nuôi tôm huyện Đầm Dơi đang chuẩn bị mở rộng diện tích nuôi siêu thâm canh khi bước vào chính vụ.

Là địa phương có diện tích nuôi tôm siêu thâm canh chiếm nhiều nhất hiện nay, huyện Đầm Dơi đã tăng lên 322,5 ha với 357 hộ nuôi. Trong khi diện tích đăng ký kê khai ban đầu chỉ 16,7 ha.

Ông Nguyễn Quốc Thống, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Đầm Dơi, chia sẻ: “Hiện nay, diện tích này đang tăng lên, đặc biệt chuẩn bị bước vào mùa nắng, mùa thuận của nuôi tôm, diện tích này sẽ mở rộng ồ ạt. Theo đó, dịch vụ xe cuốc, xe ủi để chuẩn bị ao đầm có thể sẽ đẩy giá lên cao”.

Được biết, hiện tại giá xe ủi, xe cuốc cho mỗi héc-ta khoảng 80-100 triệu đồng, tăng 20-40 triệu đồng/ha so với đầu năm. Đó là chưa kể tuỳ vào địa hình, kết cấu đất, nếu đất khó ủi thì chi phí này có khả năng tăng hơn.

Ông Hồ Chí Khanh, ấp Tân An Ninh B, xã Tạ An Khương Nam, huyện Đầm Dơi, than thở: “Vụ rồi gia đình đã nuôi được 1 ao với diện tích 1.600 m2, năng suất đạt khoảng 70%, vụ này dự tính sẽ mở rộng thêm 4 ao với diện tích 1,2 ha. Giá xe cuốc, ủi tăng nhiều, trước đây chỉ 60-70 triệu đồng/ha, giờ tăng lên 100 triệu đồng/ha, còn phải đặt cọc trước”.

Theo Phòng NN&PTNT huyện Đầm Dơi, số lượng xe cơ giới để ủi đầm trên địa bàn không nhiều, không đủ phương tiện, giá có thể đội lên 150 triệu đồng/ha.

Là chủ phương tiện xe cuốc, ủi hoạt động trên địa bàn xã Tạ An Khương Nam, huyện Đầm Dơi 17 năm qua, anh Huỳnh Trung Sơn cho biết: “Giá cuốc hiện nay đang tăng do nhu cầu nuôi tôm siêu thâm canh đang mở rộng, hiện đã kín lịch, người dân đã đặt trước để vào vụ sẽ bắt đầu ủi đầm. Lo là xe cuốc vùng trên xuống sẽ phá giá. Vì xong vụ họ đi nơi khác, giá nào họ cũng làm được, không lo sợ bị tẩy chay do làm việc không chất lượng”.

Đang chuẩn bị cột bê-tông, ống nhựa, lưới mành cho vụ nuôi tôm sắp tới, anh Hứa Văn Cường, ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, lo lắng: “Hiện nay mỗi hộ nuôi tôm muốn phát triển loại hình nuôi tôm siêu thâm canh thì hầu hết là tự liên hệ với một công ty nào đó để cung cấp vật tư, quy trình nuôi. Hiện nay, bắt đầu xuất hiện nhiều công ty mới như: Trúc Anh, Nam Á cung cấp bạt, các thiết bị, vật tư khác cho người dân. Giá xe cuốc tuy tăng giá nhưng giá bạt hiện giảm 4.000 đồng/m2 do các công ty cạnh tranh với nhau”.

Biến động về giá vật tư đang là nỗi lo, gánh nặng cho người nuôi tôm, nhưng lo lắng nhất của địa phương vẫn là môi trường nuôi sắp tới đây nhiều khả năng bất ổn nếu như diện tích cứ tăng ồ ạt mà quy trình nuôi không đảm bảo, kiểm soát chặt chẽ.

Ông Thống chia sẻ: “Hiện nay huyện đang tăng cường kiểm tra, thống kê lại các hộ nuôi tôm siêu thâm canh không đủ điều kiện nuôi sẽ không cho tiến hành nuôi mà phải cam kết thực hiện đúng theo quy trình của Sở NN&PTNT đề ra. Đồng thời, để hạn chế sự phát triển quá nhanh diện tích nuôi tôm siêu thâm canh, các ngành của huyện còn tăng cường tuyên truyền, vận động các hộ dân nuôi tôm tìm hiểu kỹ về quy trình kỹ thuật, nguồn vốn, con giống và thực hiện đúng theo hướng dẫn của Sở NN&PTNT tỉnh về quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh năng suất cao và quy trình nuôi tôm thâm canh năng suất cao theo công nghệ Semi-Biofloc”.

Nguồn: Báo Cà Mau được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm “nước sạch”

Ứng dụng mô hình nuôi tôm bằng nguồn nước từ nuôi cá diêu hồng là mô hình mới đầu tiên và duy nhất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế được hộ ông Nguyễn Phước ở xã Phú Thuận (Phú Vang) triển khai.

Ao hồ nuôi tôm của ông Phước

Ba ao hồ nuôi tôm trên cát ven biển của ông Phước được rào chắn bằng lưới thép, bao phủ xung quanh bằng dương liễu, hạn chế tối đa người và động vật ra vào. Tất cả các quy trình nuôi tôm đều khép kín. Từ khi áp dụng mô hình nuôi tôm nói trên, nhiều vụ liên tiếp ông Phước thu lãi trên dưới 1,5 tỷ đồng.

Ông Phước nuôi trên cát từ hơn 10 năm qua, nhưng chỉ một vài vụ đầu có lãi, nhiều vụ sau liên tục xảy ra dịch bệnh, thua lỗ.

Một lần đọc trên báo, thấy mô hình nuôi tôm “nước sạch” của Philippines ít xảy ra dịch bệnh, hiệu quả kinh tế cao, ông Phước tìm tòi, tra cứu trên mạng về kỹ thuật nuôi tôm mới này.

“Mô hình cơ bản không khác mấy so với nuôi tôm trên cát thông thường, quy trình kỹ thuật nuôi cũng đơn giản, lại hạn chế tối đa chi phí đầu tư”, ông Phước nói.
Thay vì lấy nước từ biển và nguồn nước ngọt trực tiếp đưa vào nuôi thì mô hình mới này phải qua bể lắng. Điều khác là bể lắng này trước khi đưa nước vào ao hồ để nuôi phải thả nuôi cá diêu hồng trong thời gian một tháng (cá diêu hồng được xem là “máy lọc sinh học”, ăn tất cả các tạp chất, côn trùng, làm sạch môi trường nước) mới đưa vào ao nuôi và thả tôm giống.

Sau khi thu hoạch tôm, kết thúc vụ nuôi thì nước trong ao hồ lại được chuyển sang bể lắng (đang nuôi cá diêu hồng), sau đó đưa vào nuôi vụ tiếp theo. Việc tận dụng nguồn nước vụ trước không chỉ giảm chi phí đầu tư (khoảng 30 triệu đồng/vụ) mà còn không thải ra ngoài, gây ô nhiễm môi trường.

Nói về hiệu quả mô hình, ông Phước cho biết: “Tui chỉ nuôi 3 hồ tôm. Năng suất bình quân mỗi hồ thường đạt từ 8-10 tấn. Trừ thời điểm xảy ra sự cố môi trường biển, còn lại hầu như vụ nào cũng có lãi. Vụ lãi cao khoảng 500 triệu đồng/hồ, còn vụ thấp cũng vài trăm triệu đồng. Mỗi năm có thể nuôi 2-3 vụ, nhưng vụ sau tết thường là vụ chính, từ tháng 9 trở đi cũng thích hợp cho nuôi tôm chân trắng, còn vụ hè chỉ nuôi phụ, mật độ thả thấp. Ngoài ra tui còn thu lãi từ cá diêu hồng, mỗi năm vài trăm triệu đồng”.

Ông Phước thừa nhận, trong quá trình nuôi có sử dụng kháng sinh nhưng rất hạn chế, chỉ khi cần thiết, như tôm có dấu hiệu bị dịch. Ngoài ra còn sử dụng thêm chế phẩm sinh học để tăng sức đề kháng cho tôm. Thức ăn hoàn toàn công nghiệp, mua từ các công ty có thương hiệu, uy tín.

Ông Đặng Tiến Tùy, Chủ tịch UBND xã Phú Thuận đánh giá cao mô hình nuôi trồng thủy sản của ông Phước. Chính quyền địa phương đang vận động người dân địa phương học tập mô hình của ông Phước để ứng dụng, nhân rộng trên địa bàn.

TS. Mạc Như Bình, Khoa Thủy sản-Trường đại học Nông lâm Huế đánh giá cao mô hình nuôi tôm mới của ông Phước. Khoa đã cử giảng viên, sinh viên nghiên cứu mô hình và xác định hiệu quả của mô hình. Đây là quy trình nuôi mới thích hợp với điều kiện nuôi tôm trên cát không chỉ ở Phú Thuận. Mô hình vừa bền vững, ít dịch bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao và giảm thiểu ô nhiễm môi trường vùng nuôi. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu mô hình của ông Phước để nhân rộng nhằm mang lại hiệu quả nuôi tôm trên cát trên địa bàn tỉnh.

Theo lãnh đạo Sở NN&PTNT, mô hình nuôi tôm chân trắng của ông Nguyễn Phước theo công nghệ của Philippine. Đây là mô hình đã được nhiều nước trên thế giới ứng dụng hiệu quả. Tại Thừa Thiên Huế, đây là mô hình mới, lần đầu tiên được ứng dụng chỉ trong vài năm gần đây và đã khẳng định hiệu quả. Sắp đến, ngành nông nghiệp phối hợp với các địa phương tiếp tục nghiên cứu, phổ biến kiến thức, khuyến khích người dân nhân rộng mô hình trên địa bàn tỉnh…

Theo ông Nguyễn Phước, mỗi ao hồ nuôi thông thường có diện tích 2.000-3.000m2/hồ, mật độ thả nuôi khoảng 300 con tôm chân trắng/m2. Mỗi ao nuôi tôm phải có 3-4 dàn quạt nổi và 1 dàn quạt đáy để tạo Oxy. Mỗi ao lắng nuôi cá hồng có một ao lắng từ 500-1.000m2, mật độ thả nuôi 50 con cá/m2.

Nguồn: Vietlinh.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.