Kinh nghiệm nuôi Tôm sạch ở Sóc Trăng

Vùng ven biển Vĩnh Châu, Sóc Trăng từ đầu tháng 10/2019 đến nay mưa ngớt dần, nhiều khả năng hạn sẽ tới sớm. Dự báo trồng trọt sẽ thiếu nước tưới, nuôi tôm đối mặt với dịch bệnh.

 

Ao nuôi Tôm của trại Tân Nam (Vĩnh Châu, Sóc Trăng)

 

Hiện một số địa phương ở Sóc Trăng phát hiện tôm bị bệnh vi bào tử trùng (EHP), bệnh nặng hơn là phân trắng khiến bà con chưa dám thả tôm giống vụ 2.

Vừa qua, một công ty sản xuất tôm giống có thương hiệu lớn đã tổ chức hội thảo về vấn đề bệnh do vi bào tử trùng và phân trắng trên tôm. Tại đây, các nhà khoa học của công ty này cho biết, hiện tại vùng nuôi tôm tập trung của Ấn Độ, dịch bệnh trên đang bùng phát và gây thiệt hại nặng. Vùng nuôi này cũng sử dụng một kênh vừa cấp vừa thoát tương tự như vùng nuôi tôm Mỹ Thanh của Sóc Trăng, nên dịch bệnh lây lan rất nhanh.

Cũng theo các chuyên gia nuôi tôm của công ty trên, đối với 2 bệnh này hiện chưa có thuốc trị, giải pháp tốt nhất là ngăn ngừa từ xa bằng cách sản xuất “4 sạch”.

Trước hết là sạch về con giống. Con giống trước khi xuất bán được kiểm tra 10 loại dịch bệnh, khi nào tất cả đều âm tính, mới cho xuất bán ra thị trường. Nếu kiểm tra không đạt sẽ hủy bỏ toàn bộ. Thực tế cho thấy, các trang trại lớn nuôi tôm khi nhận con giống của công ty về kiểm lại đều không phát hiện bệnh. Nhưng đối với con giống một số công ty khác khi kiểm dịch, thỉnh thoảng vẫn có dương tính với một số loại bệnh.

 

Nước sạch là yếu tố rất quan trọng trong nuôi tôm.

 

Vấn đề thứ hai là nước sạch. Để có nước sạch, quy trình xử lý rất quan trọng, bởi cần làm cho môi trường nước không còn chỗ cho vi khuẩn gây hại bám, bám víu (không có giá thể), nhất là chất rắn lơ lửng vì vi bào tử trùng rất khó diệt.

Do đó, cần làm cho tất cả chất rắn lơ lửng lắng xuống đáy, sau đó bơm lấy nước trong tầng trên cũng hạn chế được vi bào tử trùng. Hoặc có giải pháp hạ pH đến ngưỡng phù hợp (khoảng 6) nhằm phá hủy lớp bảo vệ của vi bào tử trùng, sau đó có giải pháp nâng pH lên lại cho phù hợp với con tôm.

Tôm sạch và nước sạch là 2 yếu tố cơ bản quyết định đến thành công của vụ nuôi tôm. Nhưng để phòng ngừa 2 bệnh trên, cần phải sạch thêm các dụng cụ, trang thiết bị, con người, phương tiện phục vụ ao nuôi (khử trùng kỹ trước khi sử dụng). Thậm chí ngay cả ao lót bạt, sau vài năm nuôi cũng cần dỡ lên, bón thêm vôi vào phần đất đáy ao sau đó mới lót bạt trở lại.

Theo các nhà khoa học chuyên ngành thủy sản, nuôi tôm, nếu không có giá thể chỉ sau khoảng 15 phút là vi bào tử trùng sẽ chết. Nhưng trong điều kiện thực tế, giá thể của vi bào tử trùng rất đa dạng, chứ không chỉ có trong chất rắn lơ lửng hay thức ăn dư thừa, phân tôm…Do đó việc khử trùng toàn bộ một cách kỹ lưỡng là rất cần thiết để ngăn ngừa dịch bệnh vào ao nuôi.

Nuôi tôm trúng vụ.

 

Kinh nghiệm từ mô hình nuôi ao nổi cũng là cách phòng bệnh tốt vì đáy ao nuôi luôn sạch, vừa tiết kiệm được năng lượng, tăng oxy hòa tan. Tuy vậy có điều khi thu hoạch tốn công dọn dẹp hệ thống oxy rất nhiều.

Từ mô hình nuôi tôm giống “4 sạch”, trại nuôi tôm Tân Nam ở Vĩnh Châu của Công ty Sao Ta thả nuôi vụ chính (vụ 1 năm 2019) mật độ 250 con/m2.

Kết thúc vụ 1 thu hoạch khá tốt, tỷ lệ tôm đạt đầu con trên 90%, trong khi trung bình chỉ cần đạt 70% là xem như trúng vụ. Thành công của Tân Nam ở các vụ nuôi vừa qua, nuôi đạt theo tiêu chuẩn ASC và BAP là do sử dụng quy trình nuôi riêng và đặc biệt là luôn thả nuôi đúng thời vụ theo thực tế thời tiết của vùng.

Trong vụ 2 Tân Nam đã thả nuôi dứt điểm với 200 ao, nhưng mật độ thả giảm xuống còn 200 con/m2. Đến nay những ao thả đầu tiên đến nay đã qua hơn 2 tháng. Nhờ thời tiết dứt mưa nên tình hình chung nuôi tôm khá thuận lợi.

Hơn nữa kinh nghiệm nuôi tôm của Tân Nam cho thấy việc sử dụng vi sinh tự nghiên cứu để chiếm chỗ đáy ao nuôi, hạn chế vi khuẩn có hại. Trong khi đa số người nuôi tôm rất sợ nắng nóng dễ phát sinh vi khuẩn vibrio para, nhưng với trại Tân Nam nắng là tốt.

Trước đây, mỗi ngày trại chỉ sản xuất 2.000 lít vi sinh, năm nay tăng lên đến 4.000 lít/ngày. Đây là một trong điểm tạo nên thành công của trại nuôi và là mơi có một không hai về tự chủ nguồn vi sinh có hiệu quả.

Nguồn: Tổng hợp và được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) đã giúp nhiều nông dân thoát khỏi cảnh nợ nần do nuôi tôm.

Mô hình nuôi ghép tôm cua, cá kình, cá đối mang lại hiệu quả cao, ít xảy ra dịch bệnh

Là người gây dựng cơ nghiệp từ nghề nuôi trồng thủy sản, những sáng kiến của chị Trần Thị Hồng Vân đã giúp nông dân thoát cảnh nợ nần, có thêm sinh kế mới. Vân được T.Ư Đoàn trao giải thưởng Lương Định Của 2017.

Sáng kiến nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối của chị Trần Thị Hồng Vân (34 tuổi, ngụ xã Phước Quảng, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) là giải pháp giúp hàng trăm hộ nuôi trồng thủy sản tại H.Quảng Điền thoát cảnh nợ nần, thua lỗ.

Trần Thị Hồng Vân đã dành nhiều tháng khảo sát trên các ao nuôi, tìm đọc tài liệu về nuôi trồng thủy sản để giải mã hiện tượng tôm sú dịch bệnh. Ngoài nguồn nước, Vân cho rằng người dân chỉ nuôi tôm sú, lượng thức ăn tồn dư quá nhiều cũng làm tăng ô nhiễm nguồn nước, làm phát sinh dịch bệnh. Bằng kiến thức đã tìm hiểu và tham vấn ý kiến các nhà khoa học, chị Vân tìm cách vận động người dân chuyển đổi giống nuôi trồng, đặc biệt là đưa cá đối vào nuôi xen ghép cùng các loại thủy sản khác.

“Người dân bao năm chỉ nuôi tôm sú, tâm lý bảo thủ nên chuyển đổi sang nuôi con khác thì không mặn mà, bỡ ngỡ, mình phải đến từng nhà kiên trì vận động làm thử”, chị kể lại.

Chị Vân đã thử nghiệm nuôi xen ghép tôm, cua, cá kình và cá đối trên diện tích 8 ha, được chính quyền địa phương ủng hộ, hỗ trợ miễn phí giống cá đối. Qua một vài đợt nuôi thử nghiệm, các ao nuôi đều cho năng suất cao, đặc biệt là không xảy ra dịch bệnh.

“Khi thả vào ao nuôi xen ghép, con cá đối có vai trò như đối tượng xử lý môi trường khi ăn thức ăn dư thừa và các mùn bã hữu cơ, phân của các loài khác khiến môi trường nước được cải thiện, loại bỏ tác nhân ô nhiễm do thức ăn dư thừa. Chi phí cho mô hình xen ghép này thấp hơn so với chỉ chuyên nuôi tôm sú. Người nuôi có thu nhập tăng thêm từ con cá đối với mức giá bán 80.000 – 120.000 đồng/kg”, chị Vân chia sẻ.

Thành công đó nhanh chóng được người dân nhân rộng. Sau 3 năm, diện tích ao nuôi chuyển đổi, xen ghép đã lên tới 643 ha, chiếm 99% tổng diện tích ao nuôi tại địa phương. Mô hình này cũng được chọn để nhân rộng trong toàn H.Quảng Điền, vực nghề nuôi thủy sản phát triển, kinh tế nhiều hộ gia đình đã phục hồi trở lại sau một thời gian dài rơi vào cảnh nợ nần do thất bại từ việc nuôi tôm.

Nguồn: Báo Thanh Niên được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Nuôi tôm có chứng nhận, nâng cao giá trị sản phẩm

Các tỉnh vùng Bán đảo Cà Mau đang hình thành nhiều tổ hợp tác (THT), HTX kiểu mới. Bước đầu đã có một số HTX nuôi tôm sạch đạt chứng nhận quốc tế. Đây là xu hướng mới để ngành tôm mở rộng qui mô SX, nâng cao chất lượng, giá trị thương hiệu tôm Việt Nam.

Chuyển biến mới

Các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… bắt đầu hình thành một số HTX nuôi tôm sạch và mở hướng liên kết SX theo chuỗi giá trị. Đặc biệt từ sau khi thực hành nuôi tôm có chứng nhận, áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ sử dụng thuốc kháng sinh, đến kỳ thu hoạch có DN bao tiêu sản phẩm, tổ chức thu mua nên loại hẳn nạn bơm chích tạp chất. Điều này đang được các nhà nhập khẩu nước ngoài đồng tình, quan tâm theo dõi.

Vùng nuôi tôm sạch đạt chuẩn ASC của HTX Hòa Nghĩa (Sóc Trăng)

Từ đầu năm 2016, với sự hỗ trợ của WWF (Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới) tại Việt Nam, Trung tâm hợp tác Quốc tế nuôi trồng và khai thác thủy sản bền vững (ICAFIS) phối hợp các cơ quan chuyên ngành và DN của tỉnh, HTX Hòa Nghĩa (xã Hòa Đông, TX Vĩnh Châu, Sóc Trăng) bắt đầu trải nghiệm quá trình tập huấn kỹ thuật, thực hành áp dụng quy trình nuôi tôm theo chuẩn quốc tế ASC (Aquaculture Stewardship Council – nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm). Sau hơn 1 năm, đến cuối tháng 6/2017 HTX nuôi tôm Hòa Nghĩa được Chương trình Nuôi trồng Thủy sản và Thực phẩm của WWF Việt Nam trao giấy chứng nhận quốc tế ASC về nuôi tôm bền vững. Nhà nhập khẩu Nordic Seafood (Na Uy) và Cty CP Thủy sản Sóc Trăng (Stapimex) cùng đến tham dự, chứng kiến sự kiện.
Theo HTX Hòa Nghĩa, vào cuối tháng 6/2017 sản phẩm tôm nuôi theo chuẩn ASC đã được Cty Stapimex bao tiêu với giá cao hơn thị trường 15 – 20%. Từ sản phẩm tôm sạch đạt chuẩn ASC, Cty Stapimex chế biến xuất khẩu sang Na Uy. HTX Hòa Nghĩa có 29 thành viên, với diện tích ao nuôi 90 ha, mỗi năm SX cung ứng khoảng 600 tấn tôm thương phẩm. Từ nền tảng ban đầu vào năm 2013 HTX đã nuôi tôm đạt chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, năm nay các hộ thành viên nuôi đạt chuẩn ASC thêm tự tin vì sản phẩm được DN bao tiêu với giá cao.

Xây dựng chuỗi liên kết

Theo Sở NN-PTNT Sóc Trăng, một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tái cơ cấu ngành nông nghiệp thuộc lĩnh vực thủy sản tỉnh Sóc Trăng là tổ chức lại các vùng nuôi thủy sản, đặc biệt đối với vùng nuôi tôm nước lợ. Tỉnh chú trọng đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đầu tư cho vùng nuôi trọng điểm, hợp tác sản xuất theo hình thức tổ, nhóm. Trong 6 tháng đầu năm 2017 tỉnh Sóc Trăng thành lập mới 1 HTX và 7 THT, nâng tổng số lên 22 HTX và 183 THT thủy sản.
Kết quả sau gần 2 năm thực hiện liên kết về chuỗi SX và tiêu thụ sản phẩm của tỉnh, hiện nay về thực hiện liên kết đầu vào có 5 HTX/THT với diện tích 197 ha liên kết các nhà cung ứng vật tư đầu vào (thức ăn, thuốc, chế phẩm sinh học, giống, bạt lót). Việc thực hiện mô hình liên kết giúp bà con sử dụng vật tư với giá thấp hơn so với mua ở các đại lý bên ngoài đồng thời kiểm soát tốt hơn chất lượng. Về liên kết đầu ra toàn tỉnh có 11 HTX/THT với diện tích 337 ha đã ký liên kết tiêu thụ sản phẩm với DN, góp phần nâng cao lợi nhuận cho người nuôi.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là các công ty yêu cầu người nuôi tôm phải áp dụng theo các quy chuẩn nuôi tôm sạch, đảm bảo chất lượng theo chuẩn ASC, VietGAP. Trong khi thực trạng đa số hộ nuôi đều quy mô nhỏ lẻ nên việc mua với số lượng lớn/lần khá khó khăn. Vì vậy yêu cầu của DN đối với các tổ nhóm tham gia ký kết phải có kế hoạch SX cụ thể.
Bà Quách Thị Thanh Bình, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng, nhìn nhận: Các HTX nuôi tôm đạt tiêu chuẩn sạch, thực hiện liên kết SX theo chuỗi giá trị đạt hiệu quả đã trở thành những điểm sáng. Lợi nhuận các hộ thành viên tăng cao hơn, dần nâng cao nhận thức về thực hành nuôi tôm sạch đạt tiêu chuẩn.
Tỉnh Sóc Trăng hiện có 1 HTX đạt chứng nhận nuôi tôm theo chuẩn ASC, 2 HTX/THT nuôi tôm áp dụng thực hành nuôi tốt đạt tiêu chuẩn VietGAP. Theo chương trình tuyên truyền về quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt VietGAP cho người nuôi tôm nước lợ, dự kiến đến cuối năm 2017 sẽ có thêm 2 HTX/THT được chứng nhận VietGAP.
Ông Huỳnh Quốc Tịnh, Điều phối viên quốc gia về thực phẩm bền vững của WWF Việt Nam:

HTX Hòa Nghĩa nhận giấy chứng nhận ASC

Từ đầu năm 2016, với sự hỗ trợ của WWF Việt Nam, Trung tâm hợp tác Quốc tế nuôi trồng và khai thác thủy sản bền vững (ICAFIS) phối hợp các cơ quan chuyên ngành và DN tập huấn kỹ thuật, thực hành áp dụng quy trình nuôi tôm theo chuẩn ASC (một chứng nhận quốc tế về nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm) cho 30 HTX (Sóc Trăng 17 HTX, Bạc Liêu 5 HTX và Cà Mau 8 HTX).
Hiện nay người nuôi tôm nhỏ lẻ cung cấp sản lượng tôm nuôi chiếm phần lớn và lượng nuôi tôm sạch đạt tiêu chuẩn ASC chỉ khoảng 5%. WWF Việt Nam nhắm tới các hộ nuôi tôm nhỏ lẻ nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực về kiến thức, thông qua các mô hình điểm HTX/THT với mô hình liên kết tam giác 3 nhà SX – DN chế biến XK – nhà nhập khẩu.

HTX thành lập từ năm 2003 có diện tích ao nuôi 26,6 ha, đến năm 2012 chuyển đổi theo Luật HTX. Theo hướng SX tôm sạch và liên kết SX, tất cả 20 hộ thành viên trong HTX đồng lòng, thừa nhận vào HTX SX đồng loạt theo thời vụ gặp nhiều mặt thuận lợi hơn. Khâu đầu vào khi mua tôm giống HTX liên kết với 3 công ty cung ứng giống. Thức ăn thủy sản HTX liên kết với 2 công ty, đến cuối vụ thu hoạch tôm bán cho Cty CP Thủy sản sạch Việt Nam và một số công ty khác.
Tuy HTX có phương án SX kinh doanh nhưng vốn ít. Vốn điều lệ của HTX chỉ có 162 triệu đồng và hoạt động chủ yếu nhờ vốn tín dụng nội bộ. Kế hoạch năm 2018 HTX tiếp tục vận động bà con bên ngoài tham gia, mở rộng qui mô SX và tổ chức liên kết SX theo chuỗi giá trị; đồng thời tranh thủ vốn vay từ ngân hàng, liên minh các HTX để làm dịch vụ cung ứng đầu vào – đầu ra giúp các hộ thành viên tăng thêm lợi nhuận.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

10 điều cần làm khi nuôi tôm mùa mưa bão

Khi trời mưa nhiệt độ, độ mặn, pH và oxy hòa tan trong ao đều bị giảm đột ngột. Việc chăm sóc tôm nuôi trong mùa mưa nhất là những cơn mưa liên tục kéo dài gây nhiều khó khăn cho người nuôi, kể cả những người nuôi có kinh nghiệm, từ việc xả nước mặt cho đến chế độ tăng giảm lượng thức ăn cho hợp lý tránh dư thừa thức ăn.

Tôm sú là loài động vật máu lạnh, nhiệt độ cơ thể của tôm có thể thay đổi trong một khoảng nhiệt độ giới hạn. Nhưng nếu các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột vượt quá giới hạn cho phép tôm sẽ bị yếu, sốc và có thể chết hàng loạt.
Cần có sự chuẩn bị đồng bộ các khâu từ khi xử lý ao đến khi nuôi.

1. Phải có ao lắng và xử lý nước đúng quy trình trước khi cấp vào ao nuôi

Ao lắng có diện tích bằng 1/3 – 1/2 ao nuôi.
Có thể nuôi thay đổi ao sau từng vụ.
Dự trữ đủ nước để sẵn sàng thay nước cho ao nuôi.
Không nuôi tôm với mực nước quá cạn.

2. Mật độ thả nuôi thích hợp:

Trong mùa mưa chỉ nên thả với mật độ vừa phải (<25 con/ m2 với tôm sú và < 100 con/ m2 với tôm thẻ chân trắng)

3. Tăng cường hệ thống quạt nước, ôxy đáy ao, giảm phân tầng trong ao về nhiệt độ, độ mặn, ôxy.


Lắp quạt: ước tính 1 cánh quạt sẽ cung cấp đủ oxy cho 2.800 con tôm từ lúc mới thả đến khi thu hoạch. Lắp cánh quạt theo đúng yêu cầu kỹ thuật:
+ Khi quạt vận hành nước phải xoáy vào giữa ao để gom mùn bã hữu cơ vào giữa ao
+ Vận tốc của guồng quay phải đạt từ 80-85 vòng/ phút.
+ Cách thử: Cho quạt quay, sau đó đổ xuống ao từ 5-10kg saponin, nếu bọt nước tập trung ở giữa ao là lắp quạt đúng.Lắp đặt hệ thống oxy đáy ao: ống nhựa hoặc đá bọt.

4. Kiểm tra hoạt động của tôm và môi trường nước sau mưa

 Kiểm tra hình dáng bên ngoài, màu sắc, phản xạ, kiểm tra đường ruột của tôm, thức ăn trong nhá…

 Kiểm tra pH, độ kiềm, độ đục, độ mặn.

5. Theo dõi thường xuyên nước trong ao


Trong ao nuôi pH luôn phải đạt từ 7,5-8,5. Nước mưa có tính axit, làm rửa trôi phèn từ bờ ao, làm giảm pH nước trong ao. Để hạn chế giảm pH trong ao nuôi khi trời mưa: Rải vôi dọc bờ ao trước khi trời mưa (rải khô) khoảng 10kg/100m2. Sau khi mưa, nên hoà vôi tạt xuống ao khoảng 10-20kg/1haKết hợp quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nước.Khi mưa to, mực nước ao nuôi lên cao cần xả bớt nước mặt để tránh giảm độ mặn đột ngột và tràn bờ, vỡ bọng, cống.

6. Phương pháp tăng độ kiềm trong ao nuôi

Độ kiềm thích hợp cho tôm sú là 90-130ppm, cho tôm thẻ chân trắng là 100-150ppm. Ngâm vôi dolomite vào nước ngọt 24h sau đó tạt đều xuống ao vào lúc 8-10 giờ đêm. Cứ 1,655 g vôi dolomite làm cho 1m3 nước tăng độ kiềm lên 1 mg/ml. Cách tính lượng vôi dolonite: để tăng độ kiềm cho ao 5000 m3 từ độ kiềm 80 mg/ml lên 90 mg/ml:

Lượng vôi dolomite cần sử dụng = 5000 x 1,655 x (90-80)/1000 = 82,75kg

Khi tăng độ kiềm trong ao, lưu ý rằng chỉ tăng 1 lần 10 mg/ml; sau đó lặp lại, không tăng 1 lần quá nhiều sẽ làm tôm bị sốc.

Nếu sử dụng phương pháp trên mà độ kiềm không tăng hoặc tăng quá chậm thì chúng ta dùng biện pháp sau:

Kết hợp 70% lượng vôi cần theo cách tính trên là soda (NaHCO3), 30% lượng vôi cần đánh theo công thức trên là dolomite. Ngâm vào nước ngọt 24h sau đó tạt đều xuống ao vào lúc 8-10 giờ đêm.

7. Quản lý tảo khi độ mặn thấp hơn 8‰

Khi độ mặn trong ao thấp hơn 8‰ thường xuất hiện tảo lục có màu xanh nước rau má. Khi đó có các hiện tượng:
Tảo thường xuyên bị tàn lụi. pH dao động mạnh trong ngày Tôm thường bị đóng rong. Thường thiếu oxy vào sáng sớm. Tôm dễ bị đen mang, vàng mang.
Biện pháp khắc phục:
Giảm thức ăn. Dùng BKC 800 với nồng độ 0,5ppm. Chọn 1/3 diện tích ao hướng cuối gió để tạt vào lúc trời nắng gắt (không sử dụng quạt nước) hoặc dùng SEAWEED với nồng độ 0,5-1ppm tạt khắp mặt ao. Vớt bọt tảo tàn sau khi sử dụng thuốc. Lặp lại từ 2-3 lần. Sử dụng ZEOBAC 3-5ppm để hấp thu khí độc do xác tảo lắng dưới đáy ao sinh ra.

8. Giải quyết nước đục trong ao


Trong ao nước đục chủ yếu do hạt sét gây nên. Nước đục ảnh hưởng đến các yếu tố:
Giới hạn sự quang hợp của tảo làm thiếu oxy trong ao, tăng hàm lượng CO2 quá cao làm tôm ngạt thở. Tảo thường bị tàn đột ngột Phù sa bám vào mang tôm làm cho tôm hay bị sưng hoặc vàng mang.
Có thể sử dụng 1 trong những cách sau đây để xử lý cho ao có 5.000m3 nước:
Dùng 125kg rơm khô thả dọc bờ ao và kết hợp 10kg BLUEMIX. Rơm được bó thành từng bó khoảng 3-5 kg thả xuống ao, khi thấy nước tiết ra có màu đỏ thì vớt lên và lặp lại 2-3 lần. Dùng 150 kg thạch cao, nếu sau 2 lần đánh mà nước vẫn chưa trong thì nên tăng nồng độ ở lần thứ 3. Chú ý khi sử dụng thạch cao phải nâng độ kiềm của ao lên 100 ppm rồi mới sử dụng.
Sau khi sử dụng 1 trong 2 phương pháp trên mà không có hiệu quả thì chúng ta sử dụng phương pháp sau:
Dùng sunphát nhôm Al2(SO4)3.14H2O với liều lượng 50kg. Khi sử dụng phương pháp này chú ý phải tăng pH và độ kiềm của ao. Đây là biện pháp cuối cùng chỉ sử dụng khi không còn làm được cách khác vì rất nguy hiểm. Khi nước đã giảm đục chúng ta cần phải gây màu nước bằng cách dùng BLUEMIX với liều lượng 2-3 kg/1.000m3 nước.
Có thể làm hệ thống lưới đáy ao giúp hạn chế phù sa và tăng thêm diện tích cho tôm ở.

9. Quản lý các khí độc NH3, H2S, CH4

Tránh hiện tượng dư thừa thức ăn. Cần có ao xử lý để thay nước thường xuyên vào những tháng cuối Sử dụng định kỳ men vi sinh Si phon đáy ao, hút chất thải ra ngoài khi tôm được hơn 70 ngày tuổi. Tăng cường hệ thống máy quạt nước. Ổn định pH trong khoảng 7,8-8,2Đo kiểm tra nồng độ NH3, H2S, NO2- (NO2- thường xuất hiện trong ao có độ mặn <10 ppt).
Dấu hiệu tôm nhiễm khí độc: Thân tôm thường có màu đỏ nhạt, vỏ ốp, bơi lờ đờ trên mặt nước, giảm ăn. Nếu bệnh nặng có thể tấp bờ, chết rải rác đến hàng loạt.
Biện pháp khắc phục:
Dùng muối hạt 10kg/1600m2 đáy ao rải vào lúc trời có nắng. Lặp lại liên tục 2-3 lần. Cho ăn thêm vitamin C, calxi-photpho 1 tuần.

10. Cho ăn đúng chương trình, giảm lượng thức ăn khi trời mưa, sắp mưa

Ngay khi thấy trời âm u sắp mưa, cần giảm lượng thức ăn hoặc thậm chí ngừng cho ăn nếu cơn mưa đến gần, chờ đến khi ngớt mưa cho ăn với số lượng giảm 30-50 phần trăm lượng thức ăn bình thường, do mưa, lạnh làm tôm giảm ăn. Nếu dư thức ăn sẽ làm tảo lục phát triển mạnh, pH nước ao dao động, tôm bị đóng rong. Để bảo đảm sức đề kháng và tránh cho tôm bị mềm vỏ, có thể trộn vào bữa chính các loại vitamin tổng hợp + khoáng chất + vitamin C mỗi ngày.

Theo Vietlinh, tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phương pháp gây màu nước trong ao nuôi tôm theo VietGAP

Theo báo cáo của Cục thúy y, 9 tháng đầu năm 2015 cả nước có 44.781 ha nuôi tôm nước lợ bị dịch bệnh và thiệt hại trên diện tích thả nuôi 648.568 ha, cao hơn so với cùng kỳ năm 2014 (43.701 ha). Trong đó, thiệt hại do bệnh 17.350 ha (chiếm 38,7%), thiệt hại do biến đổi thời tiết, môi trường, dinh dưỡng 28.028 ha (chiếm 62,5%), chưa xác định được nguyên nhân 2.008 ha. Như vậy, thiệt hại về môi trường, dinh dưỡng, thời tiết rất lớn, mà thiệt hại về môi trường và dinh dưỡng là do yếu tố chủ quan của con người gây ra. Để hạn chế thiệt hại trên, xin giới thiệu một số phương pháp gây màu đảm bảo ổn định môi trường nước trong ao nuôi tôm nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh.

Sau khi chuẩn bị ao, hồ xong tiến hành gây màu nước, mục đích nhằm phát triển vi sinh vật phù du, ổn định màu nước, tạo môi trường thuận lợi cho tôm phát triển nhanh, tăng tỷ lệ sống. Một số phương pháp gây màu đạt hiệu quả cao như sau:

1. Phương pháp thứ nhất:

Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

2. Phương pháp thứ hai:

Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

3. Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

3.1. Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản: Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

  • Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
  • Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.
  • Kích thích tăng trưởng của con nuôi.
  • Tăng sản lượng và chất lượng.
  • Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.
  • Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Đối với môi trường:

  • Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.
  • Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.
  • Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.
  • Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.
  • Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

3.2. Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L):

  • 1 kg mật đường
  • 2 kg cám gạo hoặc bột ngô
  • 10 g muối ăn
  • 1 lít EM gốc
  • 46 lít nước sạch khuẩn

Chế phẩm EM gốc

Cách tiến hành: Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

  • Vô trùng các thùng chứa
  • Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)
  • Cho 1 kg mật đường, khuấy đều
  • Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều
  • Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều
  • Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều
  • Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 mnước
  • Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao
  • Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 mnước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.
  • Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Chế phẩm EM2

3.3. Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM gốc
  • 1 lít mật đường
  • 1 lít giấm
  • 2 lít rượu

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

  • Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2
  • Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.
  • Phòng và trị bệnh: Theo hướng dẫn ở phần cuối

3.4. Sản xuất EM tỏi từ EM5:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM 5
  • 1 kg tỏi xay nhuyễn
  • 8 lít nước sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 8 lít nước → 1 kg tỏi xay nhuyễn → 1 lít EM5 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

  • Phòng bệnh: 1 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn định kỳ.
  • Trị bệnh: Sử dụng liều lượng gấp đôi, cho ăn liên tục 7 – 10 ngày, sau đó quay lại liều phòng.

3.5. Sản xuất EM chuối từ EM2:

Nguyên liệu:

  • 1 lít EM2
  • 1 kg chuối lột vỏ, xay nhuyễn

Cách tiến hành:

  • Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn
  • Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 1 kg chuối lột vỏ xay nhuyễn → 1 lít EM2 → khuấy đều → đậy kín.
  • Ủ yếm khí trong 24 giờ

Cách sử dụng:

1 lít EM chuối + 10 kg thức ăn, ủ sau 1 giờ, cho ăn liên tục.

NGUYÊN TẮC SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH:

– Không sử dụng chế phẩm vi sinh đồng thời với kháng sinh và hóa chất diệt khuẩn.

– Sử dụng đúng liều lượng, không nên theo quan niệm sử dụng càng nhiều càng tốt.

– Chế phẩm vi sinh dạng bột nên dùng nước của ao nuôi hòa tan và sục khí mạnh 2 – 4 giờ trước khi sử dụng để gia tăng sinh khối vi khuẩn.

– Chế phẩm vi sinh dạng nước nên ủ yếm khí để gia tăng sinh khối trước khi sử dụng.

– Thời gian xử lý vi sinh tốt nhất vào khoảng 8 – 10h sáng, lúc nắng ấm, trời trong và hàm lượng oxy hòa tan cao.

– Cần định kỳ xử lý vi sinh để duy trì mật độ vi khuẩn thích hợp nhằm kiểm soát sinh học môi trường nước và đáy ao, ổn định các yếu tố môi trường ao nuôi, ngăn ngừa các loài vi khuẩn gây bệnh, tảo độc và mầm bệnh tiềm tàng trong ao.

Các yếu tố môi trường ao nuôi ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng chế phẩm vi sinh:

– Oxy hòa tan: Vi khuẩn hiếu khí (Bacillus) và vi khuẩn hiếu khí nghiêm ngặt (VK nitrat) phải đảm bảo lượng oxy hòa tan đầy đủ có hiệu quả sử dụng. Khi oxy hòa tan thấp sẽ sử dụng không có hiệu quả.

– Độ kiềm, độ mặn: nước có độ kiềm cao (80 – 150mg CaCO3/l) → pH ổn định, nước có độ kiềm thấp (50mg CaCO3/l) → pH dao động → hiệu quả sử dụng vi sinh giảm thấp. Độ mặn quá cao → gây chết hoặc ức chế sinh trưởng của vi sinh.

– Thời tiết: ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của tảo và màu nước → ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vi sinh. Sử dụng vi sinh tốt nhất vào buổi sáng trời trong.

– Dinh dưỡng: cần bổ sung C thì vi khuẩn nitrat mới thực hiện phản ứng khử N-NH3 → NO3 có hiệu quả.

Thời gian và tần suất sử dụng:

  •  Nên sử dụng vi sinh ngay từ đầu vụ → hiệu quả cao.
  • Từ giữa vụ đến cuối vụ sử dụng vi sinh → hiệu quả thấp.
  • Đầu vụ 7 – 10 ngày sử dụng một lần, từ giữa đến cuối vụ 3 – 4 ngày sử dụng một lần.

Liều lượng sử dụng:

  • Sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
  • Sử dụng quá nhiều → mất cân bằng sinh thái, DO giảm, vật nuôi bị kích ứng stress.
  • Sử dụng quá ít → không đạt hiệu quả tốt.

Nuôi cấy tăng sinh khối vi khuẩn:

  • Một số chế phẩm vi sinh cần phải nuôi cấy để tăng số lượng vi khuẩn, cần nuôi cấy yếm khí để tránh tạp nhiễm.
  • Một số chế phẩm vi sinh có mật số vi khuẩn cao không cần nuôi cấy tăng sinh khối có thể sử dụng trực tiếp vào ao nuôi. Tuy nhiên cần hòa vào nước và sục khí mạnh vài giờ trước khi tạt vào ao nuôi.

Các nhân tố khác:

  • Nguyên sinh động vật quá nhiều sẽ ăn vi khuẩn → mật độ vi sinh giảm thấp.
  • Sử dụng đồng thời chất diệt khuẩn, kháng sinh, thay nước,… sẽ giảm hiệu quả sử dụng vi sinh.

CÁCH PHÒNG TRỊ MỘT SỐ BỆNH TÔM BẰNG CHẾ PHẨM VI SINH

Tôm nổi đầu do khí độc:

  • Hòa tan 2-3 lít EM gốc vào 20 lít nước lấy từ ao nuôi rồi tạt đều vào ao nuôi ngay lúc tôm nổi đầu.
  • Mở các dàn quạt chạy hết công suất.

Tôm bị mòn đuôi, cụt râu:

  • Sử dụng 2 lít EM tỏi + 10 kg thức ăn
  • Trộn đều và ủ kín 4 giờ
  • Cho tôm ăn với tỷ lệ: 1kg/100.000 tôm giống/ngày
  • Hoặc sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp 3 lần với khoảng cách 2 ngày/lần.

Tôm bị đóng rong:

  • Dùng 4 lít EM5/1.000 m2, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tảo chết nhiều → pH thấp → dùng vôi để nâng pH.

Tôm bị bệnh đốm trắng:

  • Sử dụng 5 lít EM5/1.000 m2/ngày, dùng liên tiếp trong 5 ngày vào buổi sáng.
  • Khi tôm lột xác nhiều ngừng sử dụng EM5 và sử dụng 50 lít EM2/1.000 m2/2 ngày, dùng liên tiếp đến khi bệnh đốm trắng giảm dần (Thái Lan đã sử dụng có hiệu quả trên 10 năm).

Nguồn: Trung tâm khuyến nông quốc gia được tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

“Nuôi” nước trong ao nuôi tôm

Trong quá trình nuôi tôm, nước ao nuôi tôm luôn biến đổi chất lượng tùy theo thời tiết, ngoại cảnh và cách chăm sóc. Sự thay đổi chất lượng nước được thể hiện qua màu nước ao. Nước ao nuôi cần được xử lý kĩ càng từ trước vụ nuôi.

Chất lượng nước sẽ được đánh giá chủ yếu bằng cách quan sát màu nước trong ao nuôi, đây là một biện pháp đơn giản, dễ thực hiện.

Tuy nhiên, nếu không có kiến thức đầy đủ về màu nước trong ao nuôi thủy sản, người nuôi cũng sẽ dễ bị nhầm lẫn và đánh giá không đúng về hiện trạng chất lượng nước.

Trên thực tế, nước trong ao nuôi thường có màu do sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ hòa tan hay không hòa tan, hay do sự phát triển của tảo. Có thể chia màu nước là 2 dạng, màu thực và màu giả. Màu thực của nước là màu do các hợp chất hòa tan trong nước gây ra, màu giả là màu của các hợp chất không hòa tan. Trong nuôi thủy sản ta chú ý đến màu giả của nước nhiều hơn, vì qua đó có thể đánh giá sơ bộ môi trường nước đó giàu hay nghèo dinh dưỡng. Trong ao nuôi thường có các màu sau:

Nước màu xanh nhạt (đọt chuối non)

Màu xanh nhạt do sự phát triển của tảo lục (chlorophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ nhạt (dưới 10 phần nghìn).

Đây cũng là màu nước thích hợp để nuôi tôm, tảo lục ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong chuỗi thức ăn, còn có tác dụng ổn định các yếu tố thủy lý hóa trong ao, hấp thu các chất hữu cơ thông qua đó làm giảm lượng khí độc trong ao.

Nước ao màu xanh nhạt

Nước màu xanh đậm (xanh rêu)

Nước có màu xanh đậm là do sự phát triển của tảo lam (Cyanophyta), loài tảo này phát triển mạnh cả trong môi trường nước ngọt, lợ, mặn.

Nước màu xanh đậm

Nếu nước trong ao nuôi có màu này thì cần có biện pháp làm giảm lượng tảo, vì đây là loại tảo không tốt cho tôm. Hơn nữa, nếu tảo lam phát triển quá mức có thể tiết ra chất độc làm chết cá. Bên cạnh đó, còn có thể gây thiếu oxy về đêm do tảo hô hấp quá mức.

Để khắc phục, cần dùng hóa chất cắt tảo trong ao, sau đó bón Dolomite và dùng vi sinh để gây lại màu nước.

Màu vàng nâu (màu nước trà)

Nước màu vàng

Nước có màu vàng nâu do sự phát triển của tảo silic (Bacillariophyta), loài tảo này thường phát triển mạnh ở môi trường nước lợ, mặn vào đầu vụ nuôi. Đây là màu nước thích hợp nhất để nuôi các loài thủy sản nước lợ, mặn.

Màu vàng cam (màu gỉ sắt)

Nước màu vàng cam

Màu này thường xuất hiện ở các ao nuôi mới đào trên vùng đất phèn. Màu cam là do đất phèn tiềm tàng (FeS2) bị oxy hóa tạo thành các váng sắt.

Đối với ao có màu nước vàng cam cần có biện pháp khử phèn trước khi thả nuôi, có thể sử dụng vôi nông nghiệp hay bơm, xả nước nhiều lần để rửa trôi lượng phèn trong ao. Đối với các ao đang nuôi thì cần rải thêm vôi trên bờ ao để tránh hiện tượng pH giảm đột ngột khi trời mưa.

Màu đỏ gạch (màu đất đỏ)

Nước có nhiều phù sa do đất cát bị xói mòn từ vùng thượng nguồn được dòng nước mang đến vùng hạ lưu. Trong ao nuôi thủy sản ít khi có màu nước như vậy, tuy nhiên vùng ĐBSCL hay gặp nước đỏ gạch trên các con kênh, sông khi chuẩn bị sắp có lũ về.

Người nuôi cần lưu ý không nên cấp nước vào ao lúc này, vì lượng phù sa nhiều sẽ làm tôm, cá khó hô hấp và giảm khả năng bắt mồi. Tốt nhất là nên cấp nước vào ao lắng trước khi cung cấp cho các ao đang nuôi. Trong trường hợp cấp bách có thể dùng vôi để lắng bớt các chất lơ lửng trong nước.

Màu nâu đen

Nước có màu nâu đen do trong nước có chứa nhiều vật chất hữu cơ. Màu nước này thường thấy ở các ao nuôi có hệ thống cấp, thoát nước không tốt, trong quá trình nuôi không quản lý tốt môi trường, cho ăn dư thừa nhiều sẽ dể làm nước ao nuôi có màu nâu đen. Trường hợp này hàm lượng oxy hòa tan rất thấp, vì vậy cần có biện pháp xử lý ngay.

Nước màu nâu đen

Có thể thay nước nhiều lần đến khi hết màu nâu đen, hoặc kết hợp sử dụng thêm các loại chế phẩm sinh học, hóa chất có thể hấp thu khí độc. Bên cạnh đó, nếu thấy tôm, cá có hiện tượng thiếu oxy cần sử dụng quạt đảo nước hoặc các loại hóa chất cung cấp oxy tức thời, nhằm làm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại.

Nước quá trong

Nước ao quá trong, độ trong trên 50cm, có khi thấy cả đáy ao.

Nước ao quá trong

Do tảo trong ao không phát triển hoặc do tảo đáy phát triển. Ngoài ra có thể do nước ao, đáy ao có tính axit do bị nhiễm phèn. Có thể bón vôi để tăng pH cho nước ao và dùng vi sinh để gây màu nước.

Quan sát màu nước trong ao nuôi là phương pháp dễ thực hiện và mang lại hiệu quả cao. Nếu người nuôi có đầy đủ kiến thức về các loại màu nước sẽ có thể đánh giá chính xác được hiện trạng chất lượng nước

Nguồn : Internet, được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam

Xử lý nước ao tôm nuôi trước vụ nuôi

Nhằm hạn chế thiệt hại và dịch bệnh trong nuôi tôm, ngoài việc chọn nguồn tôm giống rõ ràng, sạch bệnh thì việc xử lý nước trước khi đưa vào vụ nuôi cũng rất quan trọng. Sau đây là bài hướng dẫn về phương pháp xử lý nước ao tôm trước vụ nuôi.

Trước khi cấp nước, cần cải tạo ao trước.

Cải tạo ao

Đối với ao mới: công việc chuẩn bị thực hiện dễ dàng hơn: phơi ao cho khô, làm vệ sinh, xử lý các loại thực vật xung quanh. Cố gắng không để hoá chất xử lý còn lại dư lượng trong ao sẽ gây hại cho tôm giống. Sau đó đo pH đất, pH phù hợp sẽ ở trong khoảng 7,5 – 8. Nếu pH của đất thấp hơn 6 nên dùng vôi bột (Canxi hydroxyt) rắc khắp hồ với tỷ lệ 100 kg/hecta. Nếu pH của đất lớn hơn 6 nhỏ hơn 7.5, dùng zeolite tỷ lệ 30-50 kg/hecta.

Đối với ao cũ: Việc dọn tẩy lớp bùn đáy trong ao được thực hiện bằng một trong hai cách là dọn tẩy khô và dọn tẩy ướt. Trong phương pháp dọn tẩy khô, lớp bùn đáy sau khi được phơi khô sẽ được dọn bỏ bằng cơ giới hay bằng tay. Phương pháp dọn tẩy ướt được thực hiện bằng cách dùng máy bơm nước áp lực mạnh để rửa trôi lớp bùn đáy còn ướt. Sau đó phơi đáy ao 1 -2 ngày và bón vôi tương tự như ao mới.

Nước được bơm từ nguồn nước bên ngoài vào ao lắng thông qua túi lọc bằng vải nhằm loại bỏ tạp chất, sinh vật gây hại.

Đối với những vùng vụ trước có dịch bệnh xảy ra trong quá trình xử lý nước nên sử dụng Chlorine 30 kg/1 hecta. Chlorine có tác dụng diệt tảo độc, tảo sợi, cả vi sinh vật có lợi và vi sinh vật không có lợi làm nước trong. Tuy nhiên, Chlorine  thường để lại dư lượng trong nước. Do vậy, trước khi bơm sang ao nuôi nên phơi nước ao 1 -2 ngày và kiểm tra dư lượng Chlorine. Cách kiểm tra dư lượng Chlorine : lấy 1 ml nước ao, nhỏ 1-2 giọt Potasium iodine . Nếu nước trong nghĩa là nước ao nuôi tôm thẻ chân trắng không còn dư lượng chlorine, nếu đổi sang màu nâu vàng tức là trong nước còn dư lượng.

Sau khi xử lý Chlorine phải phơi ao và chạy quạt để làm mất hết dư lượng trong nước

Sau khi bơm nước vào ao nuôi, công việc cuối cùng trước khi thả tôm là gây màu nước.

Có 3 phương pháp gây màu theo VietGAP như sau :

Phương pháp thứ nhất: Theo công thức 2:1:2 (thành phần gồm 2 kg cám gạo hoặc cám ngô + 1 kg bột cá + 2 kg bột đậu nành). Trộn đều hỗn hợp trên sau đó nấu chín, ủ kín từ 2 – 3 ngày. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 3 – 4 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm). 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

Phương pháp thứ hai: Theo công thức 3:1:3 (thành phần gồm 3 kg mật đường + 1 kg cám gạo (hoặc cám ngô) + 3 kg bột đậu nành). Công thức này không cần nấu chín, trộn đều sau đó ủ kín trong 12 giờ. Dùng cám ủ bón để gây màu, liều lượng 2 – 3 kg/1.000 m3 nước, bón liên tục trong 3 ngày, cho đến khi đạt độ trong cần thiết (30 – 40 cm), 7 ngày sau bón bổ sung, liều lượng giảm 1/2 so với ban đầu (căn cứ màu nước để bổ sung).

Phương pháp thứ ba: Sử dụng chế phẩm EM

Chế phẩm sinh học EM gốc

Lợi ích của việc sử dụng chế phẩm EM

Đối với con nuôi thủy sản:

Tăng sức đề kháng và khả năng chống chịu của con nuôi với các điều kiện ngoại cảnh bất lợi.

Tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ các loại thức ăn của con nuôi.

Kích thích tăng trưởng của con nuôi.

Tăng sản lượng và chất lượng.

Tiêu diệt các vi sinh vật có hại.

Hạn chế ô nhiễm môi trường.

Điều kỳ diệu là EM có tác dụng tốt đối với mọi loài động vật thủy sản.

Đối với môi trường:

Tiêu diệt các vi sinh vật gây ô nhiễm (H2S, SO2, NH3,…) nên khi phun EM vào rác thải, cống rãnh, chuồng trại, ao nuôi,… sẽ khử mùi hôi nhanh chóng.

Giảm số lượng ruồi, muỗi, côn trùng trong môi trường.

Khử mùi rác hữu cơ và tăng tốc độ mùn hóa.

Ngăn chặn quá trình gây thối, mốc trong bảo quản nông sản.

Hiệu quả cao, an toàn với môi trường và giá thành rẻ.

Sản xuất EM2 từ EM gốc (nhằm hạ thấp chi phí sản xuất):

Nguyên liệu (với thùng chứa 50L): 1 kg mật đường, 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, 10 g muối ăn, 1 lít EM gốc, 46 lít nước sạch khuẩn

Cách tiến hành:

Vô trùng các thùng chứa

Lấy 46 lít nước ngọt, sạch khuẩn (nước sôi để nguội càng tốt)

Cho 1 kg mật đường, khuấy đều

Cho 2 kg cám gạo hoặc bột ngô, khuấy đều

Cho vào 10 g muối ăn, khuấy đều

Cho vào 1 lít EM gốc, khuấy đều

Đậy nắp ủ yếm khí trong thời gian 7 ngày

Với các thể tích lớn hơn (100L, 200L, 500L,…) thì tăng các loại nguyên liệu theo tỷ lệ tương ứng với tăng thể tích.

Cách sử dụng:

Xử lý nước: 50 lít EM2/1.000 m3 nước

Xử lý đáy ao: 10 lít EM2/1.000 m2 đáy ao

Sử dụng định kỳ trong các ao nuôi: 50 lít EM2/1.000 m3 nước, trong tháng nuôi đầu 5 – 7 ngày/lần, tháng thứ 2 sử dụng 3 – 5 ngày/lần, tháng thứ 3 trở đi 2 – 3 ngày/lần.

Sử dụng xử lý mùi hôi thối: Dùng bình xịt phun EM2 trực tiếp lên bề mặt các nơi sinh ra mùi hôi thối.

Sản xuất EM5 từ EM gốc:

Nguyên liệu: 1 lít EM gốc,1 lít mật đường,1 lít giấm, 2 lít rượu

Cách tiến hành:

Dùng bình có nắp đậy, sạch khuẩn

Thứ tự cho các nguyên liệu vào: 2 lít rượu → 1 lít giấm → 1 lít mật đường → 1 lít EM gốc → khuấy đều → đậy kín.

Ủ yếm khí trong 3 ngày

Cách sử dụng:

Xử lý đáy ao: 5 lít EM5/1.000 m2.

Xử lý nước: 4 lít EM5/1.000 m3, định kỳ 7 ngày/lần, khi tôm lớn tăng số lần sử dụng.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

An toàn sinh học trong nuôi tôm

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) chịu ảnh hưởng nhiều bởi dịch bệnh, trong đó đáng chú ý là các bệnh do virus. Do đó việc đảm bảo An toàn sinh học trong nuôi tôm là thực sự cần thiệt nhằm giảm thiểu tác hại dịch bệnh.

Vai trò An toàn sinh học trong nuôi tôm

Dịch bệnh bùng phát là một trong những vấn đề đáng lo ngại cho phát triển NTTS bền vững. Trong nhiều thập kỉ, các mầm bệnh trên tôm đã và đang gây thiệt hại lớn cho các trại nuôi. Các nhà khoa học không ngừng nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân gây bệnh, nhằm kiểm soát dịch bệnh trên tôm. An toàn sinh học trong nuôi tôm là một khái niệm mới, thường đề cập đến các biện pháp quản lý bảo vệ đàn khỏi sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, đồng thời giảm thiểu sự lây lan và các tác động bất lợi đối với đối tượng nuôi.

Trong nuôi tôm, ATSH liên quan đến các biện pháp để giảm tác động và khả năng lây của mầm bệnh. Hiện nay, người nuôi vẫn chưa thật sự quan tâm đến việc áp dụng các biện pháp ATSH, do nhiều nguyên nhân bao gồm: thiếu kinh nghiệm, tốn chi phí, và chưa thấy được lợi ích thực tiễn của việc áp dụng ATSH trong mô hình nuôi.

Đảm bảo an toàn sinh học trong nuôi tôm

Việc thực hiện các quy trình ATSH đòi hỏi mức độ nhận thức và kỷ luật cao, và sự cam kết mạnh mẽ, cùng với tính bền vững của ban quản lý và cả người thực hiện.

Áp dụng ATSH để quản lý các tác nhân gây bệnh chủ yếu phải phòng ngừa bao gồm: thu mẫu động vật và xét nghiệm nghiêm ngặt; các quy trình xử lý cho động vật và nhân viên, các quy trình làm sạch, khử trùng, và các biện pháp khác được áp dụng để loại bỏ tối đa các tác nhân gây bệnh. Đối với EMS, cần hạn chế sự tích tụ của thức ăn dư thừa cũng như các chất hữu cơ – đây là nguyên nhân cho sự phát triển của tác nhân gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.

Trong ngành công nghiệp tôm, các biện pháp an ninh sinh học bao gồm: các vật nuôi được kiểm nghiệm, kiểm dịch, các rào cản vật lý, xử lý nước, sử dụng tôm sạch bệnh (Specific pathogen-free – SPF) và tôm kháng bệnh (Specific athogen-resistant – SPR) (Lightner 2003; Horowitz và Horowitz 2003).

Việc áp dụng ATSH trong nuôi tôm phải đảm bảo lợi ích kinh tế, bao gồm các yếu tố sau: thiết kế mô hình nuôi, thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa sự xâm nhập và phát triển của các tác nhân gây bệnh, nguồn tôm bố mẹ và chất lượng con giống. Nguồn tôm bố mẹ phải được chọn lọc sạch bệnh, có khả năng kháng bệnh và tăng trưởng tốt. Mô hình nuôi hạn chế tối đa sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bao gồm: xác định mùa vụ thả nuôi, hạn chế tối đa việc thay nước, quản lý cho ăn hiệu quả, bổ sung cho tôm ăn các chất kích thích miễn dịch nhằm tăng sức đề kháng của vật nuôi.

Vị trí trại nuôi và thiết kế mô hình nuôi đóng vai trò rất quan trọng cho thành công của vụ nuôi. Điều này ít được trại nuôi quan tâm trong việc thiết kế ban đầu. Điều này đóng vai trò quan trọng trong phòng bệnh.

Hạn chế thay nước và trao đổi nước là một trong những mô hình nuôi được phát triển trong những năm gần đây. Hạn chế thay nước qua đó ngăn ngừa khả năng xâm nhập của các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài, đồng thời tránh được sự biến động của các yếu tố môi trường thường là nguyên nhân gây stress cho vật nuôi. Ở nhiều nước đã áp dụng rất thành công mô hình này trong đó tiêu biểu là mô hình nuôi khép kín theo công nghệ biofloc.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Một vài lưu ý đến bà con nuôi tôm khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới, thì kèm theo đó là có một đợt không khí lạnh, đặc biệt là các tỉnh miền Trung và miền Bắc có khi nhiệt độ không khí xuống rất thấp dẫn đến nhiệt độ nước ao nuôi tôm cũng hạ theo. Vì thế trong thời gian này tôm nuôi rất dễ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh đốm trắng gây thiệt hại cho bà con nuôi tôm rất lớn.

Để giảm thiệt hại trong những lúc thời tiết xấu như thế này, bà con cần thực hiện một số lưu ý sau:

Tôm bị đốm trắng

Kiểm tra mực nước ao

Không nên để mực nước ao quá cạn (thấp hơn 1m), vì trong điều kiện thời tiết ấm thì mực nước thấp tôm có thể phát triển tốt được, nhưng khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết chuyển lạnh, nếu mực nước ao nuôi thấp thì nhiệt độ nước tầng đáy sẽ hạ theo rất nhanh, làm cho tôm nuôi dễ phát bệnh, vì thế cần giữ mực nước ao tối thiểu là 1,2m trở lên.

Lưu ý: cũng không nên nâng mực nước ao quá sâu, vì khi áp thấp nhiệt đới thì thời tiết âm u kết hợp theo mưa, do đó hàm lượng oxy hòa tan từ không khí xuống ao nuôi tôm rất thấp, nếu oxy xuống mức quá thấp có thể làm cho tôm chết, tùy theo mật độ tôm nuôi mà bà con có thể nâng lên ở mức hợp lý, nhưng khuyến cáo bà con không nên nâng nước ao nuôi tôm quá 1,6m.

Kiểm tra các yếu tố môi trường

Khi thời tiết có áp thấp nhiệt đới thường kèm theo mưa, kéo theo các yếu tố môi trường sẽ thay đổi, đặc biệt là pH có xu hướng giảm. Vì thế bà con cần sử dụng vôi để giữ ổn định pH.

Quản lý cho ăn

Khi điều kiện thời tiết bất lợi, thì chắc chắn tôm sẽ giảm ăn, vì vậy trong giai đoạn thời tiết áp thấp nhiệt đới thì bà con nên giảm lượng thức ăn cho tôm, nhằm tránh hiện tượng thừa thức ăn, gây lãng phí và ảnh hưởng xấu đến môi trường ao nuôi tôm, làm phát sinh nhiều khí độc ảnh hưởng đến phát triển của tôm nuôi.

Cho tôm ăn

Tăng sức đề kháng của tôm

Tôm là động vật bậc thấp biến nhiệt, do đó thời tiết (cụ thể là nhiệt độ nước) thay đổi thì nhiệt độ cơ thể tôm sẽ thay đổi theo, vì thế nếu tôm đang yếu kết hợp với thời tiết bất lợi thì đó là lúc tôm dễ bị phát bệnh nhất, do đó trong giai đoạn này bà con nên tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách trộn vào khẩu phần thức ăn của tôm các nhóm Vitamin, đặc biệt là Vitamin C rất cần trong giai đọan này.

Nguồn: tổng hợp bởi Farmtech VietNam

Hạn chế stress trên tôm

Trong nuôi tôm, có rất nhiều yếu tố tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển, gây tình trạng stress ở tôm và làm ảnh hưởng đến năng suất vụ nuôi. Do đó, thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế stress cho tôm là vô cùng quan trọng.

  1. Khái niệm

Stress là trạng thái mất cân bằng nội mô của cơ thể, là một trạng thái sinh lý không bình thường gây ra do tác động của các yếu tố bất lợi của môi trường ngoài hay trong cơ thể. Các yếu tố này gọi là tác nhân stress. Khi điều kiện ngoại cảnh thay đổi, có tác nhân stress mà cơ thể không duy trì được cân bằng nội mô thì con vật sẽ lâm vào trạng thái stress và phải trải qua quá trình stress để tiến tới thích nghi với ngoại cảnh mới. Đây chỉ là một quan điểm, vì định nghĩa chính xác về stress vẫn còn vượt quá sự hiểu biết của các nhà khoa học, mặc dù đã có nhiều năm nghiên cứu về vấn đề này.

kiểm tra tôm trong quá trình nuôi

Thế nhưng, không phải loại tác nhân gây stress nào cũng có hại, trong thực tế sản xuất, con người đã lợi dụng, khai thác các yếu tố stress để kích thích vật nuôi sinh trưởng, phát triển tốt, đẻ nhiều, đẻ sớm, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm như bổ sung thêm các loại thuốc bổ, premix khoáng, acid amin… sử dụng chế độ màu sắc, cường độ ánh sáng phù hợp, tăng thời gian chiếu sáng để vật nuôi nhanh lên giống, tăng tỷ lệ trứng rụng… Ngày nay trong chăn nuôi công nghiệp, các yếu tố stress có lợi này đang được khai thác áp dụng rất nhiều để nâng cao năng suất, chất lượng chăn nuôi và phòng chống dịch bệnh.

  1. Tác nhân và ảnh hưởng

Trong nuôi tôm, các tác nhân gây stress bao gồm: thay đổi thời tiết, khí hậu, thay đổi thức ăn đột ngột, nuôi ghép, vận chuyển, nuôi nhốt, dùng thuốc quá liều quy định, chất lượng nước kém…. tất cả những yếu tố đó đều gây bất lợi cho con vật hay còn gọi là con vật bị stress làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng phát triển bình thường. Cụ thể, đối với tôm nuôi, các yếu tố có thể gây stress trong ao nuôi như: Sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ, pH, độ mặn, mưa liên tục, nắng nóng kéo dài; quá trình vận chuyển tôm giống, sang tôm; mật độ thả tôm dày; thiếu ôxy, nồng độ CO2 cao; NH3, H2S cao; chất rắn lơ lửng, hàm lượng kim loại nặng trong ao cao; độc tố do nấm, vi khuẩn; thuốc trừ sâu; tôm thường xuyên bị thiếu dinh dưỡng; quá trình lột xác; Xử lý nước bằng hóa chất quá liều hoặc hóa chất gây độc cho tôm; tôm bị nhiễm bệnh do ký sinh trùng, vi khuẩn hay virus…

Tôm bị stress có thể giảm ăn đôi khi bỏ ăn, màu sắc cơ thể bất thường như hồng nhạt, tím nhạt hoặc sẫm màu hơn so với bình thường; tôm dễ bị cong thân, đục cơ. Stress xảy ra phổ biến ở tất cả các ao tôm, đặc biệt là nuôi thâm canh. Stress gây hại thầm lặng nhưng nguy hiểm bởi khi tôm bị stress, trao đổi chất bị rối loạn dẫn đến mất khoáng, giảm hấp thu dưỡng chất, tiêu hóa giảm; bơi lội kém, giảm bắt mồi; tăng trưởng chậm, giảm sức đề kháng, dễ nhiễm bệnh và tệ hại hơn là tôm bị chết.

  1. Biện pháp hạn chế

Tôm có thể bị stress từ bất cứ tác nhân nào trong quá trình nuôi. Do đó, chủ động thực hiện biện pháp phòng bệnh bằng các phương pháp nuôi an toàn sinh học ngay từ ban đầu là giải pháp cơ bản và mang lại hiệu quả tốt nhất cho tôm nuôi. Trong đó, phòng bệnh trong quá trình nuôi bao gồm: thực hiện tốt việc quản lý con giống, thức ăn, nguồn nước và theo dõi sức khỏe tôm nuôi. Các biện pháp như:  Chọn tôm giống sạch bệnh, đã qua kiểm dịch; Thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật trong nuôi tôm; Hạn chế các tác động xấu từ môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm như biến đổi của các yếu tố thủy lý, thủy hóa, sự gia tăng của mầm bệnh trong ao; Ngăn ngừa các nguy cơ gây bệnh từ nguồn giống không đảm bảo, chất lượng nước cấp không đạt yêu cầu, quá trình xâm nhập của mầm bệnh từ bên ngoài do vệ sinh ao nuôi, trang trại chưa phù hợp…; Áp dụng nghiêm ngặt các giải pháp quản lý việc sử dụng thuốc và hoá chất: Chỉ sử dụng khi thật cần thiết, không lạm dụng; Chỉ sử dụng thuốc, hóa chất được phép; Cần bảo quản thuốc, hóa chất đúng cách; Ghi chép cẩn thận mọi thông tin liên quan đến việc sử dụng thuốc, hóa chất; Quan sát hoạt động của tôm trong ao, biểu hiện của tôm vào sàng ăn, các dấu hiệu cảm quan như tình trạng thức ăn trong ruột, các dấu hiệu bên ngoài khác…

Bên cạnh đó, theo dõi dấu hiệu lột xác để kiểm soát chặt chẽ độ kiềm của nước, đảm bảo chất lượng nước để tôm phát triển tốt, tăng trọng tối đa và hình thành vỏ mới sau mỗi lần lột xác, đồng thời tăng khối lượng, chất lượng tôm trước khi thu hoạch; Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh, quản lý tốt màu nước ao; Tăng cường hệ miễn dịch tự nhiên của tôm bằng quản lý môi trường tốt và bổ sung một số sản phẩm như beta – glucan, Vitamin C, A, E… vào thức ăn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam