Tây Ninh: Cùng nhau trồng chanh tứ quý

Hiện nay, chanh không hạt (hay còn gọi là chanh tứ quý) là loại cây đang được nhiều người dân trên địa bàn xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu trồng thành công và mang lại lợi nhuận cao. Lúc giá chanh đắt, người dân ở đây có thể bán với giá 40.000 đồng/ký, lúc hạ thì vẫn bán được 10.000-15.000 đồng/ký.

Ông Trần Xuân Vũ, người tiên phong đưa cây chanh dây không hạt về trồng thử nghiệm tại ấp Tân Định 2, xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu với diện tích 1 ha, đến nay cây đã cho thu hoạch. Ưu điểm của giống chanh không hạt là cây cho trái quanh năm, sau khi trồng được 1 năm là cho thu hoạch trái.

Ông Vũ giới thiệu về vườn chanh không hạt tại ấp Tân Định 2, xã Suối Đá, huyện Dương Minh Châu.

Bên cạnh đó, năng suất đạt cao nhất là từ năm thứ 4 trở đi, mỗi năm thu hoạch từ 120 kg đến 170 kg/gốc, bình quân năng suất đạt 30 – 40 tấn/ năm và có thể thu hoạch trên 10 năm mới phải chặt bỏ.

Theo ông Vũ, với giá bán tại vườn từ 10.000 đồng đến 15.000 đồng/kg, lúc cao điểm vào mùa nắng nóng, giá chanh có thể lên đến 30.000 đồng đến 40.000 đồng/kg. Khi thu hoạch, chỉ cần nhìn trái nào vỏ căng mọng, có màu xanh sáng tức là chanh đã già. Cây chanh không hạt cho trái to, khoảng 6-7 trái /kg, vỏ mỏng, mọng nước, vị chua thanh và có mùi thơm.

Ông Vũ cho biết thêm, chi phí đầu tư ban đầu khoảng 100 triệu đồng/ha gồm cây giống, phân bón, hệ thống tưới tự động tiết kiệm giúp cây phát triển và sinh trưởng tốt hơn. Sau khi trừ hết chi phí, người trồng thu lợi nhuận hơn 100 triệu đồng/năm.

Trái chanh không hạt hay còn gọi là chanh tứ quý.

Theo ông Vũ, sau khi tìm hiểu và trồng thử nghiệm 1 ha chanh không hạt đạt hiệu quả tốt, ông nhận thấy giống cây này rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng cũng như khí hậu tại địa phương.

Bên cạnh đó, đầu ra, giá cả lại sản phẩm ổn định và được người tiêu dùng ưa chuộng, nên ông Vũ quyết định liên kết với nông dân để trồng và cung cấp cho thị trường sản phẩm chanh không hạt lớn hơn. Đến nay, mô hình liên kết trồng chanh không hạt của ông Vũ đã có diện tích 5 ha, với 5 hộ tham gia sản xuất.

Ông Vũ cho biết thêm, trong quá trình liên kết sản xuất, ông Vũ sẽ cung cấp cây giống đạt chất lượng cho người trồng; hỗ trợ người trồng trong các khâu trồng, bón phân và các kỹ thuật khác; hướng dẫn và lắp đặt hệ thống tưới tự động tiết kiệm. Đặc biệt, đến ngày thu hoạch, ông Vũ đứng ra thu mua toàn bộ sản phẩm của người dân với giá cả ổn định, sau đó cung cấp ra thị trường trong tỉnh và các tỉnh lân cận.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Cả làng trồng quả “mở mắt” thu gần 100 tỷ đồng mỗi năm

Chi Lăng là một trong những xã đi đầu trong phát triển kinh tế của huyện Chi Lăng (Lạng Sơn). Riêng đối với cây na-loại quả “mở mắt” khi chín, mỗi năm xã Chi Lăng đã thu gần 100 tỷ đồng.

Chạy dọc theo Quốc lộ 1A, PV Dân Việt tới huyện Chi Lăng – nơi được coi là thủ phủ của na xứ Lạng. Phóng mắt nhìn chỉ thấy vùng núi đá vôi xanh thẫm một màu át đi màu đen của sườn núi đá tai mèo. Đó chính là màu lá của hàng trăm ngàn cây na vươn mình từ các khe đá.

Cây na đã giúp người dân Chi Lăng thoát nghèo.

Mỗi khi vào dịp thu hoạch na (tháng 8), tại các phiên chợ, các điểm tời đón những sọt na bay vèo từ trên núi xuống luôn nhộn nhịp cảnh bà con cùng thương lái cùng nhau ngã giá những giỏ đầy na trắng hồng, mắt to căng.

Còn thời điểm này, đâu đâu nơi sườn núi đá tai mèo cũng thấy thấp thoáng bóng dáng của người nông dân cắt tỉa, chăm sóc vườn na để chờ một mùa na bội thu sắp tới. Những tời ròng rọc là công cụ để người dân vận chuyển na khi vào mùa thì giờ đây cũng là công cụ để người dân vận chuyển phân bón lên vườn na – nơi sườn núi cheo leo.

Tời ròng rọc được người dân sử dụng để vận chuyển phấn bón từ dưới lên vườn và cũng là công cụ để chuyển những trái na mở mắt từ trên núi cao về nhà.

Nghề trồng na ở xứ Lạng chủ yếu tập trung tại 2 huyện Hữu Lũng và Chi Lăng. Tại đây người người trồng na, nhà nhà trồng na. Mỗi gia đình trung bình có 400 – 1.000 gốc na, thậm chí hơn 1.000 gốc. Na chín thường rất rộ, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng là hết, nhưng hiện tại người dân đã có kỹ thuật thụ phấn để kéo dài thời gian thu hoạch, nhờ đó năng suất và chất lượng tăng lên.

Là một trong những xã đi đầu trong phát triển kinh tế của huyện Chi Lăng, xã Chi Lăng đã tập trung thực hiện các giải pháp phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tiếp tục nhân rộng, chuyển đổi cây trồng có giá trị thay cho cây lúa. Riêng đối với cây na, mỗi năm đã thu gần 100 tỷ đồng.

Mỗi mùa thu hoạch na là người dân nơi đây vô cùng phấn khởi vì na vừa được mùa vừa được giá.

Được biết Chi Lăng là xã có 85% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng đã có sự sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động bà con áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, cây na từ 1 vụ thành 2 vụ, mỗi vụ lại có năng suất cao hơn.

Ông Lăng Văn Thạch, Bí thư Đảng ủy xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng cho biết: Ngoài cây na, thì xã cũng tập trung phát triển một vài loại cây ăn quả khác có thế mạnh không kém như vải, cam canh, bưởi diễn.. Cụ thể đối với cây vải thu khoảng 1 tỷ đồng, bưởi Diễn thu khoảng 5,4 tỷ đồng; cam canh khoảng 850 triệu đồng… Nhờ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người của xã Chi Lăng trong năm 2018 đã đạt 39 triệu đồng/người/năm, cao hơn mức bình quân của huyện là 28 triệu đồng/người/năm.

Hiện người dân đang tất bật với các công việc cắt tỉa, thu phấn và chăm sóc vườn na nơi sườn núi.

Với đặc thù canh tác của địa phương là đất xen núi đá đã tạo ra giống na Chi Lăng trứ danh vỏ mỏng, ít hạt, thịt dày, vị ngọt đậm, mùi thơm vô cùng hấp dẫn. Có những quả na rất lớn có khối lượng từ 800gram đến hơn 1kg. Tuy nhiên, nhiều người dân trồng na cho biết, mỗi vườn cũng chỉ có khoảng vài quả và cũng hiếm khi mua được.

Trao đổi với Dân Việt, bà Triệu Thị Tám, Chủ tịch Hội nông dân xã Chi Lăng cho biết: Trên địa bàn xã Chi Lăng, có nhiều mô hình phát triển kinh tế cho thu nhập từ 300-500 triệu đồng từ cây na và các loại cây có múi khác. Nhờ phát triển cây ăn quả mà cuộc sông người dân ở đây ngày càng khấm khá.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

 

Liên kết trồng dưa lưới, hiệu quả bền vững

Chỉ cần diện tích 1.000-2.000m2, mỗi nhà màng trồng dưa lưới có thể thu hoạch được 4 vụ/năm, doanh thu cả trăm triệu đồng/công/vụ. Nếu có hợp đồng liên kết đầu ra ổn định, canh tác dưa lưới sẽ nhanh thu hồi vốn, mang lại lợi nhuận lâu dài cho nông dân.

Từ thành công của chàng kỹ sư trẻ…

Ở huyện đầu nguồn An Phú, nhắc đến Nguyễn Văn Đệ (xã Vĩnh Lộc), những nông dân lớn tuổi còn phải nể phục bởi anh được xem là người đầu tiên thành công với dưa lưới, một loại cây trồng vốn mới mẻ với vùng đất đã “quen” với lúa, rau màu.

Là một kỹ sư nông học (tốt nghiệp năm 2006), anh Đệ đã bắt đầu với những công việc trái ngành trước khi “kết duyên” với cây dưa lưới từ năm 2014. Để khởi nghiệp tại quê nhà, anh đã đến nhiều nơi học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước. “Lần đầu trồng, thấy dưa bị nứt tôi cũng hơi lo lắng. Sau khi tìm hiểu, biết đây là giai đoạn nứt trái để tạo lưới nên mới yên tâm. Tôi cố gắng vừa canh tác, vừa rút kinh nghiệm để tìm ra quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng” – anh Đệ chia sẻ.

Đại diện Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật An Giang kiểm tra chất lượng trái dưa lưới do anh Thảo trồng

Nhờ sản phẩm được tiêu thụ nhanh với giá cao, chỉ sau 2 năm canh tác, anh Đệ đã trả hết nợ ngân hàng (vay đầu tư nhà lưới) và bắt đầu có lời. Nhận thấy tiềm năng loại cây trồng này còn lớn nên anh nâng diện tích nhà lưới lên 2.500m2, trồng đa dạng các giống dưa xuất xứ từ Đài Loan và Thái Lan. Anh còn liên kết với nông dân cùng thực hiện quy trình canh tác an toàn và làm đầu mối thu gom sản phẩm của họ. Chàng kỹ sư trẻ đã xây dựng nhãn hiệu dưa “Mr.Đệ”, được ngành chức năng cấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, xây dựng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Anh Đệ cho biết, với giá thu mua lại từ 25.000 – 30.000 đồng/kg, đảm bảo nông dân có lời ít nhất 35 triệu đồng/vụ/1.000m2. Nếu mỗi năm canh tác được 4 vụ thì sau khoảng hơn 2 năm, nông dân đã lấy lại được vốn đầu tư nhà màng. “Sau khi liên kết ổn định với 6 nông dân ở An Giang và Cà Mau, phát triển 10.000m2 dưa lưới, tôi đang mở rộng liên kết sang Vĩnh Long, Kiên Giang, TP. Cần Thơ để dần nâng diện tích lên gấp đôi. Bên cạnh dưa lưới, tôi đang thử nghiệm quy trình trồng dưa hấu, cà chua tí hon, dưa lê theo hướng an toàn để chuyển giao cho nông dân, nhằm đa dạng sản phẩm, tăng hiệu quả canh tác” – anh Đệ nhấn mạnh.

…đến thắng lợi của những nông dân chịu thay đổi

Một trong những nông dân đang liên kết thành công với kỹ sư Nguyễn Văn Đệ là anh Dương Hiếu Thảo (ấp Mỹ Phó 3, xã Tân Hòa, Phú Tân). Được anh Đệ tận tình hướng dẫn quy trình canh tác an toàn, cam kết bao tiêu sản phẩm với giá 28.000 đồng/kg, anh Thảo cùng bạn của mình đã mạnh dạn đầu tư 350 triệu đồng xây dựng nhà màng 1.000m2, thiết kế hệ thống tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân hữu cơ tự động. Vụ đầu tiên, anh trồng 2.600 gốc dưa lưới trong những chậu nhựa, được nối hệ thống tưới nhỏ giọt vào tận gốc. “Khi dưa lưới được 7 ngày tuổi, cao từ 10-15cm thì tiến hành quấn đọt lên dây. Công việc này cần 2 người quấn liên tục trong 40 ngày. Khi cây được 2,5m thì ngắt đọt. Trồng trong nhà màng nên ít bị sâu bệnh, nhất là không có bọ trĩ, bọ phấn trắng. Trong chiếc bồn chứa 2.000 lít, mình hòa sẵn phân hữu cơ. Mỗi ngày, bật hệ thống tưới tự động trong 1-2 giờ là được” – anh Thảo chia sẻ.

Ngay vụ dưa đầu tiên, mỗi gốc đều cho ít nhất 1 trái, trọng lượng bình quân trên 2kg, đạt yêu cầu về độ đường, tiêu chuẩn thu mua. Với 2.600 gốc dưa, sau 85 ngày canh tác, anh Thảo thu hoạch được hơn 5 tấn trái, giao hết cho anh Đệ giá 28.000 đồng/kg. Tính ra, doanh thu khoảng 140 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí giống, dinh dưỡng hữu cơ, nhân công khoảng 50 triệu đồng, nhóm anh Thảo thu lời 90 triệu đồng. Nếu tiếp tục đà thắng lợi này, chỉ sau 1 năm với 4 vụ dưa, nhóm anh Thảo đã có thể lấy lại vốn đầu tư nhà màng và bắt đầu thu lợi nhuận không dưới 200 triệu đồng/công từ năm thứ 2.

Kỹ sư Nguyễn Văn Đệ cho biết, với hệ thống nhà màng được lắp ráp bằng khung thép vững chắc thì 5 năm sau mới phải bảo trì. Trong thời gian này, người sản xuất đã thu được lợi nhuận khá nên hoàn toàn có thể tái đầu tư mở rộng, tăng diện tích liên kết.

“Dưa lưới là loại cây trồng cho năng suất cao, kỹ thuật sản xuất không khó, thời gian canh tác ngắn, giá trị thương phẩm tốt. Điều quan trọng là khi canh tác, cần có hợp đồng liên kết thu mua nhằm ổn định đầu ra, đảm bảo quy trình sản xuất an toàn, chất lượng” – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư lưu ý.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Trồng dâu tây “hái” ra tiền.

“Nếu so sánh về đơn vị quy mô diện tích thì hiện nay không có cây trồng nào cho thu nhập cao như dâu tây”, ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo (Sơn La), chia sẻ.

Du khách trải nghiệm hái và mua dâu tây tại các nhà vườn ở H.Mộc Châu.

Hợp tác xã Tân Thảo nằm ở bản Tân Quế, xã Cò Nòi (H.Mai Sơn, Sơn La) hiện có 7 ha trồng dâu tây. Dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi vừa qua, nhiều hộ có thu nhập hàng trăm triệu đồng từ bán cây dâu tây làm cảnh. Cận tết cũng là thời điểm nhiều nhà vườn bắt đầu có dâu tây chín. Dâu tây loại có vị chua được bán với giá 80.000 – 150.000 đồng/kg; loại ngọt giá cao hơn, từ 250.000 – 300.000 đồng/kg và hái đến đâu đều có khách đặt mua đến đấy.

Cho thu nhập quanh năm

Ông Nguyễn Đình Lâm, Giám đốc Hợp tác xã Tân Thảo, cho biết trong số 7 ha dâu tây thì có khoảng 3 ha người dân trồng bán làm cây cảnh chơi tết. Sau 10 năm dâu tây được trồng tại Sơn La, nhiều xã ở H.Mai Sơn có khí hậu trong lành, mát mẻ đang là mảnh đất giúp dâu tây trở thành cây trồng mới đem lại thu nhập cao cho nông dân.

Cũng theo ông Lâm, dâu tây hiện được trồng theo diện tích mỗi ruộng khoảng 1.000 m² để phù hợp đầu tư hệ thống nhà lưới, tưới nước tự động. Chi phí ban đầu mỗi ruộng khoảng 100 triệu đồng nhưng bù lại, cây dâu tây cho nguồn thu nhập rất đa dạng. “Bắt đầu từ tháng 11, nhà vườn bán cây dâu tây làm cảnh, từ tháng 12 đến tháng 5 thì bán quả chín, còn lại thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 có thể bán cây làm giống”, ông Lâm giải thích.

Ông Lâm cho biết, dâu tây trồng tại H.Mai Sơn hiện có năng suất khá cao, mỗi cây có thể cho thu hoạch 0,4 – 0,5 kg quả, tính ra mỗi ruộng có thể đạt năng suất trên 1,6 tấn quả, chỉ bán tươi đã có thu nhập trên 100 triệu đồng. “Nếu cộng cả chi phí bán giống, bán cây cảnh và quả tươi thì mỗi ruộng dâu 1.000 m² hiện đang cho thu nhập từ 200 – 250 triệu đồng. So sánh về quy mô diện tích thì không có cây trồng nào ở địa phương cho thu nhập nhiều, nhanh hồi vốn như dâu tây”, ông Lâm quả quyết.

Quả dâu tây đang mang lại cho người nông dân nguồn thu nhập cao.

Còn tại xã Đông Sang (H.Mộc Châu, Sơn La), trang trại dâu tây Chimi, mô hình khởi nghiệp của chàng trai Vũ Văn Lực (29 tuổi), là địa chỉ không thể bỏ qua của nhiều khách du lịch khi đến Mộc Châu. Vườn dâu tây tại đây rộng 4 ha, nằm giữa những vạt rừng thông mơ mộng. Những ngày trước và sau tết, mỗi ngày nhà vườn đón hàng ngàn khách đến thăm. Du khách được phát giỏ mây rồi vào vườn hái quả theo sự hướng dẫn của nhân viên, mỗi ki lô gam dâu tây ở đây có giá 350.000 đồng nhưng khách đều vui vẻ móc hầu bao khi lần đầu tiên được trải nghiệm tự mình hái những quả dâu tươi đỏ mọng, chụp ảnh với vườn dâu.

Cũng ở trang trại này, ngoài dâu tây tươi, nhóm của anh Lực tổ chức chế biến nhiều sản phẩm bánh dâu tây, nước ép dâu tây, mứt dâu tây, dâu tây sấy dẻo… để du khách có nhiều lựa chọn mua hàng. Theo một nhân viên thu ngân, doanh thu mỗi ngày lễ, tết ở trang trại này không dưới 100 triệu đồng. Dâu tây cũng khiến lượng khách tìm về khu du lịch rừng thông Bản Áng trên địa bàn xã Đông Sang tăng vọt.

Tiềm năng còn rất lớn

Quê ở Ninh Bình, tốt nghiệp đại học tại Hà Nội nhưng anh Vũ Văn Lực chọn Mộc Châu làm điểm khởi nghiệp trồng dâu tây sau chuyến học tập kinh nghiệm ở Đà Lạt (Lâm Đồng). Theo anh Lực, khí hậu Mộc Châu khá tương đồng với Đà Lạt nhưng nếu có kỹ thuật chăm sóc tốt, quả dâu tây ở Mộc Châu thậm chí còn có năng suất, chất lượng tốt hơn. Khởi nghiệp từ năm 2015 nhưng hiện dâu tây từ trang trại của anh đã có lượng khách quen tiêu thụ quả tươi rất lớn. Ngay từ ban đầu, anh Lực định hướng mô hình của mình chủ động chế biến quả dâu tây thành nhiều sản phẩm, tạo nhiều kênh phân phối, bán hàng khác nhau. Nhờ đó, diện tích trồng dâu tây năm 2015 chỉ có 2.000 m² thì nay đã tăng lên 4 ha vẫn đảm bảo thị trường tiêu thụ. Chỉ sau vài năm khởi nghiệp, mô hình đã cho doanh thu tiền tỉ và hiện đang giải quyết việc làm trực tiếp cho 40 lao động địa phương.

Theo ông Nguyễn Đình Lâm, khoảng 80% sản lượng dâu tây của Hợp tác xã Tân Thảo được bán quả tươi, 20% còn lại đưa vào chế biến. Trong đó, phần lớn khách hàng cá nhân, một số ít đưa vào chuỗi cửa hàng bán lẻ. Với diện tích hiện tại, Hợp tác xã Tân Thảo chưa có đủ sản lượng để cung ứng vào siêu thị nên dâu tây còn tiềm năng rất lớn để phát triển, mở rộng diện tích.

Thống kê của Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La cho thấy cây dâu tây trồng đầu tiên tại cao nguyên Mộc Châu vào khoảng năm 2012 do một số hộ dân mang giống từ Đà Lạt (Lâm Đồng) ra trồng. Cho đến năm 2014, nhiều doanh nghiệp đầu tư mở rộng trồng dâu tây với giống dâu Nhật Bản. Có giá trị kinh tế cao nên trong khoảng 5 năm trở lại đây, diện tích dâu tây ở Sơn La không ngừng tăng lên. Cho đến cuối năm 2018, diện tích dâu tây toàn tỉnh Sơn La đạt 43,3 ha với tổng sản lượng ước đạt 593 tấn. Dâu tây trồng chủ yếu ở các huyện Mộc Châu, Mai Sơn và Vân Hồ. Ngay trong tháng 1 vừa qua, UBND tỉnh Sơn La tổ chức lễ hội dâu tây tại Hà Nội để giới thiệu và quảng bá thương hiệu cho loại quả này.

Trao đổi với Thanh Niên, ông Nguyễn Thành Công, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La, cho biết hàng tấn quả dâu tây đã được tiêu thụ tại Hà Nội bước đầu cho thấy loại quả này được người tiêu dùng nhiệt tình đón nhận. Giá bán dâu tây trung bình trong khoảng 200.000 – 300.000 đồng/kg, chỉ bằng một nửa dâu tây nhập khẩu từ Hàn Quốc, Mỹ, Úc nhưng chất lượng tương đương sẽ là lợi thế lớn cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

“Dù là cây trồng mới và đang được nhân rộng diện tích nhưng dâu tây với lợi thế diện tích trồng nhỏ, cho thu nhập lớn đang là cây trồng có giá trị kinh tế cao nhất hiện nay. UBND tỉnh Sơn La cũng đặc biệt quan tâm đến cây trồng này bằng cách hỗ trợ về cơ chế chính sách, Sở NN-PTNT tỉnh hỗ trợ tư vấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật để tiếp tục mở rộng diện tích cây trồng này khi sản lượng dâu tây hiện nay chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường”, ông Công nói.

Nguồn: tintucnongnghiep.com được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

“Nghệ thuật” trồng dưa kim.

Xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng có bề dày kinh nghiệm trồng dưa kim. Mỗi vụ diện tích trồng dưa kim của xã lên đến trên 50ha, năng suất đạt từ 8 tạ đến 1 tấn/sào (360m2), giá bán sản phẩm cũng luôn cao.

Kĩ thuật lên luống “mái nhà”, trồng dưa ở chính giữa cho bò sang hai bên của nông dân xã Tân Hưng.

Tham quan những cánh đồng dưa nơi đây chúng tôi học hỏi được nhiều điều bổ ích. Các biện pháp kĩ thuật như làm luống, bố trí mật độ trồng, đặt cây trên luống, định số nhánh, số lá trên thân là cả một “nghệ thuật” mà bà con dày công tôi luyện. Xin chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của họ để bạn đọc tham khảo.

Cách lên luống trồng cây: Không giống với thông thường khi lên luống trồng dưa hấu, dưa kim các nơi khác (luống san bằng phẳng), nông dân Tân Hưng lên luống trồng dưa kim theo kiểu mái nhà (cao ở giữa, thoải về hai bên mé luống). Vị trí đặt bầu cây cũng là chỗ cao nhất của luống (giữa luống), khác hẳn cách làm truyền thống (đặt cây vào mé luống để dưa bò dần ra giữa cho đến mé luống bên kia).

Chiều rộng của luống ở đây cũng để như thông thường (1,8-2m) nhưng mật độ trồng thì cao hơn. Cây cách cây 20-25cm (mật độ 500-550 cây/sào). Đặt cây vào giữa luống là cách làm hay để có thể tăng mật độ cho dưa kim, vì thông thường trồng vào phần mé luống thì mật độ chỉ đạt 420-450 cây/sào. Lên luống cao ở giữa (chỗ vị trí đặt cây) có tác dụng làm cho gốc cây sau này không bị thối hỏng do bị đọng nước sau mưa, vì vốn dĩ dưa kim có bộ rễ, thân gốc yếu hơn các loại dưa khác.

Cách định số nhánh, số lá/cây và định hướng bò cho dưa: Vì trồng ở giữa luống với mật độ dày hơn thông thường và để ngọn dưa bò sang hai bên như đan nên bà con không để nhánh dưa bò dài như truyền thống. Mỗi cây chỉ để 15-17 lá/thân chính và để thêm 3 chèo, mỗi chèo 1-2 lá. Tổng số lá/cây sẽ có khoảng 21-22 lá. Trên một gốc dưa thường chỉ để 1 thân.

Hai dây dưa liền nhau cho bò ngược chiều về hai phía (so le) để cây phủ kín luống và dây dưa không bị chồng chéo nhau. Hướng ngọn về hai bên giúp việc tuyển quả sau này được dễ dàng. Số quả/luống sẽ nằm dàn đều về hai phía chứ không cùng một hàng như phương pháp truyền thống. Quả nọ không tiếp giáp quả kia nên đầy đủ ánh sáng và to đều, dựng quả thuận lợi, màu quả đẹp hơn…

Nông dân Dương Văn Hùng cho biết: Ngay từ những vụ đầu tiên chuyển từ trồng dưa hấu sang dưa kim, nông dân nơi đây cũng làm luống, đặt cây giống như trồng dưa hấu. Song dưa kim được lai tạo và cùng dòng với dưa lê nên thân chính không cần bò dài. Vì vậy nhiều người đã mày mò trồng thử ra giữa luống như trồng dưa lê nhưng không làm luống cao giữa.

Quả dưa kim.

Việc định nhánh, định số lá/cây và hướng ngọn bò cho dưa kim cũng không được “nghệ thuật” như bây giờ. Sau khi gặp một số bất lợi (dưa hay bị thối gốc sau mưa, số lá um tùm làm quả không đẹp, không to, dây dưa chồng chéo khiến sâu bệnh gây hại nhiều…), bà con đã rút được ra kinh nghiệm và dần khắc phục được thông qua các biện pháp kĩ thuật đã làm như trên.

Với thân dưa để bò từ giữa luống ra 2 bên sẽ hạn chế về chiều dài hơn so với trồng vào một mé luống. Vậy việc tuyển quả sẽ như thế nào? Quả dưa sẽ phải lấy gần gốc hơn, vậy có đạt tiêu chuẩn?

Anh Hải, một đại lý chuyên cung ứng vật tư cho nông dân giải thích: Khác với trồng một mé, khi trồng ở giữa luống đòi hỏi vị trí tuyển quả sẽ phải gần gốc hơn. Nông dân lấy quả từ lá thứ 5-8 (khác trồng thông thường lấy quả từ lá 8-10). Song với cách để 3 chèo, mỗi chèo từ 1-2 lá nữa tổng số lá trên một cây đủ để quang hợp và nuôi quả để quả to, mã đẹp. Cuối vụ dưa vẫn phủ kín hết bề mặt luống là đủ để quả phát triển thuận lợi và chín ngọt.

Cách làm luống, trồng dưa kim của nông dân Tân Hưng giúp năng suất đạt cao nhất so với các vùng trồng dưa khác, chất lượng quả cũng luôn cao. Vụ thu đông vừa qua nhiều hộ đã thu lãi trên 100 triệu/mẫu. Vì thế cây dưa kim đã khẳng định vị thế trên “quê hương thuốc lào”.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi FarmTech VietNam.

Cách trồng và chăm sóc cây bưởi Diễn

Khi có dịp ghé qua Từ Liêm Hà Nội bạn không thể không nếm thử loại đặc sản bưởi Diễn nơi đây. Hương vị thơm ngon thanh mát cùng mùi hương thơm dễ chịu khiến ai ăn thử một lần đều không thể quên được.

Bưởi Diễn là giống cây bưởi có nguồn gốc từ loại bưởi Đoan Hùng-Phú Thọ đã được người dân mang về trồng tại xã Phú Diễn – Từ Liêm – Hà Nội. Do hợp với thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây mà loại cây này ra trái rất nhiều và có vị ngon đặc biệt hơn hẳn bất cứ nơi đâu. Thời xưa đây được coi là loại cống phẩm thượng hạng để tiến vua. Cho đến nay mỗi dịp tết đến hầu như trên bàn thờ nhà ai cũng có một quả bưởi Diễn để cúng tổ tiên.

Đặc điểm của giống bưởi Diễn

Không chỉ hấp dẫn bởi lớp vỏ mỏng vàng ươm. Những tép bưởi bên trong mọng nước và khi ăn có vị ngọt thanh mát rất đặc trưng. Điểm đặc biệt phải kể đến về giống bưởi này là hương thơm của chúng lan tỏa ra khiến ai gửi đều dễ chịu và thoải mái. Chỉ cần trong nhà bạn có 2 quả bưởi diễm xếp góc nhà thôi là cả căn phòng sẽ tràn ngập mùi bưởi.

Quả bưởi Diễn tròn cầm chắc tay và da bưởi trơn

Bưởi Diễn chính hiệu thường có trái vừa không quá to. Qủa tròn khi cầm chắc tay và da bưởi trơn không sần. Trung bình một quả khi chín nặng từ 0,8-1kg. Múi bưởi Diễn dễ tách rời, mọng nước và có tỷ lệ dinh dưỡng khá cao.

Về kinh tế thì đây là giống bưởi cho năng suất kinh tế cao. Một vụ 1 cây cho thu hoạch từ 60-70 quả. Chất lượng quả cao và ổn định không thấy thường như những giống khác.

Cách trồng và nhân giống bưởi Diễn

Chọn lựa giống : để cho ra được được những cây giống khỏe mạnh cho năng suất cao thì khâu chọn lựa cây giống là rất cần thiết. Cần chọn cây con giống tại những nơi uy tín để đảm bảo chất lượng giống tốt nhất đem trồng. Cây giống tốt cần là những cây con to khỏe cao trên 30cm trở lên. Bộ rễ phát triển và không có mầm bệnh.

Chọn cây giống chất lượng tốt

Đất trồng bưởi Diễn

Loại đất thích hợp để trồng bưởi Diễn là đất cát pha giàu dinh dưỡng và tơi xốp. Độ pH phù hợp từ 5,5-6,5. Đất trồng cần cao ráo sạch sẽ và nên ở những nơi không quá nhiều gió vì sẽ làm quả bị rụng.

Mật độ trồng bưởi Diễn

Tùy theo từng điều kiện Diện tích à điều chỉnh mật độ trồng bưởi Diễn phù hợp. Khoảng cách trung bình từ 3 đến 3,5m là thích hợp để cây phát triển.

Chuẩn bị hố trồng bưởi Diễn

Bạn cần chuẩn bị hố trồng trước 1 tháng. Cần đào hố và bón lót xuống đáy một lượng phân bón rồi lấp đất trên mặt cao so với hố 15cm. Sau giai đoạn này 1 tháng ta tiến hành trồng cây giống. Vét một hố nhỏ bằng bầu đất rồi đặt bầu vào rồi nén chặt phần gốc cây. Bạn có thể cắm thêm cọc giữ cho cây không bị đổ hay nghiêng gây chết cây.

Tưới nước để cây phát triển tốt

Chăm sóc sau khi trồng

Sau khi trồng xong cây con giống bạn tiến hành tưới nước ngay cho cây. Tưới vào sát gốc ngày 1 lần cho đến khi cây bén rễ vào đất mới sau đó giảm dần 3 ngày tưới nước 1 lần.

Cắt tia cành và tạo tán bưởi Diễn

Trong khâu chăm sóc cây bưởi Diễn thì khâu cắt tỉa và tạo tán cho cay cũng khá quan trọng. Việc cắt tỉa cành tạo tán cho cây định kì sẽ giúp cây thông thoáng hơn. Bạn tỉa bỏ các cành bị sâu bệnh, cành héo giữ lại những cành khỏe mạnh và thường xuyên vun xới cỏ dại xung quanh gốc cây giúp đất thông thoáng hơn.

Bón phân cho cây

Cây bưởi Diễn muốn phát triển tốt và cho năng suất trái cao thì bạn cần định kì bón phân giúp cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây phát triển lá và trổ hoa tạo quả. Nếu như trước khi trồng bạn đã bón lót vào đất trồng cây thì giai đoạn ra hoa tạo quả và sau thu hoạch lứa đầu tiên bạn cần bón thêm cho cây một lượng phân chuồng hoai mục và NPK theo tỷ lệ 10:3.

Phòng trừ sâu bệnh cho cây bưởi Diễn

Nếu muốn cây khỏe mạnh phát triển tốt thì việc phòng ngừa sâu bệnh hại là điều tối quan trọng trong khâu chăm sóc. Bằng việc thường xuyên kiểm tra cây bưởi Diễn để kịp thời phát hiện những dấu hiệu sâu bệnh hại ngay thời gian đầu.

Nếu phát hiện sâu bệnh hại bạn có thể loại bỏ bằng tay, cắt tỉa những cành bị sâu bệnh tấn công hoặc có thể sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học, thuốc hoá học ít độc để phun cho cây.

Bón phân và trừ sâu định kì để cây bưởi phát triển tốt

Thu hoạch và bảo quản

Với việc trồng đúng kĩ thuật bạn sẽ thu hoạch được những loại quả bưởi Diễn chất lượng cao, mọng nước. Nhớ thu hái quả vào lúc trời râm mát, khô ráo. Bảo quản trong nơi râm mát để quả giữ được độ tươi ngon. Sau khi thu hoạch xong bạn vệ sinh xung quanh gốc cây, cắt tỉa đi những cành già, héo và cành sâu bệnh và tiếp tục chăm sóc như ban đầu.

 

 

 

 

 

Những lưu ý khi trồng mít Thái ở miền Nam

Mít Thái siêu sớm là giống mít mới xuất hiện những năm gần đây, là giống cây dễ trồng, ít công chăm sóc, không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, đậu trái quanh năm.

Đặc điểm nổi bật của cây mít Thái là cho thu hoạch rất nhanh. Từ lúc trồng đến lúc cho thu hoạch lứa đầu tiên chỉ mất khoảng 12-15 tháng. Cây đậu trái quanh năm nhất là vào mùa hè. Trái mít khi chín có trọng lượng từ 10-15 kg, bên trong có múi khá to và mọng, ăn thơm ngọt đậm. Bên cạnh đó, mít Thái giàu chất dinh dưỡng như vitamin A, C, canxi, sắt, kali, ma-giê và nhiều dinh dưỡng khác, do đó rất có lợi cho sức khỏe người dùng. Tuy mít Thái dễ trồng nhưng để trồng thành công cây mít Thái, cần lưu ý một số kỹ thuật sau:

1. Chọn giống

Không nên nhân giống bằng hạt vì bị lai giống và cây lâu cho trái. Nên sử dụng cây ghép có đường kính gốc ghép từ 1 – 1,5 cm, cành ghép cao 20 – 30 cm (kể từ vết ghép), cây khỏe mạnh, sạch bệnh nhưng phải là dòng F1 thuần chủng thì mới đảm bảo về năng suất và chất lượng. Nên chọn cây có bộ rễ phát triển mạnh; lá đang giai đoạn già; vết ghép tiếp hợp tốt.

2. Thời vụ và khoảng cách trồng:

– Thời vụ trồng: để cây sinh trưởng và phát triển có hiệu quả nhất, nên trồng vào đầu mùa mưa, nghĩa là từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch.

– Khoảng cách trồng: trước khi trồng mít Thái cần làm đất và đắp mô cao từ 50 – 70 cm. Sau đó trồng cây lên mô đất. Do mít Thái có khả năng cho trái sớm nên có thể trồng theo mật độ dày, khoảng 3,5m x 3,5 m hoặc 4 m x 4 m. Sau khi thu hoạch mít từ 5 – 7 năm, có thể loại bỏ cây ở giữa, đảm bảo mật độ giữa các cây mít luôn thông thoáng, giúp cây phát triển và đậu trái tốt hơn.

3. Trồng và chăm sóc:

– Cách trồng: Móc lỗ sâu và to hơn bầu cây đôi chút. Dùng dao, kéo cắt đáy bầu và cắt bỏ đuôi chuột (rễ cọc) bị xoắn lại. Đặt bầu vào lỗ đã móc sẵn và rút nhẹ túi đựng bầu ra bỏ và lấp đất lại, không làm vỡ bầu, đứt rễ. Nếu đất khô phải tưới cho cây ngay, dùng rơm, rạ, cỏ rác… đậy xung quanh bầu để giữ ẩm. Cây cao, ốm yếu dùng cọc cắm cố định cho cây khỏi ngã đổ.

– Tưới nước: Tháng đầu sau khi trồng, nếu khô hạn phải tưới thường xuyên 2-3 ngày/lần. Sau đó, có thể tưới 4-5 ngày/lần. Từ năm thứ hai về sau, tưới cho cây vào giai đoạn mới bón phân và những tháng quá khô hạn. Mít Thái rất sợ úng nên vào mùa mưa lũ, phải kiểm tra kênh mương cống rãnh và có kế hoạch chống úng.

– Bón phân:

+ Đối với cây 1 năm tuổi: mỗi tháng bón phân một lần bằng nước phân chuồng hoai pha tỷ lệ 1: 3 (tức 1 phần phân : 3 phần nước), tưới 10 – 15 lít/cây hoặc đạm urê 1% để tưới.

+ Cây 2 – 3 năm tuổi: mỗi cây nên bón 1,5 kg vôi bột, 30 – 50 kg phân chuồng hoai; 0,5 kg urê; 0,5 – 1 kg lân; 0,3 – 0,5 kg kali. Chia làm 4 lần để bón: sau khi thu hoạch, bắt đầu ra hoa, sau khi đậu trái 1 tháng, sau khi đậu trái 2,5 tháng.

+ Cây từ 4 năm tuổi trở lên: lượng phân tăng so với năm trước 0,5 – 1,0 kg/cây. Trong thời gian trái đạt trọng lượng tối đa sử dụng phân bón gốc Kali sulphate (K2SO4), bón mỗi gốc 400-500 g giúp trái chín tập trung, màu thịt trái vàng hơn, mùi vị thơm ngon hơn.

+ Cách bón: Xới rãnh xung quanh theo đường kính tán cây, rắc phân rồi lấp đất, tưới ẩm. Bón càng nhiều phân chuồng hoai thì mít Thái càng sai và chất lượng trái càng ngon.

4. Tỉa cành, tỉa trái:

– Tỉa cành: Tỉa những cành sâu bệnh để cây thông thoáng nhằm tăng năng suất và mang tính thẩm mỹ. Tiến hành tỉa cành khi cây cao khoảng 1 m trở lên, cây còn nhỏ tỉa cành tạo tán 2-3 lần/năm. Cây lớn mỗi năm một lần khi thu hoạch trái xong. Cách tỉa cành mít như sau:

+ Cắt bỏ các cành gần sát mặt đất (từ 40 cm trở xuống).

+ Tỉa bỏ bớt các cành cấp 2, cấp 3… cho cây vừa đẹp vừa thoáng.

+ Giữ lại cành cấp 1 cách gốc khoảng 40 cm trở lên, chọn các cành mọc theo các hướng khác nhau, cành trên cách cành dưới khoảng 40 – 50 cm, tạo thành tầng không quá 5 cành cấp 1.

– Tỉa trái: Tỉa bớt trái xấu, trái sâu bệnh, trái nhỏ và cả những trái bình thường cho mật độ trái phù hợp với từng cây.

+ Khi cây 1 năm tuổi: nên tỉa bỏ chỉ chừa một trái/lứa.

+ Năm thứ hai: để 2 trái/lứa, thu hoạch được 4 trái/năm.

+ Năm thứ ba: để 3 trái/lứa, một năm 2 lứa, sẽ được 6 trái và như thế tăng số trái/cây theo từng năm tuổi.

5. Phòng trừ sâu, bệnh hại mít Thái:

5.1. Bệnh hại:

a. Bệnh thối nhũn

– Cây con ở vườn ươm có độ ẩm cao, quá rậm rạp dễ bị bệnh và bệnh lây lan rất nhanh. Bệnh có thể do nấm Rhizoctonia solani, Sclerotium, Pythium gây nên.

– Trên thân gốc và bề mặt vật liệu nuôi cây có nhiều hạch nấm tròn to, nhỏ dầy đặc và lây lan nhanh. Bệnh làm teo gốc, thân lá có đoạn tươi xanh và phần non chết gục như bị luộc trong nước nóng.

– Phòng bệnh: Sử dụng phân hoai mục. Tạo thông thoáng, khô ráo và thoát nước tốt. Xử lý nguyên vật liệu trong vườn ươm bằng các loại thuốc có chứa các hoạt chất như Iprodione (Rovral), Metalaxyl + Mancozeb (Ridomyl Gold 68WG),…

– Trị bệnh bằng các loại thuốc có chứa các hoạt chất: Cyproconazole (Bonanza 100 DD), Difenoconazole (Score 250 EC, Tilt 250 ND).

b. Bệnh thối gốc chảy nhựa

– Bệnh xảy ra trên các vườn mít quá ẩm ướt và có nhiều loại sâu hại chích hút nhựa cây, gây những vết thương và là cơ hội tốt cho nấm Phytopthora xâm nhập.

– Bệnh thể hiện ở vùng gốc có nhiều vết loét, nước dịch từ bên trong chảy rỉ ra, vỏ vùng gốc bị thối từng mảng to, bề mặt lớp gỗ ẩm ướt và thâm đen. Lá vàng, rụng và cây chết. Thường khi phát hiện được thì bệnh ở tình trạng nặng, khó chữa trị.

– Cách phòng hữu hiệu nhất là trồng cây trên đất cao ráo, thoát nước tốt. Bảo vệ các thiên địch để hạn chế mật độ sâu rầy gây hại, khi cần thiết dùng các loại thuốc hóa học có chứa các hoạt chất để phun xịt như Metalaxyl + Mancozeb (Ridomyl Gold 68WG), Fosetyl Aluminium (Aliette 800WG).

5.2. Sâu hại:

a. Sâu đục thân, đục cành

Thành trùng đẻ trứng trên lá non, trái non sau đó đục vào thân cành. Xịt thuốc trừ sâu có các hoạt chất sau vào giai đoạn ra lá non, trái non như Chlorantraniliprole + Thiamethoxam (Vitako 40WG); Abamectin (Nouvo 3.6 EC).

b. Ruồi đục trái (loài dacus sp)

Đẻ trứng vào trái già, gây thối nhũn trái. Nên dùng chất dẫn dụ sinh học để diệt ruồi đực. Bao bọc trái hay xịt thuốc có các hoạt chất diệt ruồi như Etofenprox (Trebon 10 ND), Deltamethrin (Decis 2.5 EC),…

Mít được bao trái

c. Sâu đục trái

Gây hại nặng trên mít làm giảm chất lượng và sản lượng. Thường ở các phần tiếp giáp các trái hay giữa trái tiếp giáp với thân, bị gây hại nặng nhất. Trái có thể bị hư hỏng hay bị rụng sớm. Không nên dùng biện pháp xử lý thuốc hóa học mà dùng biện pháp sinh học để phòng trừ sự gây hại hay bao trái vào cuối giai đoạn trái rụng sinh lý.

d. Rầy, rệp

Có rất nhiều loài gây hại trên mít, chúng chích hút nhựa lá non, đọt non, trái làm lá quăn queo, cây chậm lớn, trái dị hình và kèm theo là nấm đốm bồ hóng tấn công làm giảm khả năng quang hợp của cây và trái không đẹp. Khi trồng ở nơi cao ráo thường bị rệp sáp tấn công ở phần gốc và rễ. Dùng các loại thuốc hóa học có các hoạt chất sau đây để trị rầy rệp khi điều tra có mật số cao: Fenobucarb (Bassan 50 EC), Methidathion (Supracide 40 EC),…

5.3. Phòng ngừa hiện tượng xơ đen:

Giống cây mít Thái Lan thường bị xơ đen, da không bóng, hình dạng bên ngoài vẫn phát triển bình thường. Trên cùng một cây có thể có trái bệnh, trái không bệnh. Nguyên nhân có thể do thiếu canxi – do mưa quá nhiều khiến canxi trong đất bị hao hụt. Do đó, trước khi cây ra hoa và trong thời gian ra hoa, cần bổ sung canxi cho mít. Loại canxi tốt nhất là canxi lỏng, phun lá và tưới gốc giai đoạn mít ra nụ và cứ định kỳ 2 tháng phun lại 1 lần đến khi thu hoạch.

6. Thu hoạch:

Thu trái chín khi đã thơm, từ 90 – 120 ngày sau khi trổ hoa. Trái mít già, các gai nở căng, chuyển từ màu xanh sang màu xanh vàng hoặc nâu nhạt, mủ lỏng và trong, vỗ kêu bồm bộp. Mít Thái tự chín ở nhiệt độ bình thường, trái mít có thể để lâu trong 6 tuần ở nhiệt độ 11 – 130C, nếu điều kiện bình thường thì để được 7 – 10 ngày.

Tổng hợp và duyệt bởi Farmtech Việt Nam

Xoài Việt Nam ngon, ngọt không thua kém gì xoài Nhật.

Ông Nguyễn Trung Dũng, Tham tán công sứ Việt Nam tại Nhật Bản cho biết , thanh long ruột trắng và xoài cát chu đã mở đường cho hoa quả Việt Nam vào thị trường khó tính.

Xoài Việt ngon, ngọt không thua kém gì xoài Nhật.

Chiều 7/11, lô xoài tươi cát chu ( Đồng Tháp) 3,5 tấn đầu tiên đã được giới thiệu tại trung tâm thương mại AEON ( tỉnh Chiba, Nhật Bản ). Dự kiến từ nay đến Tết Dương Lịch, 80 tấn xoài sẽ được nhập khẩu tại thị trường này, theo đường biển,  hàng không.

Trong niềm vui với thành quả sau 4 năm theo đuổi và đàm phán thương vụ này, ông Nguyễn Trung Dũng đã có những chia sẻ.

Tôi rất vui. Vậy là sau gần 4 năm đàm phán, đại diện của cơ quan quản lý Nhà nước, cùng với sự chuẩn bị và hoàn thiện của nhà nông cũng như doanh nghiệp, chúng ta đã đưa được xoài tươi Việt vào thị trường Nhật.

Trung tâm thương mại AEON, tỉnh Chiba ( Nhật Bản) , nơi xoài của ta được tiêu thụ, mỗi ngày đón trung bình 50.000 khách. Quầy hàng xoài cát chu Việt Nam trong sự kiện giới thiệu sản phẩm đông nghịt khách.

Với quan sát và cảm nhận của tôi, không chỉ có người Nhật, mà ngay cả chính người Việt Nam tại đây, khi ăn thử, cũng tỏ ra rất ngạc nhiên vì chất lượng đồng đều, độ ngon ngọt , màu sắc đẹp của sản phẩm quê nhà. Tôi thật sự vui khi nhìn thấy điều đó.

Xoài tươi cát chu của Việt Nam được đón nhận tại hệ thống siêu thị AEON, Nhật Bản.

Xoài chu Việt Nam.

Chúng ta phải dành tới 4 năm để đi qua tất cả các khâu của quy trình từ kiểm tra, khảo sát vùng trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản tới khi hoàn tất đàm phán, đạt được thỏa thuận và vận chuyển tới thị trường Nhật.

Nói về công tác bảo quản xoài, chúng ta đã thành công trong việc quản lý xử khuẩn bằng hơi nước nóng. Đây là công nghệ chuyển giao của Nhật Bản, giúp thanh long ruột trắng trước đó, và nay là xoài vượt qua rào cản cuối để vào thị trường thành công.

Riêng về vận chuyển, trong đợt hàng đầu tiên, để đảm bảo chất lượng xoài tươi đáp ứng thị trường vào thời điểm ngon nhất, chúng ta phải chấp nhận đi đường hàng không. Chi phí vận chuyển này khá tốn kém. Trong thời gian tới, bằng cách tính toán thời gian hợp lý, ngoài đường hàng không, xoài có thể đi cả bằng đường biển.

Xoài là loại trái cây được yêu thích ở Nhật. Người Nhật cũng có xoài do chính họ trồng, đã có thương hiệu từ lâu. Tuy nhiên, xét về chất lượng, tôi đã trải nghiệm và thấy xoài của ta về độ ngon, ngọt, thơm và màu sắc không hề thua kém. Chưa kể giá loại quả này của Nhật bán tại các siêu thị cao hơn rất nhiều.

Thực tế, cuối tháng chín ,Việt Nam và Nhật Bản thông qua về nguyên tắc. Sau đó chỉ hơn một tháng, xoài Việt Nam chính thức lên kệ siêu thị Nhật.

Với tiến độ như vậy, đồng thời, bằng sự kiện Việt Nam gia nhập TPP, rất nhiều dòng thuế được giảm ngay sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy ngành nông, lâm, thủy sản nói chung, trái cây Việt Nam nói riêng có nhiều hơn cơ hội vào thị trường Nhật.

Nguồn: nongnghiepvietnam.edu.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Cả ngành rau quả Việt Nam xuất khẩu thua trái kiwi của New Zealand

Trong 10 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt khoảng 3,3 tỉ USD. So với cùng kỳ năm 2017, xuất khẩu rau quả Việt Nam tăng khoảng 15,4 %.

Theo Hiệp hội rau quả Việt Nam (Vinafruits), 10 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt khoảng 3,3 tỉ USD (tháng 10 ước đạt 330 triệu USD). So với cùng kỳ năm 2017, xuất khẩu rau quả Việt Nam tăng khoảng 15,4 %. Như vậy, tốc độ xuất khẩu của rau quả Việt Nam đang có dấu hiệu chậm lại khi các năm trước đây thường tăng khoảng 30-40% so với cùng kỳ.

Theo Vinafruits, so với các mặt hàng nông sản khác, tỉ lệ tăng trưởng trên 15% vẫn còn khá cao. Tốc độ tăng đang có sự suy giảm là do giá trị mặt hàng này đã khá lớn (trên 3 tỉ USD) nên không thể giữ ở mức tăng trưởng cao mãi như khi giá trị còn thấp.

Xét về giá trị xuất khẩu, so với cùng kỳ đã tăng tới gần 500 triệu USD, tức gần 50 triệu USD mỗi tháng. Để có thể tăng trưởng nhanh hơn nữa, các doanh nghiệp cần chuẩn bị rất lớn cho tiếp thị mở rộng thị trường, lên kế hoạch mở rộng vùng sản xuất để cung cấp nguyên liệu.

Ông Nguyễn Đình Tùng, Giám đốc Công ty Vina T&T, cho biết dư địa cho xuất khẩu của trái cây Việt Nam còn rất lớn, quan trọng cần có chiến lược phát triển ở tầm quốc gia và định hướng của các doanh nghiệp trong nước.

Nhìn vào kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn chủ yếu là xuất khẩu sang Trung Quốc với trên 70%, 9 thị trường cao cấp tiếp theo chiếm khoảng 15%. Nếu các doanh nghiệp tập trung làm hàng chất lượng cao cho Mỹ, Eu, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc,… thì giá trị sẽ tăng lên nhiều.

Sơ chế xoài xuất khẩu sang Nhật Bản

Còn theo ông Mai Xuân Thìn, CEO của Red Dragon, năm 2017 chỉ một trái kiwi của New Zealand đã có giá trị xuất khẩu 3,5 tỉ USD, bằng xuất khẩu của cả ngành rau quả Việt Nam. Trong 4 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu rau quả Việt Nam tăng khoảng 20-30% thì trái kiwi của New Zealand đã tăng trên 89%. Như vậy, trái kiwi đã bứt phá lên trên và nếu giữ tốc độ trên, năm nay loại trái cây này sẽ vượt cả ngành rau của Việt Nam về giá trị xuất khẩu một khoảng cách không nhỏ.

Xuất khẩu rau quả trong 9 tháng đầu năm 2018

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam

Nông dân Tiền Giang trúng đậm mùa mít Thái siêu sớm

Giá trái mít ở tỉnh Tiền Giang tăng ở mức kỷ lục, nông dân trúng đậm.

Tại thời điểm này, giá mít Thái siêu sớm dao động từ 55.000 -70.000 đồng/kg, tăng gần 2 lần so cùng kỳ năm ngoái. Với mức giá này,  mỗi năm, nhà vườn trồng mít có thu nhập hơn 1 tỷ đồng/ha. Trái mít tăng giá là do thị trường xuất khẩu hút hàng; trong khi đó vào mùa nước nổi, sản lượng trái mít giảm nên “cầu vượt cung”.

Nhà vườn huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang tích cực chăm sóc vườn mít đang cho lãi cao.

Toàn tỉnh Tiền Giang có khoảng 3.000 ha cây mít, trồng tập trung ở các huyện vùng lũ như: Cái Bè, Cai Lậy, Thị xã Cai Lậy, và huyện Tân Phước. Hiện nay, nhà vườn các địa phương này rất phấn khởi, đang tập trung gia cố đê bao chống lũ và triều cường, bảo vệ vườn mít.

Trái mít Thái Siêu sớm giá ở mức cao.

Ông Nguyễn Văn Chiến, nhà vườn ở xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cho biết, mít năm nay giá cao kỷ lục. Thương lái mua tại vườn với giá 70.000 đồng/kg, còn mít loại 2 giá 55.000 đồng/kg. Mít siêu sớm có giá cao nhất và rất dễ trồng.

Nguồn: Tổng hợp, duyệt bởi Farmtech Vietnam