Nguyên nhân và cách khắc phục cây cà phê ra hoa sớm

So với khoảng 10 năm về trước thì hiện nay thời tiết, khí hậu có nhiều thay đổi theo chiều hướng bất thuận đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cà phê nói riêng. Sự thay đổi quy luật phân bố mưa ở Tây Nguyên là một trong những nguyên nhân chính làm cho cây cà phê ra hoa sớm…

Một số nguyên nhân làm cho cây cà phê ra hoa sớm ở Tây Nguyên

Tác động của biến đổi khí hậu

Sự thay đổi nhiệt độ không khí theo chiều hướng tăng dần làm cho cây cà phê dễ ra hoa sớm. So với khoảng 10 năm về trước thì hiện nay thời tiết, khí hậu có nhiều thay đổi theo chiều hướng bất thuận đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất cà phê nói riêng. Nhiệt độ tăng trung bình từ 0,7 – 1oC làm tăng quá trình tích lũy hydratcacbon, do vậy làm tăng tỷ lệ C/N của cây cà phê, vì thế cây rất mẫn cảm với việc phân hóa mầm hoa khi gặp thời tiết nắng nóng và không mưa trong khoảng thời gian ngắn. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, vào mùa mưa, đặc biệt vào các tháng 7, 8, 9 chỉ cần có khoảng thời gian từ 7 – 15 ngày trời không có mưa và nhiệt độ cao khoảng 30 – 35oC thì cây cà phê có thể tiến hành phân hóa mầm hoa, tăng trưởng mầm hoa và hình thành nụ hoa và khi gặp những cơn mưa trở lại (khoảng từ 3 mm trở lên) thì hoa cà phê sẽ nở. Tuy nhiên, trừ trường hợp đặc biệt, tỷ lệ hoa nở vào những thời điểm này là không cao, chỉ từ 2 – 8% tổng số hoa của cây cà phê để cho vụ thu hoạch tới.

Quy luật phân bố mưa trong mùa mưa thay đổi làm ảnh hưởng đến ra hoa sớm của cây cà phê. Có sự thay đổi về lượng mưa và tần suất mưa trong mùa mưa ở Tây Nguyên thời gian gần đây. Tần suất mưa có xu hướng giảm và thay vào đó là lượng mưa của những cơn mưa lại có xu hướng tăng cao làm tăng nguy cơ xói mòn đất, giảm hệ số sử dụng phân bón, do vậy làm tăng khả năng tích lũy hydrat cacbon nên cây cà phê rất dễ phân hóa mầm hoa khi gặp nắng nóng, khô hạn nhất thời. Hiện tượng khô hạn trong mùa mưa với thời gian từ 10 – 30 ngày đã từng xảy ra làm cho cây cà phê phân hóa mầm hoa sớm và hoa sẽ nở khi gặp mưa. Trong mùa mưa nếu gặp 2 đợt hạn (không mưa) thì cây cà phê cũng có khả năng phân hóa mầm hoa, nở hoa và đậu quả 2 lần gây khó khăn cho công tác quản lý kỹ thuật cũng như quản lý thu hoạch sản phẩm sau này. Ngoài ra, khi hoa nở với tỷ lệ cao vào cuối mùa mưa thì cần phải tưới đuổi để đảm bảo năng suất không bị sụt giảm.

Hoặc bắt đầu mùa khô lại có những cơn mưa nhỏ cũng làm cho hiện tượng ra hoa không đồng loạt xảy ra. Đối với các đoạn cành đã phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa thì hoa sẽ nở; ngoài ra còn có một tỷ lệ cành cà phê chưa kịp phân hóa mầm hoa và hình thành chồi hoa nên sẽ tiếp tục phát triển nếu có điều kiện khô hạn tiếp tục xảy ra. Điều kiện thời tiết năm 2016 và những tháng đầu năm 2017 là những ví dụ điển hình của sự thay đổi về phân bố mưa ở Tây Nguyên.

Tuổi cà phê có ảnh hưởng đến khả năng ra hoa sớm của cây

Tuổi cà phê càng già thì quá trình tích lũy C/N càng cao và do vậy cây rất dễ phân hóa mầm hoa trong điều kiện nhiệt độ cao và có thời gian khô hạn ngắn so với cà phê trẻ đang sung sức.
Như vậy trong điều kiện thời tiết khí hậu như hiện nay, các vườn cà phê già cỗi dễ xảy ra tình trạng ra hoa sớm hơn so với các vườn cà phê đầu thời kỳ kinh doanh.

Ảnh hưởng của quá trình canh tác có liên quan đến tình trạng ra hoa sớm của cây cà phê

Trồng cà phê không có cây che bóng có ảnh hưởng đến hiện tượng ra hoa sớm
– Trồng cà phê không có cây che bóng đã làm tăng cường độ chiếu sáng, quá trình chuyển hóa hydrat cacbon diễn ra mạnh mẽ (C/N cao) nên cây rất dễ phân hóa mầm hoa khi gặp thời tiết khô hạn trong mùa mưa và nở hoa khi gặp cơn mưa với lượng mưa từ trên 3 mm. Trường hợp lượng mưa thấp (< 20 mm) thì cần phải tưới đuổi để đảm bảo duy trì năng suất thu hoạch. Do trồng trần nên thường tỷ lệ ra hoa sớm cũng thường khá cao, có khi lên đến 30% tổng lượng hoa cà phê. Điều này làm ảnh hưởng đến công tác quản lý kỹ thuật cũng như quản lý thu hoạch sản phẩm.
– Các kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng vườn cà phê có trồng cây che bóng với mật độ thích hợp có tác dụng điều hòa tiểu khí hậu trong vườn, đồng thời cũng hạn chế quá trình chuyển hóa hydrat cacbon nên tỷ lệ C/N không cao giúp cây cà phê tăng cường sức đề kháng đối với quá trình sốc nhiệt tạm thời (nắng nóng và không mưa trong thời gian ngắn). Vì vậy cây cà phê không thể phân hóa mầm hoa sớm trong mùa mưa. Từ đó giúp cho cà phê ra hoa tập trung hơn khi có điều kiện thời tiết, khí hậu thích hợp (nắng nóng và không mưa kéo dài từ 1 đến 2 tháng).

Bón phân mất cân đối có ảnh hưởng đến hiện tượng ra hoa sớm
Bón phân mất cân đối làm cho cây cà phê sinh trưởng và phát triển bị hạn chế cũng làm tỷ tỷ lệ C/N trong cây và do vậy cây dễ mẫn cảm với tình trạng sốc nhiệt và không mưa mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn, cây cà phê phân hóa mầm hoa và nở hoa khi có mưa trở lại trong mùa mưa. Thực tế trong sản xuất rất dễ nhận thấy rằng các vườn cà phê sinh trưởng kém, cây còi cọc thường hay ra hoa sớm trong mùa mưa so với các vườn cà phê được bón phân hợp lý, cân đối cây sinh trưởng khỏe, xanh tốt.

Cắt cành không kịp thời và không đúng kỹ thuật cũng làm cho cây cà phê ra hoa sớm
Thực tế hiện nay do việc cắt cành cà phê chưa đúng kỹ thuật, có rất nhiều cành có 3 đoạn cành với các giai đoạn sinh trưởng phát triển khác nhau, đó là đoạn cành đã thu hoạch (già cỗi), đoạn cành đang mang quả và đoạn cành sẽ cho quả vào vụ tới. Những đoạn cành này có tỷ lệ C/N rất cao; đặc biệt là trên các cành có đoạn cành mang quả nhiều, nên thường dễ phân hóa mầm hoa khi gặp cường độ chiếu sáng cao và không mưa chỉ một thời gian ngắn. Trong cùng một điều kiện nhiệt độ, thời gian chiếu sáng và thời gian không mưa như nhau thì các cành có 2 đoạn cành hay chỉ là cành dự trữ khỏe mạnh thì các loại cành này thường có thời gian phân hóa mầm hoa muộn hơn và đòi hỏi thời gian chiếu sáng dài hơn, thời gian khô hạn dài hơn.

Việc cắt cành cà phê muộn cũng làm cho cây cà phê tích lũy C/N với lượng cao, do vậy rất dễ phân hóa mầm hoa, ra hoa sớm khi có thời gian sốc nhiệt xảy ra, mặc dù chỉ khoảng 7 – 15 ngày.
Như vậy việc tỉa cành đúng kỹ thuật, đúng thời điểm cây cà phê sinh trưởng khỏe hơn có khả năng vượt qua các cơ sốc nhiệt xảy ra trong thời gian ngắn và chỉ phân hóa mầm hoa khi điều kiện khô hạn kéo dài thưởng xảy ra sau khi thu hoạch.

 Các nguyên nhân khác
Vườn cà phê bị sâu bệnh hại tấn công không phòng trừ kịp thời (bệnh vàng lá thối rễ, nứt thân, rệp sáp….), cây cà phê cong rễ thường có tỷ lệ C/N cao nên dễ bị phân hóa mầm hoa khi xảy ra sốc nhiệt do nắng và không mưa.
Tưới sớm khi cây cà phê phân hóa mầm hoa chưa đầy đủ, chồi hoa ít làm cho cây cà phê nở hoa rải rác (thực tế trên những đoạn cành có tỷ lệ C/N cao khi gặp khô hạn trong thời gian ngắn đã phân hóa mầm hoa và phát triển thành chồi hoa nếu không tưới thì các chồi hoa này vẫn ở dạng ngủ nghỉ và khi tưới thì số hoa này sẽ được nở; trong khi đó các đoạn cành khác sinh trưởng khỏe thì thời gian khô hạn ngắn nên chưa đủ điều kiện để phân hóa mầm hoa). Việc xác định thời điểm tưới đúng cho cà phê là hết sức cần thiết để đảm bảo cho cây ra hoa tập trung, nở hoa đồng đều, tỷ lệ đậu quả cao và đạt được năng suất cao. Thông thường, thời gian khô hạn cần để cây cà phê phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa từ 1 đến 2 tháng tùy điều kiện thời tiết, khí hậu.
Ngoài ra, các tác động cơ giới như xén rễ, tạo vết thương ở thân chính cũng làm cho cây hình thành tỷ lệ C/N cao nên cây cà phê cũng rất dễ ra hoa, đậu quả sớm trong mùa mưa nếu như có đợt hạn tức thời và cường độ chiếu sáng cao.

Giải pháp khắc phục tình trạng cà phê ra hoa sớm

Duy trì hệ cây che bóng, hoặc trồng bổ sung cây che bóng, cây trồng xen (bơ, sầu riêng) trong vườn cà phê
Trồng cây che bóng có tác dụng điều hòa tiểu khí hậu trong vườn cà phê, giảm ánh sáng trực xạ, giảm bốc thoát hơi nước của cây và của mặt đất nên ít chịu tác của hiện tượng sốc nhiệt khi gặp hạn hán tức thời. Ngoài ra, do tác dụng tích cực của hệ thống cây che bóng trong việc điều chỉnh tỷ lệ C/N ở mức thích hợp nên hiện tượng phân hóa mầm hoa sớm trong những giai đoạn hạn tức thời của mùa mưa thường ít xảy ra. Giải pháp Trồng cây che bóng tuy đơn giản, song có vai trò đặc biệt quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng xảy ra rõ ràng hơn. Trong mùa mưa, nếu có những đợt hạn ngắn, cà phê vẫn sinh trưởng bình thường do cường độ chiếu sáng tăng không đáng kể để cây cà phê có thể tăng tỷ lệ C/N; mặc khác cây che bóng có tác dụng tốt trong việc duy trì, kéo dài độ ẩm đất ở mức khá thích hợp nên không gây tình trạng sốc hạn để phân hóa mầm hoa sớm.
Tuy nhiên, nếu mật độ cây che bóng cao hơn 100 cây/ha thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất vườn cà phê do cây cà phê không nhận được ánh sáng đầy đủ để đảm bảo các quá trình sinh lý, sinh hóa diễn ra thuận lợi cho việc phân hóa mầm hoa khi mùa khô hạn xảy ra sau khi thu hoạch.

Bón phân cân đối, hợp lý
Bón phân hợp lý, cân đối giúp cây sinh trưởng khỏe góp phần trong việc điều chỉnh tỷ lệ C/N ở mức phù hợp trong mùa mưa nên có thể ít chịu ảnh hưởng của các đợt hạn ngắn, vì vậy hạn chế được hiện tượng ra hoa sớm.
Đối với vườn cà phê có cây che bóng với mật độ hợp lý, cùng với chế độ bón phân cân đối, hợp lý thì ảnh hưởng của các đợt hạn ngắn trong mùa mưa sẽ không làm cho cà phê phân hóa mầm hoa sớm. Khi có thời gian khô hạn kéo dài phù hợp thì cây cà phê sẽ phân hóa mầm hoa đồng loạt hơn và hoa sẽ nở tập trung khi được cung cấp nước đầy đủ.

Tạo hình, tỉa cành đúng kỹ thuật
Tạo hình, tỉa cành hợp lý, đúng kỹ thuật, đúng thời điểm giúp cây có bộ tán cân đối, hệ thống cành dự trữ khỏe mạnh sẽ giúp cây ít bị ảnh hưởng bởi các đợt hạn ngắn trong mùa mưa, vì vậy hạn chế được tình trạng ra hoa sớm. Khi có điều kiện thuận lợi (khô hạn dài từ 1 – 2 tháng) thì cà phê sẽ phân hóa mầm hoa đầy đủ, tập trung, khi tưới nước sẽ giúp hoa nở đồng loạt, có khi lên đến 80 – 90%.

Tưới nước đúng thời điểm
Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trong mùa mưa thường xuất hiện các đợt hạn ngắn nên có một tỷ lệ nhất định số đoạn cành già cỗi, cành mang nhiều quả có tỷ lệ C/N cao nên có thể xảy ra quá trình phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa. Trên vườn cà phê vẫn còn một tỷ lệ cành, đoạn cành còn đang sung sức, chưa có biểu hiện phân hóa mầm hoa do thời gian khô hạn chưa đủ dài. Nếu tưới vào giai đoạn này thì tỷ lệ nở hoa sẽ rất ít, rải rác và do đất đủ ẩm kéo dài nên dẫn đến việc kéo dài thời gian phân hóa mầm hoa hoặc sẽ không phân hóa mầm hoa được do sinh trưởng dinh dưỡng chiếm ưu thế. Trong trường hợp này, chúng ta đừng nôn nóng mà lợi dụng đặc tính sinh lý của cây cà phê là khi phân hóa mầm hoa thành chồi hoa, nếu thời tiết tiếp tục khô hạn thì chồi hoa bước vào thời kỳ ngủ nghỉ; trong khi đó số cành, đoạn cành còn lại tiếp tục phân hóa mầm hoa. Đợi đến khi hoa cà phê đạt được độ lớn nhất định (dài hoa từ 1 – 1,5 cm), có màu trắng ngà hoặc trắng sữa, lá héo vào ban ngày (độ ẩm đất khoảng 27%) thì tưới nước cho cà phê là đúng thời điểm; tỷ lệ hoa nở sẽ rất cao khoảng 80 – 90%, tập trung do vậy thuận lợi cho việc thu hoạch và chăm sóc sau này.

Tình huống cần tưới đuổi
Không phải trường hợp nào cũng phải tưới đuổi cho cà phê sau khi nở hoa mà lượng mưa chưa đảm bảo (< 20 mm). Các trường hợp nở hoa vào cuối và gần cuối mùa mưa với tỷ lệ hoa nở không cao, khoảng từ 1% đến 10% (do ảnh hưởng của hiện tượng sốc nhiệt tức thời, các đoạn cành cà phê già cỗi, tỷ lệ C/N cao phân hóa mầm hoa, hình thành chồi hoa và gặp mưa thì nở hoa).

Theo các kết quả nghiên cứu của WASI, trường hợp nở hoa sớm với tỷ lệ nở hoa không đáng kể (< 10%) thì không cần tưới đuổi. Nếu sau khi nở hoa, lượng nước cung cấp không đủ, quả sẽ bị rụng và tỷ lệ quả rụng này sẽ được bù đắp thông qua quá trình tự điều chỉnh sinh lý rụng quả của cây. Thông thường, tỷ lệ rụng quả sinh lý của cây cà phê lên đến 40 – 50%. Nếu số quả trên chùm, trên cây càng nhiều thì tỷ lệ rụng quả sinh lý càng cao, số quả ít hơn sẽ có tỷ lệ rụng sinh lý ít hơn. Các đợt hoa cà phê nở sớm vào giữa mùa mưa, thậm chí cuối mùa mưa có tỷ lệ thấp, không cần phải quan tâm. Nếu tưới đuổi thì phải tưới nhiều lần, do vậy có thể ảnh hưởng đến khả năng phân hóa mầm hoa của cây cà phê sau này do sinh trưởng dinh dưỡng chiếm ưu thế.
Việc tưới đuổi cần quan tâm khi đợt nở hoa sớm rơi vào cuối mùa mưa và sau thu hoạch với tỷ lệ hoa nở trên 10%. Lưu ý cần tưới với lượng nước vừa phải và chỉ tưới 1 lần để đảm bảo quá trình phân hóa mầm hoa tiếp tục diễn ra thuận lợi trong mùa khô hạn. Việc tưới đuổi nhiều lần càng dễ gây nên hiện tượng hoa nở rải rác, ảnh hưởng đến thu hoạch và năng suất. Ngoài ra việc tưới đuổi nhiều lần sẽ ảnh hưởng đến việc phân hóa mầm hoa của cây cà phê ở những năm sau và hiện tượng ra hoa sớm, nhiều đợt lại tiếp tục xảy ra.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng Cà Phê Vối (Robusta Coffee) công nghệ cao – Phần 1

Cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephora hoặc Coffea robusta) là cây quan trọng thứ hai trong các loài cà phê. Khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này.

Cây cà phê có nguồn gốc mọc trong rừng châu Phi, trên cao nguyên Kaffa của Ethiopia (ở độ cao 1370-1830 m). Từ đó cây cà phê được con người phát hiện và di canh đến các địa lục khác.

Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới là Việt Nam. Các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm Côte d’Ivoire, Uganda, Brasil, Ấn Độ.p

I. ĐẶC TÍNH THỰC VẬT HỌC

1. Rễ

Rễ cọc: Rễ có độ dài từ 0,3-0,5 m, mọc từ thân chính. Nhiệm vụ chính là dùng làm trục giữ thân tránh đỗ ngã.

Rễ nhánh: Là những rễ nhánh mọc ra từ rễ cọc, ăn sâu vào đất để hút nước. Rễ nhánh có thể ăn sâu xuống đất tới 1,2- 1,5 m.  Rễ nhánh càng ăn sâu, khả năng hút nước và chịu hạn càng tốt. Các rễ  bên mọc từ rễ nhánh phát triển ra xung quanh hành hệ thống rễ con.

Rễ con: Sự phát triển của rễ con phụ thuộc vào độ dày của tầng đất canh tác, giống cà phê, chế độ bón phân, tưới nước, canh tác. Hệ thống rễ này hầu hết tập trung ở tầng đất mặt (Từ 0-30 cm). Nhiệm vụ chủ yếu là hút chất dinh dưỡng và nuôi cây.

2. Thân cành:

Cây cà phê thân gỗ, nếu để cây phát triển tự do có thể cao tới hàng chục mét. Cành mọc từ thân chính gọi là cành cơ bản (cành cấp 1), cành mọc từ cành cấp 1 gọi là cành thứ cấp (cành cấp 2). Trong điều kiện chăm sóc tốt, các cành cơ bản của cây cà phê bắt đầu xuất hiện sau trồng 20 – 40 ngày.

3. Lá:

Đối với cà phê vối, lá có tuổi thọ từ 7 – 10 tháng. Các tác động về thời tiết hoặc chế độ dinh dưỡng không tốt có thể làm cho lá rụng sớm hơn. Cành và lá có tương quan chặt chẽ với năng suất cà phê. Các nghiên cứu chứng tỏ rằng lá, cành và thân cà phê là nơi dự trữ các nguồn dinh dưỡng để tạo hoa và nuôi dưỡng sự phát triển của quả. Lượng tinh bột hình thành trong quá trình quang hợp của lá sẽ được tích lũy trong lá và hệ thống mô của cây, nếu lượng này suy giảm sẽ dẫn đến hiện tượng rụng hoa, quả và cho hạt nhỏ, năng suất thấp. Đây chính là yếu tố cần quan tâm trong quá trình chăm sóc cây cà phê để đạt năng suất cao.

4 Hoa:

Hoa cà phê mọc ra ở các chồi nách lá của cành sơ cấp và cành thứ cấp. Hoa cà phê thường nở về đêm và nở hết khoảng 4-5 giờ sáng. Cà phê vối (Robusta) thụ phấn chéo(giao phấn) là chủ yếu, đặc tính này phụ thuộc rất nhiều vào gió và côn trùng, vì vậy việc nuôi ong mật trong vườn cây cà phê cũng là biện pháp tăng tỷ lệ đậu quả của cà phê. Cà phê vối không ra hoa lại ở những đoạn cành (hoặc nách lá) đã ra hoa năm trước.

5. Quả:

Sau khi thụ phấn, quả phát triển nhanh, thường quả cà phê có 1-2 nhân (tùy theo lượng nước tưới và chế độ dinh dưỡng). Thời gian sinh trưởng đối với quả cà phê vối thường từ 9-11 tháng (tuỳ theo điều kiện chăm sóc).

II. ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH:

1. Nhiệt độ: Cây cà phê vối sinh trưởng phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ từ 22 – 260 C.

2. Ánh sáng: cây cà phê vối thích hợp ánh sáng trực xạ yếu, do đó cần trồng cây che bóng để điều hòa ánh sáng cho vườn cây cà phê hợp lý đặc biệt là giai đoạn kiết thiết cơ bản.

3. Ẩm độ: Cây cà phê (Vối) thích hợp trong điều kiện ẩm độ cao, gần như bão hòa.

4. Lượng mưa: Cây cà phê sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có lượng mưa hàng năm 1.800 – 2.000 mm, có một mùa khô ngắn vào cuối và sau vụ thu hoạch để phân hóa mầm hoa.

5.Gió: Gió nóng, lạnh hay gió mạnh đều gây ảnh hưởng cho sinh trưởng phát triển cây cà phê. Khi lập vườn cần trồng cây chắn gió phù hợp cho vườn cà phê.

III. ĐẤT ĐAI:

Cây cà phê không đòi hỏi khắt khe về đất, nó có thể phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất nâu đỏ, nâu vàng hoặc đất xám …. Trong đó, đất đỏ bazan cây cà phê sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Yêu cầu cơ bản là có tầng đất mặt sâu từ 70 cm trở lên, có thành phần cơ giới trung bình đến hơi nặng (Đất thịt nhẹ- sét).

IV. GIỐNG:

Có 3 giống chính: Cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta), cà phê mít (Excelsa).  Đồng Nai thích hợp trồng giống cà phê vối ( Robusta).

Hiện nay, Viện Nông Nghiệp Tây Nguyên đã chọn lọc và đưa ra sản xuất nhiều dòng cà phê. Đó là các dòng:

  • Dòng TR5: cây sinh trưởng khoẻ, năng suất đạt 3,5 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 20,6 gram( giống củ chỉ đạt 13-14 gram/100 nhân)
  • Dòng TR6: cây sinh trưởng khỏe, kháng rỉ sắt rất cao, năng suất đạt 5,6 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,5 gram.
  • Dòng TR4: Cây sinh trưởng khoẻ, kháng rỉ sắt, phân nhiều cành, cành ngang hơi rũ, năng suất đạt 7,3 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,1 gram.
  • Dòng TR8: cây sinh trưởng khỏe, kháng rỉ sắt, phân cành trung bình, năng suất đạt 4,2 tấn/ha. Trọng lượng 100 nhân đạt 17,6 gram.

V. KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG:

1. Chọn cây lấy hạt giống:

Chọn cây đã cho trái 6-8 năm, năng suất cao và ổn định, kháng sâu bệnh, dạng hình dẹp. Chọn trái chín có hai nhân phát triển cân đối.

2. Xử lý hạt giống và gieo hạt 

Hạt đã nẩy mầm đem gieo vào bầu đất trong túi nhựa PE (kích thước túi 17×25cm, có đục 8 lỗ nhỏ 0,5cm phía gần đáy).

Đất trong bầu là đất mặt tốt, tơi xốp, hàm lượng mùn trên 3%. Dọn sạch lớp cây cỏ, cây và vật lạ trên mặt, lấy lớp đất màu trong độ sâu 10 cm làm tơi nhỏ, trộn đều với phân hữu cơ thật hoai và phân lân. Hỗn hợp đất phân được sàng qua lưới sàng 5mm, phần không qua sàng tiếp tục làm nhỏ và sàng trở lại.

Bầu phải chặt, cân đối, thẳng đứng, chừa trồng miệng bầu từ 0,5-1cm đã rãi trấu hoặc mùn cưa sau khi đã ương hạt.

Trước khi gieo hạt vào bầu hạt giống phải được xử lý cho nẩy mầm theo trình tự sau:

  • Hòa nước vôi theo tỉ lệ 1kg vôi/50 lít nước để lắng gạn lấy phần nước trong, đem đun nóng đến 54-600C (3 phần nước sôi 2 phần nước lạnh) và cho hạt giống vào ngâm trong 18 giờ, sau đó với ra đãi hết nhớt bằng nước sạch.
  • Ủ hạt giống trong luống chìm rộng 1-1,2m, sâu 0,6-0,8m kể từ đáy luống lên có những bước sau:
    + Thân lá xanh còn tươi (20-25cm)
    + Phân chuồng chưa hoai (20-25cm)
    + Lớp vôi mỏng (0,5kg/m2)
    + Lớp bao tải
    + Lớp hạt giống thời kỳ đầu dày chùng 10-15cm tưới đẩm nước (khi hạt bắt đầu nẩy mầm thì rảy mỏng từ 5-8cm)
    + Lớp bao tải khô.
    + Rơm khô (càng dày càng tốt).
    + Chung quanh khu luống ủ có vách cao 2m, có liếp che phía trên để mỏ được ban ngày, đậy lại ban đêm.

Khi cây có 2 lá mầm tiến hành nhổ cây con, chọn những cây có một rễ đuôi chuột đem trồng vào bầu đã chuẩn bị ở vườn ươm.

3. Chăm sóc cây con:

Tưới nước: Cây nhỏ tưới ít và nhiều lần, cây lớn tưới nhiều và ít lần trong ngày. Tưới phân thúc: tưới dung dịch urê và clorua kali theo tỷ lệ 2:1 (với nồng độ 1%), xen kẽ với dung dịch phân hữu cơ ngâm (phân trâu, bò, phân xanh, bánh dầu,…) cho hoai mục, cây nhỏ tưới loãng, cây lớn tưới đậm hơn.

Chăm sóc: Nhổ cỏ, phá váng không để bầu ngập nước. Trong vườn ươm lưu ý bệnh lở cổ rễ và bệnh vàng lá.

Đảo cây: cây con có 3-4 đôi lá thật, tiến hành đảo cây, xếp cây lớn vào giữa luống, cây nhỏ ở hai bên luống để cây phát triển đều. Lưu ý xếp thưa dần khi cây lớn.

* Chú ý: dỡ dàn che từ từ, khi cây đủ tiêu chuẩn cần dỡ bỏ dàn che hoàn toàn trước khi trồng mới 30 ngày.

4. Tiêu chuẩn cây giống:

  • Cây thực sinh: Cây con được ươm từ hạt trước khi trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:
    – Tuổi cây: 6-8 tháng.
    – Chiều cao thân kể từ mặt bầu: 25-35cm, thân mọc thẳng.
    – Số cập lá thật: 5-7.
    – Đường kính gốc: 3-4mm
    – Cây không bị sâu bệnh, dị hình và được luyện dưới ánh sáng hoàn toàn từ 10-15 ngày trước khi trồng.
    – Kích thước bầu đất: 14-15 x 24-25cm
  •  Cây ghép
    Ngoài tiêu chuẩn cây thực sinh, cây ghép cần phải đạt:
    – Chồi ghép có chiều cao trên 10cm và có ít nhất 1 cặp lá phát triển hoàn chỉnh.
    – Chồi được ghép tối thiểu 1 tháng trước khi trồng.

5. Ghép cải tạo và nâng cấp vườn:

Dùng chồi của những dòng cà phê cho năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh, ghép trên gốc cà phê xấu, đã được ứng dụng và cho kết quả tốt.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Những vùng đất trồng cà phê nổi tiếng ở Việt Nam

Khi nhắc đến những vùng đất trồng cà phê ở nước ta, trước hết phải kể đến các tỉnh Tây Nguyên với các vùng trồng cà phê nổi tiếng như Cầu Đất, Núi Min, Trạm Hành (Lâm Đồng) và đặc biệt Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) – vựa cà phê Robusta đứng đầu thế giới.

Dải đất Tây nguyên này hay còn gọi là Cao nguyên trung phần, may mắn được tạo hóa ban cho đất đỏ bazan trù phú (2 triệu hécta, chiếm 60% đất bazan cả nước), có tính chất cơ lý tốt, khả năng giữ nước và hấp thu dinh dưỡng cao, kết cấu viên cục độ xốp bình quân 62 – 65%… Bên cạnh đó, các cao nguyên này lại có độ cao khoảng 500 – 600m so với mực nước biển cùng khí hậu mát mẻ, mưa nhiều nên rất thích hợp với loại cà phê Robusta và một số loại cây công nghiệp khác.

Buôn Ma Thuột là vùng đất có cà phê khá sớm ở Việt Nam. Trước đó, người Pháp đã khảo sát rất kỹ lưỡng về thổ nhưỡng, khí hậu, độ cao, tầng phù sa cổ…mới chọn Buôn Ma Thuột là nơi chuyên canh cây cà phê Robusta, lấy Buôn Ma Thuột làm tâm trong vòng bán kính 10km trồng cà phê Robusta đều cho ra thể chất tốt, như Ea Kao, Etam, Tân Lập, Tân Hòa, Tân An, Tân Lợi, Cư Ebut, và một số huyện khác: Cư Mgar, Krong Ana… Robusta vùng này là loại thích hợp nhất để tăng độ mạnh của cà phê Espresso (gốc Milano) nhưng với một tỷ lệ ít.

Cà phê Buôn Mê Thuột

Vốn là một trong tám đô thị loại một trực thuộc tỉnh, lại là thành phố chiến lược, đặc biệt quan trọng về an ninh quốc phòng cấp quốc gia nên Buôn Ma Thuột được nhà nước quan tâm và đầu tư nhiều để phát triển cơ sở hạ tầng cùng nhiều mặt khác. Với sản lượng cà phê Robusta đứng đầu cả nước, góp phần đưa sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam lên vị trí số 1 trên thế giới, và cung cấp một sản phẩm cà phê có chất lượng cao nhất và hương vị đặc trưng nhất nên  Buôn Ma Thuột được xem là “thủ phủ cà phê”.

Tuy cùng nằm trên dải đất Tây nguyên nhưng cà phê Cầu Đất, Núi Min, Trạm Hành của tỉnh Lâm Đồng lại có sự khác biệt hẳn. Đó là hương thơm quyến rũ của cà phê Arabica vốn được thế giới ưa chuộng. Ở độ cao trên 1.500m so với mực nước biển, có nhiều vùng đồi dốc thoai thoải cùng khí hậu mát mẻ, những vùng đất này của Lâm Đồng là nơi chốn đắc địa, lý tưởng nhất cho giống Arabica phát triển và sản sinh ra những hạt cà phê có chất lượng vào hàng ngon nhất nhì thế giới. Đặc biệt, cà phê Cầu Đất được xem như “Bà hoàng” của các loại cà phê nhờ hương thơm quyến rũ đặc biệt của nó.

Cà phê Arabica Đà Lạt

Khe Sanh (Quảng Trị) cũng là một vùng trồng nổi tiếng khác của giống cà phê Arabica và Catimor (cà phê mít), vốn có độ cao phù hợp và là vùng đồng bằng chịu những ngọn gió Lào hun đúc thổi từ hoang mạc Trung Á làm đồng khô cỏ cháy và con người gan góc kiên trì nhất Việt Nam. Bên cạnh đó, nước ta còn có vùng cà phê Arabica Tây Bắc đã có lịch sử cả trăm năm, tuy cho những sản phẩm thấp hơn so với các tỉnh Tây nguyên, song cũng góp phần làm hương sắc cà phê Việt thêm phong phú và đa dạng.

Ngoài những vùng trồng cà phê tiêu biểu kể trên, Việt Nam cũng được biết đến với cà phê tại Đắk Mil của Đắk Nông, có tới 19.000ha cà phê, chiếm tới 1/4 diện tích của huyện này và cung cấp sản lượng tới 42.930 tấn, chiếm 1/3 sản lượng cà phê so với toàn tỉnh. Nếu như cà phê Đắk Hà mang tới hương vị hoan hỉ, nồng nhiệt thì cà phê Đắk Mil chua thanh lại đem đến sự trầm tư, sâu sắc.

Gia Lai thì lại được biết đến với cà phê Chư Sê, một huyện nằm cách thành phố Pleiku 40km về phía nam, với diện tích 12.000ha, lại mang đến hương vị cà phê  sục sôi, đầy chất lửa. Ngoài ra, tỉnh này còn có những vùng đất trồng cà phê khác với sản lượng và chất lượng khá tốt như Chư Pả, Ia Sao, An Khê…

Cà phê Chư Sê Gia Lai

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc vườn cà phê những tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa

Vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa là giai đoạn cây cà phê phân hóa mầm hoa, hình thành hoa và nở hoa, đậu quả, quả non phát triển, là giai đoạn ảnh hưởng quan trọng đến năng suất, chất lượng của cà phê. Để vườn cà phê sinh trưởng, phát triển tốt, có năng suất – chất lượng cao, Khuyến nông Việt Nam xin giới thiệu đến bà con nông dân một số biện pháp kỹ thuật chăm sóc đối với vườn cà phê trong những tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa như sau:

Phòng trừ sâu, bệnh

– Rệp vẩy xanh và rệp sáp thường phát triển rất mạnh trong những tháng mùa khô và sau đó giảm dần trong những tháng mùa mưa khi thiên địch (các loại côn trùng ăn thịt rệp) xuất hiện nhiều. Rệp chích hút nhựa ở trên những đoạn thân, cành non làm cho cây bị suy yếu. Rệp phát triển luôn kèm theo sự có mặt của kiến và bệnh muội đen. Bệnh muội đen bao phủ lên bề mặt lá làm cho cây không quang hợp được.

– Trong những tháng mùa khô, bà con nông dân thường xuyên kiểm tra vườn cây để kịp thời có biện pháp phòng trừ rệp. Chỉ phun thuốc cho những cây có rệp trên những vườn bị rệp, không phun thuốc phòng cho những cây không bị rệp và vườn chưa bị rệp để bảo vệ các loài thiên địch. Bà con có thể sử dụng một trong các loại thuốc như Supracide, Sumithion, Ofatox…

– Ngoài phun thuốc diệt rệp, cần diệt trừ các ổ kiến để ngăn ngừa sự lây lan của rệp. Kiến không những bảo vệ rệp khỏi sự tấn công của các loài thiên địch mà còn mang rệp đi lây lan sang các cây khác trên vườn. Riêng đối với rệp sáp, để tăng hiệu lực của thuốc nên hòa thêm 1% dầu hỏa vào thuốc trước khi phun.

Bón phân

Chỉ bón phân sau khi đã có một vài trận mưa lớn, đất đủ ẩm.

– Đối với phân lân nên bón một lần vào đầu mùa mưa với lượng từ 500 – 800kg/ha, bằng cách rải đều trên mặt đất.

– Đối với phân đạm và phân kali có thể trộn chung để bón. Trước khi bón đào rãnh xung quanh mép tán lá rộng khoảng 20 cm, sâu 10cm, sau đó rải phân đều xung quanh rãnh rồi lấp đất trở lại. Ở đợt bón đầu nên sử dụng phân đạm là loại phân SA (sulphate amonium), các lần sau có thể dùng phân đạm là phân urê.

– Điều kiện ở Tây Nguyên do mưa lớn và tập trung trong một số tháng nên để hạn chế sự rửa trôi, đồng thời tiết kiệm được công lao động, bà con nên sử dụng các loại phân bón viên tổng hợp chuyên dùng cho cà phê như NPK 16-8-16-13S; NPK 16-8-18 +7S+ B2O3 +TE … với lượng khoảng từ 1.500 – 1.800kg/ha, bón 3 – 4 lần trong những tháng mùa mưa.

Đánh bỏ chồi vượt và rong tỉa cây che bóng

– Sau những đợt tưới nước trong những tháng mùa khô, chồi vượt bắt đầu phát triển rất mạnh, vì vậy phải kịp thời đánh bỏ để cây tập trung chất dinh dưỡng nuôi những cành mang quả.

– Khi mùa mưa bắt đầu được khoảng một tháng, tiến hành rong tỉa các cây che bóng trong vườn sao cho cành thấp nhất của cây che bóng cách tán lá cà phê khoảng 3 m, làm cho vườn cây thông thoáng, hạn chế được sâu bệnh hại và tạo điều kiện tốt cho cây quang hợp.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Kỹ thuật trồng cà phê

1. Chuẩn bị đất trồng cà phê

  • Đất trồng phải là đất tốt, tầng đất dày, tơi xốp, dễ thoát nước, giàu dinh dưỡng.
  • Nếu phải trồng lại trên chu kỳ trước thì phải trồng cây cải tạo đất như các cây họ đậu từ 2-3 năm.
  • Đất chu kỳ trước đã bị bệnh thối rễ thì không nên trồng lại cây cà phê mà cần phải luân canh với cây trồng khác.

Chuẩn bị đất trồng cà phê

2. Thiết kế vườn cây

Vườn cà phê thiết kế hoàn chỉnh ngay từ đầu đảm bảo yêu cầu sau:

  • Thâm canh tăng năng suất lâu dài
  • Bảo vệ đất chống xói mòn
  • Bảo vệ cây trồng, chống các yếu tố thời tiết bất thuận (sương muối, gió nóng, bão)
  • Bảo đảm cơ giới hóa trong các khâu chăm sóc, vận chuyển.
  • Tiết kiệm đất (đất dành cho đai rừng và đường đi dưới 15%).
  • Tuỳ theo địa hình bằng phẳng hoặc dốc mà thiết kế vườn cây thành từng lô, mỗi lô 16-20ha. Chiều dài của lô song song với đường đồng mức. Mỗi lô được phân thành từng lô nhỏ 1ha (50 x 100m) để tiện quản lý. Chiều dài hàng cà phê trong lô là 50m, chiều dài hàng cà phê trong 1 lô là 400 – 500m.
  • Xung quanh mỗi lô có các đai rừng và đường vận chuyển chính đồng thời là đường quay máy vuông góc với hàng cà phê, rộng 7 – 7,5m (tính từ gốc cà phê đến chân đai rừng). Nếu bề rộng của khoảng là 400m thì có 1 đường trục chính giữa song song với hàng cà phê rộng 6m.
  • Các đường phụ giữa các lô rộng 5m (tính từ gốc cà phê lô này sang gốc cà phê lô kia).
  • Nếu địa hình có độ dốc trên 80 phải chú ý thiết kế đảm bảo cho cơ giới chăm sóc và vận chuyển, bảo đảm các biện pháp chống xói mòn như thiết kế hàng cây theo hình đồng mức (vành nón), trồng cà phê theo kiểu nanh sấu, trồng các băng cây chống xói mòn.
  • Đối với hộ nông dân có diện tích nhỏ thì không cần phải phân lô, tuy nhiên phải trồng theo đường đồng mức.

3. Đào hố, trộn phân lấp hố

Kích thước hố đào: Đất tốt đào dài 40cm, rộng 40cm và sâu 50cm. Đất xấu đào dài 50cm, rộng 50cm và sâu 60cm.

Trộn phân lấp hố: Phân hữu cơ, lân trộn đều với đất mặt và lấp xuống hố. Hỗn hợp đất phân lấp cao hơn mặt hố từ 10-15cm. Trộn phân, lấp hố phải xong trước khi trồng mới khoảng 1-2 tháng.

Liều lượng phân cho 1 hố: Phân hữu cơ 10-15 kg, phân lân 0,5 kg.

4. Khoảng cách, mật độ trồng

  • Cà phê chè Catimor khoảng 5.000cây/ha, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 1m. Nếu đất xấu có thể trồng dày hơn.
  • Cà phê vối (Robusta): 3,5×2,5m tương ứng 1.330 cây/ha, trồng 1 cây/hố; 3,0×2,5m tương ứng mật độ 2.660cây/ha, trồng 2 cây/hố.

5. Thời vụ trồng

Trồng đầu mùa mưa là tốt nhất. Những vùng có nước tưới thì có thể trồng cuối mùa mưa nhưng phải đảm bảo đủ nước.

6. Kỹ thuật trồng

  • Dùng cuốc móc 1 lỗ nhỏ giữa hố sâu 25 – 30cm, rộng 15 – 20cm ở chính giữa hố đã được lấp trước. Xé túi ni lon, nhẹ nhàng đặt cây vào giữa hố, điều chỉnh cây đứng thẳng, lấp đất từ từ vừa lấp vừa dùng tay nén chặt đất, lấp đất ngang mặt bầu.
  • Trồng xong cần làm bồn tạo thành bờ xung quanh hố. Phải cẩn thận tránh không làm vỡ bầu. Đặt bầu sao cho mặt bầu âm dưới mặt đất 7 – 10cm để dễ đánh ổ gà, đắp bùn giữ nước cho cây.
  • Cây trồng thẳng và ém đất quanh bầu thật chặt, không làm vỡ bầu.
  • Sau khi trồng cây xong phải thực hiện ngay các biện pháp chăm sóc bảo vệ cây: Đánh bồn, tủ gốc bằng rơm rạ, rác, cỏ thành vòng tròn, cách gốc 20cm dày ít nhất 20cm, trên phủ nhẹ một ít đất cho rác dẹp xuống. Phun thuốc trừ sâu Confidor 100 SL để chống mối.

7. Tủ gốc, che túp

Ngay sau khi trồng xong cần tiến hành tủ gốc cho cà phê. Dùng rơm rạ, cỏ khô, cây phân xanh… tủ gốc với độ dày 5 – 10cm, cách gốc 5 – 10cm để tránh mối làm hại cây. Ở những nơi sau thời gian trồng mới thường gặp hạn cần che túp. Mùa mưa không cần che túp song mùa nắng che túp có tác dụng chống gió, chống hạn, chống rét.

8. Chăm sóc cà phê

1. Trồng dặm

Đối với cà phê trồng mới, sau khi trồng 15 – 20 ngày phải kiểm tra, trồng dặm kịp thời những cây chết và còi cọc. Chấm dứt trồng dặm trước khi kết thúc mùa mưa 1,5 – 2 tháng. Kỹ thuật trồng dặm chỉ đào hố trồng lại trên cây chết, các thao tác như trồng mới.

2. Làm cỏ, tủ gốc

  • Trong suốt thời kỳ sinh trưởng của cây cà phê, đặc biệt ở thời kỳ kiến thiết cơ bản phải diệt cỏ kịp thời, bảo đảm cây cà phê không bị cỏ lấn át.

Làm cỏ cho khu vực trồng cà phê

  • Những nơi có các loại cỏ khó cuốc sạch như cỏ tranh, cỏ gấu thì tiến hành diệt cỏ bằng các loại thuốc hoá học hiện đang được dùng.
  • Thường xuyên tủ gốc cho cây cà phê để giữ ẩm, giảm được tưới nước và công làm cỏ. Đồng thời tủ gốc còn điều hoà nhiệt độ đất, giữ cho đất luôn tơi xốp.

3. Trồng xen trong vườn cà phê ở thời kỳ kiến thiết cơ bản

Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản các vườn cà phê cần trồng xen những cây trồng khác để bảo vệ, cải tạo, nâng cao độ phì của đất. Các cây trồng xen có thể sử dụng là: lạc, đậu đỗ các loại. Cây, cành, lá của cây trồng xen dùng làm nguyên liệu tủ gốc.

4. Cây che bóng và đai rừng chắn gió

Cây che bóng tạm thời:

Trồng vào giữa 2 gốc cà phê hoặc trồng thành băng ở giữa 2 hàng cà phê bằng các cây phân xanh có thân đứng cao như muồng hoa vàng, cốt khí, đậu săng…

Cây che bóng lâu dài:

Trồng cây keo dậu, khoảng cách trồng 5m x 6m. Sau khi cây lớn thì tỉa dần và cố định mật độ 10 x 12m (cứ 2 cây tỉa đi 1 cây). Chú ý cây bóng mát trồng vào giữa vị trí của 2 cây cà phê trong thời kỳ cà phê ở thu hoạch thì bộ tán của cây che bóng phải cao cách bộ tán cây cà phê từ 2,5 – 3m.

Đai rừng chắn gió:

  • Xung quanh vùng trồng cà phê cần trồng các đai rừng chắn gió. Đai rừng trồng thẳng gốc với hướng gió chính hoặc chếch 1 góc 60 độ.
  • Đai rừng rộng 9m, ở giữa trồng 3 hàng muồng đen, hàng cách hàng 1m và cây cách cây 3m. Hai bên mép đai rừng trồng thêm các loại cây ăn quả như mít, nhãn, vải, xoài…

5. Bón phân thúc cho cà phê

Phân hữu cơ:

  • Mỗi năm bón cho cà phê 1 lần phân hữu cơ sau khi thu hoạch quả. Liều lượng 5-10kg/cây kết hợp với phân lân và phân vô cơ bón lần cuối cùng trong năm (tháng 11 – 12).
  • Cách bón: Đào rãnh sâu 20cm, rộng 20cm xung quanh mép tán, rải đều phân hữu cơ và các tàn dư thực vật xung quanh, sau đó lấp lại.

Phân vô cơ:

  • Phân đạm và kali có thể bón 3 lần/năm vào tháng 2-3, 6-7, 11-12.
  • Trước khi bón phân cần làm cỏ sạch, trộn các loại phân với nhau, rải đều xung quanh tán lá và lấp lại bằng lớp đất mặt để tránh bốc hơi hoặc phân bị rửa trôi khi gặp mưa.
  • Lần bón phân cuối cùng trong năm cần kết hợp với phân chuồng và phân lân để bón, sau khi thu hoạch xong sẽ giảm được công lao động.
  • Riêng năm trồng mới, sau khi trồng 1-2 tháng, bón 25- 30g phân Urê và 25-30g phân kali cho một hố.

6. Chống hạn, chống rét cho cà phê

  • Sau trồng mới khi cây bóng các loại chưa phát huy tác dụng thì phải che túp cho cà phê sớm.
  • Khi thời tiết nắng hạn hoặc rét, nhất là có sương muối cần che túp cho cà phê.
  • Túp che kín hướng gió đông-bắc, để hở 1/4 phía tây – nam, túp phải chắc chắn, cao cách đỉnh cà phê 10 – 15cm, không để túp đè lên cây cà phê.

7. Tạo hình, tỉa cành

Là một trong những biện pháp kỹ thuật hết sức quan trọng để tạo cho cây có bộ tán cân đối, cành quả phân bố đều trong không gian để từ đó giữ cho cây đạt năng suất cao ổn định. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chăm sóc, thu hái, hạn chế bớt sự tấn công phá hoại của sâu bệnh.

a. Tạo hình cơ bản:

Xu hướng hiện nay là tạo hình đơn thân tức là mỗi hố chỉ để  1 thân chính. Để tránh cho cà phê mọc nhiều thân trên 1 hố phải thường xuyên đánh tỉa kịp thời các chồi vượt mọc từ gốc và từ các nách lá trên thân chính.

Cây cà phê đạt năng suất cao khi chăm sóc đúng cách

 

b. Tạo hình nuôi quả:

  • Cắt bỏ các cặp cành cơ bản mọc sát mặt đất (cách mặt đất từ 20 – 25cm) để cho cây được thông thoáng và thuận lợi cho việc đi lại chăm sóc, thu hái.
  • Tỉa bớt một số cành cơ bản nhỏ, sinh trưởng kém và không có khả năng ra cành thứ cấp để cây được thông thoáng và tập trung dinh dưỡng để nuôi các cành khác.
  • Cắt bỏ tất cả các cành thứ cấp mọc sát thân chính, các cành tăm nhớt, bị sâu bệnh, cành chùm và các cành khô chết để cho ánh sáng chiếu vào được phía trong của tán cây.
  • Cắt ngắn các cành già cỗi do đã cho nhiều vụ quả để dồn chất dinh dưỡng nuôi những cành tơ khỏe mọc từ phía trong.
  • Loại bỏ những chồi vượt mọc từ gốc, trên thân chính và trên đỉnh ngọn.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tiết kiệm nước tưới cây cà phê vào mùa khô

Để đáp ứng yêu cầu canh tác bền vững, việc tạo lập hệ cây che bóng tầng cao hợp lý trong các vườn cà phê là điều cần thiết.
Cây che bóng giúp giảm nhiệt độ đất và không khí trong vườn, hạn chế sự bốc thoát hơi nước từ vườn cây, do đó có thể kéo dài chu kỳ tưới nước cho cà phê trong mùa khô, giảm chi phí tưới, tiết kiệm được lượng nước tưới và bảo vệ được nguồn tài nguyên nước đang cạn kiệt ở Tây Nguyên. Hệ cây che bóng còn điều hòa được tiểu khí hậu vườn cây, điều tiết sự ra hoa, đậu quả, giảm được bệnh khô cành; cải thiện độ phì đất nhờ lượng cành lá trả lại cho đất mặt hàng năm, bảo vệ đất mặt tránh tác hại của mưa lớn, sự thiêu đốt chất hữu cơ do ánh sáng mặt trời; tăng khả năng giữ nước, giữ phân cho đất.
Cây che bóng giúp kéo dài quá trình chín của quả, tăng độ acid và hàm lượng succrose trong hạt, những yếu tố quan trọng để hình thành các hợp chất thơm, giúp cải thiện phẩm chất của cà phê. Nhiều nghiên cứu của Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên trong thời gian dài cho thấy mật độ cây bóng phù hợp sẽ ít gây ảnh hưởng đến năng suất cà phê, ngoài ra còn giúp tính ổn định năng suất qua các năm thu hoạch, hạn chế hiện tượng ra quả cách năm.
Vườn cà phê kinh doanh được chăm sóc, tưới nước, bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật, kết hợp rong tỉa cây che bóng hợp lý thì có thể dễ dàng đạt năng suất trên 3,5 tấn nhân/ha.
Loại cây che bóng và mật độ thích hợp trong vườn cà phê với vùng Tây Nguyên là keo dậu: 70 cây/ha (12 x 12m) và muồng đen: 34 cây/ha (24 x 12 m).
Ngoài ra, các loại cây dài ngày có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, bơ, hồ tiêu vv… có thể đưa vào trồng xen trong vườn cà phê để, vừa làm nhiệm vụ che bóng cho cà phê, vừa cho thêm sản phẩm phụ, tăng thu nhập cho nông hộ.
Sầu riêng có tán lá thưa, có thể trồng với mật độ 70 cây/ha (12x12m). Bơ trồng với mật độ 50 cây/ha (12 x18m).


Hồ tiêu xen canh trong vườn cà phê nên trồng trên cây trụ sống là keo dậu hay muồng đen. Các cây này vừa là cây che bóng cho cà phê vừa là trụ cho tiêu leo bám. Trồng tiêu trên trụ sống trong vườn cà phê với mật độ từ 140-220 trụ/ha (12 x 6m hoặc 15 x 3m). Các giống tiêu thích hợp cho trồng xen cà phê là tiêu Vĩnh Linh, tiêu Lộc Ninh hoặc tiêu Sẻ.
Việc đa dạng hoá cây trồng trong vườn cà phê bằng cách trồng xen một số cây công nghiệp hay cây ăn quả có giá trị như đã nêu trên sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn. Tiền thu được từ sản phẩm cà phê trong các vườn trồng xen tuy có thấp hơn các vườn cà phê trồng thuần do năng suất bị giảm ít nhiều dưới tác động của cây trồng xen, tuy vậy, tổng giá trị sản phẩm và lợi nhuận trên vườn cây vẫn tăng lên đáng kể.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Phòng trừ một số bệnh hại cây cà phê

Cà phê là một  cây công nghiệp chủ lực của nước ta, vào thời điểm thời tiết nóng ẩm dễ phát sinh nhiều loại sâu bệnh gây hại. Theo Chi cục Bảo vệ thực vật, nếu phòng trị bệnh theo các phương pháp sau, nông dân sẽ hạn chế và diệt được nhiều loại sâu bệnh hại cây cà phê.

Bệnh rệp sáp

– Rệp sáp cái trưởng thành hình bầu dục, không cánh, dài 4mm, thân phủ lớp sáp trắng. Rệp đực dài khoảng 3mm, có cánh, không có sáp trắng. Rệp sáp sống tập trung thành từng đàn, gây hại quanh năm. Chúng gây hại nhiều bộ phận của cây cà phê như kẽ lá, chồi non, cuống của chùm hoa, chùm quả, gốc cây. Trên chùm hoa và quả, rệp hút nhựa làm cuống hoa, quả khô rụng. Mùa khô, rệp bò xuống gốc cây, chích hút nhựa ở rễ và gốc làm cây phát triển kém, còi cọc, lá vàng chết từ từ.

– Để phòng trừ bệnh rệp sáp nên tỉa cành tạo sự thông thoáng cho vườn cây. Đồng thời, cắt bỏ những cành bệnh nặng, sát đất đem đi tiêu hủy tránh bệnh lây lan và phát sinh. Dọn sạch cỏ, rác xung quanh gốc cà phê để kiến khỏi trú ngụ mang mầm bệnh đi những cây khác. Vào mùa khô tưới nước đầy đủ cho cây, những chỗ bị rệp nhiều nên cho vòi nước phun thẳng vào, rửa trôi bớt rệp, tạo độ ẩm trên cây giảm mật số rệp.

– Thường xuyên thăm vườn kịp thời phát hiện bệnh rệp sáp. Nếu rệp xuất hiện dù mật độ ít cũng phải diệt trừ ngay, vì rệp sinh sản rất nhanh.

– Khi thấy rệp sáp trên lá, quả phun thuốc kỹ để thuốc thấm qua lớp sáp, mới diệt được rệp. Phun thuốc 2 lần, mỗi lần cách nhau từ 7-10 ngày để diệt tiếp lứa rệp non còn sót lại. Có thể dùng nước rửa chén pha 15-20 ml/bình 8 lít phun ướt đều nơi rệp sáp bám rồi ngày sau mới phun thuốc đặc trị sẽ hiệu quả hơn. Các loại thuốc có thể dùng diệt rép sáp: Fipronil (Supergen 800 WG); Thiamethoxam (Fortaras 25 WG); Phenthoate (Elsan 50EC)…

– Nếu thấy rệp sáp xuất hiện ở gốc thì tưới ẩm gốc trước 1 ngày, sau đó rải thuốc hạt Basudin 10G ở gốc rễ.

 Bệnh rỉ sắt

– Bệnh này thường gây hại trên lá. Khi lá bị bệnh sẽ vàng và rụng hàng loạt, sau đó cành khô, cây sinh trưởng kém, năng suất giảm. Bệnh rỉ sắt do nấm Hemileia vastatrix gây ra. Bệnh phát triển mạnh trong mùa mưa và những vườn có nhiều cây che bóng.

– Cách phòng trừ bệnh hiệu quả nhất là tỉa cành cho cây thông thoáng, vệ sinh sạch sẽ vườn cà phê, thu gom cành bệnh, rác trong vườn đem đi tiêu hủy để diệt mầm bệnh. Ngoài ra, cân đối bón phân đầy đủ cho cây để cây phát triển tốt tăng khả năng kháng bệnh.

– Khi phát hiện bệnh phải tiến hành phun xịt thuốc ngay để trị bệnh. Khi phun thuốc nên phun ướt đều cả hai mặt lá, nếu bệnh nặng phun 2 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày.

– Nhóm thuốc trị bệnh rỉ sắt thích hợp nhất là Carbendazim (Arin 25 SC); Bennomyl (Binhnomyl 50WP, Plant 50 WP); Bromuconazole (Vectra 100 SC, 200 EC)…

Bệnh nấm hồng

– Bệnh chủ yếu gây hại nơi phân cành giáp với thân. Nơi bị bệnh có một lớp bột màu hồng nhạt, rất mịn, đó là các bào tử nấm bệnh. Vết bệnh lớn dần chạy dọc theo cành và sau đó lan dần hết cả cành. Khi vết bệnh đã cũ thì chuyển sang màu trắng xám. Lá trên các cành bị nhiễm bệnh bị úa vàng, tiếp đến lá và quả sẽ bị rụng. Nếu bị bệnh nặng cành sẽ chết khô.

– Bệnh này thường xuất hiện trong các vườn rậm rạp, thời tiết nóng, ẩm độ cao.

– Cách phòng trừ: Dọn sạch cỏ dại trong vườn, tỉa cành tạo sự thông thoáng cho cây. Bón cân đối phân NPK và tăng cường bón phân hữu cơ ủ hoai mục.

– Khi bệnh mới phát sinh nên dùng các nhóm thuốc đặc trị như: Trichoderma spp (Fulhumaxin 6.15 SC); Carbendazim (Arin 25 SC), Eugenol ( Genol 0.3 DD, 1.2 DD)…

Bệnh khô cành, khô quả (bệnh thán thư)

– Bệnh khô cành, khô quả do nấm Colletotrichum coffeanum hoặc C.gloeosporioides gây ra.

– Khi bệnh mới xuất hiện trên lá thường là những vết đốm tròn màu nâu, sau lan rộng chuyển màu nâu xám. Các vết bệnh liên kết với nhau thành mảng khô trên phiến lá hoặc dọc theo mép lá. Nếu nấm bệnh xuất hiện trên quả sẽ tạo những đốm nâu lõm, sau đó quả khô đen và rụng. Bệnh trên cành sẽ tạo ra các vết nâu lõm làm vỏ biến màu nâu đen rồi khô dần. Trường hợp bệnh nặng, nấm xâm nhập ra cả thân làm rụng lá, cành trơ trụi, khô đen.

– Bệnh thường phát sinh gây hại từ giai đoạn cà phê ra hoa đến khi quả già và trong thời tiết ẩm thấp, mưa nhiều. Bệnh thường phát triển nhanh, nặng ở các vườn cà phê chăm sóc kém và thiếu phân bón.

– Phòng trừ bệnh bằng cách bón phân đầy đủ và cân đối N, P, K. Cắt tỉa những cành lá bị bệnh nặng đem đi tiêu hủy.

– Các nhóm thuốc trị bệnh hiệu quả Ningnanmycin (Niclosat 2SL, 4SL, 8SL); Trichoderma spp. (Fulhumaxin 6.15 SC); Carbendazim (Arin 25 SC)…

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Mỗi ha tiêu mất 1 tỉ đồng sau bão số 12

Ngoài hàng trăm ngôi nhà bị sập, tốc mái, đường sá hư hỏng, cơn bão số 12 còn gây thiệt hại rất lớn về sản xuất nông nghiệp cho nông dân ở Gia Lai. Với những người trồng các loại “cây vàng” như cà phê, hồ tiêu thì cơn bão đã  “thổi” bay toàn bộ gia sản mà họ tích cóp hàng chục năm trời mới có được.

Mỗi ha tiêu mất 1 tỷ đồng 

Tiếp xúc với PV Dân Việt chiều 5.11, anh Nguyễn Đức Hùng (thôn 1, xã Hải Yang, huyện Đắk Đoa) thảng thốt nói: “Hết sạch rồi anh ơi!”. Chỉ trong vài giờ cơn bão số 12 càn quét, vườn tiêu 1.200 trụ (tương đương 1,2ha) của gia đình anh đã bị xô ngã gần hết, chỉ còn sót lại khoảng 100 trụ. Chỉ những trụ tiêu xanh tốt, trĩu quả nằm rạp dưới đất, anh Hùng nói như khóc: “Vợ chồng tôi thế chấp toàn bộ tài sản, vay ngân hàng đầu tư hết vào đây, chăm bẵm suốt 3 năm ai nhìn thấy cũng khen. Vậy mà bây giờ còn lại không được một phần mười”.

Hàng nghìn trụ tiêu ở Gia Lai đã gãy đổ do bão

Theo tính toán của anh Hùng, từ khi trồng đến năm thứ ba, 1.200 trụ tiêu đã “ngốn” hết 500 triệu đồng, năm nay cho thu bói khoảng gần 500 triệu (6 – 7 tấn). Như vậy bão số 12 đã “thổi” bay 1 tỷ đồng của gia đình anh, chưa kể tiền lãi ngân hàng.

Quan sát vườn tiêu của anh Hùng, chúng tôi thấy tất cả các trụ tiêu đều được giằng dây thép chống ngã, nhưng đây cũng là một nguyên nhân khiến cả vườn đổ rạp, bởi trụ này ngã sẽ lôi thêm trụ khác. Sau khi ngã, phần lớn cây tiêu đều bị đứt gốc, phơi rễ lên mặt đất.

Cách vườn tiêu anh của Hùng không xa, anh Vũ Văn Sáng đang ngẩn ngơ với 1.500 trụ tiêu xơ xác.  “Tôi đầu tư làm trụ bằng bê tông kiên cố, nên chỉ có 200 trụ bị ngã. Nhưng khổ nỗi tiêu trồng bằng trụ bê tông, nếu đổ ngã thì coi như mất trắng, không thể phục hồi lại được”, anh Sáng cho biết.

Nói về cơn bão số 12, anh Phạm Hồng Vỹ (trú thôn 1, xã Hải Yang) vẫn chưa hết bàng hoàng: “Chưa bao giờ tôi thấy một cơn bão khủng khiếp như vậy, dường như tất cả các loại cây trồng ở Tây Nguyên đều không chịu đựng nổi với sức gió của nó. Chả trách người ta đặt tên là bão Con Voi”. 

Người trồng cà phê cũng liêu xiêu 

Đến chiều 5.11, các huyện trọng điểm trồng hồ tiêu ở Gia Lai vẫn chưa thống kê hết thiệt hại. Nhưng báo cáo sơ bộ đã có gần 30.000 trụ tiêu bị ngả đổ hoàn toàn, trong đó huyện Chư Pưh gần 18.000 trụ, huyện Đắk Đoa 5.475trụ, huyện Mang Yang 6.000 trụ.

Người dân tìm cách dựng lại các trụ tiêu đã ngã nhằm vớt vát lại phần nào khi mùa thu hoạch sắp tới.

Không chỉ hồ tiêu, người trồng cà phê ở Gia Lai cũng đang khóc ròng vì quả rụng xanh mặt đất, cây bị lay gốc đứt rễ, trong khi thời điểm thu hoạch đã cận kề. Đặc biệt, tại xã Đăk Ta Ley, huyện Mang Yang có đến 40% diện tích cà phê bị rụng quả và lay gốc. Vụ cà phê năm nay coi như trắng tay, hàng trăm nông dân ở xã này đang “vắt óc” nhưng chưa nghĩ được cách trả nợ cho các đại lý phân bón, xăng dầu mà họ mua chịu từ đầu năm.

Theo báo cáo chiều 5.11 của Sở NN&PTNT Gia Lai, do ảnh hưởng của bão số 12, huyện Phú Thiện có 286 ngôi nhà bị ngập, 162 con trâu bò bị và gần 1.000 gia cầm bị chết, nhiều km quốc lộ 25 (nối Gia Lai với Phú Yên) và kênh mương thủy lợi bị hư hỏng. Huyện Krông Pa có 38 ngôi nhà sập và tốc mái,  hơn 600 ha cây trồng bị ngập và nhiều bò, dê, lợn bị nước cuốn trôi…

Nguồn: Dân việt được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Trồng sen bán lá cho thu nhập cao

Bà Nguyễn Thị Kiên ở ấp Phú Thọ C, xã Phú Thọ (Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp) đã chuyển 10.000m² đất ruộng làm lúa kém hiệu quả sang trồng giống sen Đài Loan bán gương. Tuy nhiên, bán gương sen thu lợi nhuận thấp nên bà chuyển sang trồng sen bán lá tươi cho Công ty CP Tứ Quý Đồng Tháp để chế biến trà lá sen và có thu nhập khá.

Sau hơn 70 ngày chăm sóc, bước đầu bà Kiên đã thu cắt được trên 500kg lá sen tươi, bán 5.000 đồng/kg, thu nhập hơn 2,5 triệu đồng. Trừ tất cả chi phí đầu tư và công chăm sóc, bà Kiên còn lãi gần 2 triệu và đang tiếp tục thu cắt lá sen tươi bán cho Công ty Tứ Quý.

Hái lá sen bán cho các cơ sở làm trà

Bà Kiên cho biết: “Lấy lá thì dễ còn lấy gương thì khó lắm, mắc xịt thuốc đủ thứ hết trơn. Còn lấy lá thì không hao tốn nhiều mà thu hoạch ngon hơn trồng sen lấy gương”.

Đúng như chia sẻ của bà Kiên, trồng sen lấy lá ít chi phí hơn. Sau khoảng 2 tháng trồng là có thể hái lá và thu hoạch liên tục trong 3 – 4 tháng. Nếu chăm sóc tốt thì có thể cho thu hoạch cả lá và gương.

Lá sen được thu hoạch để bán

Anh Lê Văn Thuận ở ấp Thống Nhất, xã Phú Thọ trồng 23.000m² sen Thái, nhờ chăm sóc tốt anh vừa thu hoạch cả gương và lá nên có nguồn thu nhập tăng thêm rất đáng kể. Sau khi bán được được hơn 1 tấn sen tươi với giá 5.000 đồng/kg, trừ tất cả chi phí đầu tư và công chăm sóc, anh Thuận thu lãi gần 3 triệu đồng.

Trồng sen lấy lá bán – nghề có thu nhập cao

Hiện nông dân huyện Tam Nông đã trồng trên dưới 100ha sen bán gương, ngó và hạt. Trong đó, xã Phú Thọ là địa phương có diện tích trồng sen cao nhất huyện, với gần 50ha. Từ tháng 11/2016 đến nay, đã có khoảng 10ha trồng sen lấy lá tươi.

Theo ông Đỗ Công Bình, Giám đốc Công ty Cổ phần Tứ Quý Đồng Tháp, trung bình mỗi ngày, Cty thu mua từ 400 – 600kg lá sen tươi chế biến trà lá sen. Khoảng 13kg lá sen tươi, sau khi xắt sợi, sấy khô, xay nhuyễn sẽ cho ra một kg trà sen thành phẩm.

Lá sen khô

Để có vùng trồng sen lấy lá tươi nguyên liệu sản xuất ổn định, Công ty đã liên kết bao tiêu lâu dài sản phẩm của bà con. Từ 10ha trồng sen lấy lá được thu mua ổn định với giá 5.000đ/kg, tới đây Công ty sẽ mở rộng liên kết tiêu thụ lá sen tươi lên khoảng 30ha.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại cho cây mía

Phòng trừ cỏ dại:

– Cần tiến hành làm cỏ sớm, Đặc biệt là ở giai đoạn mía <4 tháng tuổi, phải đảm bảo ruộng mía luôn sạch cỏ dại.

– Biện pháp thủ công: Có thể dùng cuốc, bằng tay, trâu bò cày xới giữa hàng để diệt cỏ.

– Biện pháp hóa học:

+ Ngay sau khi trồng: nếu đất có nhiều cỏ có thể phùn trong các loại thuốc tiền này mầm như : Mizin 80WW (3-6 kg/ha). Dual gold 906EC90,5-0,6 l/ha) tiến hành phun phủ cả ruộng , trong phạm vi từ 2-5 ngày sau khi trồng. Chú ý đất phải đủ ẩm khi phun.

+ Giai đoạn 30-40 ngày sau trồng có thể sử dụng các loại thuốc diệt cỏ được khuyến cáo để phun giữa các hàng mía(tránh phun vào ngọn và lá mía).

+ Giai đoạn 2-4 tháng sau trồng. Nếu xuất hiện cỏ nhiều do làm cỏ không kip hoặc do trước đó khồng trừ cỏ , có thể sử dụng thuốc trừ có tiếp xúc.

Phòng trừ một số sâu bệnh hại:

– Sâu đục thân:

+ Dùng thuốc Basudin 10G hoặc Diaphos 10H với liều dùng từ 20-30 kg/ha rải vào rãnh mía trước khi đặt hom hoặc rải vào sát gốc mía trước khi vun.

+ Cắt bỏ cây mầm bị sâu và làm sạch cỏ.

– Rệp bông trắng:

+ Làm sạch cỏ, bóc và cắt lá già cho ruộng mía thông thoáng

+ Khi thấy rệp xuất hiện cần tổ chức diệt trừ dứt điểm để không lấy lan bằng thuốc Trebon 10EC pha với nộng độ 0,1-0,15 % mỗi ha sử dụng từ 1 -1,5 lít thuốc. phun ướt đẫm đều khắp mặt lá, phun thật kỹ, tập trung những nơi có ổ rệp.

– Bệnh than:

+ Kịp thời nhổ bỏ và tiêu hủy khi mía bị bệnh

+ Ruộng mía bị bệnh nặng không nên để lưu gốc và phải luôn canh cây họ đậu từ 1-2 năm.

– Bệnh chồi cỏ, trắng lá:

+ Tổ chức, sử dụng hom giống sạch bệnh.

Các loại bệnh liên quan đến dinh dưỡng:

– Đạm:

Đạm là nguyên tố rất cần thiết cho quá trình quang hợp(N là thành phần quan trọng của phân tử diệp lục- Mỗi phân tử diệp lục có chưa tới 4 nguyên tử đạm).

Khác với các nguyên tố khác, việc thừa N ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng, phát triển và hình thành năng suất của cây mía, cây sinh trưởng quá mạnh, thân lá tăng trưởng nhanh mà mô cơ giới kém hình thành nên cây rất yếu và gây hiện tượng lốp đổ, giảm năng suất , chữ đường nghiêm trọng.

+ Thiếu đạm:

Thiếu đạm làm cho cây sinh trưởng rất kém ,lóng ngắn, thân thấp, diệp lục không được hình thành ,đẻ nhánh kém, giảm sút hoạt động quang hợp và tích lũy, giảm năng suất nghiêm trọng. Triệu chứng thiếu hụt điển hình nhất lá lá mía hóa vàng, đặc biệt là ở các lá vàng gần gốc cây.Khi thiếu N nghiêm trọng thì các lá này bị vàng úa và rụng. Các lá non thể hiện triệu chứng muộn hơn do có thể huy động N từ các lá giá. Như vậy triệu chứng thiếu đạm ở lá mía có thể nhận biết bằng việc quan sát mía thấy hiện tượng có lá xanh nhạt ở phía trên và vàng ở phía dưới(N là nguyên tố linh động).

– Lân:

Lân có tác dụng thúc đẩy mía sinh trưởng và phát triển rễ sớm, có vai trò trong sự quang hợp, hộ hấp và các tiến trình khác của cây.
Biểu hiện của cây mía thiếu lân đó là bộ rễ phát triển kém, thân mảnh, lá hẹp ngắn hơn bình thường, chuyển từ mầu xanh đậm sang huyết dụ, mía chín chậm..

Lân cũng như đạm là nguyên tố linh động nên nó biểu hiện từ các lá già sau đó mới chuyển sang các lá non.

– Kali:

Kali có tác dụng điều chỉnh các đặc tính lý hóa của keo nguyên sinh và ảnh hưởng đến tốc đô và chiều hướng của các quá trình xảy ra trong tế bào, Kali điều chỉnh sự đóng mở khí khổng, Kali điều chỉnh dòng vận chuyển các chất hữu cơ trong mạch libe, Kali điều chỉnh tốc độ tích lũy về các chất đồng hóa trong mạch dây đặc biệt là điều chỉnh các chất hữu cơ tích lũy về các cơ quan kinh tế nên có ý nghĩa quan trong trong tăng năng suất kinh tế. Vì vậy, bón kali sẽ làm tăng chữ đường, tăng sinh khối của cây mía.

Ngoài ra Kali còn làm tăng tính chống chịu của mía với các điều kiện ngoại cách bất thuận như tính chống chịu, tính chịu hạn, nóng…

Thiếu Kali cây mía có biểu hiện lá ngắn, hẹp, xuất hiện các chấm đỏ, lá bị khô rồi héo do mất sức trương, triệu chứng quan sát được trước tiên lá xuất hiện đốm vàng hoặc viền quanh mép lá bị mất mầu dần chuyển sang khô, thân ốm mềm, hệ thống rễ phát triển kém.

– Can xi:

Canxi tham gia vào hình thành nên thành tế bào, màng tế bào can xi kết hợp với axit pecinic tao nên pectat canxi có mặt ở lớp giữa của thành gắn chặt các tế bào với nhau thành 1 khối.

Canxi có ý nghĩa quan trọng trong việc trung hòa độ chua và đối kháng với nhiều ion khác trong cây , loại trừ độ độc tinh khiết của các cation có mặt trong chất nguyên sinh như H+, Na+, Al 3+…

Trong đất canxi có tác dụng trung hòa độ chua của đất thuận lợi cho sự sinh trưởng của rễ và hoạt động của vi sinh vật.

Triệu chứng thiếu Canxi của mía: lá già có những đốm mầu vàng, có thể chết sớm. lá non uốn cong hình móc câu, đầu lá vàng , rìa lá bị héo khô, thân ốm, rễ phát triển chậm.

– Silic:

Mía có khả năng hấp thu silic rất cao, silic giúp tăng hiệu quả quá trình quang hợp , tăng khả năng chống hạn, chống úng cho mía.

Thiếu Silic lá có những đốm trắng tròn hoặc bầu dục, lá già cỗi sớm, mía đẻ nhánh kém.

Thiếu silic mía thường dễ đổ và nhiễm các bệnh nấm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam