Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Lạc Tiên

Lạc tiên

Giống: Tại Lâm Đồng chủ yếu sử dụng giống Đài nông 1 (quả tím) và một số giống do các công ty nhập khẩu từ Đài Loan. Hiện nay người ta dùng giống quả tím ghép lên gốc ghép giống quả vàng, để tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, tuyến trùng và khả năng sinh trưởng phát triển,

Chuẩn bị đất: Trước khi trồng cây phải xử lý đất để diệt trừ mầm sâu, bệnh bằng cách cày sâu 30-35cm, nhặt sạch cỏ dại và tàn dư thực vật khác.

Thiết kế đường lô, mật độ khoảng cách trồng:

– Thiết kế đường lô: Thích hợp với những nơi đất bằng phẳng, độ dốc <80, vườn trồng có thể thiết kế theo hình chữ nhật hoặc hình vuông diện tích từ 0,2 – 0,5ha/lô, đường lô rộng 3m. Trồng trên đất dốc, hàng cây phải bố trí theo đường đồng mức để thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư, chăm sóc và thu hoạch.

– Tùy theo điều kiện đất đai, địa hình và khả năng thâm canh, có thể trồng các mật độ: 1.660 cây/ha: khoảng cách 3 x 2m; 1.330 cây/ha: khoảng cách 3 x 2,5m; 1.100 cây/ha: khoảng cách 3 x 3 m; 850 cây/ha: khoảng cách 3 x 4m.

Cách trồng: Hố trồng có kích thước 60x60x60cm, đào một hố nhỏ ở giữa bồn có độ sâu bằng bầu, đặt cây và lấp đất phủ kín bằng mặt bầu. Sau đó rắc thuốc xung quanh để tránh mối, kiến, dế cắn phá. Dùng cây chống cắm xung quanh và dùng các vật liệu che chắn nhằm hạn chế gió.

Tưới nước: Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên vấn đề tưới giữ ẩm và tủ gốc là rất cần thiết. Không để nước ngập úng trong mùa mưa nhưng phải đủ nước tưới trong mùa khô đặc biệt trong giai đoạn cây ra hoa. Định kỳ tưới 2 lần/tuần vào mùa khô.

Bón phân: Cây Lạc tiên rất thích hợp với các loại phân hữu cơ, nhất là phân chuồng ủ hoai. Lượng phân bón cho cây theo giai đoạn sinh trưởng, tuỳ thuộc mật độ trồng khác nhau cần điều chỉnh lượng phân bón cho phù hợp.

Giai đoạn kiến thiết cơ bản (1-6 tháng tuổi)

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, như sau:

+ Phân chuồng hoai: 15-20 tấn; vôi bột: 1.000kg.

+ Phân hóa học (lượng nguyên chất): Bón với tỷ lệ N-P-K: 2-2-1,5. Lượng phân hóa học nguyên chất:  170kg N-170kg P2O-145kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 370kg; super lân: 1.062,5kg; KCl: 242kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 850kg; KCL: 29kg.

* Bón theo cách 1:

Bón lót: Đào hố xong xử lý đất bằng vôi, dùng phân chuồng hoai trộn lẫn với phân lân, vôi hoặc dùng phân hữu cơ vi sinh để bón lót. Thực hiện bón trước khi trồng từ 25-30 ngày với lượng: phân chuồng 15-20 tấn/ha + vôi 1.000kg/ha.

Bón thúc: Phân Ure và kali bón sau trồng 20 ngày, các lần tiếp theo cứ 15 ngày bón 1 lần (chia đều 10-12 lần bón) bón 28-32kg urê + 18-22kg KCL.

Phân lân bón riêng và chia hai lần bón, lần thứ nhất sau khi trồng 60 ngày, lần tiếp theo 150 ngày sau trồng. Bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

* Bón theo cách 2:

Bón lót như cách 1.

Bón thúc: Sau trồng 15 ngày bón 29kg KCL + 70kg NPK 20-20-15 và các lần tiếp theo cứ 15 ngày (chia đều 10-12 lần bón) bón 70-85kg NPK 20-20-15 mỗi lần.

Giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên)

Bón tỷ lệ N-P-K: 2-1-4.

Lượng phân bón cho Lạc tiên mật độ trồng 850cây/ha, giai đoạn kinh doanh (từ 7 tháng tuổi trở lên) như sau:

Phân hóa học bón với tỷ lệ N-P-K: 2-1-4. Lượng phân hóa học nguyên chất:  400kg N-204kg P2O-820kg K2O.

Lưu ý: Đổi lượng phân hóa học nguyên chất qua phân đơn hoặc NPK tương đương:

Cách 1: Ure: 870kg; super lân: 1.275kg; KCl: 1.367kg.

Cách 2: NPK 20-20-15: 1.020kg; Ure: 426kg; KCL: 1.112kg.

* Bón theo cách 1:

Phân đạm và kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 30-40kg Urê + 50-55kg Kaliclorua/ha/lần bón.

Phân lân chia làm 3 lần bón, bón lấp xung quanh bồn (dùng nĩa để nĩa đất nhằm tránh gây đứt rễ).

Trong giai đoạn kinh doanh cần bón thêm phân hữu cơ hoặc phân chuồng hoai với lượng 15-20 tấn/năm, bón 2 lần vào đầu và giữa mùa mưa.

* Bón theo cách 2:

Phân NPK 20-20-15 + đạm + kali (bón khoảng 20 lần), cứ 15-20 ngày bón 1 lần: 50kg NPK 20-20-15 + 20-22kg Urê + 55-60kg Kaliclorua/ha/lần bón.

* Ngoài ra, trong quá trình canh tác cần phun thêm các loại phân bón qua lá có chứa các trung, vi lượng như Ca, Mg, S, B, Mo, Fe,…nhằm thúc đẩy cây sinh trưởng phát triển, kích thích ra hoa đậu trái sau các lần thu họach.

Làm bồn, diệt cỏ dại: Thường xuyên phá lớp váng đất mặt tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển giúp cây sinh trưởng tốt.

Cây Lạc tiên có bộ rễ ăn cạn, cho nên việc diệt cỏ dại chủ yếu dùng biện pháp thủ công, hạn chế tối đa việc làm đứt rễ làm cây dễ nhiễm bệnh.

Làm giàn, tạo hình và tỉa cành lá: Kỹ thuật làm giàn có ảnh hưởng lớn đến việc ra hoa và đậu trái của cây Lạc tiên vì cây chỉ ra hoa ở các mặt đầu cành thứ cấp nằm ngoài mặt tán. Làm giàn theo kiểu chữ T để giúp Lạc tiên phát triển tốt hơn do ánh sáng tiếp xúc bề mặt tán lớn, hạn chế nấm bệnh. Nên làm giàn cao 1,8-2,2m với các trụ tre, gỗ hoặc bê tông, khoảng cách các cột nên cắm theo khoảng cách trồng; bên trên căng lưới thép với khoảng cách ô vuông 40 x 40cm cho cây leo.

Cây mới trồng phát triển chiều cao khoảng 1m thì bấm bớt lá gốc. Cây có bộ lá to, dày, xanh tốt, không bị nấm bệnh là biểu hiện cây sinh trưởng mạnh, đồng thời lá to sẽ giúp cây trao đổi chất tốt hơn do vậy cần chú ý bảo vệ.

Khi cây đã lên giàn cần tạo hình, tỉa bớt lá già hoặc những chỗ mật độ lá quá dày, đặc biệt trong mùa mưa, để hạn chế sâu bệnh gây hại, đồng thời nhằm ức chế sinh trưởng, giúp cho cây ra nhiều nụ, đậu nhiều trái, giúp cây sinh trưởng phát triển tốt.

Sau thu hoạch cắt hết tất cả các cành trên mặt giàn đã cho trái, cây sẽ ra chồi mới, phân cành cấp 2, 3 và các cành quả. Nếu Lạc tiên không được tỉa hoàn toàn vào cuối năm, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển, đặc biệt làm hạn chế đến năng suất các năm sau.

Tạo tầng: Khi cây kín giàn thì kéo các nhánh xuống phía dưới để chủ động tạo nhiều tầng sinh trưởng, nhằm tăng diện tích giàn, tăng năng suất trên một đơn vị diện tích. Tùy theo độ cao của giàn và khả năng sinh trưởng mà ta để nhánh có độ dài, ngắn khác nhau rồi bấm ngọn. Sau khi thu hoạch ta cắt bỏ hết để cho nhú đọt non và tiếp tục tạo tầng mới.

Thu hoạch:  Trái Lạc tiên chín là những trái già tự rụng hoặc khi thấy vỏ trái đã chuyển sang màu tím là thu hái được.

Thu hoạch quả Lạc tiên

Đối với trái ăn tươi bảo quản trong thùng giấy carton hoạc sọt tre theo yêu cầu của người mua hàng.

Đối với trái dùng để múc dịch quả thủ công làm nguyên liệu, đựng trong xô nhựa có lót bịch ny lông, dịch quả được cột chặt trong bịch ny lông và vận chuyển đến nơi chế biến trong ngày. Nếu để lâu phải có kho lạnh bảo quản.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đặc điểm thực vật học và yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh cây Lạc Tiên

1. Đặc điểm thực vật học

Cây Lạc tiên (còn gọi là cây chanh dây, mác mác), tên khoa họcPassiflora edulis Sims, thuộc họ lạc tiên Passifloraceae, bộ Violales. Chi Passiflora hiện có hơn 400 loài, trong đó có khoảng 60 loài cho trái ăn được.

Lạc tiên

Lạc tiên là một loại dây leo, thân nhỏ, hình trụ có rãnh dọc, nhiều lông thưa. Cây mọc leo có khi dài tới hàng chục mét, lá mọc xen, mang lá kèm ở mỗi đốt. Cuống lá dài 2-5cm, mang phiến lá có 3 thùy dài, kích thước lá 10-15 x 12-25cm, bìa phiến có răng cưa nhỏ, tròn đầu. Hoa mọc ở kẽ lá, màu trắng hồng, đài 5 cánh màu xanh lục, cánh hoa dài 2-2,5cm, tràng 5 cánh rời nhau, xếp xen kẽ với các lá đài; tràng phụ do 4-5 hàng sợi trắng, gốc tím, cuống nhụy dài 1,5cm.

Trái hình cầu đến bầu dục, kích thước 4-12 x 4-7cm, màu tím sậm hay vàng chanh, tự rụng khi chín. Hạt có nhiều áo, hạt màu cam. Hạt rất mau mất sức sống (chỉ vài tuần), cây con trồng hạt rất yếu, không đồng đều, dễ nhiễm bệnh vì vậy không nên trồng bằng hạt. Nên trồng lạc tiên bằng cây ghép, giâm cành (bằng cành bánh tẻ), dễ cho nhiều nhánh khỏe bò lan.

Lạc tiên cần nhiều ánh sáng để ra hoa và đậu trái, mầm hoa mọc từ các chồi nách, từ khi thụ phấn đến trái chín là 60-70 ngày (giống trái vàng) hoặc 60-90 ngày (giống trái tím). Lạc tiên có loại giống quả tím và quả vàng:

+ Lạc tiên quả tím (Passiflora edulis Sims): Là loại cây leo lâu năm, lá có 3 khía, màu xanh, có răng cưa, gốc hình quả tim, hoa nở vào sáng sớm, trước trưa hoa cụp lại. Cành mới ra mỗi đốt có một hoa, quả hình tròn hoặc hình trứng đường kính khoảng 4-5cm, khi chín quả có màu tím đậm. Vỏ quả cứng, hạt đen, nhỏ nhiều hạt. Thịt quả vàng, thơm dịu, nhiều nước, có vị chua nhưng rất dễ chịu và cho hương vị trái ngon.

+ Lạc tiên quả vàng (Passifalora edulis F.flavicarpa Degener). Tương tự loại quả tím nhưng phát triển mạnh hơn. Thân, gân, lá, râu leo màu hồng, hoa tím hồng. Gốc hoa màu tím thẫm, quả lớn, vỏ màu vàng, vị thịt quả chua. Hạt màu nâu sẫm. Hoa nở vào ban trưa, 9-10 giờ tối thì cụp lại.

2. Yêu cầu về điều kiện ngoại cảnh

Lạc tiên đòi hỏi khí hậu ấm và ẩm, lượng mưa trung bình từ 1.600mm trở lên, phân bố đều, trong thời kỳ ra hoa ít bị mưa, nhiệt độ thích hợp từ 16-30oC, không có sương muối; độ ẩm từ 75-80%.

Cây lạc tiên có thể trồng những vùng có khí hậu nóng

Cây Lạc tiên không kén đất, có thể trồng ở những vùng có khí hậu nóng, kể cả đất có pH cao, tốt nhất là chọn đất thoát nước tốt, không để nước đọng. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng canh tác sâu >50cm, độ mùn trên 1% và pH 5,5-6. Lạc tiên quả tím thích hợp vùng á nhiệt đới, cao độ 1.000-1.200m so mặt biển cho chất lượng quả tốt. Ngược lại giống quả vàng thích hợp vùng nhiệt đới, độ cao < 600m.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

Hiện nay,  có nhiều nhà vườn đã quen với việc xử lý cho cây trồng ra hoa đậu trái nghịch vụ bằng các loại thuốc kích thích, thuốc BVTV.. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá các loại thuốc này thì chẳng khác nào con dao hai lưỡi do giá thành cao, gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người và làm giảm tuổi thọ của cây.

Quýt nghịch vụ

Để góp phần khắc phục và hạn chế những cách làm cũ, hãy cùng tìm hiểu kỹ các bước xử lý cho cam, quýt ra hoa đậu quả nghịch vụ mà không cần lạm dụng đến hóa chất và thuốc kích thích, thuốc BVTV, mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Kỹ thuật xử lý để Cam, Quýt ra hoa đậu trái nghịch vụ

► Giai đoạn sau thu hoạch

– Bón vôi: Sau khi cuốc đất làm đứt rễ bà con nên phơi khô từ 5-7 ngày sau đó mới bón vôi. Bón vôi bột 1kg/gốc

– Bón phân: Sau khi bón vôi từ 5-7 ngày thì tiến hành bón phân
+ Phân hữu cơ đã ủ hoai mục với Nấm đối kháng Trichoderma NANO: Bón 10-20kg/gốc
+ Phân Urê: 200g
+ Phân DAP: 100g
+ Đậu tương nghiền nhỏ: 1-2,5 kg/gốc tùy tuổi cây
Lượng phân này cũng sẽ chống lại hiện tượng cây ra trái cách niên (tức năm có, năm không). Việc sử dụng Nấm đối kháng trichoderma là rất quan trọng, để ngăn chặn sự xâm hại của tuyến trùng và nấm bệnh gây thối rễ trên cây trồng.

– Phun sương qua lá bằng chế phẩm sinh học theo tỷ lệ 1:2000

► Giai đoạn xử lý ra hoa

– Hái bỏ trái vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch.
– Vào tháng 6-7 âm lịch tiến hàng xiết nước và ngưng tưới để cho cây có thời gian “ngủ nghỉ”. Đến khi có mưa, “đánh thức” cây dậy bằng cách tưới thêm vào những ngày nắng.
– Bón phân: 200g DAP + 50g KCl hoặc 200g AT2. Nửa tháng sau cây ra hoa khoảng 50%.
– Kết hợp phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt. Đến khi cây ra hoa rộ thì dừng phun.
– Tháng 8 âm lịch bón phân bằng 1/2 đợt vừa rồi cho cam ra hoa đợt hai.
– Tháng 9 bón phân liều lượng bằng đợt vừa bón cho cam ra hoa đợt ba.

► Giai đoạn nuôi trái

– Bón phân: 200g NPK 20-10-15 cho một cây.
– Phun phun chế phẩm sinh học qua lá. Theo tỷ lệ 1:2500. Cách 7-15 ngày phun 1 lượt >> Để giúp cây có đủ dinh dưỡng nuôi trái. Hạn chế hiện tượng rụng trái non
– 1 tháng sau bón phân bằng 1/2 đợt bón nuôi trái lần đầu và phun phân bón lá lần hai.
– Neo trái, chống hiện tượng rụng trái: Bón thêm 100g NPK 20-10-15 cho mỗi cây. Đợt này không nên phun phân bón lá vì trái cam không còn lớn và dễ tạo điều kiện cho nấm phát triển trái sẽ bị đen.

► Phòng trừ sâu, bệnh hại

– Nếu có điều kiện, dùng túi chuyên dụng loại 16 x 20cm bao trái lại vào ngày thứ 45 sau đậu trái nhằm bảo vệ trái không bị da lu, da cám do nhện, ngài (bướm), ruồi, bọ xít, nấm… đeo bám.
– Nuôi kiến vàng: Kiến vàng là loài có lợi cho các loại cây có múi vì nó tấn công các loại sâu ăn lá, sâu vẽ bùa, sâu cuốn lá, sâu đục bông, bọ xít, rầy chổng cánh và xua đuổi các loài bướm tới đẻ trứng hoặc ăn ấu trùng của sâu, nhện… Vì vậy nếu có điều kiện nên hốt ổ kiến vàng thả nuôi hoặc giăng dây dẫn dụ chúng từ các cây khác bò sang vườn cây của mình.
– Tưới nước: Tưới bằng mô tơ điện hoặc bơm nước bằng máy dầu ở những nơi không có điện (để đỡ tốn nhiên liệu). Phun trực tiếp vào gốc, lá cây và trái (nếu không bao trái); phun gần sẽ tạo áp lực mạnh làm cho ấu trùng, sâu, nhện đỏ, nhện vàng, nhện trắng… hạn chế rất nhiều do không có khả năng đeo bám.

♦ Lưu ý

– Thu hoạch cam, quýt vụ nghịch vào khoảng tháng 1,2,3 âm lịch là chuyện dễ dàng vì không cần sử dụng phân và thuốc kích thích, cây vẫn ra hoa bình thường, nhưng thời điểm này giá thành cam chỉ ở mức trung bình, khoảng 4.000 – 5.000đ/kg.
– Điều khiển sao cho thu hoạch cam vào khoảng tháng 4 – 5 âm lịch lúc thị trường cần và khan hiếm sẽ bán được giá cao hơn, khoảng 15.000 – 20.000đ/kg, gấp 6 lần so với vụ thuận.
– Nên tuyển chọn hái bỏ bớt trái xấu, giữ lại những trái đẹp, kích cỡ đồng đều sẽ bán được giá cao, cây sẽ kéo dài thêm tuổi thọ.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Cụ ông trồng Quýt hồng thu tỉ đồng

Những ngày tháng Chạp gần Tết, dọc theo các con đường nhỏ dẫn lên đỉnh núi Cấm, những vườn quýt hồng bạt ngàn sai trĩu quả. Người dân đang chăm sóc, chuẩn bị thu hoạch bán Tết. Bà con cho biết quýt hồng ở đây có vị ngọt thanh, để lâu ngày trái vẫn tươi ngon nên rất được ưa chuộng.

Ông Trần Thanh Tùng tại trang trại quýt hồng trên núi cấm

Thương lái, bạn hàng đến tận nơi đặt mua với giá 26.000 đồng/kg. Trang trại quýt hồng của gia đình cụ ông Trần Thanh Tùng thu hoạch khoảng 70 tấn trái, lợi nhuận bạc tỉ.

Trồng quýt trên núi đá

Ông Tùng kể, trước đây ông luôn trăn trở làm sao để thoát nghèo, vì rằng đất triền núi Cấm vốn ít màu mỡ, lại thiếu nước trong mùa khô, trước kia trồng xoài, mít, dưa, su su… thu nhập chỉ tạm đắp đổi qua ngày. Một lần rảo quanh mấy vách đá, ông phát hiện 5 cây quýt hồng do người vợ rải hạt năm nào nay đang sai trái. Hái ăn thử thấy trái ngọt thanh hơn cả quýt hồng dưới đồng bằng, ông Tùng bàn với vợ con: “Chắc nhờ đất đai, thời tiết ở đây hợp với giống quýt hồng. Mình nên thử trồng đại trà!”.

Ông Tùng lặn lội đến vùng Lai Vung (Đồng Tháp) tìm hiểu cách trồng quýt hồng rồi mua hơn chục cây giống. Từ 15 cây quýt ban đầu, gia đình ông chịu khó chăm sóc, lần lượt chiết nhánh, dâm cành. Đất trên núi nhiều đá sỏi, độ dốc cao, phải đào hàng trăm hố sâu, đưa đất mùn, tủ thêm lá rụng xuống hố rồi mới đem trồng từng cây con.

Suốt mùa khô khe suối cạn trơ đáy, gia đình lặn lội xách nước từ xa về tưới từng cây một, cơ cực trăm bề.

Tết năm 2000, gia đình ông Tùng hái trái từ 150 gốc quýt trĩu cành sum suê, đưa xuống núi bán thu lợi hơn 60 triệu đồng. “Mừng như bắt được vàng, năm đó lần đầu tiên ăn Tết lớn, phấn khởi lắm!” ông Tùng nhớ lại.

Thừa thắng xông lên, gia đình ông Tùng mở rộng diện tích chuyên canh quýt hồng. Từ năm 2010, gia đình ông Tùng sở hữu trên 1.500 gốc quýt hồng, mỗi dịp Tết bán trái thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng.

Thương hiệu quýt hồng

Nhờ chủ động được nguồn nước tưới, nắm vững kỹ thuật, gia đình ông Tùng mở rộng thêm diện tích trồng quýt hồng và trồng thêm 1ha quýt đường. Anh Trần Thanh Thảo, con trai ông Tùng cho hay 2 tháng trước Tết Mậu Tuất đã bán hơn 30 tấn trái quýt đường với giá 14.000 đồng/kg, thu lợi 440 triệu đồng. Riêng 3ha quýt hồng thu hoạch vào dịp cận Tết này cho 70 tấn trái, lợi nhuận 1,4 tỉ đồng.

“Quýt trên núi chủ yếu bón phân hữu cơ, phân chuồng. Từ khi bắt đầu đậu trái không xài thuốc trừ sâu nên trái luôn tươi, ngọt tự nhiên, lại để chưng được lâu ngày nên bán khá chạy”, chị Nguyễn Thị Hiền, một thương lái mua quýt, cho hay.

Ông Châu Khon, Phó chủ tịch UBND xã An Hảo, khen ngợi gia đình ông Tùng đã biến đất núi đá cằn khô thành trang trại quýt hồng trù phú, lợi nhuận bạc tỉ. Vì vậy, mấy năm nay địa phương đã giới thiệu và cho nhân rộng mô hình này.

Gia đình ông Tùng thường cung cấp giống và sẵn lòng hướng dẫn kỹ thuật canh tác cho người dân quanh vùng. Hiện đã có 30 hộ dân trên núi mạnh dạn cải tạo đất, tích trữ nước, lập vườn trồng quýt hồng, rồi trồng thêm quýt đường với tổng diện tích 40ha cho lợi nhuận khá cao.

“Lập vườn trồng quýt trên núi Cấm giúp đời sống bà con khấm khá hơn, đón Tết cũng sung túc”, ông Khon hồ hởi nói.

Ông Trần Hiếu Thuận, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Tịnh Biên, cho biết núi Cấm cao hơn 700m, không khí trong lành, thời tiết mát mẻ quanh năm nên quýt hồng trồng nơi đây có vị ngọt thanh đặc trưng.

“Tới đây ngành nông nghiệp phối hợp cùng Đại học An Giang, nhà khoa học khảo sát nghiên cứu hoàn thiện thêm mô hình, cho quy hoạch vùng chuyên canh quýt hồng, vừa phục vụ phát triển du lịch, từng bước tiến tới xây dựng thương hiệu quýt hồng núi Cấm”, ông Thuận nói.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đếm tiền mỏi tay nhờ vào trồng Quýt đường

Nhận thấy cây quýt đường đem lại hiệu quả kinh tế cao, anh Lê Công Khanh, 39 tuổi, ở ấp 7, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh (Bình Phước) mạnh dạn đầu tư trồng 13ha. Từ đó, mô hình này giúp cho gia đình anh thu về 5 tỷ đồng mỗi năm.

 

Anh Lê Công Khanh mạnh dạn làm giàu nhờ vào cây quýt đường

Dẫn chúng tôi tham quan vườn quýt đường, Lê Công Khanh với tay hái những trái quýt chín vàng trên cây trĩu quả bóc mời khách. Mùi hương của từng chùm quýt đường chín vườn khiến ai cũng muốn thử. Quả đúng như chủ vườn giới thiệu, những trái quýt đường ở đây ngọt lịm, mọng nước và ít hạt.

Anh Khanh cho biết, để có được một vườn quýt đường đạt năng suất cao như hiện nay do gia đình anh biết vận dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào việc trồng và chăm sóc. Theo anh Khanh, quýt đường không kén đất, nhưng muốn đạt năng suất cao, với đất giàu dinh dưỡng khoảng cách trồng 4x4m, nếu đất bạc màu thì khoảng cách là 3x4m, như vậy tán mới phát triển mạnh cho nhiều hoa, quả. Ngoài ra, biết cách phòng chống dịch bệnh gây hại, khi đó năng suất sẽ đạt cao.

Theo kinh nghiệm của anh Khanh, cây quýt đường thường mắc các loại bệnh như xì mủ, vàng lá gân xanh, xì phèn và các loại côn trùng gây hại. Để phòng các loại bệnh này một cách hiệu quả, người trồng phải tuân thủ chặt chẽ từ khâu chọn, cải tạo đất thích hợp; cây giống phải sạch bệnh, sinh trưởng tốt. Mặt khác, phải thường xuyên thăm vườn để phát hiện sâu, bệnh sớm nhằm có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Việc bón phân không theo chu kỳ mà dựa vào độ tuổi và sự tăng trưởng của cây.

Để quýt đường sinh trưởng tốt và cho năng suất cao, anh Khanh sử dụng kết hợp bón phân hóa học và hữu cơ bằng hình thức lên men, sử dụng phân chuồng ủ với men vi sinh Trichoderma. Cứ 2 tháng bón 1 lần nhằm bổ sung chất dinh dưỡng cho cây. Bên cạnh đó, cỏ giữ ẩm cho đất rất tốt, mùa mưa chống xói mòn, người trồng quýt không nên làm quá sạch vườn và phun thuốc diệt cỏ nhiều sẽ có hại cho quá trình phát triển của cây.

Anh Khanh lưu ý, cây quýt cần nhiều nước nên việc tưới tiêu rất quan trọng, đặc biệt vào mùa khô, nếu thiếu nước cây sẽ không phát triển. Cần cung cấp đủ canxi để cây giải độc, tăng khả năng chống chịu khi thời tiết thay đổi, hạn chế việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Làm đất tốt, chăm sóc kỹ sẽ kéo dài tuổi thọ cho cây lên đến 12 năm. Khi cây cho trái rộ phải làm hệ thống giàn đỡ để cành không bị gãy. Bên cạnh đó, trồng quýt đường cần vốn đầu tư lớn, rất khó chăm sóc. Do đó, đòi hỏi người trồng phải có lòng đam mê, kiên trì thực hiện đúng kỹ thuật thì việc thu hồi vốn và ước mơ làm giàu sẽ trong tầm tay. Đây là mô hình làm giàu từ nông nghiệp hiệu quả.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật nên hơn 13ha quýt đường của gia đình anh Khanh rất ít bị nhiễm bệnh. Với giá bán trung bình 25.000 đồng/kg, trừ chi phí, gia đình anh thu về 5 tỷ đồng mỗi năm. Hiện anh Khanh tiếp tục mở rộng diện tích sản xuất và chuyên canh cây quýt đường, đồng thời hướng đến trồng theo tiêu chuẩn VietGAP.

Nguồn: danviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Hướng dẫn cách trồng Quýt thái đúng cách và đạt hiệu quả cao

Quýt thái là loại cây có xuất xứ từ Thái Lan, cho trái ngọt, dinh dưỡng cao, không hạt, vỏ vàng. Khả năng phát triển của quýt thái rất mạnh, ưa nắng, chịu được các vùng đất khó trồng như đất phèn, thậm chí là đất mặt.

Quýt thái

1. Tiêu chuẩn chọn giống

Chọn giống biết rõ nguồn gốc, bố mẹ có phẩm chất tốt (trái thơm ngon, màu sắc trái xanh vàng, bề mặt vỏ sần, trái hình cầu, hơi dẹp hai đầu, thịt trái màu cam, mềm, nhiều nước…), lá hình trứng màu xanh đậm, trọng lượng trung bình 250g, ít hạt.

2. Thời vụ và mật độ trồng quýt thái

Cây có múi thường được trồng vào đầu mùa mưa để đỡ công tưới, tuy nhiên cũng có thể trồng được quanh năm nếu chủ động nguồn nước tưới. Tuỳ theo giống, đất đai, khí hậu, khoảng cách trồng có thể : 5 x 4m, 4 x 4m, 3 x 4m.

3. Làm đất và đào hố trồng quýt thái

Trước khi trồng quýt thái thì nên cày sâu 40 – 45cm, bừa nhỏ và phẳng, nhặt hết cỏ. Đào hố rộng 60 -80cm, sâu 60cm;
Dùng đất tốt như đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông … để đắp mô. Mô có hình tròn, đường kính 0,6 – 0,8 m; cao 0,3 – 0,5 m (tùy theo điều kiện tưới tiêu của từng vùng mà đắp mô cho phù hợp). Đất đắp mô có thể trộn thêm phân hữu cơ để hạ phèn đồng thời là nguồn thức an cho vi sinh vật có lợi trong đất hoạt động, tưới nấm Trico để ngừa vàng lá thối rễ do Fusarium gây ra, xử lý đất bằng Furadan để trừ côn trùng cắn phá rễ non.

4. Phân bón lót

Bón phân theo lượng như sau: phân hữu cơ: 30 – 50kg + Supe lân: 250 – 300 gam + Kali: 200 – 250 gam + Vôi bột 1 kg. Trước khi trồng quýt thái nên trộn tro trấu, phân chuồng hoai mục vào mô, xử lý đất bằng Furadan để trừ côn trùng.

5. Cách trồng cây quýt thái đúng cách

Tốt nhất là khi nhổ cây con từ vườn ươm đem trồng nên có bầu đất. Nếu không có đất thì phải lấy bùn nhão bọc rễ. Khi trồng, đặt cây con vào giữa hố đã được đào sẵn, bộ rễ được rải hoàn toàn dễ chịu , đắp đất xong thì hơi nhẹ tay kéo cây con lên một chút. Trồng quýt thái xong phải tưới nước, cắm cành chống đổ, phủ rơm cỏ quanh gốc để giữ độ ẩm cho đất, ngắt bớt một phần lá và cành yếu để tăng tỉ lệ sống cho cây.

6. Kỹ thuật chăm sóc cây quýt thái

6.1. Kỹ thuật chăm sóc định kỳ
Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.
6.2. Kỹ thuật cắt tỉa, tạo hình
Khi cây hồi phục sau trồng, cắt ngọn để cây chỉ cao 30 – 40 cm, để 6-8 mầm khoẻ cách nhau 7 – 10 cm từ mầm nẩy ra từ gốc ghép. Quýt ra hoa trên cành non mới sinh nên cần đốn bỏ cành già, cành bệnh để kích thích cây ra cành mới (nên bón phân trước khi đốn).
6.3. Kỹ thuật bón phân cho cây quýt thái
Tùy theo đất, giống và tình trạng dinh dưỡng của cây mà quyết định lượng phân bón thích hợp, cần cung cấp đầy đủ đạm, lân, kali; bổ sung thêm phân hữu cơ và vi lượng để cây đạt năng suất cao– Đối với cây 1 – 2 năm tuổi:
+ Phân đạm: nên pha phân vào nước để tưới, 2 – 3 tháng tưới một lần.
+ Phân lân và kali: Bón một lần vào cuối mùa mưa.

– Đối với cây trưởng thành: chia làm 4 lần bón/năm.
* Lần 1: Trước khi cây ra hoa: bón 1/3 Urê
* Lần 2: Sau khi đậu trái 6 – 8 tuần: bón 1/3 Urê + 1/2 kali.
* Lần 3: Trước thu hoạch trái 1 – 2 tháng: bón 1/2 kali còn lại.
* Lần 4: Sau khi thu hoạch trái bón toàn bộ lân và 1/3 Urê.

– Kết hợp bón 10 – 20kg phân hữu cơ/gốc/năm.
– Cách bón: Dựa theo tán cây để bón, cuốc rãnh sâu 5 – 10cm; rộng 10 – 20cm cách gốc 0,5 – 1m (tùy tán cây); cho phân vào, lấp đất lại và tưới nước.
– Khi cây giao tán nên dùng cuốc xúp nhẹ lớp đất xung quanh gốc theo hình chiếu của tán, cách gốc khoảng 50cm. Tưới đẫm liếp trước, sau đó rải phân thẳng lên mặt liếp. Hằng năm cần bón thêm phân hữu cơ cho cây nhằm vừa cung cấp dinh dưỡng cho cây, vừa giúp đất tơi xốp, giúp bộ rễ cây phát triển tốt.

Nếu bón phân chuồng nên bón phân hoai để giảm ô nhiễm môi trường và hạn chế được nấm bệnh (có trong phân chưa hoai). Cần bón vôi hàng năm với lượng 200 – 500kg/ha/năm có thể bón đến 1.000kg/ha/năm. Để cung cấp thêm vi lượng cho cây, có thể bón thêm phân qua lá vào giai đoạn cây ra lá non và khi trái bắt đầu phát triển nhanh, mỗi lần phun cách nhau 10 – 15 ngày, phun 4 – 5 lần/vụ.

7. Phòng trừ sâu bệnh cho cây quýt thái

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo chỉ dẫn trên nhãn bao bì của từng loại thuốc.
+ Sâu vẽ bùa: (từ tháng 4 – tháng 10) phun Wofatox 0,1 – 0,2% hoặc BI58 0,2% xen kẽ với sunfat nicôtin 0,2%.
+ Sâu nhớt: (tháng 2 – 4) Phun Wofatox 0,2% hoặc DDT sữa 25% trước và sau khi nở hoa.
+ Nhện đỏ (mùa Đông và Xuân): Phun Wofatox 0,1 – 0,2%; hoặc phun Kentan 0,1%.
+ Nhện trắng: Vệ sinh vườn mùa Đông; phun Wofatox 0,1 – 0,2%; BI 580,1%; Kentan 0,1%.
+ Sâu đục cành (từ tháng 5 – 6); Diệt sâu trưởng thành: Dùng vợt bắt, dùng Wolfatox 0,1% quấn chặt thân cây và cành to (khi sâu bắt đầu vũ hoá).
Trừ sâu non: Cắt cành héo, dùng kẽm luồn vào cành to, hoặc dùng ống tiêm bơm Wofatox hoặc BI58 0,5 – 1% vào đường hầm của sâu non.
+ Sâu đục thân (tháng 5 – 6): Bắt sâu trưởng thành, dùng móc thép giết sâu non hoặc tiêm Wofatox 1% vào các lỗ có phân mới đùn ra; Sau mùa thu hoạch quả, quét vôi gốc cây; nơi bị nặng cần quét lưu huỳnh – vôi; dùng bông tẩm 6666% hoặc DDT + dầu quả (1:1) nhét vào lỗ sâu và bịt kín miệng.
+ Sâu đục gốc (tháng 5 – 6): Bắt sâu trưởng thành vào buổi trưa; tiêm, Wofatox 1% vào các lỗ có phân mới đùn ra; Sau mùa thu hoạch quả, quét vôi với gốc cây; nơi bị nặng cần quét lưu huỳnh vôi; dùng bông tẩm 6666% hoặc DDT + dầu quả (1:1) nhét vào lỗ sâu và bịt kín miệng.
+ Ruồi vàng (tháng 5 -11): Phun Wofatox 0,1% hoặc Dipterex 50% (1:600).
+ Sâu hại hoa: Rắc bột 666 ở gốc quýt; khi đường kính nụ hoa 2 – 3mm phun DDT sữa 25% 1/300 hoặc 666 (6%); Cách 7 ngày phun 1lần.
+ Các loại rệp: Ngắt các cành có rệp, phun Wofatox, BI58 hoặc Metinparation 0,1%.
+ Rầy xám (rầy chổng cánh): Phun Wofatox, BI58, Metinparation 0,1%
+ Bệnh greening: Trồng cây quýt thái sạch bệnh; giảm số lượng côn trùng môi giới trong tự nhiên.
+ Bệnh loét do vi khuẩn: Vệ sinh vườn, cắt bỏ cánh, phun Bordeaux 1%, Zineb 0,5-1%.
+ Bệnh sẹo: Phun Bordeaux 1%, Zineb 0,5% vào đầu mùa hè.
+ Bệnh muội đen: Diệt trừ các loại rệp, rầy hại cam; phun Wofatox 0,1%-0,2%, BI58 0,1%.
+ Bệnh thối nâu: Phun Bordeaux 0,1% hoặc oxychlorua đồng 0,3%.
+ Bệnh thâm quả: Phun Bordeaux 1% hoặc Zineb 0,5%.

8. Thu hoạch và bảo quản

Thời gian thu hái khác nhau tuỳ thuộc vào giống chín sớm hoặc chín muộn. Thu hoạch khi 1/3 vỏ quả đã chuyển vàng. Nên thu hoạch vào những ngày khô ráo.
Trên đây chính là cách trồng quýt thái đúng cách và đạt hiệu quả cao được chọn lọc kỹ càng, hy vọng bà con sớm thu hoạch được mùa vụ đầu tiên.
Thu hoạch quýt thái
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng cây Quýt đường cho năng suất vượt trội

Kỹ thuật trồng cây quýt đường hiện được nhiều nơi áp dụng không chỉ bởi nó mang lại nguồn dinh dưỡng cao mà còn cho năng suất cực cao cho người trồng.

Quýt đường được cho là loại quả giàu dinh dưỡng tốt cho sức khỏe. Không những múi quýt tốt mà vỏ quýt cũng được sử dụng làm thuốc trong đông y. Đây cũng là món được tráng miệng sau mỗi bữa cơm, loại quả ngon, bổ, rẻ được nhiều bà nội trợ tin dùng. Nhận biết được nhu cầu cao của thị trường nên hiện nhiều nơi áp dụng kỹ thuật trồng cây quýt đường này rất phổ biến. Tuy nhiên để mang lại hiệu quả kinh tế cao thì không phải bà con nào cũng biết cách áp dụng.

Thời vụ trồng cây quýt đường

Thời điểm thích hợp để trồng quýt đường là vào cuối mùa khô đầu mùa mưa tầm tháng 4-5 dương lịch.

Kỹ thuật trồng cây quýt đường

Theo các chuyên gia nông nghiệp và kinh nghiệm trồng quýt đường của nhiều nhà vườn cho biết, đây là cây dễ trồng, có thể trồng được trên đất thịt, đất sỏi đỏ…miễn là tránh không để bị ngập úng. Vào mùa khô cây phải được tưới đủ nước, mùa mưa phải làm rãnh thoát nước. Vì thế, tùy vào loại đất sỏi hay thịt, địa hình dốc hay bằng, trũng hay cao mà người trồng có chế độ cung cấp nước, phân bón phù hợp đồng thời thường xuyên kiểm tra để phát hiện sâu bệnh kịp thời khắc phục.

Trước khi tiến hành trồng cần cày đất sâu 40 – 45 cm, đào hố rộng 60 – 80 cm, sâu 60 cm sau đó phơi ải hố từ 20 – 25 ngày. Lưu ý cần bón lót phân chuồng hoai + supe lân + kali sunfat + vôi bột. Trộn đều phân với đất mặt để lấp hố. Dùng cuốc moi đất chính giữa hố vừa lớn hơn bầu cây con.

Cách chăm sóc cây quýt đường

Chăm sóc cây quýt đường cần phải chú ý đến việc tưới nước sao cho vừa đủ không được quá sũng gây ngập rễ. Trong tháng đâu tiên trồng quýt đường cứ khoảng từ 3 tới 5 ngày tưới một lần trong tháng đầu tiên. Tưới nước là cần thiết, đặc biệt vào mùa khô. Luôn cần độ ẩm đất ổn định.

Trồng quýt đường cũng giống như nhiều loại cây trồng khác đó là việc bón phân thúc cây phát triển rất quan trọng. Trong khi đó cây quýt cần rất nhiều chất dinh dưỡng, nhất là thời kì cây ra đọt non, ra hoa kết trái. Muốn cây cho trái năng suất cao, phẩm chất ngon thì phải cung cấp đầy đủ và hợp lí dinh dưỡng cho cây, tùy theo đất tốt hay xấu, giống và tình trạng sinh trưởng của cây mà quyết định bón phân sao cho thích hợp, cân đối.

Phòng trừ sâu bệnh hại cây

Trồng quýt đường phải để ý và quan sát kỹ bởi rất nhiều loại sâu bệnh hại cây từ sâu bò vẽ bùa xuất hiện từ tháng 4 – tháng 10 sử dụng thuốc phun Wofatox 0,1 – 0,2% hoặc BI58 0,2% xen kẽ với sunfat nicôtin 0,2%. Sâu nhớt xuất hiện từ tháng 2 – 4 bạn nên Phun Wofatox 0,2% hoặc DDT sữa 25% trước và sau khi nở hoa. Ngoài ra còn nhện đỏ có mặt vào mùa Đông và Xuân nên Phun Wofatox 0,1 – 0,2%; hoặc phun Kentan 0,1%. Nhện trắng và nhất là sâu đục cành xuất hiện từ tháng 5 – 6.

Cắt tỉa cành tạo tán

Kỹ thuật cắt tỉa cành và tạo tán cho cây quyết định rất nhiều tới năng suất cây trồng. Do đó, ngay từ khi cây hồi phục sau trồng, cắt ngọn để cây chỉ cao 30 – 40 cm, để 6-8 mầm khỏe cách nhau 7 – 10 cm từ mầm nẩy ra từ gốc ghép. Quýt ra hoa trên cành non mới sinh nên cần đốn bỏ cành già, cành bệnh để kích thích cây ra cành mới. Tùy theo khoảng cách trồng mà cắt tỉa cành cho cân đối, tán tỏa đều quanh gốc. Sau mỗi vụ thu hoạch cần rong tỉa các cành già, bệnh để cây ra hoa và đọt non mới cho những năm tiếp theo.

Xử lý ra hoa cho quýt đường

Để cây ra hoa đồng loạt, tăng tỷ lệ thụ phấn và đậu trái cần tiến hành xử lý ra hoa bằng cách ngưng tưới nước, nếu trồng trên mô, cần rút nước khỏi mương. Khi thấy cây héo thì tiến hành tưới nước để cây bung đọt, ra hoa.

Thu hoạch quýt đường

Quýt đường từ khi ra hoa đến thu hoạch khoảng 8-10 tháng,…thời gian thu hoạch phải có nắng khô ráo, không nên thu trái sau mưa hoặc có mù sương nhiều vì trái dễ bị ẩm thối. Quýt thu xong cần bảo quản kỹ để nơi thoáng mát, không nên tồn trữ quá 15 ngày sẽ giảm giá trị thương phẩm.

Quýt đường sai trĩu quả nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Vai trò của chất điều hòa pH trong thâm canh hồ tiêu

Thiên nhiên biệt đãi cho Tây Nguyên có tầng đất đỏ bazan để phát triển nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao.

Hồ tiêu tại Tây Nguyên

Tuy nhiên qua nhiều năm khai thác mạnh, nhiều vùng đất đã bị thoái hóa, bạc màu dẫn đến sức sản xuất thấp.

Đất bị rửa trôi

Ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, do đặc điểm địa hình đồi dốc và mưa nhiều, tập trung theo mùa gây ra hiện tượng xói mòn, rửa trôi đất rất lớn, kéo theo một lượng dinh dưỡng đáng kể bị mất đi.

Từ đó, đất ngày càng thoái hoá và giảm sức SX. Các loại đất đỏ bazan, nâu đỏ và đỏ vàng (gọi tắt là đất đỏ hay Ferralsols) bị chua hoá ngày càng trầm trọng.

So với 10 – 20 năm trước thì hiện nay, các loại đất này có giá trị pH giảm đến một đơn vị và bình quân pH đất hiện tại vùng Tây Nguyên khoảng trên dưới giá trị 4,5. Đây là ngưỡng giá trị pH được đánh giá là rất chua.

Khi đất càng chua (pH càng thấp), các quá trình hoá học và sinh học xảy ra trong đất theo hướng bất lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng nói chung, cây hồ tiêu trồng trên đất đỏ nói riêng.

Mặc dù cây hồ tiêu có thể sinh trưởng trên đất có pH thấp, nhưng khi pH đất < 5,5 thì hàm lượng nhôm (Al3+) di động trong đất càng tăng lên. Nhất là đối với nhóm đất đỏ thường có thành phần Fe và Al rất cao so với nhóm đất khác như đất xám.

Do vậy, hiện tượng ngộ độc Al (có thể thêm ngộ độc Mn, nếu pH đất < 5,0) đối với cây hồ tiêu là điều khó tránh khỏi. Khi bộ rễ của cây hồ tiêu bị ngộ độc Al hay Mn sẽ bị còi cọc và thui chột, hạn chế rất lớn đến khả năng hút chất dinh dưỡng, phân bón và nước trong đất.

Thân cành và tán lá trên mặt đất sẽ sinh trưởng kém, dễ bị sâu bệnh tấn công, vàng lá và chết nếu bị ngộ độc nặng và kéo dài.

Do vậy, mặc dù bón nhiều lân, nhưng hàm lượng lân sẵn có cho rễ cây hồ tiêu hút lại thấp và hiệu quả sử dụng phân lân thấp. Ngoài ra, các dinh dưỡng đa, trung và vi lượng như N, K, Ca, Mg, Zn, Cu, B và Mo sẵn có trong đất càng thấp khi pH càng giảm.

Trong đất luôn tồn tại hai dạng vi sinh vật có lợi và có hại liên quan đến dinh dưỡng và dịch bệnh trên cây hồ tiêu. Đất càng chua vi sinh vật có hại thường phát huy các tính năng của chúng, lấn át các loại vi sinh vật có lợi, làm giảm khả năng phân huỷ chất hữu cơ, giải phóng đạm và lân dễ tiêu cho cây.

pH thấp cũng tạo điều kiện cho dịch bệnh trên cây hồ tiêu, đặc biệt là bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora và bệnh chết chậm do tuyến trùng và nấm Fusarium gây ra càng phát triển.

Như vậy, pH đất có mối liên quan chặt chẽ đối với hầu hết các chất dinh dưỡng, nấm và tuyến trùng gây bệnh cho cây hồ tiêu. Trồng hồ tiêu trên đất quá chua, cây không hút được dinh dưỡng, sức khoẻ của cây yếu ớt, khả năng tấn công của nấm gây bệnh càng dễ dàng.

Giải pháp thâm canh nhờ vào điều chỉnh pH

Nhằm phát triển cây hồ tiêu đạt năng suất cao và ổn định qua nhiều năm, trước khi bón bất kỳ một loại phân bón nào để cung cấp dinh dưỡng cho cây thì phải nghĩ đến việc cải thiện hay nâng cao giá trị pH của đất.

Nếu làm được điều này thì chắc chắn sẽ tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm chi phí đầu tư và phòng tránh được các loại bệnh nguy hiểm trên cây hồ tiêu.

Biện pháp cải thiện pH đất hiệu quả nhất là sử dụng các chế phẩm có khả năng điều hoà pH đất nhằm mục tiêu đưa giá trị pH lên mức từ 6 – 6,5 là ngưỡng tối ưu cho cây hồ tiêu sinh trưởng, phát triển thuận lợi.

Từ việc nhận thức rõ tầm quan trọng của yếu tố pH đất đối với cây trồng, Cty CP Công nông nghiệp Tiến Nông đã nghiên cứu cho ra đời sản phẩm chất điều hòa pH đất.

Đây là sản phẩm kế thừa và phát huy những kinh nghiệm nhiều năm của bà con nông dân cả nước nhằm tiếp tục phát huy vai trò của vôi trong đất.

Nếu như trong vôi chỉ có Canxi có trong thành phần CaCO3, thì trong chất điều hòa pH ngoài Canxi còn có Magie, Silic, các vi lượng đều là chất dinh dưỡng cho cây.

Ngoài ra còn có các bon hoạt tính, do vậy ngoài việc nâng cao pH đất còn có tác dụng đối với việc cải tạo độ phì của đất và kết tủa các kim loại có thể gây độc cho cây.

Khi bón chất điều hòa pH Tiến Nông, pH đất sẽ tăng từ từ, tránh hiện tượng gây sốc và giúp cây hấp thu các dinh dưỡng đa, trung và vi lượng một cách hiệu quả hơn. Việc sử dụng chất điều hòa pH phải tuân thủ đúng hướng dẫn, liều lượng trên bao bì thì hiệu quả mới cao.

Thực tế tại huyện Chư Sê (Gia Lai) cho thấy, qua hai năm sử dụng chất điều hòa pH cho cây hồ tiêu, đã đạt được kết quả rất tốt.

Cụ thể là, đối với đất có pH rất thấp (4 – 4,6), cây sinh trưởng kém, bộ lá vàng, khả năng phân hoá đọt non kém và rụng đốt. Sau khi sử dụng chất điều hoà pH thì pH đất đã tăng lên từ 5,8 – 6,3; đồng thời giúp cho cây cây sinh trưởng tốt, bộ lá phát triển xanh tốt, đọt ra đều.

Nguồn: http://tnnn.hoinongdan.org.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Táo trong nhà lưới

Người trồng táo thường lo ngại nạn ruồi vàng, khó phòng trừ và làm giảm năng suất. Tuy nhiên nếu áp dụng kỹ thuật làm nhà lưới sẽ đem lại hiệu quả cao.

Nhà lưới ngăn được ruồi vàng hại táo

Vừa qua, tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội, Viện Nghiên cứu Rau quả đã phối hợp với Sở NN&PTNT Hà Nội đánh giá mô hình trồng thâm canh giống 11 Táo 05.

Đây là giống táo rất sai quả và quả to nên dễ bị gẫy cành. Ngoài ra, trong một số năm gần đây trên cây táo nói chung, giống 11 Táo 05 nói riêng thường bị ruồi vàng gây hại nặng. Đây là đối tượng dịch hại nguy hiểm, rất khó phòng trừ hiệu quả, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng suất, sản lượng và thu nhập của người chuyên canh táo.

Trước những thực tế nói trên, các nhà khoa học Viện Nghiên cứu Rau quả đã nghiên cứu xây dựng mô hình làm nhà lưới ngăn côn trùng và giàn đỡ cành quả cho cây táo.

Mô hình thử nghiệm trình diễn trên 300 cây giống 11 Táo 05 (diện tích 5.000m2), bao phủ toàn phần bằng lưới ngăn côn trùng từ khi vườn cây bắt đầu có quả non đến kết thúc thu hoạch. Giàn đỡ cành quả được tận dụng từ các dây điện thoại phế liệu, căng cố định vào các cọc nhà lưới và thân cây.

Kết quả điều tra theo dõi cho thấy, 100% số cây táo trong vườn có nhà lưới bao phủ và giàn đỡ cành quả, không bị ruồi vàng và nhiều đổi tượng côn trùng khác gây hại. Cây táo không bị gẫy cành. Nhà vườn đã thu hái lứa quả sớm. Giá bán 50.000 đồng/kg. Dự kiến năng suất cả vụ sẽ đạt trên 18 – 20 tấn/ha. Chất lượng không thay đổi so với quả táo trên cây giống tác giả.

Chị Ngô Thị Loan là nông dân trực tiếp thực hiện mô hình (do Viện Nghiên cứu Rau quả chuyển giao) cho biết: Năm 2016 nhiều gia đình trồng táo ở đây đã bị mất trắng do ruồi vàng gây hại. Gia đình chị trồng giống 11 Táo 05 đỡ bị ruồi vàng hơn, nhưng cũng mất 30% sản lượng. Năm nay có nhà lưới, có giàn đỡ cành cây, không sơ sẩy mất quả nào, chắc chắn gia đình chị sẽ được thu 400 – 450 triệu đồng, trừ mọi chi phí đầu tư còn “bỏ ống” được 350 triệu đồng/300 gốc táo.

Chị Loan còn nói vui nhưng rất thật với chúng tôi: “Giống táo này đều quả lắm, chỉ 8 – 10 quả/kg, chất lượng thì thôi rồi! Đưa đầu lưỡi chạm vào da thịt quả là vị ngọt mát đã lan xuống tận chân răng, nên giống 11 Táo 05 ra chợ bao giờ cũng được khách mua hết trước, giá bán cao gấp 2 – 3 lần các loại táo khác”.

Mang những điều ghi nhận được chia sẻ với các chuyên gia nông học chúng tôi mới biết, trong nghiên cứu khoa học để tạo ra được một giống cây trồng mới, đồng thời có được 2 yếu tố năng suất, chất lượng cao là rất khó! Riêng giống 11 Táo 05 đã hội tụ được cả 2 tiêu chí này, có thể coi là giống quý hiếm.

PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả chia sẻ, để thâm canh giống 11 Táo 05 đạt hiệu quả cao, ngoài áp dụng quy trình kỹ thuật chung cho cây táo, nhà vườn nên làm nhà lưới cố định quanh năm để ngăn côn trùng, vì khấu hao nhà lưới mỗi năm chỉ khoảng 1.000.000 đồng/sào (360m2). Cũng có thể chỉ cần bao phủ vườn cây từ khi nhú quả non đến kết thúc thu hoạch. Mái lưới cần cao hơn ngọn cây 0,5 – 1m để thuận tiện cho chăm sóc và thu hoạch. Trồng xen các cây họ đậu từ sau khi đốn táo đến khi cây tái sinh giao tán, giúp tăng thu nhập và bồi dục đất.

Lưới giúp ngăn chặn sâu hại táo, cho quả có chất lượng tốt

Táo là loại quả ăn tươi trực tiếp, phải rất hạn chế sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật. Nên phòng các bệnh sương mai, phấn trắng, bằng định kỳ phun chế phẩm nano bạc đồng plus, kết hợp với phân bón lá giàu kali, magie, kẽm…

Ngoài làm nhà lưới chống côn trùng cho cây táo, nhà nông cũng nên trồng cam, bưởi, ổi, rau màu các loại trong nhà lưới để phòng ngừa sâu các loại.

“Thành công của mô hình trồng thâm canh giống 11 Táo 05 đã mở thêm cơ hội cho các nhà nông địa phương, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng”, Th.S Nguyễn Thị Diệu Thúy, Phó Trưởng phòng Trồng trọt, Sở NN&PTNT Hà Nội.

Nguồn: trangtraiviet.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Táo ghép

Táo có thể trồng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, riêng các tỉnh phía nam có thể trồng quanh năm, song tốt nhất là trồng vào mùa mưa.

Táo ghép

1. Thời vụ

Táo có thể trồng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Táo ít đòi hỏi về điều kiện đất đai so với các cây trồng khác, nhưng tốt nhất là đất phù sa, giữ ẩm và thoát nước tốt.

2. Khoảng cách

Táo yêu cầu ánh sáng trực xạ, không trồng dưới tán cây khác, trồng với khoảng cách 4 x 5m, cứ 2-3 hàng táo nên đào rãnh để tưới và tiêu nước. Đào hố rộng 70 – 80cm, sâu 60 – 70cm, bón 30 – 40 kg phân chuồng mục, 1 – 2 kg phân lân/hốc đảo đều với đất bột.

3. Chăm sóc

Giai đoạn đầu sau trồng phải giữ ẩm đều, kịp thời loại bỏ chồi dại. Táo cần bón 400- 500kg urê + 200kg kali + 500kg supe lân cho 1ha/năm. Chia làm 3 lần bón:

– Lần 1: sau trồng 1 tháng và ngay sau khi đốn táo ta xới xung quanh gốc, bón 10-20kg phân chuồng + 1/3 lượng phân hoá học.

– Lần 2: trước khi cây ra hoa rộ, bón 1/3 lượng phân hoá học.

– Lần 3: sau khi cây đậu quả xong, bón hết số phân còn lại.

Chú ý: Nếu bị hạn phải tưới nước để quả lớn nhanh không bị rụng. Nếu cây bị cằn (sinh trưởng phát triển kém) ta phải bón bổ sung thêm phân.

4. Phòng trừ sâu bệnh

– Táo thường bị bọ xít xanh, rệp dính, sâu gặm đục quả phá hại, phun phòng trừ bằng Wofatox 0,1- 0,15% hoặc Bi58 0,1%.

– Phun Bayleton 0,1%, Boocđô 1% để phòng và chống bệnh phấn trắng, sương mai.

5. Đốn táo

Sau khi thu hoạch, vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 ở các tỉnh phía Bắc; phía Nam đốn 2 lần/năm (lần 1 vào tháng 2-3, lần 2 vào tháng 9-10). Cách đốn, táo 1 tuổi cắt cành ghép chính 20-25cm kết hợp với tạo tán; táo 2 tuổi đốn thấp 40cm để lại 3 cành chính thế chân kiềng; táo 3 tuổi trở lên đốn đuổi cách vết đốn năm trước 15-20cm.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.