Bí quyết trồng măng cụt cho năng suất vượt trội

Trái măng cụt có giá trị kinh tế cao và có thị trường xuất khẩu rất lớn. Ở Việt Nam, trái măng cụt có giá trị dinh dưỡng cao nên được nhiều người ưa thích. Vì vậy, bà con nên nắm vững kỹ thuật trồng cây măng cụt cho năng suất cao nhất.

Măng cụt

Măng cụt thuộc cây ăn quả nhiệt đới được trồng nhiều ở Thái Lan, Mã lai, Phi luật tân, Indonesia và Việt nam. Măng cụt là loại trái cây được nhiều người ưa chuộng và được xem như là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới bởi lẽ dáng trái đẹp và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Dưới đây là những kỹ thuật trồng cây măng cụt đúng cách nhất cho năng suất vượt trội.

Giống và kỹ thuật nhân giống

Măng cụt có thể được nhân giống bằng cách ghép đọt hoặc gieo hạt. Phương pháp ghép không đạt hiệu quả cao do cây con có tỉ lệ hao hụt rất lớn; cây ghép cho trái nhỏ và ít hơn so với cây trồng bằng hạt.
Gieo hạt là phương pháp nhân giống phổ biến của măng cụt. Măng cụt đậu trái không thụ phấn, hạt măng cụt được phát triển từ phôi cái nên cây trồng từ hạt có đặc tính giống như cây mẹ.
Cách gieo hạt: Hạt măng cụt mau mất sức nẩy mầm, do đó không nên dự trữ hạt lâu. Chọn hạt to, nặng > 1g từ những trái mặng cụt chín. Rửa sạch hạt va gieo vào bầu đất hoặc liếp ươm.
Vật liệu của bầu hoặc liếp ươm là tro trấu, bột sơ dừa hoặc cát mịn trộn phân hữu cơ. Thường xuyên tưới nước giữ ẩm, 20-30 ngày sau hạt sẽ nẩy mầm. Khi cây lớn thì chuyển sang bầu lớn chú ý không làm tổn thương rễ vì rễ măng cụt không có lông hút và rất yếu.

Mật độ khoảng cách

Măng cụt có tán cây lớn, tán là sum xuê, do đó nên trồng thưa cây cách nhau 7-10m. Mật độ 100-200 cây/ha, với khoảng cách trồng nầy cây sẽ giao tán sau 30 năm trồng.

Chuẩn bị mô

Mô cần được chuẩn bị 1-2 tháng trước khi trồng. Mô hình tròn có đường kính 0,6 –0,8m, cao 0,3-0,5m tùy theo địa hình cao hay thấp. Đất mô nên trộn với 10-20 kg phân chuồng hoai và 200g phân NPK 15-15-15. 4.

Kỹ thuật trồng

Khi cây con được 2 năm tuổi thì đem đi trồng, lúc này cây có 12-13 cặp lá và 1 cành cấp 1, khoét lỗ trên mô vừa với bầu đất, nhẹ nhàng đặt cây vào, lấp đất ngang mặt bầu, cắm cọc giữa cây không bị đổ ngã. Khi đặt cây cần cẩn thận để không bị hư rễ.

Làm cỏ, trồng xen

Có thể dùng một số cây ngắn ngày làm cây trồng xen trong vườn cây măng cụt để góp phần hạn chế cỏ dại phát triển. Việc trồng xen cần bảo đảm cây trồng xen không cạnh tranh nước và dinh dưỡng với cây măng cụt.
Trong những năm đầu khi cây chưa khép tán, cỏ dại sẽ phát triển mạnh, nên diệt cỏ bằng phương pháp thủ công, hoặc dùng máy cắt cỏ, khi cần thiết có thể diệt cỏ bằng thuốc hoá học như: Glyphosate, Gramoxone,…

Tưới nước

Măng cụt là cây có nhu cầu nước rất lớn, nhất là giai đoạn cây con và cây đang mang trái vì sau khi trổ (tháng 12 dương lịch) là thời kỳ không mưa. Do đó, cần phải tưới nước cách ngày cho cây nhất là ở giai đoạn sau khi trổ hoa, trái.

Thu hoạch

Hái trái lúc trái có màu hồng, khi hái phải thật cẩn thận và tránh sự va chạm mạnh trên trái nhằm giảm đến mức thấp nhất sự xây xát. Nên dùng dụng cụ có túi vải để hái trái, tránh để trái rơi tự do trên mặt đất làm xay xát vỏ trái…
Những quả măng cụt ngon ngọt hấp dẫn khi được chăm sóc tốt
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Lê cho nhiều nước, quả ngọt

Quả lê là một loại quả hết sức quen thuộc với mọi người. Bên cạnh là một loại quả ngon miệng, lê còn có rất nhiều những lợi ích khác. Hơn nữa, kỹ thuật trồng cây lê không khó nên mọi người có thể dễ dàng trồng cho năng suất cao.

Quả lê

Lê là một cây ăn quả đặc sản của vùng ôn đới nước ta, lê được trồng ở các tỉnh miền núi phía Bắc tập trung ở những nơi có độ cao 500 – 1500m so với mực nước biển. Kỹ thuật trồng cây lê không khó nên người dân có thể trồng để tăng thu nhập.

Một số giống lê ở miền Bắc nước ta

Lê xanh: phân bố ở độ cao 6000m trở lên (SaPa, Bắc Hà) quả hình bầu dục, vỏ màu xanh có má phớt hồng, trọng lượng quả trung bình 300 – 400g, thịt quả trắng, nhiều nước, ăn ngọt, năng suất cao, phẩm chất khá, quả chín vào tháng 9, 10.

Lê nâu: phân bố rộng, quả tròn, tròn dẹt nâu có chấm, trọng lượng quả trung bình 200 – 300 g thịt quả khô ngon, thơm khi chưa chín có vị chát, ra hoa vào tháng 3, 4; thu hoạch tháng 8, 9; năng suất 300-750kg/cây. Mắc coọc (lê cọt): phạm vi phân bố rộng, mọc khoẻ, quả nhỏ trọng lượng trung bình 100g, vỏ qủa thô ráp, thịt quả khô, có vị chát.

Chuẩn bị

Chọn giống: Chọn cây khỏe mạnh không sâu bệnh, có thể trồng cây ghép có bầu hoặc cây gốc ghép rễ trần. Chú ý loại bỏ các mầm mọc ở phía dưới mắt ghép vì đó là mầm của cây dại. Mật độ: 400 cây/ha, hàng cách hàng 5m, cây cách cây 5m. Thời vụ: Trồng từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau khi cây rụng lá, chưa lên lá mới và lộc non.

Đất trồng: Lê VH6 trồng được ở nhiều loại đất, nhưng thích hợp nhất và cho năng suất cao ở đất màu mỡ có độ ẩm. Đào hố có kích thước: 70 x 70 x 70 cm để đất mặt riêng, đất ở đáy hố riêng (lưu ý đào xong dùng xẻng, cuốc xiểm xung quanh hố để tạo các lỗ khí thoát nước tránh úng cục bộ cho cây trồng sau này).

Bón phân mỗi hố: 20 kg phân hữu cơ + 0,5 kg phân lân super + 1kg vôi bột (Có thể thay thế phân hữu cơ bằng phân vi sinh 10kg). Trộn đều phân với lớp đất mặt đưa xuống đáy hố. Lấp đất đầy hố trước khi trồng 25-30 ngày, khi thời tiết thuận lợi sẽ trồng cây.

Kỹ thuật trồng

Trồng cây giữa hố, bới một hốc nhỏ ở giữa hố trồng, đặt cây vào vị trí, (nếu cây có bầu dùng dao rọc một đường từ trên xuống để lấy túi đựng bầu ra), lấp đất giữ chặt cây nén chặt xung quanh, tưới 10-15 lít nước cho 1 gốc. Cắm cọc cố định cây buộc bằng dây nilon để tránh cây bị lay gốc.

Kỹ thuật chăm sóc

Giữ ẩm: Dùng cỏ rác khô tủ xung quanh gốc cây để giữ ẩm, tủ cách gốc 15- 20 cm. Tưới nước: Cây lê rất cần đến nước nhất là giai đoạn cây mới trồng cây và thời gian khô hạn kéo dài. Sau trồng tuỳ tình hình thời tiết 2 tháng đầu tiến hành tưới 1- 2lần/1 tuần. Thời kỳ mang quả, cây cần nước để nuôi quả. Tùy theo thời tiết từng năm để điều chỉnh số lần tưới tuy nhiên lê cũng như cây ăn quả khác là không chịu được úng.

Bón phân: Khi cây còn nhỏ (1 -5 tuổi) bón bổ sung 30kg phân hữu cơ, 2kg đạm, 2kg lân, 2kg kali/cây/năm. Khi cây lớn đã cho thu hoạch thì cần bón tăng cường 30-40kg phân hữu cơ, 4kg đạm, 2 kg lân, 2 kg kali/cây/năm. Lượng phân trên bón làm 2 lần: Lần 1: vào tháng 2, 3: nhằm nuôi lộc cành. Lần 2: bón vào tháng 9, 10: phục hồi cây sau thu hoạch.

Phòng trừ sâu bệnh: Sâu cắn lá, cuốn lá, xoăn lá: dùng Dipterec 0,1%, Padan 0,1%, Dimẻcon 0,1% phun lên lá vào lúc trời râm máy. Sâu đục thân: dùng Dipterec hoặc vôphatốc hoà với vôi quét lên thân cây. Chú ý việc phun thuốc trừ sâu phải chấm dứt trước thu hoạch tối thiểu 15 ngày.

Thu hái và bảo quản

Thu hái khi quả bắt đầu chín vỏ quả chuyển màu xanh vàng, nếu vận chuyển xa cần thu hái sớm. Khi thu hái cần nhẹ nhàng, không làm dập nát hoặc sây sát quả. Quả thu hái xong cần đặt vào thùng gỗ, hộp cứng để vận chuyển không bị dập nát. Bảo quản quả ở nơi khô ráo thoáng mát.

Thu hoạch lê

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đặc tính sinh học của Dứa

Hiện nay trên thế giới, cây dứa được trồng hầu hết các nước nhiệt đới và một số nước nhiệt đới có nhiệt độ tương đối ẩm như đảo Hawai, Đài Loan.

Dứa (khóm)

Dứa có thể trồng tới vĩ tuyến 38º bắc, trong đó các nước Châu Á chiếm trên 60% sản lượng dứa cả thế giới.

Các nước trồng nhiều là Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hawai, Brazil, Mêhicô, Cuba, Uc, Nam phi.

Quả dứa được coi là một trong những cây ăn quả nhiệt đới hàng đầu, loại quả “vua”, rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây.

Quả dứa có mùi thơm mạnh, chứa nhiều đường, lượng calo khá cao, giàu chất khoáng, nhất là Kali, có đủ các loại vitamin cần thiết như A, B1, B2, PP, C đặc biệt trong cây và quả dứa có chất Bromelin là một loại men thủy phân protêin (giống như chất Papain ở đủ đủ), có thể chữa được các bệnh rối loạn tiêu hóa, ức chế phù nề và tụ huyết, làm vết thương mau thành sẹo.

Trong công nghiệp, chất Bromelin dùng làm mềm thịt để chế biến thực phẩm, nước chấm. Ngoài ăn tươi, quả dứa chế biến thành dứa hộp và nước dứa, là những mặt hàng xuất khẩu lớn. Xác bã quả dứa sau khi chế biến dùng làm thức ăn gia súc và phân bón. Thân lá dứa làm bột giấy.

Ở nước ta, dứa trồng từ Bắc đến Nam, diện tích trồng cả nước hiện khoảng 40.000 ha với sản lượng khoảng 500.000 tấn trong đó 90% là phía Nam.

Các tỉnh trồng dứa nhiều ở miền Nam là Kiên Giang, Tiền Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Long An… miền Bắc có Thanh Hóa, Ninh Bình, Tuyên Giang, Phú Thọ….miền Trung có Nghệ An, Quảng Nam, Bình Định,… Năng suất quả bình quân một năm ở các tỉnh phía Bắc khoảng 10 tấn, phía Nam 15 tấn/ha.

Trong năm cây dứa ra hoa nhiều vụ. Ở miền Bắc vụ chính ra hoa tháng 2-3, thu hoạch tháng 6-7, vụ trái ra hoa tháng 6-8, thu hoạch tháng 10-12. Ở miền Nam, dứa có thể ra hoa quanh năm, song thường tập trung vào tháng 4-5 và tháng 9-10. Từ khi ra hoa đến thu hoạch trung bình khoảng 4-5 tháng.

Dứa có nhiều cách chế biến để phục vụ cho con người

Yêu cầu điều kiện sinh thái:

a. Khí hậu

Dứa là cây ăn quả nhiệt đới, ưa nhiệt độ cao. Phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 20 – 300C. Giống Cayenne chịu lạnh kém hơn giống Queen và các giống địa phương. Ở nhiệt độ cao trên 32ºC có thể làm cháy lá và vỏ quả, nhất là giống Cayenne.

Về lượng mưa, cây dứa có thể trồng nơi lượng mưa thấp, 600-700 mm/năm với mùa khô dài nhiều tháng cho đến những vùng lượng mưa nhiều tới 3500-4000 mm/ năm. Quan trọng nhất là lượng mưa phân bố hàng tháng, khoảng 80-100 mm được coi là đầy đủ, không cần tưới thêm.

Về ánh sáng, cây dứa yêu cầu ánh sáng nhiều nhưng thích ánh sáng tán xạ hơn ánh sáng trực xạ. Thiếu ánh sáng cây mọc yếu, quả nhỏ. Ngược lại nếu ánh sáng quá mạnh kèm theo nhiêt độ cao lá sẽ bị vàng hoặc đỏ, lúc này cần che mát cho dứa.

Cây dứa tuy không phải là cây ngày ngắn nhưng người ta thấy rằng giống Cayen nếu thời gian bóng tối kéo dài và nhiệt độ giảm thấp sẽ ra hoa sớm hơn. Từ những yêu cầu trên, điều kiện khí hậu nước ta từ Bắc đến Nam đều thích hợp với cây dứa.

Tuy vậy tùy theo đặc điểm từng thời gian ở từng vùng cần có biện pháp để tạo điều kiện cho cây sinh trưởng phát triển thuận lợi, đạt năng suất và chất lượng cao.

b. Đất

Cây dứa có bộ rễ tương đối yếu và ăn nông nên muốn có năng suất cao đất cần có tầng mặt xốp, nhiều mùn và chất dinh dưỡng, đồng thời thoát nước tốt trong mùa mưa. Đất nhiều sét, thoát nước chậm, cây dứa sinh trưởng kém và dễ bị bệnh. Thoát nước và tơi xốp là 2 yêu cầu quan trọng nhất đối với đất trồng dứa.

Về độ pH, cây dứa nói chung thích hợp với đất chua, độ pH từ 4.5 đến 5.5, kể cả trên đất phèn có pH bằng hoặc dưới 4 dứa vẫn sống tốt. Các giống dứa tây nhóm Hoàng hậu (Queen), giống Tây Ban Nha (Spanish) chịu chua khá hơn giống Cayen.

Ở nước ta, dứa trồng trên nhiều loại đất như đất đỏ bazan, đất đỏ vàng, phù sa cổ, đất bạc màu ở phía Bắc, đất xám ở miền Đông Nam Bộ và đất phèn ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy vậy, nếu không được bón phân đầy đủ, nhất là phân hữu cơ, năng suất quả sẽ không cao.

Yêu cầu chất dinh dưỡng

Dứa là cây yêu cầu rất nhiều chất dinh dưỡng do lượng sinh khối lớn. Theo tính toán, trung bình trên 1 hecta trồng trọt, dứa lấy đi từ đất 86 kg N (trong đó thân lá 74 kg, quả 9 kg), 28 kg P2O5 (thân lá 23 kg, quả 5 kg) và 437 kg K2O (thân lá 402 kg, quả 35 kg), cùng với các nguyên tố trung và vi lượng.

Cây dứa ít có nhu cầu với Canxi.

Yêu cầu với Lân cũng không lớn.

Riêng với Kali cây dứa yêu cầu nhiều nhưng nếu bón nhiều Kali lại thường dẫn đến bị thiếu Magiê cũng là một chất dinh dưỡng cần thiết.

Trong thời gian đầu sau khi trồng khoảng 5-6 tháng nhu cầu dinh dưỡng không lớn, chỉ khoảng 10% tổng số chất dinh dưỡng cây cần trong suốt chu kỳ sống.

Sau khi cây đã mọc tốt, nhu cầu chất dinh dưỡng tăng rất nhanh, đặc biệt là Kali (gấp 4-5 lần so với đạm).

Ngoài ra, cây dứa cũng cần một số nguyên tố vi lượng khác như kẽm, sắt, Mangan, Đồng….

Nhưng các biểu hiện bị thiếu thường không rõ ràng.

Nguồn: 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Dứa Philippines tràn ngập thị trường

Sau hiện tượng chuối Philippines, hiện nay trên thị trường TP.HCM xuất hiện thêm thơm (dứa) Philippines đang được bày bán tại một số siêu thị. Thơm Philippines hay còn gọi thơm Dole, trái to, khá đều, mắt thơm không sâu như mắt thơm VN nên chỉ cần gọt lớp vỏ mỏng bên ngoài là dùng được. Thơm ngoại màu vàng tươi, vị ngọt vừa phải, so với thơm trong nước chất lượng không vượt trội hơn.

Dứa Philippines

Theo người bán, vì giá loại này khá cao từ 54.000-55.000 đồng/kg, nên phần lớn khách mua ăn thử hoặc một số nhà hàng, khách sạn cao cấp dùng để trang trí trong chế biến thức uống.

Dứa được bày bán nhiều trong các siêu thị

Theo các đầu mối nhập khẩu trái cây, thông thường những tháng cuối năm nhập khẩu trái cây có xu hướng tăng mạnh do đây là thời điểm nhiều loại trái cây được thị trường VN ưa chuộng như quýt, nho, lê, táo… bước vào mùa thu hoạch, nguồn cung dồi dào. Ngoài ra, sức mua thị trường cũng tăng nhờ tác động dịp Tết Nguyên đán.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Phòng trừ sâu bệnh hại Ca Cao

I. Côn trùng gây hại chính

1. Bọ xít muỗi (Helopeltis spp)

Triệu chứng và tác hại: Chích hút nhựa trái, chồi non, cành non. Các vết chích bị thâm, sau đó bị thối. Chồi non, cành non bị hại sau sẽ héo khô.

Bọ xít muỗi hại ca cao

Biện pháp phòng trừ : Vệ sinh vườn sạch sẽ, tỉa bớt cành nhánh không cần thiết. Có thể phun các loại thuốc như Bassa 50 EC, Supracide 40 ND.

 2. Sâu hồng (Glenia celia)

Triệu chứng và tác hại : Sâu thường đục phần thân ngọn và các cành rồi đùn phân và mạt cưa ra ngoài miệng lỗ đục và rơi xuống đất. Những cành ca cao bị đục sẽ héo rồi chết khô.

Sâu hồng đục thân ca cao

Biện pháp phòng trừ : Thường xuyên thăm vườn để phát hiện sớm sau đó cắt các cành bị hại và đốt để diệt sâu nằm trong. Các loại thuốc được sử dụng như Basudin 50 EC.

3. Bọ cánh cứng hại lá (Apogonia spp, Adoretus spp)

Côn trùng ăn lá ca cao thuộc nhiều loài khác nhau như bọ nâu, bọ xám, bọ hung kim; Triệu chứng và tác hại: Chủ yếu phá hại vào ban đêm, ban ngày trú ngụ nơi tối hay dưới đất. Bọ ăn lá non tạo những lỗ khuyết trên lá làm giảm sự phát triển của cây.

Bọ cánh cứng hại thân ca cao

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, có thể phun các loại thuốc như Basudin 50 ND

4. Rầy mềm (Aphid)

Triệu chứng và tác hại: Rầy mềm sống tập trung và chích hút nhựa cây trên các chồi non, lá non, trái non làm cây chậm phát triển, trái khô héo. Thường có các loài kiến sống kết hợp với loài rầy nầy.

Rầy trên cây ca cao

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn sạch sẽ, có thể phun các loại thuốc như Bassa 50 EC theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

5. Rệp sáp (Planococcus citri)

Triệu chứng và tác hại: Rệp sáp sống bám vào cuống lá, trái, thân, trái non hay cổ rễ để hút nhựa làm cây, trái chậm phát triển, còi cọc. Rệp tiết ra chất hơi dính như mật ong nên thường có nhiều loại kiến sống kết hợp với rệp

Biện pháp phòng trừ: Cần chú ý theo dõi để phát hiện những ổ rệp sáp mới hình thành tránh hiện tượng lây lan. Có thể diệt rệp sáp bằng cách phun các loại thuốc trừ sâu như Bi 58 40 EC.

6. Chuột ăn trái

Chuột thích ăn cùi ngọt bao quanh hạt ca cao. Thường chúng cắn phá quả ca cao bằng cách khoét lỗ để moi hạt. Khi chuột gây hại nặng buộc phải tổ chức diệt trừ bằng cách dùng bả độc cho kết quả tốt.

II. Bệnh hại ca cao

1. Bệnh thối trái (Phytopthora palmyvora)

Triệu chứng: Bệnh xuất hiện trên mọi lứa tuổi của trái. Bệnh phát triển nhiều vào mùa mưa. Trái bị bệnh có màu nâu đen làm giảm năng suất 20-35%, đôi khi 90%

Phòng trừ: Chúng ta cần hái bỏ các trái thối càng sớm càng tốt để tránh lây lan đặc biệt trong mùa mưa. Không nên để trái chín lâu trên cây. Vườn cây nên được thông thoáng, khô ráo, không còn cỏ dại. Có thể sử dụng các thuốc trừ nấm có gốc đồng, phun định kỳ 10 – 12 ngày/lần để hạn chế mầm bệnh.

2. Bệnh nấm hồng (Corticium salmoncolor)

Bệnh thường chỉ xuất hiện vào mùa mưa, ở những  vườn ca cao quá ẩm và rợp. Nấm phá hoại ở những cành lá đã hoá nâu. Vết bệnh lúc đầu có vết mốc trắng nhưng dần dần chuyển sang màu trắng hồng, cành khô nâu, lớp vỏ thân cành bị tách ra từng mảng.

Phòng trừ: Để phòng trừ cần tỉa cây thông thoáng giảm ẩm độ, cắt bỏ các cành bị bệnh và phun thuốc trừ nấm.

3. Bệnh hại rễ (Rigidoporus lignosus, Ganoderma pseudoferum, Phellinus noxius, Rosellina bunodes)

Rễ ca cao có thể bị trắng, hoá nâu, hoá đen hoặc nứt cổ rễ gây ra bời nhiều loại nấm khác nhau. Vệ sinh đồng ruộng, xử lý hố trước khi trồng, tránh trồng nơi đất khó thoát nước, tránh tổn thương rễ. Phòng trị bằng bằng các loại thuốc trừ nấm phun trực tiếp quanh gốc.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Kỹ thuật trồng Ca Cao

1. Điều kiện sinh trưởng của ca cao

1.1. Đất đai

Cây ca cao có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, trên đất cát, đất phù sa ven sông và cả trên đất nghèo dinh dưỡng nhưng có bóng che và gần nguồn nước. Ca cao chịu được trên đất có độ pH từ 5-8 nhưng tối ưu từ 5,5-6,7 và có khả năng chịu được độ mặn 40/00.

Cây ca cao có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau

1.2. Khí hậu

Cây ca cao được trồng trên những vùng có lượng mưa hằng năm khoảng 1.500-2.000 mm, phát triển được trên các vùng đất có cao độ từ mặt nước biển cho đến 800m. Cây ca cao thích nghi tốt ở nhiệt độ tối đa khoảng 18 – 21oC, tuy nhiên cây bị thiệt hại nghiêm trọng ở nhiệt độ 10oC. Ẩm độ thích hợp cho cây phát triển khoảng 70 – 80%. Cây ca cao mẫn cảm rõ rệt với nhiệt độ, vũ lượng và ẩm độ quá cao hay quá thấp.

Lá ca cao non có bản rộng và cuốn dài dễ bị lay gãy hoặc trầy nát khi gặp gió mạnh gây hậu quả cây bị còi cọc chậm lớn. Chính vì các lý do trên mà việc trồng cây chắn gió chung quanh vườn Ca cao rất cần thiết, nhất là thời kỳ kiến thiết cơ bản, dừa là cây chắn gió lý tưởng có thể bao quanh vườn Ca cao.

2. Kỹ thuật trồng cây Ca cao

Giai đoạn chuẩn bị: trồng cây che bóng cho cây Ca cao là yếu tố then chốt quyết định sự thành công trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, khi đảm bảo được bóng che thì chưa nên trồng Ca cao. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc Ca cao trồng xen trong vườn. Dừa là cây che bóng vĩnh viễn là cây trồng chung với Ca cao và tồn tại suốt chu kỳ sinh trưởng của ca cao.

Chuẩn bị đất: Mật độ và khoảng cách trồng: ca cao trồng xen trong vườn dừa với khoảng cách 3×3 m cho thấy là hợp lý. Nếu trồng mật độ dầy hơn năng suất tối đa đạt nhanh hơn nhưng vốn đầu tư ban đầu về giống và công lao động cao. Mật độ có thể từ 400-700 cây /ha.

Đào hố trồng cây: vùng ĐBSCL có thuỷ cấp cao và ảnh hưởng bởi triều nên cần phải lên mô thay vì đào hố. Lân, vôi, phân chuồng bón một tháng trước khi trồng. Sau khi trồng xong cần sử dụng thuốc trừ mối, kiến trên mặt đất trồng cây .Bằng cách này không những phòng trị được mối mà còn cả nhưng côn trùng chích hút và ăn lá.

Bón lót: để cung cấp nguồn dinh dưỡng cho cây Ca cao trong thời gian đầu, nên trộn chung vào đất hỗn hợp phân bón gồm 100gram super lân + 50gram phân tổng hợp 20-15 – 20 + phân hữu cơ để lấp đầy hố trống và quanh bầu cây.

Giống: ca cao là cây dài ngày nên việc chọn giống là rất quan trọng, không đúng sẽ thiệt hại lâu dài hoặc phải mất từ 3-5 năm và tốn nhiều công của thời kỳ kiến thiết cơ bản nếu quyết định thay đổi giống khác tốt hơn. Ca cao có 03 nhóm giống chính là Forastero, Crillo và Trinitario. Giống hiện có ở Bến tre là giống Forastero và con lai giữa Forastero cùng Trinitario

3. Trồng và chăm sóc

Cách trồng: Sau khi hố và cây con đã chuẩn bị xong, dùng dao bén cắt bỏ phần đáy bầu và phần rễ cái bị cong. Đặt nguyên bầu đã cắt đáy vào hố. Lấp đất lại xung quanh bầu, nén chặt lại và từ từ kéo nhựa ra khỏi bầu đất. Không nên lấp đất trồng cây con quá sâu, cây con sẽ khó phát triển, nên lấp bằng mặt bầu là tốt, nên trồng cây vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.

Tưới nước: Nguồn nước tưới từ sông hồ hay nước giếng, tưới theo hàng hay tưới từng cây nhưng không nên tưới lúc trời nắng to. Khi cây còn non, tránh dùng vòi nước phun thẳng vào cây vì có thể gây đỗ ngã. Trường hợp cây đang trổ bông hay có trái non cũng cần để tránh vòi nước phun vào hoa, trái sẽ ảnh hưởng đến thụ phấn và gây rụng trái non. Nên kết hợp bón phân trước khi tưới nước thì hiệu quả sẽ cao hơn.

Bón phân: trong năm đầu tiên tổng lượng phân bón cho mỗi cây từ 150 – 200 gram phân tổng hợp NPK. Trong năm thứ hai lượng phân tăng lên vào khoảng 300-400 gram, năm thứ ba là 500-600 gram. Từ năm thứ tư trở đi lượng phân còn lại khoảng 800-1.000 gram/gốc. Lượng phân được chia ra bón nhiều lần trong mùa mưa.

Trong những năm đầu lượng phân cần chôn quanh gốc nhưng khi cây đã giao tán vào thời kỳ kinh doanh chỉ cần rãi trên mặt là được, sau đó đậy bằng lá mục vốn có sẳn trong các vườn ca cao.

Tỉa cành – tạo tán: điều chỉnh cây phát triển cân đối, cành vươn đều mọi hướng, tán lá thông thoáng để giảm thiểu sâu bệnh, chiều cao cây hợp lý dễ chăm sóc và thu hoạch. Việc tạo hình, tạo tán còn tuỳ thuộc vào cây trồng từ hạt, hay cây ghép.

Hạt ca cao 

Cây trồng từ hạt: Chỉ cần giữ 1 thân chính, điều chỉnh tầng cành đầu tiên có độ cao 1,5 – 2 m từ mặt đất. Khi cây phân cành và điều chỉnh các yếu tố giới hạn (tưới nước, bón phân, che bóng…). Bằng cách nầy có thể đưa vị trí phân cành lên thêm khoảng 50 cm khi cây phân cành trở lại. Khi cây đã giao tán, nên tỉa thông thoáng vùng thân chính và chung quanh điểm phân cành để kích thích phát triển trái và hạn chế sâu bệnh.

Cây ghép: Do mầm ghép lấy từ cành ngang nên cây không phát triển tầng cành mà phát triển theo dạng bụi có nhiều thân (có từ 3-7). Các nhánh phụ ở phần gốc, cành bị che khuất hay mọc hướng xuống cần được tỉa bỏ để tạo sự thông thoáng cho cây, hạn chế sâu bệnh, kích thích ra hoa và tiện cho việc chăm sóc thu hoạch. Tỉa bỏ hoàn toàn các cành thứ cấp trong khoảng 1 m cách mặt đất khi cây vào giai đoạn kinh doanh.

Nguồn: Tổng hợp từ Farmtech Vietnam.

Một số biện pháp kỹ thuật trồng Dưa Chuột vụ xuân sớm

Đặc điểm thời tiết vụ xuân sớm là nền nhiệt độ thấp, nhiều ngày mưa phùn, số giờ nắng ít, đúc rút kinh nghiệm trồng dưa chuột vụ xuân sớm của nông dân Gia Lộc, chúng tôi xin trao đổi một số biện pháp kỹ thuật trồng dưa chuột vụ xuân sớm cho năng suất và thu nhập cao:

1. Lựa chọn giống

Lựa chọn các giống dưa chuột chịu lạnh tốt như: Summer Top nguồn gốc Nhật Bản của Công ty TNHH Hoa Sen, giống dưa chuột nếp số 1 của Viện Cây lương thực và cây thực phẩm v.v…

2. Thời vụ

Gieo cây trong bầu từ ngày 01 đến ngày 10 tháng 1 dương lịch. Trồng khi cây có 3 lá thật.

3. Ngâm ủ hạt giống và gieo ươm

Ngâm ủ hạt giống: Ngâm hạt giống trong nước ấm 4 – 5 giờ. Trước khi ủ hạt, rửa sạch nhớt trên vỏ hạt. Dùng khăn vải bông vẩy sạch nước, giàn hạt đều và gấp khăn lại, để nơi có nguồn nhiệt thích hợp như túi áo ngực… giúp cho hạt nảy mầm nhanh và đều. Khi hạt nứt nanh thì đem gieo.

Gieo ươm: Nơi đặt bầu cao, bằng phẳng, sạch cỏ dại. Hỗn hợp làm bầu gồm 3 phần đất bột trộn với 1 phần phân chuồng hoai mục, 2% vôi bột. Túi bầu bằng nilon kích thước 4×5 (cm), đáy túi cắt góc, cho hỗn hợp làm bầu vào túi cách mép túi khoảng 1 cm, đặt hạt nghiêng rồi phủ một lớp mỏng đất bột trộn trấu, tưới đủ ẩm. Hoặc hỗn hợp làm bầu bằng bùn trộn với đất bột, phân chuồng hoai mục, trấu mục. Trải hỗn hợp dày khoảng 3 – 4 cm rồi đặt hạt theo khoảng cách 4 – 5 cm. Khi hạt nảy mầm thì dùng dao mỏng cắt theo khoảng cách. Dùng khum tre kết hợp với nilon trắng che phủ chống mưa và chống rét.

Chăm sóc cây con trong bầu: Thường xuyên tưới đủ ẩm. Khi thời tiết rét, không có nắng thì che kín nilon. Ban ngày trời rét, có nắng phải mở nilon thoáng hai đầu hoặc cả phía Nam.

Phun phòng trừ bệnh lở cổ rễ khi cây mọc được 2 – 3 ngày và trước khi trồng bằng thuốc: Validacin 5L hoặc Anvil…

4. Làm đất, bón phân và trồng cây, chăm sóc

Chọn ruộng cao, đất giàu mùn, có tầng canh tác dày, đất được nghỉ tối thiểu 10 ngày, không trồng dưa chuột nhiều vụ liên tục hoặc trên ruộng vụ trước đã trồng cây họ bầu bí, họ cà. Đối với đất thịt nhẹ nên làm đất còn hơi ẩm, không làm đất nhỏ.

Làm luống theo hướng Đông Tây, mặt luống rộng khoảng 1 m, rãnh rộng 30 – 35cm. Trồng 2 hàng, hàng cách hàng 60 – 70cm, cây cách cây 45-50cm. Yêu cầu đặt bầu cao, phủ đất quanh bầu, không phủ đất vào gốc để hạn chế bệnh lở cổ rễ trong điều kiện thời tiết mùa xuân ẩm ướt.

Khi làm đất bón 30 – 50 kg vôi bột/sào Bắc Bộ (360 m2).

Lượng phân bón cho 1 sào: 800 – 1000 kg phân chuồng, lân super Lâm Thao 30 kg, kali clorua 10 kg. Nếu dùng phân tổng hợp NPK phải quy đổi ra phân đơn cho phù hợp.

Bón lót: 100% phân chuồng, 100% phân lân, 40% phân kali, 20% đạm ure. Cách bón: toàn bộ phân chuồng hoai mục và 50% phân lân, bón tập trung vào rạch hàng trồng cây rồi phủ đất dày 3 – 4 cm. Đạm, kali và 50% lân bón rạch giữa luống.

Bón thúc kết hợp với vun xới khi cây bắt đầu có tua cuốn, 20% đạm ure, 20% kali. Còn lại bón sau khi thu quả lứa đầu và thời kỳ thu hoạch.

– Làm giàn chữ A, dùng dóc kết hợp với lưới cước mắt lớn trên 20 cm. Khoảng cách giữa các dóc 1,5m.

– Thường xuyên tỉa bỏ lá già, tỉa nhánh, bấm ngọn, buộc ngọn..

– Dùng bạt che phía Bắc và Đông Bắc để hạn chế tác hại của gió mùa Đông Bấc.

– Tưới nước: thường xuyên giữ ẩm. Nên tưới rãnh, đưa nước vào rãnh ngập 2/3 luống, để 3-4 giờ tháo cạn. Thời tiết mưa xuân hoặc đêm và sáng có nhiều sương tuyệt đối không tưới mặt luống.

Để quả cách gốc 60cm trở lên. Nếu để quả thấp hơn, cây không phát triển được và nhanh tàn.

Che nylon chắn gió bấc cho cây dưa chuột

5. Phòng trừ sâu bệnh

Trồng dưa chuột vụ xuân sớm, phòng trừ sâu bệnh như vụ xuân. Đặt biệt lưu ý bệnh lở cổ rễ, bệnh giả sương mai và bệnh phấn trắng.

Sử dụng thuốc BVTV bảo đảm thời gian cách ly, sử dụng thuốc trừ sâu sinh học, vi sinh, thảo mộc trong thời gian thu hoạch.

Lưu ý: Do đặc điểm mùa xuân ẩm ướt, lạnh nên tăng khả năng chống rét cho cây, cây giống cần được bảo vệ tốt, gieo ươm trong bầu và chống rét tốt, tuổi cây giống già để sau trồng chống chịu thời tiết bất thuận tốt hơn. Tăng cường bón phân chuồng, phân lân và kali, bón lót cao, giảm phân đạm thời kỳ đầu để cây chịu rét tốt. Trồng theo hướng Đông Tây, trồng mật độ thưa hơn so với chính vụ để nâng cao hiệu suất quang hợp. Trồng cây cao gốc, không phủ đất vào gốc, hạn chế tưới nước mặt luống để hạn chế bệnh lở cổ rễ. Thực hiện các biện pháp trên sẽ cho hiệu quả cao.

Nguồn: Trạm Khuyến nông huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây Khoai Tây (kỳ 1)

Cây khoai tây thích hợp với chân đất tơi xốp, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa ven sông với thành phần cơ giới nhẹ thoát nước và giữ ẩm tốt, quy hoạch tập trung, gọn vùng, chủ động tưới tiêu, tốt nhất là ruộng luân canh với lúa nước.

1. Chọn đất, chuẩn bị đất và giống

a. Chọn đất

Cây khoai tây thích hợp với chân đất tơi xốp, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa ven sông với thành phần cơ giới nhẹ thoát nước và giữ ẩm tốt, quy hoạch tập trung, gọn vùng, chủ động tưới tiêu, tốt nhất là ruộng luân canh với lúa nước.

b. Làm đất

Vơ sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng vụ trước. Nếu đất còn ướt áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu. Nếu đất khô tiến hành cày bừa và lên luống. Đất sau khi gặt lúa xong, cắt dạ sát gốc, tiến hành cày rãnh để thoát nước và chia luống. Luống đơn trồng bằng 1 hàng, luống rộng 60 – 70 cm, cao 20 – 25 cm. Luống đôi trồng 2 hàng, luống rộng 120 – 140cm, rãnh rộng: 20 – 40 cm, sâu 15 – 20 cm. Việc làm rãnh nhằm mục đích thoát nước, tránh không để úng nước làm thối củ giống và ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển sâu bệnh sau này của cây.

c. Chuẩn bị nguồn giống

Giống khoai tây có thể để nguyên cả củ trồng và có thể trồng bằng biện pháp cắt củ.

Với các giống khoai tây có kích cỡ lớn, để giảm thiểu việc đầu tư giống trên 01 diện tích việc áp dụng biện pháp kỹ thuật cắt củ giống khoai tây theo phương pháp cắt dính là rất cần thiết.Phương pháp này bao gồm các bước sau đây:

– Chuẩn bị củ giống

+ Củ giống được đem cắt phải có độ trẻ về sinh lý. Tốt nhất là dùng củ giống từ nguồn nhập khẩu hoặc củ giống được bảo quản trong kho lạnh ở điều kiện 40C.

+ Củ giống phải có khối lượng ít nhất từ 50g/cẳt trở lên mới đem cắt.

+ Củ giống được mang ra cắt phải hết thời gian ngủ nghỉ (đã phát mầm).

– Chuẩn bị vật liệu và xử lý dao cắt:

+ Vật liệu xử lý: Khi áp dụng cắt củ giống thì việc xử lý dao cắt phải rất chú ý: có thể xử lý dao bằng cồn công nghiệp, lửa đèn cồn hay lửa ngọn nến hoặc nước đun sôi bằng bình siêu tốc.

+ Dao cắt: Phải sắc và mỏng, không được dùng dao có bản dày, để tránh làm dập nát tế bào ở chỗ cắt.

+ Sau mỗi lần cắt nhất thiết phải xử lý lại dao cắt để tránh lây bệnh từ củ bị bệnh sang củ sạch bệnh.

– Phương pháp và tiêu chuẩn miếng cắt:

+ Cắt dọc củ theo chiều của mầm đỉnh với tiết diện miếng cắt phải là nhỏ nhất, để tránh gây thương tổn không cần thiết.

+ Cắt củ giống phải tuân thủ tuyệt đối theo phương pháp cắt dính, nghĩa là miếng cắt không rời hẳn ra mà còn dính lại khoảng 2 – 3 mm.

+ Cắt củ xong, phải úp ngay hai miếng cắt còn dính lại với nhau (như trước khi cắt) rồi xếp vào khay đựng hoặc rổ, rá và không được cho vào bao tải ẩm ướt.

+ Không cần xử lý củ giống sau cắt với bất kỳ loại hoá chất nào.

+ Để đảm bảo năng suất khoai tây, mỗi miếng cắt phải có ít nhất 2 mầm trở lên.

+ Mỗi củ giống chỉ nên cắt đôi, không nên cắt 3 hay 4.

-Phương pháp và thời bảo quản củ giống sau cắt:

+ Sau khi cắt, củ giống phải được bảo quản trong điều kiện 18 – 200C, thoáng khí.

+Thời gian để miếng cắt lành lại vết thương mất khoảng 7 – 10 ngày. Trước khi trồng 1 – 2 ngày nên tách hẳn miếng cắt ra làm đôi để miếng cắt lành hoàn toàn.

2. Thời vụ trồng

a. Vùng Đồng bằng Bắc Bộ

– Vụ chính: Trồng từ 15/10 – 15/11, thu hoạch vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm sau.

– Vụ xuân: Trồng tháng 12, thu hoạch vào đầu tháng 3 năm sau.

b. Vùng miền núi phía Bắc

– Vùng núi thấp <1000 m: Vụ đông trồng tháng 10, thu hoạch tháng 1 năm sau. Vụ xuân trồng tháng 12, thu hoạch cuối tháng 3

– Vùng núi cao >1000 m: Vụ thu đông trồng đầu tháng 10, thu hoạch tháng 1. Vụ xuân trồng tháng 2, thu hoạch tháng 5.

c. Vùng Bắc Trung bộ

Chỉ trồng vụ đông: trồng đầu tháng 11, thu hoạch cuối tháng 1.

d. Vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng)

– Vụ mùa chính thu hoạch kéo dài trong thời gian mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5.

– Vụ mùa nghịch thu hoạch trong mùa mưa từ đầu tháng 6 đến tháng 11.

3. Mật độ, khoảng cách

– Lượng giống: Trung bình 30 – 40 kg củ/sào (360 m2)

– Mật độ: Với củ nhỏ, trồng 10 củ/m2, cách nhau 17 – 20 cm. Với củ bình thường: trồng 5 – 6 củ/m2, cách nhau 25 – 30 cm.

4. Cách trồng

a. Cách trồng khoai tây nguyên củ

Rải rơm rạ cắt ngắn hoặc bón lót phân chuồng, đạm và lân xuống đáy rồi lấp 1 lớp đất mỏng lên phân. Đặt củ giống so le nhau, nằm ngang và mầm khoai hướng lên trên. Chú ý không để củ giống tiếp xúc với phân, nhất là phân hóa học. Dùng đất bột, mùn, trấu phủ kín củ giống một lớp mỏng; sau đó dùng rơm rạ phủ lên toàn bộ mặt luống khoảng 7 – 10 cm. Tưới nước ướt đều lên mặt luống làm ẩm rơm rạ và đất; nếu độ ẩm đất còn cao không cần tưới. Có thể dùng đất đè lên rơm rạ tránh rơm rạ bay nếu gió mạnh.

Trồng khoai tây nguyên củ

b. Cách trồng khoai tây bổ củ

Rạch hàng trên mặt luống, rải toàn bộ phân chuồng mục và lân vào rạch trộn đều với đất trong rạch. Đặt củ giống hay miếng bổ vào rạch, chú ý tuyệt đối không để củ giống hoặc miếng bổ tiếp xúc trực tiếp với phân. Khoảng cách giữa củ giống (hoặc miếng bổ) 25-30 cm. Mật độ 4 – 5 hốc/m2, hốc cách hốc từ 25 – 30 cm, đặt mầm hướng lên trên, rồi phủ kín mầm bằng 1 lớp đất dầy từ 3 – 4 cm, không được để hở mầm.

Trồng khoai tây bổ củ

5. Bón phân

a. Lượng phân bón

– Cho 1 ha:Phân chuồng loại mục: 15 – 20 tấn; Đạm urê: 250-300kg; Lân supe: 350-400kg; Kali clorua: 150 – 200 kg.

– Quy ra 1 sào Bắc bộ (360 m2): Phân chuồng loại mục: 6 – 7 tạ; Đạm urê: 9 -10kg; Lân supe: 12-15kg; Kali clorua: 5 – 7 kg.

Nếu dùng phân NPK cần đọc kỹ hướng dẫn trên bao bì và quy đổi về dạng phân đơn để điều chỉnh lượng bón cho phù hợp và cân đối.

Nếu bón phân NEB 26 thì giảm đi 50% đạm (7 ml NEB 26 thay cho 01 kg đạm). Không phun NEB26 lên lá và không trộn NEB26 với phân khác ngoài đạm.

b. Cách bón

– Bón lót: Rải toàn bộ phân chuồng và lân + 1/3 đạm + 2/3 kali lên trên mặt luống giữa hai hàng khoai.

Bón thúc lần 1: Sau khi cây mọc cao 15-20cm: 1/3 đạm, 1/3 kali. Bón vào mép luống hoặc giữa 2 khóm khoai, không bón trực tiếp vào gốc cây làm cây chết.

Bón thúc lần 2: Sau thúc lần 1: 15-20 ngày: 1/3 đạm, 1/2 kali.

Chú ý: Bón lót nhiều kali sẽ cho củ to, mẫu mã đẹp. Không bón phân chuồng tươi vì có nhiều vi khuẩn nấm bệnh làm cho mã củ không đẹp, và khoai dễ bị thối. Chỉ dùng phân chuồng hoai mục.

Nguồn: Viện Bảo vệ thực vật được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Đà Nẵng: Thu tiền tỷ từ vườn rau thủy canh công nghệ cao

Với mong muốn sản xuất ra những loại nông sản sạch tốt cho sức khỏe, trong điều kiện quỹ đất đô thị ngày càng hạn hẹp, anh Nguyễn Quốc Phong (256/2 Nguyễn ông Trứ, Đà Nẵng) đã quyết định bỏ ngang công việc ở tập đoàn viễn thông để nghiên cứu, thử nghiệm trồng rau sạch theo phương pháp thủy canh. Đây là mô hình trồng rau sạch công nghệ cao có quy mô đầu tiên ở Đà Nẵng.

Bỏ việc, về nhà tìm giải pháp trồng rau sạch

Việc từ bỏ một công việc kỹ sư công nghệ thông tin thu nhập 25 triệu đồng/tháng ở Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel gần 01 năm qua, để thử nghiệm giải pháp trồng rau sạch khiến anh Nguyễn Quốc Phong bị không ít người chê “khùng”.

Anh Phong chia sẻ: Trong điều kiện quỹ đất hạn hẹp và nhu cầu bức thiết về an toàn thực phẩm như hiện nay, việc đầu tư trồng rau sạch là hướng khả thi. Suy nghĩ và tìm tòi các giải pháp, anh thấy giải pháp thủy canh sẽ giải được bài toán trên.

Anh tự tìm hiểu mô hình thủy canh trên mạng, rồi thiết kế một mô hình thủy canh đơn giản cho gia đình. Tận dụng những vật liệu có sẵn bằng ống nhựa, sau khi thử nghiệm thành công, anh liên hệ khảo sát mô hình tại Đà Lạt, tìm kiếm đối tác, vật tư với giá cả thấp nhất. Sau đó, tìm kiếm vật tư nông nghiệp công nghệ cao chuyên dụng cho thủy canh. Hiện anh đang thực hiện hệ thống thủy canh dùng công nghệ thủy canh NFT, đây là công nghệ tối ưu nhất trong thủy canh.

“Cuối năm 2016, mô hình bắt đầu có những khách hàng đầu tiên. Khách hàng ban đầu, thử nghiệm mô hình là hai người bạn thân. Khi đưa mô hình lên mạng, một giám đốc tại Đà Nẵng cảm thấy thích thú với mô hình đã yêu cầu tôi lắp đặt tại nhà của ông. Sau đó, cả 3 rất bất ngờ, hài lòng với sản phẩm mang lại”- anh Phong chia sẻ.

Rau sạch cho nhà phố

Hiện mô hình khởi nghiệp nông nghiệp công nghệ cao của anh Phong cung cấp giải pháp trồng rau sạch mang tên H2O Farm theo quy trình chăm sóc, dinh dưỡng và hạt giống theo giải pháp tiêu chuẩn châu Âu. Mô hình này phù hợp với nhu cầu trồng rau sạch của người dân các đô thị.

Sau gần 1 năm thực hiện, đã tạo được việc làm cho 4-5 lao động thường xuyên, đang chăm sóc cho gần 50 mô hình “rau nhà phố” tại Đà Nẵng và 3 dự án trồng rau thủy canh thương mại với diện tích hơn 2.000 m2.

Anh Nguyễn Quốc Phong với mô hình trồng rau thủy canh công nghệ cao
Bà Trần Thị Anh Thư, một người dân ở Đà Nẵng cho biết, trước đây gia đình bà đã trồng các loại rau bằng các khay nhựa hoặc hộp xốp nhưng tốn thời gian để tưới cây và bảo vệ khỏi các loại sâu bệnh, chuột. Do đó, gia đình bà đã lắp đặt vườn rau thủy canh của công ty H20 Farm có diện tích 6m2 trên sân thượng từ 8 tháng nay để cung cấp rau sạch cho gia đình.

“Tôi đã đầu tư 10 triệu để lắp đặt hệ thống thủy canh gồm ống nước, giàn, máy bơm và hạt. Gia đình tôi không cần phải mua các loại rau ở bên ngoài bởi vì vườn đã cung cấp rất nhiều. Trồng rau công nghệ cao thực sự thích hợp với những hộ muốn sử dụng rau an toàn”. – bà Thư cho biết.

Hiện tại, trung bình mỗi tháng công ty nhận thêm 10 đơn hàng để lắp đặt thiết kế theo mô hình này. Tính đến thời điểm hiện tai, sau gần một năm, mô hình có tổng doanh thu chừng 1 tỷ đồng, thu lợi nhuận khoảng 30%.

“Hiện công ty đang tiếp tục đầu tư dự án phát triển hơn. Đối với tôi, khi khởi nghiệp ngoài đam mê phải có sự kiên trì, nhẫn nại, tìm kiếm mô hình, giải pháp phù hợp cho từng thời kỳ, quan trọng sản phẩm làm ra phải giải quyết những vấn đề mà xã hội đang cần, thực sự cần…”, anh Phong chia sẻ.

Công ty cũng đang nghiên cứu, thử nghiệm phát triển hệ thống rau sạch trên nền công nghệ IOT (Internet of Things), đưa tính năng theo dõi và chăm sóc rau bằng điện thoại thông minh (smartphone). Thông qua ứng dụng được cài đặt trên hệ điều hành Android hoặc iOS, khách hàng có thể bật, tắt các thiết bị như máy bơm, tưới phun sương, kéo rèm che nắng và theo dõi các thông số như cường độ ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm giá thể, lượng dinh dưỡng chỉ với một vài thao tác trên điện thoại.

Nguồn: Khuyến nông Việt Nam được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chuyện lạ: Mạ non đắt như tôm tươi, dân xứ Nghệ kiếm tiền triệu/ngày

Tại Nghệ An, rất ít khi mạ non trở thành món hàng. Nhưng vụ xuân năm nay, nhiều diện tích gieo, cấy bị chết rét, một số hộ đã tỉa thưa mạ để bán, kiếm tiền triệu mỗi ngày.

Đắt như tôm tươi

Trước tết, bà Lê Thị Minh ở xóm 2, xã Hòa Sơn (huyện Đô Lương) gieo 7 sào lúa Thiên ưu 8. Do gặp rét, 2 sào lúa (500m2/sào) chết hết nên bà phải đi các huyện lân cận để tìm mạ về cấy lại.

“Không có nhân lực nên gia đình tôi phải gieo thẳng. Không ngờ gặp rét, mạ non chết mất 2 sào. Đi một số nơi, họ cho mình vào tỉa thưa rồi lấy mạ, nhiều nơi họ tỉa sẵn, bán 8 – 10 nghìn/nắm nhỏ. Biết đắt nhưng chẳng lẽ bỏ hoang ruộng đành phải mua về cấy khép kín diện tích. Mà cũng có mua được cùng loại mạ đâu, nơi thì mua được giống Thái Xuyên 111, nơi thì Khang dân 18… Chẳng biết khi trỗ có cùng thời điểm hay không?”, bà Minh lo lắng.

Cũng theo bà Minh, tại xã Hòa Sơn, người dân phải xuống các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, ra Yên Thành để mua mạ về cấy. Cả làng sáng sáng kéo nhau đi mua mạ. Có những gia đình gần như mạ bị chết sạch.

Theo tính toán của nông dân, mỗi nắm mạ mua với giá 8 – 10 nghìn đồng, mỗi sào 500m2 cần khoảng 100 nắm mạ mới đủ cấy. Như vậy, tính ra mỗi sào bị hỏng, nếu không thể tự túc mạ, nông dân phải cay đắng bỏ thêm khoản tiền 800.000 – 1 triệu đồng.

Theo quan sát, Quốc lộ 46 đoạn đi qua huyện Thanh Chương, QL 7 đi qua huyện Yên Thành, mạ được bày bán cùng với rau quả bên lề đường, người đến hỏi mua tấp nập. Người bán ra giá bao nhiêu người mua không cần đắn đo, sợ người khác mua mất nên trả tiền tươi lấy liền.

Chúng tôi gặp vợ chồng ông Lê Thế Dũng ở xóm 7, xã Ngọc Sơn (huyện Thanh Chương) trên cánh đồng sát QL 46. Vụ xuân năm nay, ông Dũng gieo 4 sào lúa Thái Xuyên 111. May mắn sau khi gieo, mạ nảy mầm tốt, đủ nước nên phát triển nhanh. Chỉ qua một ngày tỉa thưa, vợ chồng ông đã bán được hơn 1 triệu đồng.

“Tôi gieo 4 sào lúa Thái Xuyên 111. Theo hướng dẫn thì chỉ gieo 1,8kg/sào nhưng tôi gieo 2kg/sào. Nay lúa phát triển tốt, dày quá, hai vợ chồng tỉa thưa mới 2 sào mà đã bán được hơn 1 triệu đồng. Cứ vừa đưa lên bờ là đã có người đến hỏi mua. Nhiều người chạy xe dọc đường sáng đến tối để gom mạ về cấy. Có nhà bán được hơn 2 triệu tiền mạ rồi. Ở đây có nhiều nhà gieo thẳng cũng bị chết hết nhưng một số chủ động chuẩn bị mạ san nên không phải đi mua. Người mua có cả Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn…”, ông Dũng cho biết.

Trên 1.000 ha lúa bị ảnh hưởng bởi giá rét

Theo thông tin từ Chi cục Trồng trọt & BVTV Nghệ An, tính đến ngày 20/2/2018, toàn tỉnh đã gieo, cấy được 88.438,9ha lúa/kế hoạch 90.000ha, đạt 98,3%, trong đó có 63.302,9ha lúa cấy. Dù ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo không gieo thẳng nhưng vẫn có 25.136ha được gieo sạ thẳng.

Từ ngày 14/2 đến nay thời tiết ấm nên diện tích lúa đã gieo cấy phát triển bình thường, sâu bệnh chưa có đối tượng nào gây hại đến mức phải phòng trừ. Tại một số huyện, sau vài trận mưa đầu xuân, ốc bươu vàng cũng đã xuất hiện với mật độ thưa gây hại lúa xuân.

Tuy nhiên, bước vào sản xuất vụ xuân 2018, Nghệ An gặp thời tiết bất lợi, rét đậm rét hại xảy ra liên tục. Đặc biệt là trong thời gian gieo cấy lúa, nền nhiệt độ thấp có thời điểm dưới 10 độ C ảnh hưởng không nhỏ đến trồng trọt. Bất chấp khuyến cáo của ngành nông nghiệp địa phương, nông dân vẫn ra đồng gieo cấy. Một số diện tích mạ gieo, lúa mới cấy bị chết khiến nông dân rơi vào tình cảnh dở khóc dở cười.

Theo thống kê của Chi cục Trồng trọt – BVTV Nghệ An, những đợt rét liên tiếp trước tết đã khiến 1.026 ha lúa xuân bị ảnh hưởng. Trong đó có gần 300ha bị chết trên 70%.

Trước diễn biến thời tiết bất thường, Chi cục đã ban hành 3 văn bản về hướng dẫn chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng vụ xuân 2018 trong dịp tết.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.