Kỹ thuật trồng Đậu Tương

Đậu tương hay đỗ tương, đậu nành (tên khoa học Glycine max) là loại cây họ Đậu (Fabaceae), là loài bản địa của Đông Á. Loài này giàu hàm lượng chất đạm protein, được trồng để làm thức ăn cho người và gia súc.

Cây đậu tương

Cây đậu tương là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành, okara… đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.

1. Cơ cấu giống

Căn cứ trình độ thâm canh và đặc điểm sinh thái của mỗi vùng để lựa chọn bộ giống thích hợp cho từng địa phương.

– Các giống chín sớm và trung bình như: DT84, DT92, DT96, DT99….Lượng giống sử dụng 50-60 kg/ha.

– Tất cả các giống trước khi gieo phải thử sức nảy mầm (hạt giống đủ tiêu chuẩn phải có tỷ lệ nảy mầm trên 70%).

2. Thời vụ

– Căn cứ đặc điểm thời gian sinh trưởng của từng giống mà bố trí thời vụ thích hợp để đậu tương sinh trưởng phát triển thuận lợi (lưu ý đến yếu tố thời tiết vào thời kỳ ra hoa – đậu quả). Tại ĐBSCL, cây đậu nành có thể trồng trên nhiều vùng đất khác nhau và được sản xuất quanh năm, nhưng thời điểm xuống giống thuận lợi nhất là vụ Đông Xuân và Xuân Hè, phổ biến nhất là trong vụ Xuân Hè. Thông thường, vào khoảng giữa tháng 2 dương lịch, sau khi thu hoạch xong vụ lúa Đông Xuân, bà con tiến hành dọn sạch cỏ, cắt gốc rạ và dọn đất để xuống giống đậu nành.

– Nên luân canh, xen canh đậu tương với cây trồng khác họ (không trồng đậu tương qua nhiều vụ trên cùng một chân đất hoặc vụ trước đã trồng cây họ đậu).

3. Đất trồng

– Đậu tương là cây không kén đất, nhưng để có năng suất cao nên ưu tiên đất có thành phần cơ giới nhẹ hoặc trung bình, giữ ẩm và thoát nước tốt: đất thịt nhẹ, đất cát pha, phù sa ven sông,…

– Đất phải được cày bừa kỹ, sạch cỏ dại; Đất dốc phải thiết kế thành băng chống sói mòn. Đất phải lên luống tạo rãnh thoát nước kịp thời khi mưa to (mặt luống rộng 1,0-1,2 m, cao 15-20 cm, rãnh rộng 25-30 cm).

4. Mật độ, khoảng cách trồng

– Lượng giống gieo/ sào (360m2): Đậu tương 2,0 – 2,2kg.

– Khoảng cách gieo: Hàng cách hàng 60 – 65cm. Cây cách cây 15cm. Mật độ 3.600 – 4.000 khóm/sào.

– Cách gieo: Chọc lỗ sâu 1,5 – 2cm, bỏ hạt, lấp đất; gieo 2 hạt/hốc, khoảng cách hốc 15cm. Thông thường có 03 cách gieo hạt giống:

+Phương pháp gieo vãi: Thông thường gieo vãi áp dụng với ruộng cao, đất chỉ cần cày lên là có thể gieo vãi. Mật độ gieo 3kg/sào gieo đều là đảm bảo.

+Phương pháp tra rạch: Gặt sát gốc rạ, sau gặt tạo rãnh thoát nước bằng cày, cuốc, các rãnh cách nhau 1,5m (bằng bề ngang luống). Sau đó dùng nông cụ tạo rạch ngang luống sâu 2-3cm, các rạch cách nhau 30-35cm và tra hạt vào rạch, hạt cách hạt 3-5cm.

+Phương pháp tra gốc rạ: Thu hoạch lúa xong tạo rãnh thoát nước như trường hợp gieo vãi. Dùng tay gạt nghiêng gốc rạ, tra mỗi gốc rạ 1-2 hạt vào kẽ, tiếp xúc giữa đất và gốc rạ, tuyệt đối không tra vào giữa gốc rạ hạt đậu sẽ không hút được ẩm để nảy mầm

Chú ý: Không gieo hạt vào những ngày mưa to, hạt bị trương nước làm giảm sức nảy mầm; Phơi lại hạt giống trước khi gieo, phơi trên nong, nia, dưới nắng nhẹ để kích thích nảy mầm.

5. Chăm sóc

Trừ cỏ:

– Trước gieo đậu 5 – 7 ngày, cần làm sạch cỏ dại, cắt bỏ các lá khô, lá vàng, lá sâu bệnh và lá già khuất sáng trên cây ngô, gom hủy tàn dư thực vật, tạo sự thông thoáng trong ruộng ngô, kết hợp phun thuốc phòng trừ cỏ dại. Có thể sử dụng 1 trong các loại thuốc trừ cỏ như Cariza 5EC, Gromoxone 20SL, Wisdom 12 EC…

– Khi cây có 1 – 2 lá thật, kiểm tra tỉa bỏ các cây còi cọc, cây sâu bệnh… chỉ để lại 1 – 2 cây đậu khỏe/khóm.

Bón phân:

– Bón đủ phân hữu cơ hoai mục (nếu không có phân chuồng hoặc phân rác hoai mục có thể thay thế bằng phân hữu cơ vi sinh), bón cân đối N-P-K và đủ lượng canxi.

Toàn bộ phân hữu cơ, phân lân, vôi bột nên trộn đều, rồi ủ vài ngày trước khi bón để tăng hiệu quả sử dụng phân.

– Không cần bón phân qua rễ. Vì, cây đậu dưới 3 lá thật, có thể sinh trưởng, phát triển tốt nhờ dư lượng phân bón trong đất từ cây trồng trước đó. Đậu tương từ 4 – 5 lá thật trở lên, sẽ tự tổng hợp được dinh dưỡng cho nhu cầu sinh trưởng của cây thông qua hệ vi khuẩn nốt sần hình thành trên rễ.

– Phun bón lá kết hợp với chế phẩm tăng ra hoa đậu quả 6 lần: Trước, trong thời gian ra hoa. Sau đó, cứ 7 ngày 1 lần phun nhắc lại. Có thể sử dụng một số phân bón lá, chế phẩm đậu quả như: Atonik 1.8 DD, Grow more, Agriseed-Mg, thuốc đậu quả Bo TRS-108…

Lưu ý:  Những vùng đất chua nên bón phân lân nung chảy.

Phòng trừ sâu bệnh:

– Sau khi gieo, cần kiểm tra để lấp kín toàn bộ hạt.

– Các lần bón thúc cho đậu tương, cần kết hợp với xới xáo làm cỏ, tạo độ thoáng khí để vi khuẩn nốt sần hoạt động tốt, đậu tương phân cành sớm. Đặc biệt sau khi mưa rào phải xáo phá váng ngay, giúp bộ rễ phát triển thuận lợi.

– Khi cây đậu tương bắt đầu ra hoa có thể phun các loại phân bón qua lá để bổ sung vi lượng cho cây.

– Giai đoạn từ khi cây mọc đến khi đậu tương phân cành cần chú ý sự xuất hiện và gây hại của sâu xám, dòi đục thân, bệnh lở cổ rễ.

– Giai đoạn từ khi cây ra hoa đến cuối vụ cần chú ý: dòi đục hoa, sâu đục quả, sâu cuốn lá, bệnh gỉ sắt,…

+ Phòng trừ dòi đục thân, sâu khoang, sâu xám…: Rải Regent 3G trên mặt luống 2 lần (khi gieo đậu và sau cây mọc 5 – 7 ngày)

+ Phòng trừ sâu cuốn lá, đục quả: Sử dụng thuốc Sherpa 2%, Motox 5 EC… Phun 3 lần (kết hợp với phân bón lá): Trước ra hoa 5 – 7 ngày, trong giai đoạn cây ra hoa, sau hoa rộ lần đầu 5 – 7 ngày (cây đậu tương sau hoa rộ 5 – 7 ngày). Nếu sâu hại phát sinh gia tăng, cần tăng số lần phun thuốc.

6. Thu hoạch

– Thu hoạch khi có 2/3 số quả trên cây chuyển màu nâu, bộ lá chuyển màu vàng và rụng dần từ dưới lên (sau trồng 80 – 90 ngày). Nên thu hoạch vào ngày thời tiết nắng ráo để tiện vận chuyển và phơi. Không thu đậu vào lúc mưa, hạt dễ bị thối, mốc.

– Cắt gom cây rải phơi trên sân gạch/bê tông 3 – 4 nắng, tuốt lấy hạt trên máy tuốt lúa đạp chân, sàng, sảy.

– Phân loại: những cây chín nhiều (khô) phơi riêng, cây còn nhiều quả xanh có thể ủ thêm 2-3 ngày cho chín tiếp. Cây khô đập tách lấy hạt, phân loại để bảo quản hoặc tiêu thụ.

– Nếu bảo quản dài ngày, cần phơi khô hạt trên nong, nia, cót, bạt,… tới thủy phần 14% (cắn hạt không dính răng, nghe tiếng kêu giòn cốp là được). Không phơi hạt trực tiếp trên nền xi măng, nền gạch. Gom lại hạt đậu, để nơi thoáng mát 4 – 6 giờ cho nguội, đóng bao bì, bảo quản nơi khô ráo và chủ động biện pháp phòng trừ mọt đục hạt.

7. Để giống

– Chọn những ruộng tốt, không bị bệnh, năng suất cao, đúng giống thu riêng và phơi riêng cho đến khô (đến khi độ ẩm của hạt ≤12%), quạt sạch vỏ, loại bỏ hạt xấu, hạt bị sâu bệnh. Bảo quản trong chum, vò, lọ sành, sứ, đáy và miệng lọ lót một lớp lá xoan khô hoặc tro bếp dày 2 – 3cm, đậy nắp kín, cất nơi khô ráo, thoáng mát.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Nghệ nhân Chè búp tím

Gần cả đời gắn bó với cây chè ở vùng chè nổi tiếng thuộc xã Tức Tranh (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên), kỹ năng làm chè của ông Phạm Văn Dung đã được người dân phong vào hàng nghệ nhân.

Ông Phạm Văn Dung giới thiệu về quy trình chăm sóc, chế biến đặc biệt đối với chè búp tím

Gần đây, việc nhân giống và phát triển thành công cây chè tím của ông Dung lại được người dân gán cho ông tên gọi “Tể tướng chè tím”.

Dù đã ngoại thất thập nhưng ngày ngày, ông vẫn lặn lội trên đồi, dưới bãi chăm lo cho từng cây, từng luống chè. Chè Tức Tranh vốn đã nổi tiếng nay lại càng nức hương bởi loại chè được coi là biệt dược này.

Say nghề

Gia đình ông Dung có gần 10.000m2 đất chè thuộc làng nghề chè truyền thống xóm Minh Hợp. Trong đó, ông có 4.000m2 chè Tri 777, 3.000m2 chè Trung du. Diện tích còn lại, ông làm vườn ươm các loại chè giống bán cho người dân.

Ông kể, khi chăm sóc cho hàng nghìn mét vuông chè trung du, nhận thấy có cây chè khác lạ, ngọn non và lá có màu tím, phát triển mạnh hơn với những cây chè khác. Qua tìm hiểu trên sách báo, tivi rồi mạng xã hội, cùng với sự giúp đỡ của giảng viên, sinh viên ĐH Nông lâm Thái Nguyên, biết được cây chè tím có nhiều tác dụng chữa bệnh khác nhau, ông đã quyết định nhân giống để trồng.

Đưa chúng tôi lên thăm vườn chè tím, cẩn thận nâng một cây giống còn trong bầu lên cao, ông Dung giới thiệu, ngọn chè tím có màu tím giống như màu mận chín, cuống lá non màu đỏ, có khi búp lá cũng đỏ hoặc tím.

Ban đầu, chỉ từ một vài cây mọc xen kẽ với những cây chè trung du trong vườn chè giống, ông bắt đầu tìm hiểu và nhân cành ra để trồng. Sau hơn 5 năm kiên trì nhân giống trồng và chăm sóc, đến nay diện tích vườn chè tím của gia đình ông Dung đã lên đến gần 2.000m2. Chè tím được bán với giá gấp 2, gấp 3 lần so với chè thông thường được làm tại đây. Ông Dung không giấu diếm bí quyết, trái lại, ông đã tiếp tục nhân ra hàng vạn hom giống để cung cấp cho người làm chè cùng trồng.

Thành quả từ nỗ lực phục tráng và phát triển giống chè tím được ông Dung khoe không phải là giá trị từ nương chè mà chính là việc sản phẩm chè tím đã góp phần chữa được căn bệnh hiểm nghèo cho chính người anh ruột của mình.

Năm 2013, ông Phạm Văn Đúp (xóm Bái Xuyên, Minh Tân, Phú Xuyên, Hà Nội – anh trai của ông Dung) được Bệnh viện U Bướu chuẩn đoán bị bệnh ung thư xương. Sau xạ trị và truyền hóa chất xong về nhà, ông Đúp được ông Dung gửi chè tím xuống.

Uống thuốc của bệnh viện kết hợp với uống chè tím được một thời gian, ông Đúp đi xét nghiệm lại, thì tình trạng bệnh tình của ông đã dần ổn định, các chỉ số máu đã trở lại bình thường, tế bào ung thư không còn phát triển. Từ đó, ông duy trì uống chè hàng ngày và kết hợp theo chỉ dẫn của các bác sỹ trong bệnh viện. Cứ 3 tháng đi tái khám một lần, các chỉ số đều đảm bảo.

Phát triển vườn chè thuốc

Rót chén chè tím mời khách, ông Dung giải thích, chè búp tím nước vàng sóng sánh, vị đượm, được nước. Ngon nhất là nước thứ hai, sau 5 – 7 lần châm nước, chè vẫn giữ được vị. Chè búp tím mới uống có vị chát, sau thì ngọt và lưu lại vị ngọt đặc trưng sau khi uống từ 20 – 30 phút. Chỉ cần pha một ấm thì có thể nhâm nhi cả ngày.

Coi chè tím như một vườn thuốc biệt dược, ông Dung đã thay đổi phương thức sản xuất, chế biến chè. Năm 2014, ông đề nghị hình thành nhóm hộ sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP. Ông được bầu làm tổ trưởng tổ sản xuất chè VietGAP. Hơn 5.000m2 chè kinh doanh của gia đình ông được đưa vào thực hiện theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt.


Bên căn nhà cấp 4 đã được xây dựng từ lâu của gia đình ông là khu vực chế biến với các máy móc, thiết bị vào loại hiện đại bậc nhất của xã Tức Tranh cũng như của huyện Phú Lương hiện nay. Trang thiết bị để sản xuất chè an toàn bằng inox gồm 3 tôn quay và 2 máy vò chè; hệ thống quạt hút khói bụi tại khu chế biến rộng cả trăm mét vuông; hệ thống máy sấy, tủ sấy hương, máy hút chân không, máy gắn mép, máy dập chữ số và hạn sử dụng.

Ông Dung cho đào và xây một ao trữ nước với diện tích khoảng hơn 300m2, tạo nguồn nước mạch sạch liên tục và hệ thống máy bơm nước tự động để tưới cho chè. Sản phẩm chè của gia đình ông Dung đã được chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Giá bán được nâng cao, sản phẩm làm ra đến đâu được tiêu thụ hết đến đó.

Riêng vườn chè tím, ngoài đáp ứng theo tiêu chuẩn VietGAP, ông Dung còn đảm bảo theo quy trình sản xuất hữu cơ. Ông cho hay, sản xuất chè tại Tức Tranh chính là cái nôi đầu tiên cho nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Theo đó, việc thực hiện là không khó, cái khó là người làm chè có nhận thức được sự cần thiết, tất yếu phải làm hay không.

Nghĩ thế, ông cho mua một máy nghiền đỗ tương. Hạt đỗ tương mua về được xay thành bột để bón cho những gốc chè búp tím. Theo khuyến cáo của các nhà khoa học thuộc ĐH Nông lâm Thái Nguyên, bột đỗ tương có chứa rất nhiều đạm, có thể sử dụng làm phân hữu cơ bón cho cây ăn quả, rau màu các loại, đặc biệt nguồn dinh dưỡng có trong bột đỗ tương không bị bay hơi, khi gặp mưa sẽ ngấm dần xuống đất làm cho đất tơi xốp, cây trồng tốt hơn.

Trong khi đó, giá thành để làm phân hữu cơ từ bột đỗ tương còn thấp hơn so với phân vô cơ. Cái chính là tạo ra được sản phẩm an toàn. Ông Dung triết lý, chè có thể chưa sạch nhưng chè thuốc thì phải an toàn tuyệt đối!


Ông Phạm Bình Công, Chủ tịch UBND huyện Phú Lương cho biết, trong lễ hội chè huyện Phú Lương lần thứ Nhất năm 2017 vừa được tổ chức, cá nhân ông Phạm Văn Dung cũng như sản phẩm chè tím của ông đã được BTC lễ hội vinh danh.

Hiện tại, sản phẩm chè búp tím của gia đình ông đã được nhiều khách hàng trong cả nước đặt mua. Mô hình phát triển chè búp tím của ông Dung không chỉ khẳng định vị thế mũi nhọn của cây chè nói chung trên địa bàn huyện mà góp phần làm phong phú, đa dạng các sản phẩm từ chè.

Mô hình cũng có sức lan tỏa và ông Dung cũng sẵn sàng là người hướng dẫn, cung ứng giống để nhân rộng, phát triển cây chè búp tím.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyêt bởi Farmtech VietNam.

Các tỉnh phía Bắc còn hơn 300.000 ha chưa gieo cấy

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), kế hoạch vụ đông xuân 2017- 2018, đến nay, diện tích gieo cấy toàn vùng 772 nghìn ha (67.8%).

Nông dân Bắc Giang xuống đồng cấy lúa

Tổng diện tích chưa gieo cấy các tỉnh phía Bắc (gồm các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ, ĐBSH và Trung du, miền núi phía Bắc) đến 21/2/2018 khoảng 367.000 ha chưa gieo cấy.

Tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, tổng diện tích gieo cấy khoảng 337.000 ha trong tổng số 541.000ha kế hoạch (tương đương 62,2%), diện tích chưa gieo cấy khoảng 204.000ha. Dự kiến các địa phương kết thúc gieo cấy trong tháng 2.

Còn tại các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc, diện tích gieo cấy đạt 105.000ha trong tổng số 24.000 héc ta kế hoạch (42%), do thời gian qua thời tiết rét đậm, rét hại các địa phương không gieo cấy được; một số địa phương có diện tích gieo cấy nhờ nước trời nên gieo cấy muộn (diện tích chưa gieo cấy 144.000 ha).

Theo ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, tiến độ gieo cấy năm nay bị chậm so với mọi năm. Nguyên nhân là do trước Tết nguyên đán xuất hiện các đợt rét đậm, rét hại, nhiệt độ hạ xuống dưới 15oC, Bộ NN-PTNT chỉ đạo các địa phương tạm ngừng gieo cấy. Rất may là sau ngày 23 tháng Chạp, thời tiết ấm dần, nhiệt độ trung bình khoảng 16 – 17oC, bà con xuống đồng tổ chức gieo cấy.

Ông Trần Xuân Định lưu ý, các địa phương cần khẩn trương làm đất gieo cấy nhanh diện tích lúa xuân trong khung thời vụ tốt nhất; kết thúc cấy trong tháng 2, chậm nhất ngày 5/3. Đồng thời cần bón lót sâu, bón trước lúc bừa chan phẳng ruộng; để lắng bùn mới cấy.

Quan điểm là mạ chờ ruộng; sử dụng phân NPK phức hợp hoặc hỗn hợp chuyên lót. Đồng thời phải giữ nước đều trên ruộng và tích nước ở hệ thống kênh mương phục vụ tưới dưỡng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây Khế ngọt ghép

(Mangifera Indica L)

1. Mô tả giống

* Tên: Cây khế có tên khoa học là Mangifera Indica L, họ Điều (Anacardiaceae).

* Giá trị: Theo Đông y, quả khế vị chua ngọt, tính bình tươi hơi mát, chín thì ôn có tác dụng sinh tân dịch giải khát, lợi tiểu, trị phong nhiệt giải độc.

* Đặc điểm hình thái: Cây khế thuộc dạng cây bụi cao, thân gỗ, có thể vươn tới 8 đến 10m, nhiều cành và phân cành thấp. Cây khế có lá kép dài đến 50 cm.

Hoa khế màu hồng, xuất hiện hoặc tại nách lá, hoặc tại đỉnh cành. Cây khế không cần nhiều nắng. Quả khế thuộc dạng quả táo (dạng quả nạc, có nhiều hạt), màu vàng hoặc xanh, có 5 múi (cho nên lát cắt ngang của quả có hình ngôi sao). Quả khế giòn, có vị chua ngọt, hao hao giống vị của quả dứa. Các hạt nhỏ, màu nâu.

* Đặc điểm sinh thái

Khế thích hợp trồng trên nhiều loại đất, nhưng đặc biệt sinh trưởng tốt trên đất nhiều mùn, dễ tiêu thoát nước, tơi xốp vì rễ khế dễ bị thối khi bị ngập úng.. Cây khế ra lộc nhiều đợt trong năm, riêng ở miền Bắc có mùa đông lạnh kèm gió rét mưa phùn tuy khế phát lộc từ tháng 2-3, song đến tháng 4-5 lá non mới ra nhiều nhất.

2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc

* Thời vụ trồng: Thời vụ trồng thích hợp là vào mùa Xuân, khi có mưa phùn nhỏ.

* Mật độ trồng

– Trồng thâm canh với cự ly cây cách cây 5-6m.

– Trồng xen canh với các loại cây khác thì cự ly cây cách cây 7-8m

* Làm đất, bón lót và trồng cây

– Đào hố: 60x60x60 cm, đào hố trước khi trồng 25-30 ngày.

– Bón lót: Mỗi hố trồng bón khoảng 10 đến 15kg phân chuồng hoai mục + 3kg supe lân + 1kg vôi bột, trộn đều rồi lấp vào hố cùng với đất mặt.

– Cách trồng: Khi trồng cuốc một hố nhỏ bằng cỡ bầu cây khế con, ở chính giữa hố, đặt cây khế vào lấp đất không trồng quá sâu, mặt bầu cao hơn miệng hố 5 đến 6 cm. Nếu đất khô thì phải tưới và che cho cây khế con.

* Kỹ thuật chăm sóc

– Chú ý cắt tỉa sao cho có khung tán rộng, cành phân bố đều trong tán không cho nắng rọi vào thân chính. Khi cây lớn, cành quá dày thì nên tỉa bớt cho tán cây thông thoáng: Bỏ bớt cành già, cành mọc chen chúc, cành sâu bệnh, cành yếu… Thời gian cắt tỉa thích hợp là vào sau vụ thu hoạch quả, trước lúc ra hoa.

– Cây khế to, thân dễ bị ánh nắng trực xạ làm nứt vỏ cho nên chú ý tạo tán đủ lá che phủ cho thân cây. Kinh nghiệm cho biết nêu chôn xác súc vật dưới tán cây khế cũng tạo cho chất lượng quả tốt hơn. Trong thời gian cây khế nuôi quả, không nên bón đạm mà nên bón K, tro bếp, vôi bột để cải thiện chất lượng quả. Nếu gần vườn khế ngọt có những cây khế chua thì có thể xảy ra hiện tượng thụ phấn chéo làm cho quả khế ngọt giảm chất lượng.

– Tưới nước: Trong thời kỳ cây còn nhỏ cần tưới nước quanh năm nhằm cung cấp đủ nước cho các đợt lộc non hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời gian đầu sau khi trồng mới, việc tưới nước cần phải duy trì từ 3-4 ngày/lần. Càng về sau số lần tưới càng ít đi nhưng phải duy trì được độ ẩm thường xuyên cho diện tích đất xung quanh gốc, dùng rơm rác mục, cỏ khô tủ lại xung quanh gốc, tủ phần tán cây có bán kính 0,8-1m, và để trống phần diện tích cách gốc 20cm để hạn chế côn trùng, sâu bọ làm tổ, phá hoại gốc.

– Làm cỏ: Làm cỏ cần tiến hành thường xuyên, tùy theo đặc điểm của từng vùng ta có cách thức xử lý cỏ phù hợp khác nhau, phơi khô cỏ sau đó tủ lại xung quanh gốc cây.

– Bón phân

+ Trong 3 năm đầu cần cắt tỉa, tạo tán cho cây, không để cành la sát mặt đất, mỗi năm cần bón thúc cho khế 200 đến 400g NPK tổng hợp mỗi cây cùng với 5kg tro (nếu có). Sau 3 năm đó, cây cho thu quả, sau mỗi năm thu quả xong bón cho một cây 15 đến 20kg phân chuồng tốt hoai mục + 2kg vôi bột, 3 đến 4kg NPK, riêng lượng NPK nên chia ra 3 đến 4 lần cho một năm.

+ Mỗi năm sau đợt thu quả (cuối năm) bón cho mỗi gốc 20-30kg phân chuồng. Khi còn nhỏ bón cho mỗi cây 400-500g phân NPK (tỷ lệ là 10:12:7 hay 16:16:8). Cây bắt đầu cho quả có thể bón tăng thêm liều lượng 500-800g/cây (15:15:15). Chú ý tăng cường phân kali.

+ Với cây lớn cho nhiều quả bón 3-4kg phân NPK hỗn hợp/cây, chia ra 3-4 lần trong năm. Cách nhau 3-4 tháng bón một lần.

3. Phòng trừ sâu, bệnh hại

– Bệnh thán thư: Bệnh làm thối đen hoa, rụng hoa, thối đen trên quả. Dùng Benlat C hoặc Score 250 EC phun từ khi hoa nở đến 2 tháng sau với 1lần/tuần, sau đó 1lần/tháng.

– Bệnh muội đen: Do bài tiết của rệp, dùng: Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC và có thể phun các loại thuốc trừ nấm có gốc đồng…

– Bệnh cháy lá: Bệnh phát triển trong mùa mưa, gây hại chủ yếu trên lá. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ lá bệnh, phun thuốc Rhidomil MZ 72 WP, Kasumin 2L…

– Sâu đục thân, cành: Dùng bẫy đèn bắt sâu trưởng thành, tiêm vào lỗ những loại thuốc có tính xông hơi mạnh hoặc nội hấp như: Actara 25 WG, Padan 95SP, bịt lỗ bằng đất sét để diệt sâu non.

– Rầy xanh: Rầy tiết dịch gây bệnh mùa nóng, làm Cóc kém phát triển. Thời gian hại mạnh từ tháng 10 năm trước đến tháng 6 năm sau. Dùng Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC, …

4. Thu hoạch

Sau khi hoa nở và đậu quả khoảng hơn 3 tháng thì những quả khế lứa đầu bắt đầu chín. Cần để quả khế chín kỹ trên cây mới hái vì sau khi tách khỏi cây, quả khế không tiếp tục chín nữa. Cuống quả nhỏ, mảnh nên quả khế dễ bị rụng. Chú ý không để khế bị dập nát.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng cây Khế Chua

Khế là một loài cây thuộc họ Oxalidaceae, có nguồn gốc từ Sri Lanka và được biết đến rộng rãi tại Đông Nam Á. Cây khế cũng được trồng tại Ghana, Brasil và Guyana. Tại Hoa Kỳ nó được trồng với quy mô thương mại tại miền nam Florida và Hawaii.

Việt Nam có nhiều giống khế: khế chua và khế ngọt. Các giống địa phương của ta có quả thường nhỏ. Khế chua dùng ăn như rau sống và nấu nướng. Khế ngọt ăn tươi như các loại trái cây khác, lám mứt, nước quả, … có tính nhuận trường, khích thích ăn ngon miệng và giải nhiệt. Khế giàu vitamin C (25 – 40 mg/100 g thịt quả), carotene (150 (g) và cho khoảng 25 – 35 calo/100 g phần ăn được. Ngày nay ở Malaysia, Đài Loan, Úc và Mỹ đã lai tạo nhiều giống tốt, quả to, đẹp mã, giá trị dinh dưỡng lại cao.

1. Tiêu chuẩn chọn giống:

Khế được nhân giống bằng phương pháp ghép cành, hai kiểu ghép được sử dụng là ghép đeo bầu và ghép đọt. Gốc ghép là khế ngọt Đài Loan và đọt ghép là khế B10 của Malaysia. Cây ghép sinh trưởng rất khỏe, cho hoa sau 3 tháng trồng và sẽ cho quả sau 6 tháng trồng. Sau đó cây sẽ cho liên tiếp nhiều đợt hoa và quả.

2. Thời vụ và mật độ trồng

Ở miền Bắc, vụ xuân là tốt nhất (tháng 2-3) và có thể là vụ thu (tháng 8-10). – Trồng thâm canh với cự ly cây cách cây 5-6m. – Trồng xen canh với các loại cây khác thì cự ly cây cách cây 7-8m

3. Làm đất và đào hố trồng:

– Làm đất cày bừa kĩ, nhặt sạch cỏ Đất trồng khế ngọt nên chọn loại đất tốt, giàu mùn có nguồn nước tưới. Nếu ở vùng đồi thì chọn đất trồng ở chân đồi. Đất tốt đào hố kích thước là 0,6×0,6×0,6 m. Nếu đất xấu 1,0×1,0x0,8 m.

4. Phân bón lót :

Bón lót trước khi trồng, lượng phân cho một hố là: 5 – 10 kg phân hỗn hợp gồm 50 – 60% phân chuồng ủ hoai mục + 20 – 30% phân NPK + 10 – 20% xỉ than lò gạch hay xỉ than tổ ong, có thể kết hợp với lông gà, xác xúc vật (nếu có).

5. Kỹ thuật trồng cây Khế chua:

Cần cắm cọc vào giữa hố để giữ cây. Cuốc một hốc giữa hố vừa với bầu khế. Đặt bầu cây giống vào rồi lấp đất bột xung quanh, nén vừa phải. Buộc cây vào cọc đã cắm sẵn, để cây không bị lay gốc khi có gió bão. Sau khi trồng cần tưới nhẹ nước, độ ẩm trong đất khoảng 60 – 80%. Khế không cần nước nhiều, nhưng cũng không được để đất quá khô. Khi cây cao độ 80 cm đến 1m, cần loại bỏ những cành tăm, khuất tán để tập trung chất dinh dưỡng cho cành ngọn và những cành lộ sáng. Cần lấy cọc chống đỡ cho cành, cây khế. Vì cành, cây khế giòn, dễ gãy (thời kỳ sắp thu hoạch trái).

6. Kỹ thuật chăm sóc cây khế chua:

6.1 Kỹ thuật chăm sóc định kỳ:

Tưới nước: cần cung cấp đủ nước cho cây nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phòng trừ cỏ dại: Phủ gốc chè bằng cỏ, rác, cây phân xanh… để hạn chế cỏ dại; xới phá váng sau mỗi trận mưa to. Làm cỏ vụ xuân tháng 1-2 và vụ thu tháng 8-9, xới sạch toàn bộ diện tích một lần/vụ; một năm xới gốc 2-3 lần.

6.2 Kỹ thuật Cắt tỉa, tạo hình:

– Chú ý cắt tỉa sao cho có khung tán rộng, cành phân bố đều trong tán không cho nắng rọi vào thân chính. Khi cây lớn, cành quá dày thì nên tỉa bớt cho tán cây thông thoáng: Bỏ bớt cành già, cành mọc chen chúc, cành sâu bệnh, cành yếu… Thời gian cắt tỉa thích hợp là vào sau vụ thu hoạch quả, trước lúc ra hoa.

– Cây khế to, thân dễ bị ánh nắng trực xạ làm nứt vỏ cho nên chú ý tạo tán đủ lá che phủ cho thân cây. Kinh nghiệm cho biết nêu chôn xác súc vật dưới tán cây khế cũng tạo cho chất lượng quả tốt hơn. Trong thời gian cây khế nuôi quả, không nên bón đạm mà nên bón K, tro bếp, vôi bột để cải thiện chất lượng quả. Nếu gần vườn khế ngọt có những cây khế chua thì có thể xảy ra hiện tượng thụ phấn chéo làm cho quả khế ngọt giảm chất lượng.

– Tưới nước: Trong thời kỳ cây còn nhỏ cần tưới nước quanh năm nhằm cung cấp đủ nước cho các đợt lộc non hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời gian đầu sau khi trồng mới, việc tưới nước cần phải duy trì từ 3-4 ngày/lần. Càng về sau số lần tưới càng ít đi nhưng phải duy trì được độ ẩm thường xuyên cho diện tích đất xung quanh gốc, dùng rơm rác mục, cỏ khô tủ lại xung quanh gốc, tủ phần tán cây có bán kính 0,8-1m, và để trống phần diện tích cách gốc 20cm để hạn chế côn trùng, sâu bọ làm tổ, phá hoại gốc.

– Làm cỏ: Làm cỏ cần tiến hành thường xuyên, tùy theo đặc điểm của từng vùng ta có cách thức xử lý cỏ phù hợp khác nhau, phơi khô cỏ sau đó tủ lại xung quanh gốc cây.

6.3 Kỹ thuật Bón phân Cho Cây Khế Chua:

+ Trong 3 năm đầu cần cắt tỉa, tạo tán cho cây, không để cành la sát mặt đất, mỗi năm cần bón thúc cho khế 200 đến 400g NPK tổng hợp mỗi cây cùng với 5kg tro (nếu có). Sau 3 năm đó, cây cho thu quả, sau mỗi năm thu quả xong bón cho một cây 15 đến 20kg phân chuồng tốt hoai mục + 2kg vôi bột, 3 đến 4kg NPK, riêng lượng NPK nên chia ra 3 đến 4 lần cho một năm. + Mỗi năm sau đợt thu quả (cuối năm) bón cho mỗi gốc 20-30kg phân chuồng. Khi còn nhỏ bón cho mỗi cây 400-500g phân NPK (tỷ lệ là 10:12:7 hay 16:16:8). Cây bắt đầu cho quả có thể bón tăng thêm liều lượng 500-800g/cây (15:15:15). Chú ý tăng cường phân kali. + Với cây lớn cho nhiều quả bón 3-4kg phân NPK hỗn hợp/cây, chia ra 3-4 lần trong năm. Cách nhau 3-4 tháng bón một lần.

7. Phòng trừ sâu bệnh trên cây khế chua:

– Khế thường bị các loại sâu non (thuộc bộ cánh phấn) và ruồi đục trái phá hoại. Chúng gây hại cả hoa và trái non. Để phòng trừ có thể dùng Trebon 0,2% phun vào giai đoạn trái còn nhỏ, nếu phun vào giai đoạn trái lớn, dễ gây ngộ độc. – Hàng năm, vào mùa khô, dùng nước vôi bão hoà quét vào gốc cây để bảo vệ cây, ngăn ngừa các loài sâu đục vỏ, đục thân… xâm nhập gây hại. – Vệ sinh vườn sạch sẽ, quét dọn lá rụng, trái rụng đưa ra khỏi vườn.

8. Thu hoạch và bảo quản:

Sau khi ra hoa khoảng 100 ngày thì khế chín, tuỳ theo màu sắc quả biết được mức độ chín để thu hoạch cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Khế là loại không chín thêm sau khi thu hoạch, do vậy không nên hái xanh. Quả khế dễ giập chỉ nên thu hoạch bằng tay, nếu trên cao thì thu hoạch bằng sào có gắn rọ ở đầu để hái.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Khế Đài Loan giá 150 ngàn đồng/quả: Cháy hàng, khách mua phải đặt trước

Dù giá lên tới 150.000 đồng/quả khế ngọt Đài Loan với trọng lượng nặng 0,5kg, song các chủ hàng cho biết, loại khế này vẫn liên tục cháy hàng, khách mua thường phải đặt trước từ 3-5 ngày.

Loại khế này có giá trung bình từ 100.000-150.000 đồng tuỳ trọng lượng (ảnh: FB Khuc Ngoc Anh)

Khế ngọt không phải thức quả xa lạ với người Việt. Bởi, chúng là loại cây ăn quả thường hay được trồng trong vườn nhà ở các vùng quê, thậm chí ở thành thị, khế ngọt còn được trồng trong chậu cảnh hay trồng trên sân thượng. Và khi vào mùa, khế ngọt thường được bán ở chợ với giá khoảng từ 20.000-30.000 đồng/kg, mỗi cân được tầm 6-8 quả tuỳ trọng lượng.

Song, loại khế ngọt Đài Loan vừa mới xuất hiện trên thị trường thời gian gần đây đã ngay lập tức gây sốt, bởi ngoài mác nhập ngoại, quả khế Đài Loan còn có trọng lượng khá khủng, trung bình 3 lạng/quả, có quả lên tới 0,5-0,6kg/quả. Đáng chú ý hơn, theo người bán quảng cáo, khế ngọt Đài Loan có giá bán khoảng 300.000-350.000 đồng/kg tuỳ thời điểm. Tính ra, một quả khế có trọng lượng 0,5kg có giá lên tới 150.000 đồng, còn quả trọng lượng 3 lạng cũng có giá khoảng 100.000 đồng/quả.

Chị Yên Phương, chủ một cửa hàng hoa quả sạch tại Trung Hoà (Cầu Giấy, Hà Nội) cho biết, dù giá khế Đài Loan cao gấp 10-15 lần so với khế ngọt của Việt Nam bán tại chợ, thế nhưng, loại khế đặc sản của xứ Đài này vẫn luôn cháy hàng.

Theo chị Phương, hiện một tuần khế Đài Loan về hai lần, mỗi lần khoảng 1 tạ khế, song, lần nào khách cũng khuân hết sạch sau khi khế vừa mới về đến cửa hàng, thậm chí có lần còn không đủ khế trả cho khách.

“Như sáng hôm qua, khế về đúng 1,2 tạ vì tôi dự định nhập dư ra để lấy khế bày ở cửa hàng cho đẹp. Vậy mà, chưa kịp bày lên kệ khách đã gọi điện đặt hết sạch không còn quả nào”. Chị nói và cho biết, khế Đài Loan có đặc điểm rất ngọt, thơm, mọng nước, quả khế to nên được chuộng mua. Một phần khác cũng vì các khách đã ăn quen hoa quả ngoại nên khi thấy cửa hàng nhập khế ngọt Đài Loan về bán thì cũng tiện mua luôn ăn đổi vị cho đỡ chán.

Tương tự, chị Nguyễn Thuỳ Dương, một đầu mối chuyên bán hoa quả Đài Loan ở Tây Sơn (Đống Đa, Hà Nội) cũng phải thừa nhận rằng, với nhiều loại hoa quả nhập ngoại thì chỉ hot thời gian đầu khi chúng mới xuất hiện, sau số lượng bán ra sẽ giảm dần. Thế nhưng, với khế Đài Loan thì lại khác, chị đã nhập khế Đài Loan về bán được gần một năm nay, song loại khế này vẫn chưa hạ nhiệt, khách tranh nhau đặt mua và lần nào cũng cháy hàng.

“Thực ra, người Việt hay thích quả độc lạ, còn nếu không độc lạ thì thích quả khủng. Khế Đài Loan không lạ nhưng quả cực lớn với trọng lượng trung bình từ 3-4 lạng/quả, nhiều quả trọng lượng tới 5-6 lạng/quả nên nhiều người hiếu kỳ muốn mua về ăn thử xem chất lượng chúng như nào”, chị Dương chia sẻ.

Tuy nhiên, theo chị Dương, vì là hàng nhập khẩu từ Đài Loan nên giá khế khá đắt đỏ. Như thời điểm hiện giờ giá là 300.000 đồng/kg, trước đó khan hàng giá còn lên tới 350.000 đồng/kg. Ngoài ra, để có thể thưởng thức được loại khế thơm ngon này, các khách thường phải đặt trước từ 3-5 ngày vì khế Đài Loan về đến đâu chỉ kịp trả hàng cho khách đặt trước, hầu như không bao giờ có sẵn khế ở cửa hàng.

Dù có giá khá đắt đỏ song khế Đài Loan vẫn thường xuyên cháy hàng (ảnh: FB Khuc Ngoc Anh)

Là một “fan ruột” của loại khế Đài Loan, chị Bùi Thị Bích Nguyệt ở Núi Trúc (Ba Đình, Hà Nội) chia sẻ, nhà chị rất hay ăn các loại hoa quả Đài Loan, Hàn Quốc vì tin tưởng vào chất lượng cũng như độ thơm ngon của chúng. Với loại khế Đài Loan cũng vậy, lúc đầu mua ăn là vì tò mò, muốn nếm thử loại quả này xem chúng có hương vị thế nào. Kết quả, chị trở thành “fan ruột” luôn vì thấy loại quả này ăn không chỉ có độ ngon ngọt mà còn có cảm giác rất mát, nhiều nước, mùa đông ăn khế này bổ sung nước cho cơ thể rất tốt.

Theo đó, đều đặn mỗi tuần chị đặt mua khoảng 2kg khế Đài Loan về cho cả nhà cùng ăn, cứ mỗi tối cắt tầm 2 quả ra là cả nhà ăn thoải mái. Thỉnh thoảng chị còn đặt 3-5kg một lúc để làm quà biếu tặng người thân, bạn bè, chị Nguyệt cho hay.

Nguồn: Dantri.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Trồng Khế ngọt thu lời cao

Giống khế ngọt Thái Lan rất dễ tính, không kén đất, chịu được nước thủy triều lên xuống hàng ngày, khâu chăm sóc không cầu kỳ.

Anh Mười Đức bên cây khế ngọt

Đã lâu, tôi mới có dịp ghé thăm vườn cây ăn trái của Mười Đức (Chủ nhiệm Câu lạc bộ khuyến nông, kiêm Chủ tịch Hội làm vườn xã Long An, Châu Thành, Tiền Giang). Thật ngạc nhiên khi thấy những cây nhãn tiêu ghép nhãn long cổ thụ trên mảnh vườn 4.000 m2 của vợ chồng anh đã không còn nữa.

Anh kể: Cách nay vài năm do nhãn tiêu rớt giá (còn khoảng 1.000-1.500 đồng/kg), anh đã phá bỏ nhãn để trồng bưởi da xanh. Nhưng đất vườn của anh hơi thấp nên chỉ được vài năm là cây bưởi bị bệnh thối rễ vàng lá chết dần.

Tháng 9 năm ngoái, được bạn bè giới thiệu anh đã trồng 200 cây khế ngọt Thái Lan thay thế cây bưởi. Sau hơn một năm thử thách cây khế đã trụ được và cho năng suất rất cao. Nhìn những cây khế còn nhỏ xíu, thân cành mảnh mai nhưng trĩu quả, phải dùng cọc chống đỡ, trái lớn như vốc tay, ăn ngọt lịm mà thấy ham.

Anh cho biết, giống khế này rất dễ tính, không kén đất, chịu được nước thủy triều lên xuống hàng ngày, khâu chăm sóc không cầu kỳ. Có thể trồng trên diện rộng để sản xuất hàng hoá hoặc tận dụng trồng ở những chỗ đất “đầu thừa đuôi thẹo” trong vườn để “tự cung tự cấp” đều rất tốt.

Biết được đặc tính của cây khế là ưa sáng nên anh đã trồng chúng gần mép mương để cành nhánh vươn ra ngoài mương tận dụng khoảng trống nhiều ánh sáng trên mặt mương. Cách 4m anh trồng một cây, bằng cách đắp mô rồi trộn cho mỗi mô 5-6 kg phân chuồng mục với 1 muỗng canh phân urea và 2 muỗng canh phân lân, rồi trồng cây lên đó. Sau đó cứ khoảng 1-1,5 tháng anh lại hoà phân NPK tưới một lần.

Khế rất nhanh ra hoa, sau trồng khoảng 1-1,5 tháng là cây bắt đầu ra hoa. Nhưng để cây không mất sức, anh tỉa bỏ hết hoa. Sau trồng 7-8 tháng mới cho đậu trái.

Hiện vườn khế của anh mới được 14 tháng tuổi, nhưng mỗi cây đã cho khoảng 15-20 trái, cá biệt có cây tới gần 40 trái. Trái lớn gấp 2-3 lần những giống khế thông thường của ta. Khi chín đa số có trọng lượng khoảng 400-500 gram, cá biệt có trái tới 700 gram, dài 15-17cm. Điều đặc biệt là vị rất ngọt, nên không chỉ dùng để ăn chơi như khế chua, mà có thể dùng ăn tráng miệng sau bữa ăn như cam, quýt, bưởi, xoài, đu đủ, dưa hấu, táo… vì thế không sợ “đầu ra” hẹp như các giống khế chua truyền thống.

Mười Đức cho biết thêm: Giống khế này rất ít bị sâu bệnh. Từ khi trồng đến nay anh chưa một lần phun xịt thuốc BVTV. Tuy nhiên khi trái chín cũng dễ bị ruồi đục trái gây hại. Để hạn chế tác hại của ruồi, chỉ cần bao trái lại là xong. Như vậy có thể coi đây là một loại trái cây rất an toàn cho người sử dụng.

Hiện tại chưa thấy trái khế này bày bán ở chợ. Theo lời bạn hàng đến mua trái thì họ bỏ mối cho các nhà hàng.

Giống khế này cho hiệu quả kinh tế khá cao. Tùy theo thời điểm giá bán có thể được 8.000 -12.000 đồng/kg. Nếu tính bình quân 10.000 đồng/kg thì mỗi cây khế 14 tháng tuổi (diện tích đất chiếm chưa nhiều) đã có thể cho thu nhập khoảng 80.000 đồng, và những năm tiếp theo khi cây khế phát triển, chắc chắn thu nhập còn tăng gấp nhiều lần.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Để Khế ngọt ra quả quanh năm

Khế ngọt trồng từ năm thứ 3 trở đi đã cho quả khá nhiều. Tuy nhiên nếu cứ để khế ngọt phát triển tự nhiên thì cây phát triển thân lá khá mạnh làm ảnh hưởng đến ra hoa, quả và chỉ ra 1 – 2 lứa quả trong một năm.

Có cây khế ngọt ra quả quanh năm luôn là mong muốn của người trồng. Muốn vậy cần áp dụng một số biện pháp kỹ thuật sau:

Chọn thời gian tác động: Sau khi thu hái hết lứa quả cuối cùng ta dọn vệ sinh quanh gốc, xới xáo nhổ cỏ đốn tỉa bỏ hết các cành con, cành còi cọc, cành mọc sát đất. Bón phân hồi sức cho cây bằng 10 – 15kg phân chuồng hoai mục, 1kg phân NPK. Tưới nước giữ ẩm thường xuyên.

Điều kiện thứ hai quyết định đến ra quả quanh năm của khế là cắt bỏ phần ngọn non của các cành khế đang phát triển chừng 20cm. Cắt bỏ tất cả các cành trên cây càng tốt. Làm như vậy khế bị đau tức sẽ ra nhiều lộc mới ở các kẽ lá và các chùm hoa đỏ li ti cũng sẽ mọc ra để cho quả. Khi hoa đã ra ta tiếp tục thúc phân và tưới nước cho cây để cây nuôi quả.

Chú ý: Đối với cây to cao, nhiều cành lá ta chỉ chọn bẻ những cành to thấp còn những cành nhỏ hơn bỏ lại rồi lại bẻ cho đợt tiếp theo. Làm như vậy là có cây khế ngọt ra quả quanh năm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Khắc phục bệnh thối gốc xì mủ trên cây Sầu Riêng

Sầu riêng là cây cho giá trị kinh tế cao, tuy nhiên, nhà vườn trồng sầu riêng luôn đối mặt với bệnh thối gốc xì mủ – loại bệnh hại nguy hiểm nhất có thể làm cây chết hàng loạt. Là nông dân có kinh nghiệm trồng sầu riêng gần 20 năm, với bao phen thăng trầm vì bệnh và thất mùa, anh Lê Văn Hiền (ấp Sơn Lân, xã Sơn Định, huyện Chợ Lách, Bến Tre) nắm được “bài thuốc” phòng trị bệnh thối gốc xì mủ, phục hồi lại vườn sầu riêng, được nông dân trong và ngoài tỉnh biết đến như “bác sĩ cây trồng”, “kỹ sư chân đất”.

Bệnh xì mủ ở thân là bệnh thường xuyên gặp ở sầu riêng

Anh Hiền cho biết, cây cũng giống như người, khi đề kháng kém thì bệnh dễ tấn công. Những cây sầu riêng bệnh thường do bón phân không cân đối, bón nhiều phân hóa học… Bệnh thối gốc xì mủ chủ yếu là do nấm Phytophthora gây ra, loại nấm này phát triển tháng mưa, khi vừa chuyển sang mùa khô, trời lạnh thì bệnh xuất hiện trên thân. Cây sầu riêng rất nhạy cảm với thời tiết, gặp yếu tố bất lợi thì bệnh phát triển rất nhanh. Vì vậy, để phòng bệnh xì mủ, theo anh Hiền, thì nông dân phải áp dụng quy trình canh tác bền vững, mô đất trồng cao ráo, bón nhiều phân hữu cơ… Khi cây bị bệnh xì mủ, tùy mức độ nặng nhẹ mà áp dụng cách điều trị.

Anh Hiền chia sẻ “bí quyết”, cây bệnh như cơ thể yếu nên vừa cho uống thuốc vừa cung cấp dinh dưỡng thì cây nhanh hết hơn nếu chỉ sử dụng thuốc trị bệnh. Vì vậy, kinh nghiệm của anh là điều trị song song. Bài thuốc anh chọn đó là sử dụng phân hữu cơ Vina Super Humate (Công ty TNHH Hoàng Đại) kết hợp với loại thuốc trị bệnh phổ thông trên thị trường. Pha chung hai loại với nhau rồi phun 2 lần, mỗi lần cách nhau 5 ngày.

Khi cây đứng bệnh thì tiếp tục phun Vina Super Humate kết hợp tưới gốc 7 ngày/lần cây sẽ phục hồi nhanh chóng. Với những vườn sầu riêng suy yếu, để phòng ngừa bệnh, trước khi xử lý ra hoa 20 – 30 ngày thì pha Vina Super Humate với thuốc trừ bệnh xử lý một lần.

Ngoài khả năng phục hồi, phân hữu cơ Vina Super Humate còn được anh Hiền áp dụng tăng sức cho cây và “giải độc” chất Paclobutrazol (dùng xử lý ra hoa trên sầu riêng). Anh Hiền cho biết, Paclo gây ức chế để cây sầu riêng ra hoa nhưng để lại hậu quả nặng nề, nếu không “giải độc” kịp thời, vườn cây có nguy cơ suy kiệt nhanh và chết dần chỉ sau vài mùa xử lý. Cách tốt nhất là phải “giải” chất độc tồn dư, trong đó phân hữu cơ Vina Super Humate được xem là giải pháp rất hữu hiệu. Sau khi xử lý cây hoa xong thì sử dụng phân này tưới gốc kết hợp phun lá.

Sau khi xử lý cây hoa xong thì sử dụng phân bón tưới gốc kết hợp phun lá để đạt kết quả tốt nhất cho sầu riêng

 

Anh Hiền có khả năng nhìn cây chẩn đoán bệnh, cũng như khuyến cáo nông dân sử dụng phân, thuốc gì để điều trị cho cây hiệu quả. Nhờ vậy mà nông dân trong vùng hay gọi anh là “bác sĩ sầu riêng”, “kỹ sư chân đất”. Người khề khà đậm chất nông dân Nam bộ, anh Hiền chia sẻ: “Có người kêu tui là thầy trị bệnh sầu riêng cho vui vì tui “mê” cây sầu riêng, gắn bó gần 20 năm nên ít nhiều hiểu được “tính nết” của nó. Từ thất bại mà nên, ngày đầu trồng sầu riêng khổ lắm, trồng chết hoài. Mỗi sáng sớm lấy xe đạp không thắng chạy hàng chục cây số học cách trồng sầu riêng. Đến khi mòn mấy đôi dép (dùng dép để thắng xe) thì mới biết chút ít về nó”. Rồi anh không ngại khó tham gia lớp tập huấn kỹ thuật nhiều nơi, học về bệnh cây, sinh lý cây…

Thấm nhuần từng bài học, chẩn đoán bệnh cây như kỹ sư nhưng ít ai biết rằng, anh Lê Văn Hiền… một chữ bẻ đôi cũng không biết. Để học và hiểu được rành, anh nhờ vợ và con trợ giúp đọc cho anh nghe thành phần của phân, thuốc, tài liệu về cây sầu riêng. Trí nhớ tốt và khả năng nhận biết nhanh nhạy nên anh hiểu và thực hành rất nhanh.

Anh thử nghiệm nhiều loại phân, thuốc và cuối cùng chọn Vina Super Humate như giải pháp đồng hành cùng cây sầu riêng. Hiểu được nỗi khổ người trồng sầu riêng nên anh Hiền sẵn sàng đem kinh nghiệm của mình chia sẻ cho nông dân bất cứ đâu. Nhiều người trồng sầu riêng ở tỉnh khác như Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long… ngỏ ý nhờ, anh đều nhận lời đến tận vườn giúp. Niềm vui lớn của anh chính là nhìn thấy nhiều vườn sầu riêng xì mủ được phục hồi, vườn cây suy kiệt mất mùa được xanh tốt trở lại và cho năng suất gấp đôi.

Theo 2lua.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Trồng Dứa trên đất phèn thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Nhiều gia đình ở Sóc Trăng mạnh dạn đầu tư trồng dứa trên đất nhiễm phèn đã cho lợi nhuận gần 100 triệu đồng/năm.

Từ việc mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng tại địa phương, nhiều nông dân ở xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng đã đầu tư trồng cây khóm (dứa) trên vùng đất trũng phèn, cho thu nhập khá và ổn định.

Một trong những hộ tiên phong trồng khóm ở xã Lâm Tân là gia đình chị Trương Thị Gọn ở ấp Tân Lập. Năm 2009, gia đình chị mạnh dạn đầu tư trồng 5.000m2 khóm từ diện tích đất nhiễm phèn. Nhờ thích nghi nên cho lợi nhuận gần 100 triệu đồng/năm. Chị Gọn đã quyết định mở rộng lên diện tích 3 ha.

“Khâu chăm sóc khóm đơn giản nhưng lợi nhuận so với lúa cao hơn rất nhiều. Đầu tư ban đầu cho trồng khóm không lớn nhưng lợi nhuận thu đều qua các năm. Với mức đầu tư 15 triệu đồng, mỗi năm có thể thu lợi hàng trăm triệu đồng, tùy theo loại khóm”, chị Gọn cho biết.

Xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị từ lâu thuộc vùng trũng phèn, nhiều khu vực trồng lúa và cây trồng khác thu chi thu nhập thấp. Do vậy, từ hiệu quả kinh tế của gia đình bà Trương Thị Gọn, một số hộ dân đã dần chuyển sang đầu tư trồng khóm.
Anh Trần Thanh Sang, cũng ngụ ở ấp Tân Lập, trồng cây khóm hơn 2 năm nay chia sẻ, hiện trên diện tích 3 công khóm, gia đình anh thu về khoảng 40 triệu đồng/năm.

“Mỗi công khóm (1.000m2) cho thu nhập cao hơn trồng lúa cỡ 4-5 công mỗi vụ. Một trái khóm có trọng lượng từ 1,2kg trở lên đã có thể bán ngay được với mức giá giá 12.500 đồng”, anh Sang chia sẻ.

Lãnh đạo xã Lâm Tân đánh giá, trồng khóm là mô hình hiệu quả, cho thu nhập cao và ổn định. Đến nay, xã Lâm Tân đã có khoảng 10 ha được thí điểm trồng khóm. Tới đây xã sẽ phát triển cây trồng này trên vùng đất kém hiệu quả, vùng trũng phèn thay thế cho các loại cây trồng cho lợi nhuận thấp.

Ông Lưu Sơn Nhì, Chủ tịch UBND xã Lâm Tân cho biết, xã sẽ nhân rộng khóm trên đất vườn tạp, vùng đất kém hiệu quả và nhân rộng dần lên đất lúa. Do cây khóm từ khi bắt đầu trồng cho đến thời gian thu hoạch sẽ mất thời gian từ 18-24 tháng, nên việc chuyển đổi cần có thời gian, nếu chuyển đổi nhanh sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của người dân.
Từ hiệu quả kinh tế do cây khóm mang lại, có thể nói việc phát hiện mô hình trồng khóm trên đất trũng phèn đã mở ra một hướng sản xuất mới bền vững cho bà con xã Lâm Tân, huyện Thạnh Trị.

Phòng nông nghiệp huyện Thạnh Trị cho biết, huyện sẽ hỗ trợ, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người dân, vừa nhân rộng mô hình ở những vùng phèn, mặn không chỉ riêng xã Lâm Tân mà kể các xã vùng trũng khác trên địa bàn huyện, từ đó góp phần nâng cao đời sống của bà con địa phương.

Nguồn: VOV-ĐBSCL được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.