Chi phí và lợi nhuận cho một vụ Lúa

Trong sản xuất cây lúa hay bất cứ các cây trồng nào khác, muốn có lợi cao, thường phải có năng suất cao và bán được giá lời.

Về năng suất thì phụ thuộc giống tốt hay xấu, kỹ thuật tiên tiến hay lạc hậu, thời tiết có thuận hòa không. Về giá cả thì thường phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng hơn là phụ thuộc vào người sản xuất. Nhưng năng suất và chất lượng của sản phẩm thì chủ yếu là phụ thuộc vào người sản xuất, là yếu tố chủ quan.

Để có được năng suất cây trồng cao cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cả khách quan và chủ quan…

Về yếu tố khách quan, đó là thời tiết thuận lợi. Yếu tố này là yếu tố vũ trụ, con người khó kiểm soát. Tuy nhiên có kinh nghiệm và có kỹ thuật cao thì con người vẫn có thể khắc phục hay né tránh được các điều kiện khách quan để có được năng suất cây trồng cao và ổn định (trường hợp của Israel sống trên sa mạc mà vẫn sản xuất được mọi loại rau, cây trái năng suất cao, chất lượng tốt).

Về yếu tố lời, lỗ thì vừa phải kết hợp năng suất cao vừa phải kết hợp nguồn chi phí đầu tư hợp lý, bất kể giá bán cao hay thấp. Vậy làm sao để thực hiện được các khoản chi phí thấp mà vẫn đạt được năng suất cao, chất lượng tốt.

Để trả lời câu hỏi này ta hãy tham khảo kết quả chương trình sản xuất lúa thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu, do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã thực hiện từ năm 2016 đến 2017.

Các số liệu thu được trong tài liệu này là do các cán bộ khuyến nông các huyện cùng theo dõi, tính toán với người nông dân mà có, vả lại đây là số liệu thu được mỗi vụ từ 65 nông dân thực hiện tại 13 tỉnh ở ĐBSCL, đại diện cho các vùng tiểu sinh thái khác nhau, vì vậy các thông tin này rất đáng tin cậy.

1. Vụ đông xuân năm 2015 – 2016:

Dưới tiêu đề “Từ ruộng vườn đến trường quay”. Vụ này với mục tiêu là biến ruộng đồng thành trường học, cán bộ kỹ thuật và nông dân cùng nhau ra đồng để trao đổi về cách làm lúa có lời cao. Chỉ tiêu chủ yếu trong vụ này là sử dụng loại phân hợp lý, chưa đề cập đến giảm lượng giống sạ, lượng giống sạ giữa mô hình và trong ruộng của dân vẫn 140kg/ha.

Thế nhưng trong mô hình nhờ sử dụng loại phân Đầu trâu có chất lượng cao, đầy đủ dinh dưỡng, nên dù chất N giảm xuống 29%, mà năng suất lúa của mô hình vẫn cao hơn đối chứng 754kg/ha.

Trong vụ này bình quân 65 mô hình có chi phí là 15.172.000đ/ha, còn bình quân ruộng đối chứng có chi phí 16.441.000 đ/ha, cao hơn ruộng mô hình là 1.269.000đ/ha. Nhờ vậy mà tiền lời thu được trong ruộng mô hình cao hơn đối chứng là 7.760.000 đ/ha.

2. Vụ hè thu năm 2016:

Quy mô thực hiện cũng trải khắp 13 tỉnh, 65 nông dân cùng tham gia. Vụ này tiêu chí đặt ra là mô hình phải giảm lượng giống sạ còn 80kg/ha,đồng thời vẫn sử dụng phân Đầu Trâu để giảm số lượng bón. Áp dụng các kỹ thuật làm giảm phèn mặn, quản lý nước và sâu bệnh đồng bộ. Vụ này chi phí của mô hình là 15.947.000 đ, còn ở ruộng đối chứng là 16.958.000 đ, vẫn cao hơn mô hình là 1.101.000 đ/ha. Năng suất ruộng trong mô hình cao hơn đối chứng 496kg thóc/ha. Nhờ vậy làm giá thành cũng hạ hơn đối chứng là 420 đ/kg thóc, nên cuối cùng ruộng mô hình vẫn có lời hơn đối chứng 3.660.000 đ/ha.

3. Vụ đông xuân năm 2016-2017:

Xét về chi phí đầu tư cả mô hình và đối chứng tương đương nhau. Nhưng do mô hình có năng suất lúa cao hơn đối chứng là 775 kg/ha, nên cuối cùng lợi nhuận của mô hình cũng cao hơn đối chứng 4.960.000đ/ha.

4. Vụ hè thu năm 2017:

Về suất đầu tư thì mô hình vẫn giữ mức sạ 80kg, còn đối chứng dân vẫn sử dụng 150kg/ha và phân bón sử dụng cũng cao hơn mô hình, nên tổng chi phí của ruộng đối chứng bình quân 15 địa điểm là 17.551.429 đ, còn ở mô hình chi phí là 15.619.136 đ/ha, thấp hơn ruộng đối chứng là 1.932.293 đ/ha. Trong đó chi cho giống cao hơn mô hình là 676.100 đ, phân bón là 348.350 đ; thuốc bảo vệ thực vật là 1.025.522 đ; chi phí khác là 324.534 đ/ha. Thực tế năng suất lúa khô của mô hình cao hơn đối chứng là 601kg/ha,dẫn đến giá thành hạ là 695 đ/kg thóc nên lợi nhuận của mô hình cao hơn đối chứng 5.792.398 đ/ha.

Nguồn: nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Cảnh báo sâu bệnh tổng hợp trong tuần (từ 6-12/3)

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng

1. Trên lúa

Các tỉnh phía Bắc: Ốc bươu vàng, tuyến trùng, bệnh đạo ôn lá, bọ trĩ gây hại tăng. Bọ xít đen, bệnh nghẹt rễ, chuột tiếp tục gây hại. Rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu đục thân 2 chấm, sâu cuốn lá nhỏ gây hại với mật độ, tỷ lệ hại thấp.

Các tỉnh Bắc Trung Bộ: Bệnh đạo ôn lá tiếp tục phát sinh gây hại tăng nhanh trên diện rộng. Chuột hại tăng trên lúa trà sớm ở giai đoạn đẻ nhánh rộ, lúa trà muộn mới gieo. Ốc bươu vàng hại tăng trên lúa mới gieo cấy, hại nặng trên những ruộng gần ao hồ, sông suối, khu đồng trũng ngập nước thường xuyên. Tuyến trùng rễ, bọ trĩ có khả năng gây hại tăng trên các chân ruộng thiếu nước.

Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Bệnh đạo ôn lá, bệnh đạo ôn cổ bông, rầy nâu, rầy lưng trắng gia tăng gây hại trên lúa trà sớm giai đoạn đòng trỗ – chắc xanh. Bệnh đạo ôn lá, sâu cuốn lá nhỏ phát sinh và gây hại tăng. Sâu đục thân, sâu keo, bọ trĩ, dòi đục nõn gây hại rải rác trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh. Bệnh bạc lá hại cục bộ ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Chuột hại diện rộng trên các trà lúa ĐX giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ.

Các tỉnh Đông Nam bộ và ĐBSCL: Rầy nâu hại nhẹ đến trung bình, cục bộ hại nặng. Bệnh đạo ôn lá có thể sẽ xuất hiện trên lúa HT sớm 2018 giai đoạn đẻ nhánh ở mức độ nhẹ đến trung bình; Bệnh đạo ôn cổ bông vẫn còn phát triển và gây hại trên các trà lúa trỗ. Sâu năn gây hại trên các giống lúa Jasmin85, OM4900, Đài thơm 8, OM 7347, OM 6162, OM 6976, OM 5451… Nơi gieo sạ lúa HT phải đảm bảo thời gian giãn vụ, cày ải, phơi đất ngay sau khi thu hoạch lúa ĐX 2017-2018 tối thiểu là 15 ngày. Lưu ý bệnh bạc lá, sâu cuốn lá nhỏ, chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn đẻ nhánh đến đòng trỗ; chuột gây hại trên lúa ở giai đoạn trỗ đến chín.

2. Trên cây trồng khác

– Cây nhãn: Bệnh chổi rồng nhãn tiếp tục gây hại.

– Cây thanh long: Bệnh đốm nâu, ốc sên tiếp tục gây hại.

– Cây có múi: Bệnh greening tiếp tục gây hại.

– Cây hồ tiêu: Tuyến trùng hại rễ và bệnh chết nhanh, chết chậm tiếp tục gây hại.

– Cây điều: Bọ xít muỗi và bệnh thán thư tiếp tục gây hại.

– Cây dừa: Bọ cánh cứng và bọ vòi voi tiếp tục gây hại.

– Cây cà phê: Bệnh khô cành, bệnh gỉ sắt tiếp tục gây hại.

– Cây sắn: Bệnh khảm lá virus tiếp tục hại.

Khuyến cáo

Trên lúa:

+ Để phòng trừ rầy nâu gây hại, sử dụng Applaud 25WP – Giải pháp trừ rầy nâu môi giới truyền bệnh VL-LXL (700g/ha), hoặc sử dụng Wellof 3GR (12-15kg/ha).

+ Đối với sâu cuốn lá nhỏ sử dụng Opulent 150SC (6ml/bình 16 lít, phun 2,5 – 3 bình/1.000 m2) hoặc Wellof 330EC (0,8-1 lít/ha, pha 40-50ml/bình 16 lít nước).

+ Để trừ sâu đục thân, sử dụng Nurelle D 25/2.5EC (1-1,5 lít/ha), phun sau khi bướm nở rộ 5-7 ngày.

+ Để phòng trừ đạo ôn, sử dụng BEAM 75WP – “Cắt ngay cháy lá” (250g/ha).

+ Sử dụng Bonny 4SL (0,75 lít/ha, 30 ml /bình 16 lít nước), lượng nước phun 400 lít/ha.

+ Sử dụng Aviso 350SC (0,35 lít/ha, 14ml thuốc/bình 16 lít nước) để phòng trừ bệnh lem lép hạt.

+ Phối hợp BEAM 75WP (250g/ha) + Bonny 4SL (500ml/ha) + Aviso 350SC (0,35 lít/ha) để phòng trừ bệnh đạo ôn, bạc lá do vi khuẩn và lem lép hạt cùng lúc tấn công cây lúa.

+ Sử dụng Pulsor 23DC (0,22-0,33 lít/ha), Catcat 250EC, Vali 5SL phun khi bệnh vết bệnh khô vằn (trên lúa, ngô) lúc mới xuất hiện.

+ Để kích thích cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, tránh nghẹn đòng khi trổ, dùng Dekamon 22.43L (6ml/bình 16 lít nước), phun lên lá, bông 10-15 ngày sau sạ, 40-45 ngày sau sạ và sau khi trổ đều.

Cây rau:

+ Sử dụng Foliar Blend (50ml/16 lít nước) để cung cấp dinh dưỡng vi lượng dễ hấp thụ cho cây trồng.

+ Sử dụng Gekko 20SC với hoạt chất Amisulbrom 200g/l, liều dùng 12-20ml/bình 16 lít nước để phòng trừ bệnh sương mai, giả sương mai trên dưa leo, cà chua.

Cây ngô (bắp):

+ Sử dụng Maxer 660SC (1,25 – 2,5 lít/ha) trừ cỏ giai đoạn 7-20 ngày với ruộng ngô (bắp) biến đổi gen.

Cây tiêu:

+ Đối với bệnh chết nhanh, chết chậm trên tiêu, khuyến cáo phòng bệnh định kỳ. Kết hợp phun phủ trụ Manozeb 80WP (1kg/phuy 200 lít nước) + Bonny 4SL (250ml/phuy 200 lít nước), phun 4-6 lít nước/gốc và kết hợp rải Wellof 3GR (20-25g/gốc) trừ rệp sáp gốc và rễ.

+ Để trừ tốt nấm Phytophthora (nguyên nhân gây ra bệnh chết nhanh cây tiêu), dùng Gekko 20SC – Chứa hoạt chất Amisulbrom (sử dụng 200ml thuốc/200 lít nước), tưới 4-6 lít/gốc để tiêu diệt mầm bệnh.

Cà phê:

+ Phòng bệnh thán thư (khô cành, quả) sử dụng Manozeb 80WP (80g/bình 16 lít nước) kết hợp Aviso (20ml/bình 16 lít nước) để phòng và trị bệnh.

Nguồn: Cục BVTV được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Các tỉnh phía Bắc còn hơn 300.000 ha chưa gieo cấy

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), kế hoạch vụ đông xuân 2017- 2018, đến nay, diện tích gieo cấy toàn vùng 772 nghìn ha (67.8%).

Nông dân Bắc Giang xuống đồng cấy lúa

Tổng diện tích chưa gieo cấy các tỉnh phía Bắc (gồm các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ, ĐBSH và Trung du, miền núi phía Bắc) đến 21/2/2018 khoảng 367.000 ha chưa gieo cấy.

Tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, tổng diện tích gieo cấy khoảng 337.000 ha trong tổng số 541.000ha kế hoạch (tương đương 62,2%), diện tích chưa gieo cấy khoảng 204.000ha. Dự kiến các địa phương kết thúc gieo cấy trong tháng 2.

Còn tại các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc, diện tích gieo cấy đạt 105.000ha trong tổng số 24.000 héc ta kế hoạch (42%), do thời gian qua thời tiết rét đậm, rét hại các địa phương không gieo cấy được; một số địa phương có diện tích gieo cấy nhờ nước trời nên gieo cấy muộn (diện tích chưa gieo cấy 144.000 ha).

Theo ông Trần Xuân Định, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, tiến độ gieo cấy năm nay bị chậm so với mọi năm. Nguyên nhân là do trước Tết nguyên đán xuất hiện các đợt rét đậm, rét hại, nhiệt độ hạ xuống dưới 15oC, Bộ NN-PTNT chỉ đạo các địa phương tạm ngừng gieo cấy. Rất may là sau ngày 23 tháng Chạp, thời tiết ấm dần, nhiệt độ trung bình khoảng 16 – 17oC, bà con xuống đồng tổ chức gieo cấy.

Ông Trần Xuân Định lưu ý, các địa phương cần khẩn trương làm đất gieo cấy nhanh diện tích lúa xuân trong khung thời vụ tốt nhất; kết thúc cấy trong tháng 2, chậm nhất ngày 5/3. Đồng thời cần bón lót sâu, bón trước lúc bừa chan phẳng ruộng; để lắng bùn mới cấy.

Quan điểm là mạ chờ ruộng; sử dụng phân NPK phức hợp hoặc hỗn hợp chuyên lót. Đồng thời phải giữ nước đều trên ruộng và tích nước ở hệ thống kênh mương phục vụ tưới dưỡng.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Công nghệ sản xuất mạ khay

Sản xuất mạ khay gắn liền với việc sử dụng máy cấy. Đây là công nghệ mới trong khâu gieo cấy, nhằm thúc đẩy sản xuất lúa theo hướng tiên tiến, hiện đại, nâng cao hiệu quả sản xuất của người lao động, góp phần thúc đẩy cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa. Chúng tôi xin giới thiệu với bà con quy trình công nghệ sản xuất mạ khay.

1. Chuẩn bị lúa giống

 a) Chọn hạt giống: Lựa chọn hạt giống giống khỏe mạnh và đầy đặn.

b) Loại bỏ các ngạnh ở đầu và đuôi:

Loại bỏ ngạnh lúa nhằm đảm bảo gieo giống được đều đặn và thống nhất. Khi loại bỏ các ngạnh lúa, chú ý không loại bỏ các vỏ trấu của hạt lúa. Bởi, nếu mất vỏ trấu, hạt lúa sẽ bị khô và rất dễ bị bể (vỡ). Những hạt giống bị bể không thể sử dụng được.

 c) Tuyển chọn bằng nước muối:

– Mục đích: Để chọn được những hạt giống khỏe mạnh.
– Cách làm: Hòa tan muối trong nước, với tỷ trọng tiêu chuẩn là 1.08 (tỷ lệ 1,5 kg muối và 10 lít nước). Với tỷ trọng 1.08, tỷ lệ nảy mầm giữa các hạt giống sẽ luôn ổn định.
– Cách nhận biết tỷ trọng 1.08
– Sử dụng trứng gà
– Sử dụng tỷ trọng kế

Chú ý

– Sau khi tuyển chọn 1 hoặc 2 lần tỷ lệ 1.08 sẽ thay đổi.
– Cần điều chỉnh cho nước có tỷ trọng 1.08
– Sau khi tuyển chọn được những hạt giống tốt chúng ta cần rửa lại bằng nước sạch, để loại bỏ muối ra khỏi hạt giống. Vì nếu còn lẫn muối, muối sẽ làm cho hạt giống phát triển kém.

2. Tẩy độc hạt giống

 – Sau khi tuyển chọn được những hạt giống tốt chúng ta cần tẩy độc hạt giống tiêu diệt các mầm bệnh
– Tẩy độc giúp cho hạt giống đề kháng được các bệnh: Đạo ôn, rầy nâu…
– Tẩy độc bằng các loại nông dược chuyên dùng tại địa phương.
– Có những nông dược dạng bột (JIVON-miền tây) hay dạng dùng chung khi ngâm như acid…

3. Ngâm giống

– Quá trình ngâm giống thúc đẩy hạt nảy mầm một cách đồng nhất
– Hạt giống cần độ ẩm khoảng 25% để nảy mầm
– Khi ngâm bảo đảm dùng nước sạch và tỷ lệ khoảng 1kg giống: 3.5 lít nước.
– Nên thay nước 1 ngày một lần để cung cấp đủ oxy, vì nếu không đủ OXY sẽ làm cho hạt chậm phát triển.
– Số ngày cần thiết để hạt giống nảy mầm là tích hợp đủ tổng nhiệt độ 100 độ C
Cụ thể: Nhiệt độ nước trung bình hàng ngày (độ C) X số ngày = tổng nhiệt độ nảy mầm (1000c)
Ở 25 độ C x 4 ngày = 100 độ C
Ở 30 độ C x 3,5 ngày = 105 độ C
Ở 35 độ C x 3 ngày = 105 độ C
– Chiều dài tiêu chuẩn của mầm từ 0.5 – 1.0mm
– Nếu mầm và rễ quá dài khi gieo sẽ gặp khó khăn
– Nếu mầm không phát triển đủ, quá trình tăng trưởng sẽ không đều
– Trước khi gieo hạt giống cần được làm ráo nước.
– Nếu bị ướt sẽ làm cho việc gieo giống không chính xác.
– Nên phơi hạt nơi có bóng râm.

4. Cho đất vào khay

– Đất tốt nhất là đất bùn từ ruộng hoặc đất lấy từ núi
– Nên dùng lưới sàng có lỗ 6-8mm
– Cho đất vào khay và dùng thanh làm phẳng để làm phẳng bề mặt
– Chiều dày của đất 20cm
– Không đè mạnh khi cho đất vào khay. Vì nếu đè mạnh sẽ làm cho mầm phát triển không tốt.
– Chú ý các góc khi cho đất vào khay. Nếu các góc không bằng có thể làm cho việc gieo không đều

 5. Đường ray gieo

– Chuẩn bị đường ray cho bánh xe của máy gieo

6. Tưới nước

– Cần tưới nước cho lớp đất trước khi gieo.
– Cung cấp khoảng 1-1,5lít nước.
– Đảm bảo cho đất được làm ướt đều đến bên dưới.

7. Gieo mạ

– Để cây giống khỏe mạnh cần gieo chính xác và đồng nhất.
– Khối lượng giống: 200g mỗi khay.

8. Phủ đất

– Sau khi gieo chúng ta cần phủ một lớp mỏng trên bề mặt.
– Đất không cần chứa phân bón
– Không tưới nước sau khi phủ đất

9. Kết thúc gieo

– Sau khi gieo và phủ đất. Chúng ta cần xếp chồng, giúp cung cấp đủ nhiệt độ cho hạt giống nảy mầm.
– Quá trình này kết thúc khi mầm được 0.5cm.

10. Chăm sóc sau khi gieo

Sau khi hạt nảy mầm được 0.5cm cần được đưa ra chăm sóc ở vườn ươm. Vườn ươm cần có bề mặt bằng phẳng

– Cần đảm bảo nhiệt độ cho mạ non phát triển (đối với miền Bắc)
– Nếu nhiệt độ quá thấp (dưới 150c) sẽ làm cho cây mạ sinh trưởng không tốt.
– Đảm bảo cung cấp đủ nước cho cây mạ.
– Lượng nước tối thiểu: 1lít mỗi khay.
– Cây mạ tốt để cấy có khoảng 3 lá.
– Cây mạ tốt để cấy phải đạt chiều cao khoảng 10 đến 20cm.
– Mạ cần có độ dày rễ từ 2,7 đến 3cm.

Việc áp dụng công nghệ sản xuất mạ khay, máy cấy, giúp mật độ cây lúa đạt sự đồng đều hơn, khoảng cách hàng cố định 30cm; khoảng cách cây có thể điều chỉnh từ 12-21cm. Chính vì vậy khi tạo độ đồng đều trong quần thể ruộng lúa; phát huy được hiệu ứng hàng biên sẽ tăng năng suất và chất lượng hạt lúa; ruộng thông thoáng, giảm sâu bệnh.

Hiện nay, tại các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, công nghệ sản xuất mạ khay, sử dụng máy cấy đã áp dụng ở một số tỉnh như: Thanh Hóa, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng.

Nguồn:  Khuyennongvn.gov.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Những hiện tượng bất thường trên rễ lúa và biện pháp khắc phục

Trong quá trình trồng lúa, người nông dân cần theo dõi liên tục sự phát triển bộ rễ của lúa để phát hiện những hiện tượng bất thường và tìm cách khắc phục kịp thời tránh thiệt hại nghiêm trọng.

1. Thế nào là rễ lúa khỏe mạnh, bình thường

Rễ lúa khỏe mạnh, bình thường lúc mới mọc có màu trắng sữa, hơi cứng, chưa có lông hút. Khi rễ trưởng thành trở nên mềm mại, suông dài, có màu xám nâu, nhưng chóp rễ vẫn có màu trắng sữa và có lông hút, chứng tỏ rễ đang sinh trưởng mạnh.

2. Hiện tượng rễ lúa có màu vàng, nâu

Rễ lúa có màu vàng hay nâu là do chất sắt bám bên ngoài rễ lúa (sắt bị oxy hóa bởi rễ tiết ra oxy). Đây là hiện tượng phổ biến ở rễ lúa trồng trên đất ngập nước có độ thấm rút kém ở đồng bằng sông Cửu Long. Chính hiện tượng này giúp lúa chống lại sự ngộ độc sắt ở đất ngập nước (yếm khí) hay ở đất có pH thấp (như đất phèn). Mặc dù rễ lúa bị vàng, nâu nhưng vẫn sinh trưởng khỏe mạnh bình thường, tuy nhiên khả năng hấp thụ dưỡng chất có phần nào bị giảm đi. Ở đất phèn nặng, chất sắt hòa tan rất nhiều, vượt quá khả năng oxy hóa của rễ làm lúa bị ngộ độc sắt, lúc đó có màu nâu đỏ.

Để làm giảm hiện tượng này cần phải cày sâu, phơi ải, đánh rãnh thoát nước sau khi làm đất và rút nước thường xuyên giữa vụ (nhất là ở giai đoạn 2-3 tuần sau khi cho đất ngập nước), bón vôi để nâng pH nước ruộng trên 5,5.

3. Hiện tượng rễ lúa bị đen

Rễ lúa bị đen là do chất sắt kết hợp với chất lưu huỳnh bám trên rễ. Rễ lúa bị đen mất khả năng oxy hóa nên dễ bị ngộ độc sắt (Fe2+), hấp thụ dinh dưỡng kém mất cân đối nên dễ nhiễm bệnh như bệnh đốm nâu. Hiện tượng này thường xảy ra ở đất trũng thấp, ngập nước, nhiều sét, ít thấm rút và có cày vùi nhiều rơm rạ. Tình trạng trở nên trầm trọng gây chết rễ khi đất có phèn nặng.

Không nên để cho rễ lúa bị đen, chết rồi mới trị, mà cần có biện pháp phòng tránh như sau:

a. Sau khi thu hoạch lúa nên cày ải, để rơm rạ được phân hủy ít nhất 1 tháng, và chỉ sạ lúa sau khi cho đất ngập từ 2 đến 3 tuần.

b. Trong trường hợp không cày ải được vì phải gieo sạ lại ngay sau khi thu hoạch, cần phải cắt gốc rạ và di chuyển hết rơm rạ ra khỏi ruộng trước khi làm đất. Nếu không được thì phải chủ động rút nước ở thời điểm 15 và 30 ngày sau khi sạ, rút khô kiệt đến khi mặt ruộng răn nứt (ít nhất 5 ngày, mực thủy cấp cách mặt đất 10-15 cm), bón phân vôi (khoảng 30 kg đá vôi nung/công 1.000 m2), vô nước lại và bón phân lân và kali để tăng khả năng chống chịu của cây lúa.

4. Hiện tượng rễ lúa có bướu

Khi rễ lúa bị ngắn lại, chóp rễ phù to có nhiều dạng khác nhau kích thước từ 1-3 mm (gọi là bướu) là do tuyến trùng gây ra. Tuyến trùng tấn công mạnh trong giai đoạn đầu của cây lúa, ở những ruộng bị thiếu nước do không giữ được nước hay do khô hạn.

Để phòng ngừa nên cho đất ngập nước để diệt tuyến trùng lưu tồn trong đất trước khi gieo sạ. Khi phát hiện có bướu rễ phải cho đất ngập nước để khống chế sự phát triển của tuyến trùng. Có thể rải Diazan 10 H với liều lượng khoảng 20 kg/ha để diệt tuyến trùng.

5. Hiện tượng rễ lúa chết

Ở giai đoạn trước tượng đòng, sản phẩm quang hợp của lá lúa tập trung vào việc nuôi rễ nên bộ rễ phát triển mạnh và đạt mức tối đa khi cây lúa bắt đầu tượng khối sơ khởi (lúc bón phân đón đòng). Ở giai đoạn có đòng (lúc bông lúa còn non, chưa trổ) thì một phần sản phẩm quang hợp của lá lúa được sử dụng để nuôi đòng cho nên sự phát triển của rễ vào giai đoạn này bị chậm lại. Khi lúa bắt đầu trổ, hầu như sản phẩm quang hợp của những lá trên của bộ lá đòng được sử dụng để nuôi hạt, chỉ những lá già ở bên dưới nuôi rễ mà thôi. Do đó, rễ bắt đầu chết dần sau khi lúa trổ là việc bình thường, muốn duy trì sự sống của rễ ở giai đoạn này phải cung cấp đủ dinh dưỡng cho lúa ở giai đoạn làm đòng và giữ cho lá không bị bệnh và côn trùng gây hại.

Nguồn: Agpps.com.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Bệnh lem lép hạt lúa

Bệnh lem lép ở cây lúa do nhiều nguyên nhân đồng loạt gây nên làm thiệt hại nghiêm trọng tới người nông dân. Bệnh đang có xu hướng lan rộng về diện tích lẫn mức độ tác hại, mùa vụ nào chân ruộng nào cũng có bệnh, chưa có giống lúa nào chống chịu được bệnh.

Thế nào là lem lép hạt lúa

Lem lép hạt lúa là tên gọi để chỉ chung hiện tượng hạt lúa có vỏ trấu sậm màu biến đổi từ màu nâu đến đen; từ đen lốm đốm đến đen toàn bộ vỏ trấu; bao gồm cả trên hạt lúa có gạo và hạt lúa lép không có gạo ở giai đoạn cây lúa còn trên đồng ruộng trước khi thu hoạch.

Bệnh lem lép hạt do nhiều mầm bệnh tấn công lên hạt. Gồm mầm bệnh của đạo ôn (Pyricularia oryzae), bệnh đốm vằn (Rhizoctonia solani), bệnh thối thân (Sclerotium spp.), bệnh lúa von (Fusarium spp.), bệnh đốm nâu (Helminthosporium oryzae, Cercospora oryzae), nấm Alternaria spp., Curvularia spp., và vi khuẩn gây cháy bìa lá (Xanthomonas spp.), sọc lá (Pseudomonas spp.)…

1 Mối tương quan giữa dịch bệnh với cây trồng

Bệnh xảy ra trên cây trồng có liên quan đến các yếu tố môi trường chung quanh như thời tiết, đất nước, tình trạng sức khoẻ cây trồng và sự xuất hiện của mầm bệnh.

  • Bệnh đạo ôn lúa: Khi thời tiết có sương mù, ẩm độ cao, nhiệt độ thấp vào ban đêm, gieo trồng giống lúa mẩn cảm với bệnh, bón phân thừa đạm sẽ thích hợp cho mầm bệnh đạo ôn gây hại.
  • Bệnh khô vằn: Thời tiết mưa bảo, ẩm độ cao, ít nắng, gieo sạ mật độ dầy, bón phân thừa đạm sẽ thích hợp cho bệnh khô vằn phát triển.
  • Bệnh đốm nâu: Tình trạng đất xì phèn, rễ lúa bị nhiễm phèn, cây lúa thiếu phân và sinh trưởng kém sẽ tạo điều kiện cho bệnh đốm nâu phát triển.

Trong điều kiện thời tiết mưa gió, bệnh lem hạt trên lúa thường phát triển mạnh. Khi cây lúa đang trổ, bông lúa đang phơi màu, nếu gặp mưa bão, sẽ gây ra tình trạng lép hạt lúa. Bên cạnh, với điều kiện ẩm độ cao, mưa gió nhiều, nấm bệnh sẽ phát triển và phát tán mạnh, cũng như việc phun thuốc phòng trị gặp nhiều khó khăn khi thời tiết mưa bão, do đó hạt lúa dễ dẫn đến tình trạng bị lem hạt.

2 Điều kiện hạn chế tác hại của bệnh

Nhằm hạn chế sự gây hại của bệnh, biện pháp canh tác của bà con nông dân rất quan trọng, biện pháp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là cuối cùng. Biện pháp canh tác như vệ sinh đồng ruộng, chọn giống sạch bệnh, không sạ dầy, bón phân cân đối không thừa đạm, bón theo bảng so màu lá lúa thì sẽ góp phần hạn chế bệnh phát triển và lây lan. Đối với chân ruộng bị nhiễm phèn, mặt ruộng cần được xẻ rảnh kết hợp với bơm nước và tháo nước để xổ phèn, bên cạnh ruộng được bón lót vôi hoặc phân lân để hạ phèn, sau đó sử dụng phân Calcium nitrat trộn chung với đợt bón phân lần 2 và lần 3 để rãi thì sẽ hạn chế được tình trạng đất xì phèn và lúa bị ngộ độc phèn.

Để giúp cây lúa có khả năng trổ nhanh và đồng loạt, cần tránh bón phân thừa đạm ở giai đoạn rước đòng, bón theo bảng so màu lá lúa và nên phun phân bón qua lá KNO3 (Multi-K) vào giai đoạn trước khi trổ 5 – 7 ngày

3 Phòng trị bệnh ở giai đoạn lúa đẻ nhánh tích cực và làm đòng:

Bệnh lem lép hạt do nhiều mầm bệnh tấn công lên hạt. Gồm mầm bệnh của đạo ôn (Pyricularia oryzae), bệnh đốm vằn (Rhizoctonia solani), bệnh thối thân (Sclerotium spp.), bệnh lúa von (Fusarium spp.), bệnh đốm nâu (Helminthosporium oryzae, Cercospora oryzae), nấm Alternaria spp., Curvularia spp., và vi khuẩn gây cháy bìa lá (Xanthomonas spp.), sọc lá (Pseudomonas spp.)

Cây lúa ở giai đoạn làm đòng thường xuất hiện nhiều mầm bệnh gây hại kể trên, sau đó những mầm bệnh này sẽ tiếp tục lây lan từ lá và bẹ lên cổ bông và hạt lúa gây lem lép hạt. Vì vậy, cần theo dõi khống chế mầm bệnh gây hại ở giai đoạn lúa đẻ nhánh tích cực đến làm đòng. Nếu ở giai đoạn này, không phòng trị tốt những mầm bệnh trên và để cho chúng phát triển mạnh và gây hại nặng, sau đó cho dù sử dụng những loại thuốc phòng trị bệnh lem lép hạt đắt tiền phun vào giai đoạn trước trổ và sau trổ thì hiệu quả mang lại cũng rất thấp.

Sử dụng thuốc BVTV

Khi sử dụng thuốc BVTV cần sử dụng theo phương pháp 4 đúng, cần có 1 bộ thuốc để phòng trị bệnh và sử dụng luân phiên

Sử dụng thuốc Kisaigon 10H dạng hạt trộn với phân bón đợt 2 và đợt 3 để rải. Thuốc hấp thu qua rễ và lưu dẫn vào cây lúa, giúp bảo vệ toàn bộ cây lúa, tiêu diệt mầm bệnh cả bộ phận bên trên và bên dưới của cây lúa, gồm các loại mầm bệnh đạo ôn, khô vằn, đốm nâu, thối thân.

+ Sử dụng Lúa vàng 20WP để phòng trị bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông

+ Sử dụng Pysaigon 50WP để phòng trị bệnh đạo ôn lá, đạo ôn bông, vàng lá chín sớm

+ Sử dụng thuốc Saizole 5SC vào giai đoạn lúa 35 đến 70 ngày đề phòng trị bệnh khô vằn, đốm nâu, lúa von

4 Phòng trị bệnh ở giai đoạn lúa trổ

  • Sử dụng thuốc trừ nấm phổ rộng, nội hấp nhanh
  • Giai đoạn trước khi lúa trổ 5 – 7 ngày, sử dụng thuốc Hạt vàng 250SC pha với Dipomate 80WP và Multi-K
  • Giai đoạn lúa trổ đều, sử dụng thuốc Hạt vàng 250SC
  • Với điều kiện áp dụng biện pháp canh tác và sử dụng thuốc trừ bệnh hợp lý, việc quản lý bệnh trên cây lúa sẽ đạt được kết quả cao và mang lại hiệu quả kinh tế.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Một số vấn đề cần lưu ý khi canh tác lúa trên đất nuôi tôm

Thời vụ:
Bố trí mùa vụ thích hợp giúp cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao.
Đối với lúa cấy: gieo mạ vào đầu đến nửa tháng 8, cấy vào cuối tháng 9. Đối với lúa sạ: sạ từ tháng 8 đến giữa tháng 9.
Chuẩn bị đất:
Cần tận dụng mọi nguồn nước ngọt (nước mưa, nước kênh mương…) để rửa mặn nhiều lần (5 – 7 lần) trong thời gian từ 20 – 30 ngày. Trước khi xổ nước rửa mặn cần bừa trục và ngâm đất 7 – 10 ngày để giúp rửa mặn tầng đất được sâu hơn. Khi nồng độ mặn còn 1 – 2%o thì xuống giống.


Cơ cấu giống lúa:
Chọn giống lúa có khả năng chịu mặn, kháng sâu bệnh, năng suất ổn định để canh tác.
Lượng giống sạ, cấy:
– Gieo mạ 40 – 50kg giống/1.000m2 (cấy cho 1ha).
– Gieo sạ 100 – 120kg lúa giống cho 10.000m2 (lúa cao sản).
– 40 – 60kg lúa giống, sạ cho 10.000m2 (lúa mùa Một bụi đỏ).
Lượng phân bón cho 1 công tầm cấy đối với lúa cấy: 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 25 – 30kg phân lân). 5 – 7kg phân urê + 6 – 10kg phân NPK (20-20-15).
– Cách bón:
Lần 1: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 25 – 30kg phân lân) trước khi bừa trục lần cuối. Lần 2: Bón sau khi cấy 5 – 7 ngày 1/2 lượng urê + 2/3 phân NPK. Lần 3: Bón sau khi cấy 30 – 35 ngày 1/2 lượng urê + 1/3 NPK.
Lượng phân bón cho 1 công tầm cấy đối với lúa sạ: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 30 – 35kg phân lân). 6 – 10kg phân urê + 10 – 13kg phân NPK (20-20-15).
– Cách bón:
Lần 1: Bón 10 – 20kg phân con cò cải tạo đất (hoặc 30 – 35kg phân lân) trước khi bừa trục lần cuối. Lần 2: Sau khi sạ 5 – 7 ngày bón 1/2 lượng urê. Lần 3: Sau khi sạ 20 – 25 ngày bón 1/2 lượng urê + 1/2 NPK. Lần 4: Sau khi sạ 40 – 45 ngày bón 1/2 lượng NPK.


Chú ý:
– Luôn giữ mực nước ruộng 1 – 2 tấc trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển của cây lúa.
– Phòng trừ cỏ dại.
– Áp dụng triệt để các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho lúa.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam

Cơ sở và thiết kế mô hình sản xuất kết hợp lúa – cá

Mô hình sản xuất kết hợp lúa – cá là một hướng đi nhằm phát triển nông nghiệp bền vững, giảm ô nhiễm môi trường, duy trì môi trường sinh thái tự nhiên, tạo ra sản phẩm cá và lúa sạch cung cấp cho thị trường. Đặc biệt, mô hình đã giúp bà con nông dân vùng trũng, vùng lũ trong tỉnh chuyển dịch sản xuất, nâng cao thu nhập.

A. Cơ sở của sự kết hợp

Trên thế giới nghề nuôi thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi kết hợp lúa – cá ở môi trường nước ngọt ngày càng được đầu tư nghiên cứu, phát triển, thể hiện ở nhiều nước vùng Đông Nam Châu Á như: China, Việt Nam, Thailand, Indonesia, Malaysia, Bangladesh, India, Philippines, Korea và Cambodia…

1. Tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống nông dân

Ở ĐBSCL có hàng triệu ha ruộng cấy lúa có thể nuôi cá kết hợp được. Trên thực tế số ruộng có thả cá nuôi rất ít. Phần lớn các ruộng nông dân chỉ lợi dụng vào theo cá tự nhiên sau mỗi mùa thu hoạch. Nếu mỗi người đều phải hiểu biết về lợi ích kinh tế và kỹ thuật thì tôm cá nuôi ở ruộng sẽ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.

2. Nuôi cá có kết hợp cấy lúa, năng suất lúa sẽ cao hơn so với ruộng không nuôi cá

Khi nuôi cá ở ruộng lúa, cá sục bùn tìm mồi ở đáy ruộng diệt cỏ dại, côn trùng, sâu bệnh hại lúa, đồng thời phân cá thải ra làm đất giàu dinh dưỡng. Vì vậy năng suất lúa sẽ tăng.

Nuôi hết hợp lúa – cá

3. Khả năng tiêu diệt sâu rầy của cá

Ở ruộng nuôi cá kết hợp với cấy lúa, người ta rất hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, nên giảm được công lao động và hạ giá thành sản phẩm.

4. Tăng thêm thức ăn cho cá

Trồng lúa có trục xạ đất, bón phân làm tăng thêm thức ăn cho cá, đồng thời lúa rụng cũng làm thức ăn tốt cho cá. Vì vậy cá nuôi ở ruộng chủ yếu dựa và thức ăn tự nhiên, nên ít đầu tư thức ăn.

5. Mối tương quan của mô hình

– Hạn chế côn trùng hại lúa, cỏ dại, ốc, các bệnh về lúa do cá tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có trên đồng ruộng

– Giảm việc sử dụng phân bón thuốc trừ sâu độc hại cho con người và môi trường.

– Tiết kiệm được lượng giống, phân bón….

– Tận dụng được thời gian nhàn rổi của bà con nông dân trong vụ lúa và thời gian nước lũ dâng lên.

B. Thiết kế mô hình lúa – cá

1. Chọn vị trí xây dựng

Khi chọn địa điểm để nuôi cá cần lưu ý một số yếu tố sau:

– Nguồn nước: vấn đề quan trọng hàng đầu trong nuôi cá là phải đảm bảo nguồn nước tốt và cấp tiêu chủ động. Một điều cần lưu ý khi chọn điểm nuôi cá là phải biết được sự biến động của nguồn nước theo mùa và theo năm, đặc điểm khí tượng thuỷ văn của vùng để có thể dự đoán và ngăn chặn thất thoát cá nuôi trong mùa lũ hoặc mùa mưa bão.

– Chọn đất có cơ cấu chất đất phải giữ được nước và ít bị nhiễm phèn.

– Lịch thời vụ sản xuất nông nghiệp của vùng để biết được mức độ ô nhiễm hiện tại và tiềm tàng do sử dụng nông dược. Những nơi sử dụng nhiều nông dược nhất là thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn cao và thời gian phân hủy kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Khu vực nuôi cá nếu tiếp giáp với khu sản xuất màu sẽ có nguy cơ bị nhiễm độc nông dược do phun xịt hay khi cấp nước vào khu nuôi cá.

– Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.

2. Thiết kế ruộng nuôi

Diện tích ruộng khoảng 0,3 – 2 ha tùy theo điều kiện cụ thể

Có thể thiết kế theo nhiều dạng như: dạng mương chữ L, dạng mương trung tâm, dạng mương xương cá …

Trong mô hình này để tiện lợi và đạt hiệu quả cao nên chọn dạng mương bao và ao trữ.

a. Bờ bao quanh

Bờ bao quanh được đắp với diện tích như sau:

– Chiều rộng mặt bờ 1- 2 m

– Chiều rộng chân bờ 2 – 4 m

– Chiều cao bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm 20 cm

Tác dụng của bờ bao quanh:

– Giữ không cho cá ra ngoài

– Giữ nước không bị rò rĩ

– Để sử dụng hiệu quả diện tích đất sản xuất, bờ bao có thể trồng dưa, khổ qua, bí, mướp, ớt để tăng thu nhập

– Có thể đi lại trên bờ để chăm sóc, quản lí ruộng.

b. Mương bao quanh

Mương bao quanh được thiết kế mương xung quanh như sau:

– Đào cách bờ 0,5 m để tránh đất đá xoáy lở từ bờ xuống mương

– Chiều rộng mương: Bề rộng mặt 3 m; Bề rộng đáy là 2,5 m

– Chiều sâu mương bao là 1,2 m

– Mương dốc dần về phía cống

Mương bao có tác dụng:

– Giữ được lượng nước quanh năm, để chứa cá khi làm đất cấy lúa cho các vụ sản xuất kế tiếp

– Giữ và duy trì sự hoạt động của cá, khi sử dụng thuốc trừ sâu để trị bệnh cho lúa

– Nuôi giữ và dồn cá khi thu hoạch

– Lấy nước để tước hoa màu quanh bờ

c. Cống

Mỗi ruộng cần có một cống, cống có thể bằng xi măng, ống sành hay gỗ tuỳ điều kiện gia đình, tốt nhất nên dùng cống xi măng

Tác dụng của cống

– Chủ động điều tiết ruộng nước cấp và thoát nước cho ruộng.

– Tháo nước cho ruộng lúa xạ, cấy lúa khi sử dụng thuốc trừ sâu, khi thu hoạch.

d. Mặt trảng

Là phần mặt ruộng còn lại dùng để trồng lúa. Để thuận lợi cho việc canh tác lúa điều chỉnh mức nước trên ruộng, mặt ruộng cần bằng phẳng

e. Ao chứa

Được thiết kế ở đầu ruộng, gần nha.

Có tác dụng giữ cá lúc lúa nhỏ và trữ cá lại chờ cá lớn hoặc chờ giá cao để bán

Line Callout 2 (Accent Bar): Mương

Mặt cắt ngang ruộng lúa nuôi cá kết hợp

f. Lịch thời vụ mô hình cá – lúa

Chú ý xem lịch thời vụ cho mô hình sản xuất Lúa – cá kết hợp của các trung tâm khuyến nông.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Tự kiểm tra chất lượng hạt lúa giống

Khi mua thóc giống, người nông dân cần chú ý đến chỉ tiêu chất lượng hạt giống, mua ở những cửa hàng vật tư lớn, có uy tín nhiều năm.

Giống của các công ty giống Trung ương hoặc các tỉnh, hợp tác xã… có tên tuổi rõ ràng, có hoá đơn bảo hành chất lượng. Bao bì chứa hạt giống có ghi tên giống, phẩm cấp giống (nguyên chủng hay xác nhận), khối lượng giống, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng rõ ràng. Chú ý kiểm tra chất lượng hạt giống trước khi gieo những giống thóc bà con tự chọn lọc và bảo quản vụ trước sử dụng cho vụ sau.

Để tránh lãng phí lượng giống khi gặp phải loại thóc giống chất lượng kém và chắc chắn có được giống tốt khi gieo trồng bà con cần tự kiểm tra chất lượng giống bằng 2 chỉ tiêu cơ bản là tỷ lệ nảy mầm và sức nảy mầm hạt giống.

Kiểm tra tỷ lệ nảy mầm của hạt giống bằng 2 cách:

Phương pháp tờ giấy: Dùng 4-5 tờ giấy bản, giấy đánh máy, giấy phô tô màu trắng chưa sử dụng loại A4 (kích thước 25x30cm); 1 túi nilon màu trắng khổ 30x60cm; 1 giây chun nhỏ. Trộn đều lượng thóc giống định thử, bốc ngẫu nhiên lấy 100 hạt thử cho 5-10kg thóc giống. Nhúng ướt từng tờ giấy, trải nhanh ra mặt bàn rộng, xếp thóc giống thành 4-5 hàng theo chiều dọc tờ giấy, mỗi hàng 5-4 hạt, mỗi hạt cách nhau 1,5-2cm. Gập 4 mép tờ giấy, gấp tờ giấy chứa thóc giống theo hình chữ nhật rộng 5-7cm, dài 20-25cm. Cho tờ giấy chứa thóc vào túi nilon để đứng theo chiều dọc túi, dùng giây chun buộc chặt đầu túi nilon. Treo tờ giấy nilon vào nơi ấm nhiệt độ 25-35oC.

Phương pháp bát cát: Lấy cát vàng hay cát đen rửa sạch đất (rửa nước thấy trong). Phơi mỏng cát dưới nắng to để khử mầm bệnh. Lượng thóc giống định thử tỷ lệ nảy mầm cũng chuẩn bị như trên. Ngâm thóc giống đến no nước (ngâm nước vụ xuân 72 giờ giống thuần, 48 giờ giống lai; vụ mùa 60 giờ giống thuần, 36 giờ giống lai). Trộn nước cho cát đủ ẩm (nắm cát thành nắm không chảy nước, để nắm cát cẩn thận trên mặt phẳng vẫn còn nguyên dạng là được). Cho cát vào bát ấn nhẹ, gạt bằng miệng. Gieo hạt đã no nước vào bát cát ấn nhẹ cho cát kín hạt. Đặt bát cát vào trong túi nilon buộc chặt miệng, treo nơi ấm.

Xác định tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ nảy mầm là khả năng nảy mầm tối đa của lô hạt giống: Vụ xuân sau 8-9 ngày, vụ mùa sau 6-7 ngày sau khi gieo.

Tỷ lệ nảy mầm (%) = (Số hạt nảy mầm bình thường : Tổng số hạt gieo) x 100. Đối với thóc giống tỷ lệ nảy mầm từ 80% trở lên là giống đạt yêu cầu.

Hạt nảy mầm bình thường là hạt có ít nhất 1 mầm, 1 rễ; mầm mọc thẳng khoẻ mạnh, ít nhất dài bằng hạt thóc, rễ dài ít nhất bằng hai hạt thóc.

Xác định sức nảy mầm: Sức nảy mầm là khả năng nảy mầm đồng đều cho cây mầm bình thường trong một khoảng thời gian ấn định theo thời vụ. Lô hạt giống có sức nảy mầm càng cao thì hạt giống nảy mầm càng nhanh, đồng đều tức là sức nảy mầm tốt và ngược lại. Lô hạt giống có sức nảy mầm cao (tốt) khi gieo ra ruộng sẽ mọc nhanh, đồng đều, cho cây mạ to khoẻ là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp thâm canh. Vụ xuân 6 ngày; vụ mùa 4 ngày sau gieo thì xác định sức nảy mầm.

Sức nảy mầm (SNM) = (Số cây mầm bình thường : Tổng số hạt gieo) x 100.

Lô hạt giống tốt có sức nảy mầm gần bằng tỷ lệ nảy mầm.

Nguồn: Nongnghiep.vn được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Ngâm ủ hạt giống lúa

Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao, loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt

Phơi lại hạt giống: Hạt giống cần phơi lại 6- 8 giờ trong nắng nhẹ (không phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng). Phơi lại có tác dụng làm cho hạt hút nước nhanh, xúc tiến hoạt động của hệ thống men, tăng khả năng nảy mầm.

Thử tỷ lệ nảy mầm: Kiểm tra tỷ lệ nảy mầm của hạt giống bằng 2 cách là phương pháp tờ giấy và phương pháp bát cát (Xem thêm tại Tự kiểm tra chất lượng hạt lúa giống)

Chọn hạt tốt, loại bỏ hạt lép lửng bằng nhiều cách : Bằng quạt gió, sàng sảy hoặc trong quá trình ngâm nước cần vớt hết những hạt nổi và giữ lại hạt chìm (hạt tốt).

Xử lí hạt giống : Có thể sử dụng một trong các phương pháp sau:

+ Xử lí bằng nước nóng 540c ( pha tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh): Ngâm hạt vào nước lạnh 24 giờ, sau đó đưa vào nước nóng 45- 470c trong 5 phút và cuối cùng là nước nóng 54- 550c trong 10 phút. Phương pháp này đơn giản nhất, có tác dụng trừ nấm bệnh và tuyến trùng trên hạt, tạo cho hạt hút nước nhanh

+ Xử lí bằng nước vôi: Hòa tan 1kg vôi sống vào 100 lít nước, ngâm 1-2 ngày ở vụ mùa, 3-4 ngày ở vụ xuân, đãi sạch rồi ủ thúc mầm.

+ Xử lí bằng hoá chất Formalin: Dung dịch 2% phun vào hạt giống ( 5 lít dung dịch cho 50 kg hạt giống), ủ kín 3 giờ, đãi sạch rồi thúc mầm.

Đối với hạt giống mới thu hoạch muốn gieo ngay cần áp dụng phương pháp xử lý phá ngủ để tăng độ nảy mầm. Dùng a xít nitric 0,2% (lượng dùng 100 ml dung dịch cho 1,2- 1,4 tạ hạt giống) để xử lý phá ngủ hoặc dùng supe lân để thay thế.

Ngâm ủ hạt giống

  • Ngâm hạt: Để hạt nảy mầm cần phải ngâm hạt hút đủ độ ẩm cần thiết. Thời gian ngâm tùy thuộc nhiệt độ, 1-2 ngày ở vụ mùa, 2-3 ngày ở vụ đông xuân. Trong quá trình ngâm, hạt hô hấp yếm khí, thiếu ô xy làm nước chua, cần phải thay nước mỗi ngày một lần.

  • Ủ thúc mầm: Sau khi hạt đã hút đủ nước, đem ủ, để hạt nảy mầm. Trong quá trình ủ, nên định kỳ vảy nước và trộn đảo hạt để hạt nẩy mầm đều.

  • Khi hạt đã nhú mầm, nên xen kẽ “ngày ngâm đêm ủ” để phát triển cân đối mầm và rễ. Vụ mùa, hè thu chỉ cần ủ nứt nanh, vụ đông xuân cần có mầm dài hơn.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam