Kỹ thuật thâm canh giống Mè Đen 2 vỏ Bình Thuận

Mè hay còn gọi là cây vừng (tên khoa học là Sesamum indicum L.) là cây chịu hạn rất tốt, có thể trồng và sinh trưởng trên các loại đất khác nhau, mè có thời gian sinh trưởng ngắn (75 – 85 ngày).

Làm đất

Đất phải được cày độ sâu 15 cm cho tơi xốp, bằng phẳng, kết hợp với bón lót.

Kích thước luống tuỳ vào điều kiện địa hình đất đai, ở những vùng khó thoát nước nên lên luống cao 15 – 20 cm, mặt luống rộng 0,5 – 1,5 m, rảnh rộng 20 – 30 cm để tiện việc chăm sóc tưới và thoát nước khi mưa (mè rất sợ úng, kể cả tình trạng úng cục bộ khi có mưa lớn).

Gieo trồng

– Lượng giống: 4 – 5 kg/ha.

– Xử lý hạt giống trước khi gieo: 2 gr thuốc Rovral trộn đều cho 1 kg hạt, có thể xử lý khi có kiến bằng các loại thuốc như Vibasu…

Mè có thể gieo sạ hoặc gieo hàng, lưu ý trộn với thuốc kiến (Vibasu 10H) trước khi gieo để tránh bị mất cây.

– Gieo theo hàng: Rạch hàng sâu khoảng 4 – 5 cm, khoảng cách hàng 60 cm, khoảng cách hốc 15 cm, chừa 1 – 2 cây, lấp nhẹ và kín.

– Gieo sạ: Muốn sạ hạt cho đều thì gieo theo từng ô đất nhỏ với lượng hạt tương ứng và gieo 2 – 3 lần, sau đó gieo hết diện tích cần gieo. Sau khi sạ xong, cào nhẹ lớp đất mặt để lấp hạt sâu khoảng 1,5 cm. Nếu lấp hạt sâu quá thì hạt nảy mầm chậm và cây mọc yếu. Khi gieo hạt, đất phải đủ ẩm, nếu đất khô thì nên tưới nước và có thể lấp hạt sâu hơn nhưng không sâu quá 5 cm. Khi cây được 2 lá thật, tiến hành tỉa thưa chừa khoảng cách 60 x 15 cm, mỗi hốc 1-2 cây.

– Kinh nghiệm dân gian: Cho hạt mè vào chai nước khoáng rỗng, khoảng 1/2 – 1/3 chai, đục 1 – 2 lỗ nhỏ ở nắp chai, dốc ngược chai và rắc trên hàng.

Phân bón:

Lượng phân cho 1 ha: 120 kg N + 60 kg P2O5 +60 K2O + 300 kg vôi + 1.000 kg phân hữu cơ vi sinh/ha (tương đương 260 kg urê + 375 kg supe lân + 100 kg KCl + 300 kg vôi + 1.000 kg phân hữu cơ vi sinh).

– Nếu không bón các loại phân đơn thì có thể dùng NPK 16-16-8 với lượng 750 kg/ha.

– Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, vôi và supe lân + 1/3 urê + 1/3 KCl (hay bón lót 150 – 200 kg phân NPK16-16-8).

– Bón thúc: Lượng phân vô cơ còn lại chia làm 2 lần bón vào lúc 15 ngày sau gieo và 25 ngày sau gieo (có thể bón 1 lần vào lúc 20 ngày sau gieo).

– Phân bón lá: dùng Tiltsuper hoặc Headline phun 2 lần. Lần 1 phun vào lúc 20 ngày sau gieo và lần 2 phun vào lúc 40 ngày sau gieo.

Tưới, tiêu nước:

Mè rất sợ úng, nên tưới bằng vòi sen để cây không đổ ngã hoặc có thể tưới theo rãnh. Trong mùa mưa, khi gieo tránh để úng cục bộ. Trong mùa khô, cần tưới nước đều đặn và tuyệt đối không để bị hạn khi đang ra hoa.

Phòng trừ cỏ dại

– Có thể dùng bằng tay hoặc công cụ làm cỏ (xe đẩy cỏ), nên khống chế sạch cỏ trong giai đoạn đầu, từ khi mọc đến ra hoa và khép tán kín.

– Dùng Ronstar (tiền nảy mầm) phun kỹ trên mặt đất trước gieo, khi đất đủ ẩm hoặc phun Dual vào lúc 15 và 25 ngày sau gieo (liều lượng theo khuyến cáo cuả nhà sản xuất), xới xáo, kết hợp bón thúc, nếu mật độ dày thì tỉa thưa còn khoảng 10 – 20 cây/m2.

Phòng trừ sâu bệnh

– Sâu hại: Sâu hại mè chủ yếu là sâu gai, sâu xám, rệp, sâu đục thân và bọ xít. Có thể dùng một số loại thuốc thông dụng hiện nay trên thị trường như: Hopsan, Bassa, Fastac… để phòng trị.

– Bệnh hại: Mè thường bị 3 loại bệnh chủ yếu: đốm khô, héo khô và virút do lây truyền bởi rầy rệp. Cần chú ý phòng bệnh tốt bằng cách làm tốt vệ sinh đồng ruộng, chống úng, gieo trồng mật độ hợp lý. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ bệnh thông dụng như Champion, Vicarben…

– Chống úng là một trong những biện pháp phòng bệnh hiệu quả.

Thu hoạch

Khi có khoảng 2/3 quả và lá ngã màu vàng (một số cây có vài quả dưới gốc đã khô) thì thu hoạch. Không nên thu hoạch sớm vì có nhiều hạt lép và làm giảm phẩm chất mè, thu hoạch muộn thì bị nứt nẻ hoặc hạt rơi vãi. Thu lúc trời nắng ráo. Dùng liềm cắt và bó thành từng bó có đường kính từ 10 – 15 cm, rồi dựng đứng các bó từ 3 – 5 ngày và đập lấy hạt, sau đó sàng sảy sạch và phơi tiếp 2 – 3 nắng. Khi đang phơi mà gặp mưa, nếu quả chưa khô thì ít bị ảnh hưởng, nhưng nếu quả đã khô thì ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất hạt. Có thể ủ trong mát 2 – 4 ngày trước khi phơi nhưng không được chất thành đống.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng Mè Đen đơn giản

Vừng đen là một thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và vị thuốc chữa bệnh tốt. Mọi người có thể tự trồng ngay tại nhà mình.

Mè đen còn gọi là hồ ma, du tử miêu, vừng đen có rất nhiều công dụng làm đẹp và chữa bệnh. Hơn nữa kỹ thuật trồng mè đen không khó nên mọi người có thể dễ dàng trồng cho thu hoạch cao nhất.

Thời vụ gieo trồng

Mè có thể trồng quanh năm, tuy nhiên tùy điều kiện địa hình của từng vùng chọn thời điểm xuống giống thích hợp và mang lại hiệu quả kinh tế nhất. Mè là cây chịu hạn, nhưng để hạt giống nảy mầm tốt yêu cầu đất phải đủ ẩm, đất quá khô hay thừa nước đều làm hạt nảy mầm yếu và không đồng đều.

Vụ Đông Xuân: Gieo từ tháng 12-1 dương lịch, thu hoạch tháng 2–3 dương lịch, vụ này cho năng suất cao nhất trong năm, thuận lợi cho thu hoạch và phơi hạt dễ dàng, hạt có màu sáng đẹp, ít bị nấm mốc tấn công. Trồng mè vụ Đông Xuân cây ít đổ ngã, ít sâu bệnh, tuy nhiên trong vụ Đông Xuân cây mè khó cạnh tranh được với cây ngô, lạc.

Vụ Hè Thu: Nên trồng trên đất cao, thoát nước tốt, tránh úng khi gặp mưa nhiều. Gieo vào tháng 4-5 dương lịch thu hoạch vào tháng 6-7 dương lịch. Chủ yếu làm ở vụ Hè Thu, gieo trên đất màu hoặc đất lúa sau khi đã thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân. Vụ này hay gặp hạn khi gieo và gặp mưa to gây ngập úng cục bộ ở một số vùng vào thời kỳ thu hoạch. Vì vậy gieo càng sớm càng tốt.

Giống

Phân loại về màu sắc có hai loại: Mè đen: Dễ trồng, mọc khỏe, sai quả, chín muộn hơn mè trắng, thời gian sinh trưởng 3,0-3,5 tháng, thích hợp với đất và khí hậu đồi núi. Mè trắng: Loại quả tròn, sai quả, chín sớm, thời gian sinh trưởng 2,5-3 tháng, thích hợp với việc tăng vụ trồng xen.

Làm đất

Đất trồng mè: Thích hợp trên các chân đất thịt nhẹ, đất cát pha và thoát nước tốt. Làm đất: Hạt mè rất nhỏ nên phải làm đất thật kỹ, nếu không làm đất kỹ hạt mè sẽ bị vùi khó nảy mầm. Đất cày sâu 15-20 cm, bừa kỹ nhiều lượt. Làm đất thật nhỏ và sạch cỏ, sau đó tiến hành lên luống.

Trồng mè đen cần chút kỹ thuật chăm sóc cẩn thận

Lên luống: Lên luống cao 15-20cm, luống rộng 1,5-2,5m, rãnh rộng 30-35cm để thoát nước tốt, mặt luống có hình lưng rùa. Những vùng đất cát pha, tơi xốp, thoát nước tốt thì gieo mè xong mới vét rãnh thoát nước, tạo thành từng luống rộng từ 2,5-3m.

Kỹ thuật gieo

Gieo thưa, lượng hạt giống 3 kg/ha; trước khi gieo xử lý hạt giống bằng Polyram (3-5g/1kg hạt) hoặc Tricho ĐHCT (5g/1 kg hạt). Sạ lan cần trộn hạt giống với đất bột sạ cho đều, hoặc sạ hàng bằng công cụ sạ mè theo hàng.

Bón phân

Lượng bón cho 1 ha: 90N:40P2O5:60K2O +200-300 kg hữu cơ vi sinh + 200-300 kg vôi.

+ Cách 1: lót phân hữu cơ + vôi + 150 kg NPK 20:20:15 + 25 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 50 kg NPK 20:20:15 + 100 kg Urê + 25 kg Kaliclorua/ha.

+ Cách 2: lót phân hữu cơ + vôi + 150 kg Supe lân + 50 kg NPK 20:20:15 + 75 kg Urê + 35 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 90 kg NPK 20:20:15 + 60 kg Urê + 30 kg Kaliclorua/ha.

+ Cách 3: lót phân hữu cơ + vôi + 50 kg DAP + 100 kg Urê + 50 kg Kaliclorua; Thúc (20-25 ngày): 40 kg DAP + 60 kg Urê + 50 kg Kaliclorua/ha.

Quản lý nước

Mè đen có nhiều công dụng trong nấu ăn, làm đẹp và chữa bệnh

Nguyên tắc đất đủ ẩm, không đọng nước sau mưa, sau tưới, có hệ thống thoát úng tốt, tranh thủ xuống giống khi đất còn ẩm. Các giai đoạn cần nước của cây: nẩy mầm (sau gieo); bắt đầu ra hoa (20-25 ngày); đậu trái (30-35 ngày); trái chắc (40-50 ngày) và thời kỳ chín (60-65 ngày).

Tỉa thưa và dặm

Tỉa thưa: là kỹ thuật bắt buộc, giúp cây phát triển đồng đều, khỏe, phân cành mạnh. Tỉa sớm khi cây 12-14 ngày tuổi. Khoảng cách sau tỉa 25-30 cm. Nên sử dụng công cụ sạ hàng để giảm bớt công tỉa. Dặm mè: sau gieo từ 5-7 ngày, nếu diện tích mè chết 25% nên sạ lại.

Thu hoạch

Khi cây vừng có 3/4 số lá ngả vàng , quả đã cứng, chuyển màu từ vàng xanh sang vàng thẫm hoặc vàng nâu là thu hoạch được. Dùng liềm cắt cách gốc 10cm, đem về ủ 1-2 hôm cho rụng hết lá rồi tãi ra sân phơi có lót màng nilon hoặc nong nia trong 4-5 giờ, sau đó đập, sàng sẩy lấy hạt. Hạt vừng được phơi lại 1-2 nắng nữa cho khô (độ thủy phần khoảng 13%) thì đem tiêu thụ hoặc đưa vào kho bảo quản.

Nguồn: Baomoi.com được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật sản xuất giống rau Xà Lách, rau Diếp

Rau diếp có hàm lượng dinh dưỡng thấp , hàm lượng nước 94- 95% trong lá. Trong rau diếp có một số dinh dưỡng như vitamin A, C, nguyên tố vi lượng như Can xi, phốt phát, sắt, sodium và kali. Mặc dù vậy rau diếp, xà lách là loại rau làm xa lát quan trọng nhất. Để sản xuất giống rau diếp, xà lách; Fman xin giới thiệu cho bà con những lưu ý và kỹ thuật sau:

Tương tự như hướng dương, rau diếp là cây giao phấn đặc biệt nó dễ dàng giao phấn với loài rau diếp dại (Lactuca serriola). Rau diếp, xà lách là loài có hàm lượng nhựa mủ cao ở thân và lá. Rau diếp thích hợp sinh trưởng trong điều kiện lạnh độ ẩm cao và ánh sáng đầy đủ. Rau diếp cuốn thì điều kiện nhiệt độ thấp ban đêm rất cần thiết cho rau cuốn chặt.

Rau diếp có loại hình là rau diếp xoăn và lá thẳng, xà lách cũng có hai loại là xà lách cuốn và xà lách li ti.

Quá trình sinh sản của rau diếp, xà lách

Các giống rau diếp phản ứng quang chu kỳ hoặc không và nhiệt độ cao trên 18oC sẽ chuyển từ giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Để tăng số hoa có thể áp dụng 3 phương pháp những tốt nhất là phun GA3 với nồng độ 20 – 500ppm khi rau diếp 3 – 5 lá để kích thích ra chồi hoa.

Bông hoa ra diếp do nhiều hoa nhỏ tạo nên cụm hoa, nhiều hoa nhỏ hình thành ở các giai đoạn khác nhau. Nhưng 90% năng suất hạt được tạo nên ở những hoa ra đầu trong pham vi 35 ngày của tổng thời gian ra hoa khoảng 70 ngày.

Yêu cầu môi trường

Xà lách , rau diếp là cây ưa nhiệt độ thấp, nhiệt độ thích hợp của xà lách từ 8 – 25 oC để
cuốn, nhưng rau diếp nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng 10 -27 oC. Nhiệt độ để chuyển giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng sáng sinh trưởng sinh thực là trên 18oC, ánh sáng ngày ngắn sang ngày dài.

Độ ẩm thích hợp 70 – 80%. Đất sản xuất hạt giống cần đất tốt, giàu mùn để có năng suất hạt lai cao, độ pH từ 6,0 đến 6,6 thích hợp cho sản xuất hạt.

Các giống rau diếp, xà lách

Các giống ra diếp xà lách trồng phổ biến ở nước ta chủ yếu là giống địa phương như rau
diếp xoăn (ra diếp ngô), rau diếp ta, xà lách trứng, xà lách li ti giống ưu thế lai chủ yếu từ nguồn nhập nội và các công ty nước ngoài hay liên doanh sản xuất tại Việt Nam

Kỹ thuật sản xuất

Thời vụ gieo trồng: Thời vụ trồng ở nước ta có thể gieo trồng từ tháng 8 ở đồng bằng, vùng núi khoảng tháng 10 để sản xuất hạt

Làm đất chăm bón: Đất trồng sản xuất hạt, cày sâu khoảng 30 cm và cày sớm, bừa kỹ và phẳng, lên luống cao 10 – 15cm, mặt luống 70 cm phẳng để trồng 2 hàng thuận tiện cho làm giàn đỡ cành hoa. Rãnh giữa các luống 25 – 30 cm để thoát nước và tưới nước thuận tiện.

Mật độ khoảng cách

Gieo trồng : Hạt rau diếp, xà lách nảy mầm khi nhiệt độ đất 17oC và tối ưu là 24oC, nếu khi gieo nhiệt độ cao nên gieo vào buổi chiều tối và tưới nước để giảm nhiệt độ. Lượng hạt gieo sản xuất hạt giống khoảng 2,4 kg/ha. Khoảng cách gieo hàng cách hàng 38cm, cây cách cây 5 – 7 cm.

Các cây được tỉa thưa sau gieo 4 – 6 tuần sau gieo đảm bảo hàng cách hàng 25 – 30 cm để đạt số cây trên ha khoảng 74000 cây

Phân bón cho sản xuất hạt giống rau diếp và xà lách tỷ lệ N: P : K thích hợp là 3:2:2 cho
giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng. Phân đạm hạn chế bón lót và trong thời gian trồng, phân bón lót yêu cầu 7-10 tấn phân chuồng hoai mục + 40kg kali.

Chăm sóc

Sau khi gieo cần phải tưới ngay để tăng tỷ lệ nảy mầm, nếu trồng cây con tưới ngay sau
trồng. Sau đó tưới nước thường xuyên để giữ ẩm, kết hợp xới xáo và làm cỏ. Khi cây thiếu phân biểu hiện lá màu xanh nhạt tưới thúc bằng cách hòa phân đạm loãng và tưới, tưới xong phải rửa bằng nước sạch để không gây hại cho lá. Tưới nước từ khi bắt đầu cây ra hoa đối với rau diếp và xà lách là rất quan trọng để đảm bảo năng suất hạt.

Làm giàn

Làm giàn đỡ cành hoa như các cây họ thập tự, cố thể cắm cọc mỗi cọc cho một cây và buộc cành hoa vào cọc bằng dây mềm

Phòng trừ sâu bệnh

Sâu bệnh hại ra diếp chủ yếu là sâu ăn lá, rệp hại và là vectơ truyền một số bệnh virus, rệp gây hại nặng trong điều kiện nhiệt độ cao. Bệnh hại rau diếp là virus khảm là loại có thể truyền qua hạt gây cây con sinh ra còi cọc, lá vàng. Ngoài ra rau diếp và xà lách còn bị một số bệnh nấm như nấm phấn trắng. Sâu bệnh có thể làm giảm năng suất hạt nghiêm trọng đặc biệt là bệnh virus.

Khử lẫn

Loại bỏ cây khác dạng khi bắt đầu có ngồng hoa, căn cứ vào màu sắc thân lá, dạng hoa,
cành hoa và màu sắc hoa, lá để xác định cây đúng giống và cây khác dạng.

Thu hoạch, tách hạt,

Từ khi ra hoa đến khi hạt chín khoảng 12 – 21 ngày tùy theo giống, nhưng rau diếp xà lách hạt không chín cùng một lúc nên thu hoạch khi một nửa hạt trên đầu chín, căn cứ để biết hạt chín là mào hạt mở hoàn toàn, hạt khô. Thu hoạch có thể bằng máy hoặc bằng tay, cắt cả cây hoặc cành hoa và nên cắt vào buổi sáng khi vẫn còn sương để không rơi hạt giảm năng suất. Cành hoa sau khi cắt phơi và rũ hạt vào túi ni lông để không rơi hạt, công việc rũ hạt lặp lai 2 – 3 ngày.

Khi ra hoa xà lách rất sợ rét, hạt phấn xà lách rất yếu chịu đựng và mất sức nảy mầm rất
nhanh. Vì thế ở các vùng núi Sapa xà lách để giống được gieo vào tháng 10, ở các tỉnh đồng bằng thì gieo vào tháng 8 và đàu tháng 9. Cây giống cần được bón thúc một lần trước lúc làm giàn để cây có sức ra hoa quả đều và nhiều.

Làm sách sau khi phơi loại bỏ tạp chất và những hạt lép lửng, làm sạch bằng sàng xảy hay máy quạt sau đó phân loại hạt và đóng túi bảo quản. Phơi hạt khi độ ẩm đạt 7% là độ ẩm bảo quản với hạt xà lách, rau diếp. Hạt rau diếp rất dễ chết lá mầm, nguyên nhân hư hỏng lá mầm của hạt rau diếp , xà lách đến nay vẫn chưa được biết rõ ràng. Vì thế bảo quản hạt trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ thấp là biện pháp tốt nhất để tránh hư hỏng hạt trong quá trình bảo quản.

Trồng Xà Lách Xoăn hiệu quả

Cây xà lách hiện đã được nhiều nông dân lựa chọn trong cơ cấu rau màu ở các vụ vì hiệu quả kinh tế của nó mang lại.

Xà lách được nhiều người trồng vì dễ chăm bón và hiệu quả kinh tế khá

Có 2 loại xà lách: xoăn và cuốn. Trong đó, giống xà lách xoăn chịu nhiệt tốt hơn. Hiện đang là vụ xà lách cho hiệu quả kinh tế cao nhất trong năm nhưng phải lưu ý và tác động kỹ thuật tích cực. Xin hướng dẫn nông dân một số biện pháp kỹ thuật khi thâm canh cây trồng này:

+ Giống và thời vụ: Các giống xà lách xoăn đang được trồng phổ biến hiện nay được nhập từ Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Ở nhiệt độ từ 25-300C cây vẫn sinh trưởng bình thường nên có thể trồng quanh năm, song thích hợp nhất từ tháng 8 đến tháng 3 năm sau.

+ Gieo và chăm sóc cây con:

Do bộ rễ của xà lách ăn nông và yếu chịu úng, hạn nên đất vườn ươm cần tơi xốp, giàu mùn, giữ ẩm và thoát nước tốt. Đất được làm nhỏ, lên luống cao từ 25-30 cm, mặt luống rộng từ 0,8-1 m. Mỗi m2 đất vườn ươm sử dụng từ 3- 4 kg phân chuồng mục kết hợp với một lượng nhỏ chế phẩm nấm đối kháng Trichodecma đảo đều rồi bón lót vào luống, dùng cuốc đảo đều phân vào đất.

Hạt trước khi gieo cần được xử lý bằng nước ấm 540C (3 sôi, 2 lạnh) trong thời gian từ 1-2 giờ rồi để ráo. Gieo hạt trên mặt luống với lượng từ 0,6- 0,7g/m2. Gieo xong phủ một lớp rơm hoặc trấu mỏng rồi tưới ẩm bằng bình ô doa từ 3- 4 ngày đầu vào sáng sớm hoặc chiều mát. Khi hạt đã nảy mầm ngừng tưới 1-2 ngày, sau đó cách 1 ngày tưới 1 lần. Trước khi nhổ cây trồng ngừng tưới 3- 4 ngày để huấn luyện cây con được cứng cáp và không bị chết chột sau trồng. Khi nhổ cây cần tưới nước trước 4-5 giờ để cây không bị đứt rễ.

Tiêu chuẩn cây con đem trồng: Cây có từ 4-5 lá thật (sau gieo từ 15- 18 ngày).

+ Trồng và chăm sóc: Cần chọn đất cát pha hoặc thịt nhẹ giàu mùn, chủ động tưới tiêu, xa khu công nghiệp và các nguồn gây ô nhiễm. Đất được cày bừa kỹ, làm sạch cỏ dại, xử lý bệnh bằng nấm đối kháng Trichodecma hoặc vôi tả (20kg/sào), diệt sâu xám bằng thuốc Diazan với lượng 0,5kg/sào. Lên luống cao 20-30cm, rộng 1-1,2m.

* Chú ý: Nếu có chế phẩm nấm đối kháng Trichodecma để xử lý đất tốt nhất nên trộn nấm với phân chuồng mục hoặc phân hữu cơ vi sinh rồi bón lót cho xà lách.

Lượng phân bón cho 1 sào rau gồm: phân chuồng 5- 7 tạ hoặc 25-30 kg phân hữu cơ vi sinh thay thế + 3-4kg u rê + 6- 7,5kg su pe lân + 2,5-3 kg kali sunphat. Có thể dùng các loại phân khác thay thế như NPK với liều lượng tương đương.

– Tưới nước: Ruộng rau xà lách cần được giữ ẩm thường xuyên với độ ẩm thích hợp là 70- 80%. Nguồn nước tưới cần bảo đảm an toàn cho rau vì xà lách là cây rau ăn tươi. Tốt nhất là áp dụng biện pháp tưới ngấm để rau được an toàn.

Chú ý:

+ Tháo nước khi gặp mưa to tránh để cây ngập nước sẽ dễ bị chết. Cần kết hợp xới xáo, làm cỏ cho rau vào những ngày nắng ráo.

+ Vì bộ lá xà lách rất mềm yếu nên những khi gặp thời tiết có mưa, nắng kéo dài tốt nhất nên làm khung (vòm) nilon trắng che chắn để bộ lá không bị giập nát thối hỏng hay dùng lưới đen che để giảm bức xạ mặt trời; đồng thời bổ sung thêm phân bón vi lượng và kali trắng bằng cách phun qua lá sẽ giúp cây sinh trưởng phát triển thuận lợi hơn, năng suất cao hơn và tuân thủ thời gian cách ly của mỗi loại phân bón khi sử dụng.

+ Bảo vệ thực vật: Xà lách rất ít bị sâu bệnh hại, nhất là khi xử lý được đất trồng tốt lại là cây rau ăn tươi nên nông dân không nên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học để phun cho cây trồng này. Khi có hiện tượng một số cây bị chết rũ nên bổ sung tưới kịp thời chế phẩm nấm đối kháng Trichodecma vào vùng rễ cây để giảm thiểu lượng cây bị chết.

+ Thu hoạch: Xà lách cho thu hoạch sau trồng từ 30-35 ngày.

Nguồn: Trạm Khuyến nông huyện Nam Sách được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc rau Xà Lách cho năng suất bội thu

Rau xà lách là loại cây thân thảo. Rau xà lách có nhiều loại như: xà lách mỡ, xà lách xoăn lá lớn, xà lách lô tô xanh, xà lách lô tô tím… Trong đó, loại rau xà lách mỡ với ưu điểm dễ trồng, không cần chăm sóc nhiều, tốn ít chi phí và cho năng suất thu hoạch cao.

Rau xà lách thích hợp với chu kỳ ngày dài. Từ lúc gieo hạt cho đến lúc cho thu hoạch trong khoảng từ 60 – 65 ngày.

Thời vụ gieo trồng rau xà lách

Rau xà lách có thể trồng quanh năm và tốt nhất trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm nay cho đến tháng 4 sang năm đối với loại xà lách trứng và từ tháng 7 đến thoáng 2 đối với loại xà lách li. Nếu gieo từ tháng 3-4 có thể ăn vào mùa hè.

Xử lý hạt giống trước khi gieo trồng

Sử dụng một số giống có năng suất cao, kháng sâu bệnh tốt như xà lách dún, xà lách búp Mineto…

Xử lý hạt giống tr­ước khi gieo bằng Rorval, Aliette, Benlat C, Viben C. Lư­ợng giống gieo trồng (sau đó nhổ cấy lại) cho 500m2: 300g (600 g/1.000 m2). Sau khi gieo, phủ một lớp đất mỏng đã trộn phân chuồng hoai, phủ một lớp rơm mỏng. Mùa khô cần t­ới đủ ẩm.

Phư­ơng pháp tốt nhất: Xử lý hạt giống bằng chế phẩm Comcat (C.ty Lúa Vàng) sau đó gieo trên khay xốp hoặc khay nhựa, đặt trong vườn ­ươm, chăm bón khi cây đạt tiêu chuẩn cây giống thì chuyển qua ruộng sản xuất.

Chuẩn bị đất trồng rau xà lách

Có thể trồng cải trên nhiều loại đất khác nhau, chủ động t­ưới tiêu. Đất cần đ­ược cày xới, phơi ải 10 ngày- 15 ngày trước khi lên liếp.

Nên xử lý vôi hoặc bột Dolomite, Silibore trư­ớc khi gieo trồng. Lư­ợng bón từ 40kg – 70 kg/ 1.000m2.

Mùa mư­a cần che phủ đất bằng rơm hoặc bạt nilon để hạn chế cỏ dại và rửa trôi phân. Không nên trồng liên tục nhiều vụ rau xà lách trên cùng chân đất (cần luân canh với loại rau có củ hoặc có trái).

Lên luống: cao 15-20cm, rộng 90cm, rãnh 30cm, đất mặt luống phải bằng phẳng, tơi xốp không gồ ghề để dễ phủ bạt nylon và đục lỗ trồng.

Về công đoạn bón lót: Toàn bộ phân chuồng đã ủ hoai mục, bón với l­ượng 500 – 1.000 kg/ 1.000 m2 (hoặc phân hữu cơ chế biến với l­ượng 200kg-500 kg/1000m2). Phân hữu cơ + 50kg phân lân nội địa (lân nung chảy hoặc lân super) trộn đều và bón lót tr­ước khi trang bằng mạt luống.

Phủ bạt: Dùng bạt kích cỡ 90cm, kéo căng, dùng ghim tre ghim thật chặt, hoặc đắp đất cố định bạt.

Kỹ thuật trồng và chăm sóc rau xà lách

Về mật độ, khoảng cách trồng thích hợp cho xà lách: Cây cách nhau khoảng 15-20cm; hàng cách hàng khoảng 15-20cm. Mật độ 16.000-17.000cây/ 500m2 (32.000 – 34.000 cây/1 .000 m2).

Khi cây có từ 2 – 3 lá thật, đem ra cấy, nên cấy vào lúc chiều mát. Cấy xong phun n­ước để cây chặt gốc.

Lưu ý: L­ượng cây cần dự trữ khoảng 10% với cây nhổ để cấy lại & và dự trữ khoảng 2 % với cây trồng trong khay để trồng dặm nhằm bảo đảm mật độ.

Trồng dặm: Tiến hành kiểm tra và trồng dặm ngay sau trồng khoảng 2-3ngày cho những cây chết, bị bệnh. Dặm vào lúc chiều mát, dặm xong phải t­ới n­ước ngay.

Kỹ thuật bón phân

Tổng lượng phân cho 1000m2. Phân chuồng ủ hoai 500- 1.000kg (hoặc phân hữu cơ chế biến bón với lư­ợng = 200kg-500kg/1.000 m2); Lân nội địa: 50kg; Ure:12kg; Kali: 12kg; Bánh dầu (nếu có): 30kg.

Bón lót: Toàn bộ phân chuồng hoặc phân hữu cơ 100 % phân lân, Bánh dầu 3kg Ure và 3kg Kali.

Bón thúc:

Lần l: (khi cây có 2 – 3 lá thật): Bón phân ure với l­ượng 3,0 kg

Lần 2: 15 ngày sau gieo (NSG): 3kg ure pha với n­ước t­ưới đều

Lần 3 : (20-25NSG): pha loãng 3,0 kg Ure +3kg Ka li tư­ới đều

Chú ý: Tùy tình hình sinh tr­ưởng của cây có thể tăng hoặc giảm l­ượng phân cho phù hợp và sử dụng thêm phân bón lá NPK(30- 10- 10). Riêng lần thúc 3 thì xịt phân bón lá NPK(12-0-40+ 3ca) hoặc loại NPK(20-20-20).

Tuyệt đối ng­ưng sử dụng phân bón tr­ước khi thu hoạch 8-10 ngày

Biện pháp phòng trừ sâu bệnh cho rau xà lách

Sâu hại chính trên nhóm cây xà lách chủ yếu là sâu xanh, sâu khoang, sâu tơ, sâu xanh da láng. Với những loại sâu này nên sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh phòng trị như BT, VI-BT, Dipel, Delfin, Amectin, Acmenovate;Thiamectin, Centari . . .

Bệnh hại chủ yếu là chết cây con, thối nhũn, đốm vòng nên sử dụng Aliette, COC85, Ridomil, Monceren, Validacine, Physan, Norshel phun phòng trị. Chú ý quan sát sớm. Liều l­ượng phun có ghi trên bao bì sản phẩm, chú ý ngừng phun thuốc tr­ước khi thu hoạch 8 – 10 ngày.

Kỹ thuật thu hoạch và bảo quản

Thu hoạch: Sau khi cấy ra ruộng trồng từ 35-40 ngày có thể thu hoạch, không để quá già làm giảm chất l­ượng sản phẩm, khi thu dùng dao cắt sát gốc.

Bảo quản: Bảo quản cẩn thận, tránh để sản phẩm bị dập nát và bụi bặm bám vào, nên đóng gói tr­ước khi vận chuyển; phải đảm bảo tư­ơi, sạch khi đ­ưa ra tiêu thụ.

Lưu ý: Sau trồng 1 – 2 lứa rau, cần bổ sung thêm dinh dưỡng cho cây bằng phân hữu cơ vi sinh với lượng 350-400 g/m2 hoặc 80-100 g/ khay kích thước 40x 60cm. Đất trồng tiến hành xới xáo lại và phơi khô trong 2-3 nắng để diệt nấm bệnh sâu hại.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật trồng thủy canh rau Xà Lách

Thủy canh là phương pháp “Trồng cây trong nước”. Tuy nhiên do có rất nhiều môi trường tổng hợp được sử dụng để trồng cây nên có thể mở rộng định nghĩa thủy canh là ” Trồng cây không sử dụng đất”.

Theo KS nông nghiệp Hà Sỹ Tân, thủy canh là một phương pháp trồng rau có từ lâu, dung dịch có thành phần dinh dưỡng giúp cây trồng hấp thu và chuyển hóa thành các vật chất hữu cơ cho cơ thể cây trồng: thân, lá, rễ, hoa, quả,… Ưu điểm của trồng rau thủy canh là không phải làm đất, không có cỏ dại; trồng được nhiều vụ, có thể trái vụ, không cần tưới; không phải sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, trừ cỏ dại, năng suất cao hơn từ 25% đến 50%; không tích lũy chất độc, không gây ô nhiễm môi trường. Các loại rau thích hợp với môi trường thuỷ canh: Rau xà lách, các loại rau cải, rau húng, rau muống, cà chua…
Trong Đông y, rau xà lách được biết đến là một loại rau có vị ngọt đắng, tính mát, tác dụng giải nhiệt, lọc máu, kích thích tiêu hóa, giảm đau, gây ngủ, chống ho… Và thường được sử dụng dưới dạng rau sống, rau trộn, nước ép rau. Vì sử dụng trực tiếp rau dạng tươi sống nên người tiêu dùng rất lo sợ mua phải rau tưới nhiều đạm, phun nhiều thuốc bảo vệ thực vật. Đây là một hạn chế vô cùng lớn của rau trồng ngoài đồng ruộng mà rau trồng theo phương pháp thủy canh đã khắc phục được. Rau xà lách trồng thủy canh không có thuốc bảo vệ và phân bón hóa học nên được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Giá bán rau xà lách thủy canh này trên thị trường khoảng 35.000 – 45.000 đồng/kg. Năng suất của rau xà lách thủy canh đạt 28.2 tạ/1000 m2, thời gian sinh trưởng của cây từ 25 – 30 ngày. Với phương pháp trồng rau thủy canh, nhà vườn có thể trồng tối đa là 15 vụ, trong khi đó lối canh tác truyền thống chỉ sản xuất 3 – 4 vụ.

Hệ thống thủy canh trồng rau xà lách

1. Lắp đặt hệ thống thủy canh

Bà con cần lắp đặt một hệ thống thủy canh trước khi muốn trồng rau theo phương pháp này. Công ty TNHH Thiết bị Công nghệ R.A.I xin giới thiệu đến bà con Hệ thống trồng rau thủy canh hồi lưu như hình dưới đây:

– Làm bằng nhựa PVC chịu nhiệt nên hệ thống này rất bền, có thể sử dụng được 10 năm.

– Sử dụng hệ thống bơm chìm có hẹn giờ bơm.

– Chiếm diện tích nhỏ trong sân nhà, ban công: Kích thước của hệ thống này: Dài x rộng x cao: 1.5 x 0.6 x 1.2 (mét).

2. Ươm giống

– Bà con có thể mua các loại giống rau trên thị trường.

– Ngâm hạt giống rau xà lách trong nước ấm khoảng 40 – 50 độ C, sau đó để vào rổ cho khô nước.

– Cho hạt giống đã ngâm vào bầu ươm: 1-2 hạt/ rọ bầu ươm.

– Thường xuyên giữ độ ẩm cho bầu ươm để hạt giống nảy mầm tốt.

Rọ trồng cây đồng thời là bầu ươm hạt giống

3. Cách pha dung dịch dinh dưỡng

Bà con tham khảo công thức pha dung dịch cho rau xà lách của GS. Hoagland (Đại học Washington).

3.1. Chuẩn bị chất pha dung dịch thủy canh

Bình A:

Tên chất Khối lượng (gram)
Calcium nitrate Ca(NO3)2 95,2

Bình B + C:

Tên chất Khối lượng (gram)
Potassium nitrate (KNO3) 3.9
Mono potassium phosphate (KH2PO4) 26.9
Potassium sulfate (K2SO4) 42.3
Magnesium sulfate (MgSO4) 30.8
Zinc sulfate (ZnSO4) 0.015
Boric acid (H3BO3) 0.02
Manganese sulfate (MnSO4) 0.115
Cooper sulfate (CuSO4) 0.01
Ammonium molybdate (NH4Mo7O24) 0.003
FeSO4 0.64
Na-EDTA 0.86

3.2. Chuẩn bị dụng cụ.

– Cân tiểu ly điện tử: Cân chính xác khối lượng hóa chất cần pha.

– Thùng đựng dung dịch.

– Tập giấy quỳ tím: Kiểm tra pH của môi trường.

– Ống đong 100ml.

3.3. Cách tiến hành

3.3.1. Pha bình A:

Bước 1: Cho 1 lít nước vào thùng đựng dung dịch.

Bước 2: Cân 95.2 gram Calcium Nitrat – Ca(NO3)2.

Bước 3: Sau đó cho 95.2 gram Ca(NO3)2 vào ca nước 1 lít ở trên và quậy/khuấy đều.

Bước 4: Rót dung dịch A vừa pha vào bình đựng, ghi nhãn (bình A).

3.3.2. Pha bình B + C:

Bước 1: Cho 1 lít nước vào thùng đựng dung dịch.

Bước 22: Cân lần lượt các hóa chất có ở bảng B .

Bước 3: Cho các hóa chất đã cân ở B2 vào cùng ca nước ở trên, quậy/khấy đều như hướng dẫn. Dung dịch cuối cùng có màu sắc như màu vàng nước trà/chè.

Bước 4: Rót vào bình đựng, ghi nhãn (bình B).

4. Cách trồng

4.1. Cách pha dung dịch thủy canh hoàn chỉnh

Sau khi pha xong 2 bình dung dịch bình A + B. Để dung dịch trồng rau có nồng độ mong muốn 1200 ppm bà con pha theo công thức sau:

STT Tên nguyên liệu Thể tích pha
1 Bình A 100 (ml)
2 Bình B 100 (ml)
3 Nước sạch 10 (lít)

Bước 1: Cho 10 lít nước sach vào 1 thùng đựng dung dịch.

Bước 2: Dùng ống/bình đong, rót 100 ml dung dịch bình A và cho vào thùng đựng dung dịch ở trên, quậy/khuấy đều.

Bước 3: Dùng tiếp ống đong, rót 100 ml dung dịch bình B và cho vào cùng thùng đựng dung dịch ở trên, khuấy đều.

Bước 4: Dùng giấy quỳ tím bỏ vào dung dịch đã pha ở B3 để đo pH. So sánh với bảng màu để biết pH thuộc khoảng nào. pH thuộc khoảng 5.5 – 7,0 thì không phải điều chỉnh. Khi pH > 7 bà con dùng axit H2SO4 hoặc H3PO4 0.5 – 1% để điều chỉnh. Khi pH< 5,5 bà con dùng nước vôi trong để điều chỉnh. Bà con nhỏ giọt từ từ để điều chỉnh. Môi trường dung dịch thủy canh có pH = 6,2 là thích hợp nhất với loại cây ăn lá.

Chú ý:

– pH<5.5 cây chỉ hấp thụ được trung lượng và vi lượng: Sắt, Mangan, Bo, Cu, Zn => Cây còi cọc do không hấp thụ được đa lượng N,P,K,Ca,Mg và Mo.

– pH>7 cây hấp thụ đa lượng nhưng lại kém tiêu hóa Sắt, Mangan, Bo, Cu, Zn => lá cây trở nên vàng vọt.

B5: Dùng bút đo nồng độ ppm (TDS) đo thử. Nếu chưa đạt đến nồng độ mong muốn thì tiếp tục đong dung dịch bình A + B và cho vào thùng đựng dung dịch.

Chú ý: Đánh dấu mực nước trong bồn dung dịch, khi nước cạn, ta bù thêm nước trắng cho bằng mức đánh dấu, không nên pha thêm dung dịch đổ vào.

Khi nồng độ giảm xuống từ 1200 ppm ban đầu xuống 800 ppm, tiến hành thay dung dịch mới hoặc châm thêm dung dịch dinh dưỡng.

4.2. Theo dõi quá trình sinh trưởng của cây.

– Khi cây con chưa nảy mầm, cần để các khay bầu trong ánh sánh nhẹ hoặc che ánh sáng trực tiếp vào cây con đang nảy mầm.

– Khi cây con nảy mầm đều khoảng 2 cm, đưa dần cây con ra ánh sáng. Lúc này, đưa cây con đang ươm giống lên hệ thống thủy canh đã có sẵn dung dịch dinh dưỡng pha loãng để tưới cây con hàng ngày (nồng độ dung dịch pha loãng bằng 1/2 nồng độ dung dịch trồng cây).

– Khi cây con được khoảng 2 tuần tuổi (tùy từng loại cây, thông thường cây cao khoảng 8 – 10 cm và có vài lá thật), tiến hành tỉa cây, mỗi rọ chỉ để 5 – 6 cây và chuyển rọ cây vào hệ thống thủy canh đã chứa sẵn dung dịch thủy canh.

Lưu ý: Bổ sung dung dịch dinh dưỡng: Trong quá trình cây sinh trưởng cây sẽ hút dung dịch, vì vậy dung dịch sẽ vơi dần, chú ý bổ sung thêm dung dịch dinh dưỡng thường xuyên cho cây (thông thường 1 lần/tuần) để đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây trồng.

Theo dõi nồng độ dung dịch thủy canh hàng ngày bằng cách: Đo nồng độ các cation trong dung dịch bằng bút đo TDS:

Giai đoạn cây Nồng độ ppm phù hợp
Cây non (3 – 5 lá thật) 600 – 800
Cây phát triển (> 5 lá thật) 900 – 1300
Cây trước thu hoạch 10 ngày 600

Chú ý: Nếu đo TDS của nước > 200 ppm thì bà con phải lọc trước khi đưa vào hệ thống thủy canh.

Bà con nên chuẩn bị sổ ghi chép để theo dõi quá trình sinh trưởng của cây trồng.

Nguồn: Khomay.vn được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Chi 3 tỷ đồng phát triển 2.000 m2 Xà Lách thủy canh

Để có đủ 3 tỷ đồng vốn đầu tư trồng rau thủy canh công nghệ cao, chị Nguyễn Thị Hoàn không ngần ngại thế chấp nhà cửa, tài sản, đồng thời vay mượn thêm bạn bè và người thân.

Khởi nghiệp từ năm 2012, chị Nguyễn Thị Hoàn – chủ Công ty cổ phần đầu tư Song Hành ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh thu được thành công bước đầu với sản phẩm rau an toàn như rau ăn lá các loại, rau mầm, rau củ, dưa lưới… Khi sản lượng tiêu thụ của cơ sở ngày một tăng, chị bắt đầu thử nghiệm trồng xà lách thủy canh với mục đích đa dạng hóa sản phẩm rau củ quả của cơ sở, đồng thời gia tăng giá trị kinh tế.

Xà lách tại cơ sở của chị Hoàn phát triển đồng đều. Ảnh: Rau sạch Song Hành.
Ban đầu, dù trồng thử nghiệm xà lách thủy canh trên một diện tích nhỏ nhưng chị Hoàn thu được kết quả khá khả quan. Từ đây, chị dự tính đầu tư thêm 2.000 m2 trồng các loại xà lách theo mô hình thủy canh. Tuy nhiên, để hoàn thiện hệ thống của cơ sở, khoản chi phí ban đầu bỏ ra khá lớn.

Theo tính toán của chị Hoàn thời điểm đó, với 1.000 m2 nhà trại, chị cần 1,2 đến 1,5 tỷ đồng mua sắm trang thiết bị, trong đó có cả trang thiết bị ngoại nhập. Do vậy, muốn mở rộng diện tích 2.000 m2 trồng rau thủy canh, chị cần tới 3 tỷ đồng tiền vốn đầu tư. “Không có vốn, không thể đầu tư công nghệ, không thể áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, vậy chúng tôi chẳng khác gì những người làm nông truyền thống trên những thửa ruộng cũ như trước đây”, chị Hoàn chia sẻ.

3 tỷ đồng là khoản chi phí lớn đối với một cơ sở sản xuất còn non trẻ và vốn chưa dày. Chị Hoàn tính tới chuyện vay ngân hàng để tiếp tục hiện thực hóa mô hình xà lách thủy canh. Tuy nhiên, dù “gõ cửa” nhiều ngân hàng nhưng chị đều thất bại vì không có tài sản thế chấp để vay số tiền lớn như thế. Đề xuất vay vốn của chị với gói tín dụng 50.000 tỷ của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ưu tiên cho phát triển nông nghiệp sạch cũng không gặp may mắn. Lý do là phần diện tích một ha làm trang trại rau an toàn mà chị định thế chấp là đất thuê 50 năm của địa phương; 20 ha còn lại lại là đất thuê của dân.

Theo chị Hoàn, muốn phát triển nông nghiệp hiện đại, người nông dân phải có vốn để đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ sản xuất. Ảnh: Rau sạch Song Hành.
Bước đầu gặp khó nhưng chị Hoàn vẫn không nản lòng. Sau khi bị các ngân hàng từ chối, chị xoay vốn bằng cách thế chấp nhà cửa và tài sản để vay mượn ngoài, đồng thời huy động thêm tài chính từ người thân, bạn bè. Có tiền trong tay, chị đầu tư mua sắm thiết bị cho vườn trại, trong đó, một số phải nhập từ Thái Lan. Hạt giống của các loại xà lách được chị mua từ một địa chỉ tin cậy tại Hà Nội.

Với mô hình này, toàn bộ xà lách được trồng trên giàn, với nguồn dinh dưỡng được chuyển trực tiếp qua nguồn nước. Theo chị Hoàn, so với các phương pháp canh tác khác, rau trồng thủy canh sẽ giảm sâu bệnh, nguồn dinh dưỡng cung cấp cho rau cũng được kiểm soát chặt chẽ. Đặc biệt, do không sử dụng bất kỳ loại phân hóa học nào trong quá trình trồng nên rau thành phẩm luôn được đảm bảo an toàn.

Trồng 2.000 m2 xà lách thủy canh vào cuối năm 2016, dự kiến vào giữa tháng 3 năm nay, cơ sở sẽ tiến hành thu hoạch lứa rau thủy canh đầu tiên. Theo tính toán, sản lượng có thể đạt tới một tạ xà lách các loại mỗi ngày.

Hiện tại, trang thiết bị của vườn thủy canh đã được đầu tư đầy đủ, bài bản. Do vậy, thời gian tới, cơ sở cần sát sao hơn trong việc chọn hạt giống và vận hành đúng quy trình kỹ thuật để đảm bảo sản lượng đề ra.

Chị Hoàn cho biết, chị may mắn vì nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ về vốn của người thân, bạn bè để có được trang trại ngày hôm nay. Theo chị, vốn đầu tư cũng là một bài toán nan giải, cản trở không ít ước mơ của người dân giữa bối cảnh nông nghiệp đòi hỏi công nghệ cao.

Nguồn: Vnexpress được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Người trồng Xà Lách Xoong thuỷ canh duy nhất ở Đà Lạt

Dòng sản phẩm rau thuỷ canh đã phát triển ở Đà Lạt hơn 2 năm nay với 20 giống rau xà lách khác nhau, nhưng riêng xà lách xoong thì hiện chỉ có tại vườn của anh Tô Quang Dũng.

Theo anh Dũng, xà lách xoong là loại rau phổ biến khắp vùng miền cả nước và được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, trong nông nghiệp rau xà lách xoong chưa có khái niệm sạch vì chúng được canh tác ở những đầm lầy, bãi sình. Các bà nội trợ khi mua bó xà lách xoong về phải nhặt bỏ đến 50% và phải rửa thật kỹ, ngâm nước muối trước khi chế biến.

Khi bước vào lĩnh vực trồng rau thuỷ canh theo công nghệ châu Âu, Tô Quang Dũng nhận thấy các vườn rau thuỷ canh ở Đà Lạt đã sở hữu 20 loại rau xà lách và nguồn giống đều có xuất xứ từ Hà Lan, nhưng lại không có giống xà lách xoong.

Để tìm cái mới cho riêng mình, anh Dũng dành 50m2 đất trong nhà kính được đầu tư đầy đủ thiết bị để trồng xà lách xoong thủy canh. Ban đầu anh ra chợ mua những bó xà lách xoong tươi nhất mang về cắt phần thân khoẻ mạnh cấy vào ly nhựa có ít giá thể và cho lên giàn canh tác theo qui trình thuỷ canh như 20 loại xà lách giống nhập từ Hà Lan đã có trong vườn của mình. Kết qua không như mong muốn vì nhiều thân bị thối, số sống được cho sản lượng không đáng kể và nấm bệnh nhiều, trong khi qui trình canh tác thuỷ canh không cho phép phun xịt các loại thuốc bảo vệ thực vật.

Không nản lòng, anh Dũng miệt mài vào các trang mạng tìm thông tin về cây xà lách xoong trồng thuỷ canh ở nước ngoài. Tình cờ, năm trước anh có việc đi nước ngoài và tìm được nguồn giống xà lách xoong của Italy. Khi đưa vào canh tác thử nghiệm, xà lách xoong giống này phát triển rất tốt, chỉ có chế độ hoà phân trong nước có khác đôi chút với dòng xà lách Hà Lan. Cách đây 6 tháng, chủ trang trại này mạnh dạn đưa 1.000m2 trong tổng số 5.000m2 đang canh tác rau thuỷ canh sang trồng xà lách xoong. Kết quả là sản phẩm làm ra không đủ cung cấp cho thị trường, mỗi ngày vườn xà lách xoong của anh Dũng thu hoạch 100kg với giá bán tại trang trại là 35.000 đồng một kg, nhỉnh hơn giá các loại xà lách Hà Lan, trong khi sản lượng ngang bằng. Hiện xà lách xoong giống Italy của anh Dũng được các nhà hàng, cửa hàng rau sạch Đà Lạt tiêu thụ 50 kg một ngày, số còn lại gửi đi các hệ thống siêu thị. Từ 6 tháng nay, doanh thu của 1.000m2 xà lách xoong đều đặn cho doanh thu 100 triệu đồng mỗi tháng.

Theo anh Dũng, nếu một đợt trồng xà lách các loại giống Hà Lan mất 30 ngày, mật độ trồng 21.000 cây trên 1.000m2, và giống tính bằng từng hạt tốn trên 7 triệu đồng, thì hạt giống xà lách xoong lại nhỏ li ti và được tính theo gram nên rất lợi và giá cũng rẻ hơn nhiều. Theo qui trình, sau mỗi đợt trồng xà lách thuỷ canh thông thường, nhà vườn phải bỏ hết giá thể trong ly, vệ sinh ly nhựa trồng cây và máng dẫn nước, sau đó lại tiếp tục cho giá thể vào ly để trồng đợt mới. Riêng với cây xà lách xoong, đợt gieo hạt đầu tiên mỗi ly nhựa có cả chục cây con trong đó, bởi hạt giống quá nhỏ không thể rắc từng hạt vào ly.

Để cây xà lách xoong phát triển cao khoảng 3cm thì nhân công bắt đầu công đoạn tách bớt cây giống qua các ly nhựa khác, mật độ mỗi ly khoảng 5-6 cây. Sau 30 ngày, xà lách xoong đạt chiều cao 30cm là có thể thu hoạch. Ngoài yếu tố sạch thì xà lách xoong thuỷ canh rất bắt mắt do xanh đều từ gốc tới ngọn, không phải nhặt bỏ lá hư, thân mềm và dòn. Sau mỗi lần thu hoạch, các mầm non mới phát triển rất nhanh nên sau 20 ngày lại tiếp tục cắt đợt 2 và liên tục như thế đến hết đợt thứ tư mới phải thay giống.

“Xà lách xoong sau 90 ngày mới phải thay hạt giống và giá thể cũng như vệ sinh ly nhựa, máng nước. Trong khi cùng thời gian thì các giống xà lách Hà Lan đã phải đầu tư 3 lần giống cùng các qui trình khác”, anh Dũng so sánh.

Ngoài thị trường trong nước, sau Tết Nguyên đán, trang trại rau thuỷ canh của Tô Quang Dũng đã xuất thử hơn 5 tấn sản phẩm sang thị trường Hàn Quốc bằng đường tàu biển, trong đó có mặt hàng xà lách xoong. Hiện anh đang chờ thông tin phản hồi vì sau 18 ngày rau mới có thể vào các siêu thị Hàn Quốc. Dũng cho biết nếu được thị trường chấp nhận, sắp tới anh sẽ chuyển diện tích trồng nhiều hơn qua xà lách xoong và sẵn sàng chuyển giao kỹ thuật, nguồn giống cho những người khác để có đủ sản phẩm cung ứng cho thị trường.

Nguồn: Vnexpress.net được kiểm duyệt bởi Farmtech VietNam.

Giá tăng kỷ lục, ngành Điều vẫn khó

Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu điều đạt 2,84 tỉ USD, đứng thứ 2 sau ngành cà phê.

Ngành điều VN dẫn đầu thế giới nhiều năm liền nhưng vẫn phát triển thiếu bền vững. Đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 3 tỉ USD trong năm nay nhưng ngành điều VN hưởng lợi không bao nhiêu do phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

Trong nước mất mùa

Hiện tại đang vào vụ thu hoạch điều nhưng do năm nay mưa trái mùa phổ biến trên diện rộng với lượng lớn; thêm vào đó dịch bệnh phát triển nên năng suất và sản lượng ở các vùng nguyên liệu đều giảm. Ông Nguyễn Văn Quang ở xã Đak Ơ, H.Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước cho biết: Giá bán điều giữa tháng 3 này lên tới 45.000 đồng/kg, cao nhất từ trước tới nay. Dù giá cao nhưng ông Quang cũng chẳng vui nổi vì mất mùa nặng. Năng suất năm nay chỉ đạt khoảng 60% so với mọi năm.

Tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, ông Nguyễn Anh Tuấn ở xã Hòa Hội, H.Xuyên Mộc cho biết: Giá điều ở mức chưa từng có với điều tươi 46.000 đồng/kg, điều khô 60.000 đồng/kg. Nhưng nhiều vườn điều ở địa phương bị sâu, bọ xít ùa vào chích hết từ lá non đến lá già, vườn chết khô y như bị cháy. Một số hộ kịp thời phun thuốc, kích thích trổ bông lại từ đầu nên có khả năng trong vòng 2 tháng nữa sẽ có thu hoạch nếu còn nắng. Trong khi đó, nhiều hộ bỏ mặc, thất thu đến 80%.

Kỹ sư Phạm Văn Đẩu, Hiệp hội Điều VN (Vinacas), cho biết mùa điều năm nay thu hoạch kém hơn các năm trước trong đó Lâm Đồng thiệt hại nặng nề nhất, mất mùa gần 80%. Một số tỉnh như: Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận cũng thiệt hại khá lớn. Nguyên nhân chủ yếu do sự bùng nổ của sâu róm đỏ và bọ xít muỗi. Toàn bộ hoa, chồi non đều bị bọ xít muỗi chích đến khô khốc, cháy đen, không thể thụ phấn, đậu quả. Các địa phương khác cũng bị ảnh hưởng nhưng ở mức độ nhẹ hơn.

Những năm trước mức giá cao nhất chỉ giao động trong khoảng 28.000 – 30.000 đồng/kg

Giá điều tăng đột biến cũng là do mất mùa, nguyên liệu khan hiếm. Những năm trước mức giá cao nhất chỉ giao động trong khoảng 28.000 – 30.000 đồng/kg. Giá thấp, nhiều nông dân đã chuyển sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn.

Người “khổng lồ” bị ép giá

Trong khoảng 10 năm qua, VN luôn dẫn đầu ngành điều thế giới ở cả khâu nhập và xuất khẩu. Năm 2016, VN chế biến 1,5 triệu tấn điều thô, tương đương 50% sản lượng toàn cầu. Cũng trong năm này, theo Bộ NN-PTNT, VN xuất khẩu đạt 347.000 tấn tương đương kim ngạch 2,84 tỉ USD; tăng 5,6% về khối lượng và tăng 18,4% về giá trị so với năm 2015. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải bỏ ra đến 1,6 tỉ USD để nhập 1 triệu tấn nguyên liệu chủ yếu từ châu Phi về sản xuất.

Dù dự báo sản lượng điều thế giới không giảm nhưng theo Vinacas, giá điều nhập khẩu không ngừng tăng khiến lợi nhuận thu về của ngành giảm mạnh. Cụ thể ngày 15.3, giá điều thô nhập khẩu tăng thêm 150 USD/tấn, đạt mức 2.000 USD/tấn. Lý giải về mức giá nguyên liệu điều tăng quá mạnh, ông Hồ Ngọc Cầm, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Điều VN cho rằng, là do các doanh nghiệp (DN) của ta sợ thiếu nguyên liệu, tranh mua nên bị ép giá. “Chúng ta là nhà nhập khẩu điều lớn nhất thế giới mà vẫn bị ép giá là một sự thật hết sức vô lý. Sự tranh mua cũng bắt nguồn từ tranh bán, chỉ mạnh ai nấy làm nên dù là người “khổng lồ” trên thương trường thế giới nhưng chúng ta vẫn đang bị ép cả hai đầu” – ông Hồ Ngọc Cầm nói.

Nhưng mức giá 2.000 USD/tấn chưa phải là cao nhất. Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, trong 2 tháng đầu năm nay VN nhập khẩu 93.000 tấn tương đương 226 triệu USD, tăng gần 54% về khối lượng và tăng hơn 2 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Tính ra giá nhập khẩu bình quân đến 2.430 USD/tấn, tương đương khoảng 53.000 đồng/kg. Trong khi cùng kỳ năm 2016, VN nhập khẩu 63.000 tấn với giá trị đạt 103 triệu USD, tương đương 1.630 USD/tấn, rơi vào khoảng 35.000 đồng/kg. Nghĩa là chúng ta càng nhập nhiều thì giá càng cao, càng làm nhiều, lợi nhuận càng ít đi.

Giá trị gia tăng thấp

Theo ông Cầm, 4 kg điều thô sẽ cho ra 1 kg điều chế biến. Với giá điều nhập khẩu là 2,43 USD/tấn thì để có 1 kg điều xuất khẩu với giá 9,1 USD chúng ta tốn tới 9,72 USD (2,43 x 4) để nhập nguyên liệu. Năm 2016 VN nhập khẩu

1 triệu tấn điều với giá trị 1,6 tỉ USD. Với công thức trên, để có một ký điều xuất khẩu chúng ta mất giá vốn 6,4 USD. Với giá xuất khẩu bình quân năm 2016 là 8.118 USD/tấn (tương đương 8,1 USD/kg), mức chênh lệch giữa mua – bán là 1,7 USD/kg. Khoản chênh lệch 1,7 USD phải gánh hàng loạt chi phí như lãi vay ngân hàng, lương nhân công, điện, nước, thuế, khấu hao máy móc… nên lợi nhuận thu về là rất thấp, thậm chí không ít DN không khéo thu vén sẽ bị lỗ. Vậy họ sống nhờ cái gì? Ông Cầm giải thích, có 3 yếu tố giúp các DN tồn tại. Thứ nhất là DN sống nhờ vào nguồn thu từ phụ phẩm trong quá trình chế biến điều. Thứ hai là cố gắng kềm giá thu mua điều trong nước để bù vào giá nhập khẩu nguyên liệu. Thứ ba chính là có một số DN “lướt sóng” mua được nguyên liệu dự trữ lúc giá thấp. “Nhìn con số xuất khẩu 2 – 3 tỉ USD rất ấn tượng nhưng giá trị gia tăng mang lại rất khiêm tốn. Chúng ta cần nên tỉnh táo nhìn vào thực chất”, ông Cầm nói.

Điều – một ngành được đánh giá là tiềm năng và VN đang chiếm vị thế lớn trên bản đồ xuất khẩu của thế giới

Không chỉ vậy, các DN còn đối mặt với rủi ro khi nhập khẩu nguyên liệu qua trung gian. Nhiều DN trong ngành thừa nhận, họ ít khi mua được nguyên liệu trực tiếp từ châu Phi mà chủ yếu qua các thương nhân Ấn Độ nên rủi ro về chất lượng hàng nhập khẩu rất lớn.

Vậy giải pháp nào cho ngành điều, một ngành được đánh giá là tiềm năng và VN đang chiếm vị thế lớn trên bản đồ xuất khẩu của thế giới. Theo các chuyên gia kinh tế, để ngành điều phát triển bền vững, cần chú trọng nguồn nguyên liệu trong nước, cải tạo giống để tăng sản lượng từ 2 tấn/ha lên 3 – 4 tấn/ha, áp dụng công nghệ cao trong cả trồng trọt, sản xuất, chế biến điều. Chỉ có như vậy, mới giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu. Đối với thị trường nhập khẩu cần có đàm phán cấp Chính phủ trong việc thu mua nguyên liệu. Bên cạnh đó các DN phải thật sự đồng lòng, đoàn kết để luôn có giá tốt trong cả mua và bán. Nếu không, câu chuyện của ngành sẽ giống như ngành cá tra – dù một mình một chợ vẫn thua thiệt.

Nguồn: tintaynguyen.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.

Điều – Cây tỷ đô nguy cơ mất vị thế số 1 dù nhu cầu tăng, giá tăng

Theo thông tin từ Bộ NNPTNT, sản xuất hạt điều trong nước hiện nay mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu thị trường và đang có dấu hiệu giảm sản lượng, hiệu quả sản xuất thấp… Trong khi đó giá điều nguyên liệu nhập khẩu ngày càng tăng do nhu cầu chế biến tăng, điều này khiến cho giá trị kinh tế của ngành điều sụt giảm rõ rệt.

Ngành điều đang đứng trước nhiều đòi hỏi về đổi mới giống, tái canh, chế biến sâu…

Nghịch lý từ thị trường

Sau hơn 3 thập kỷ phát triển ngành điều, Việt Nam đã trở thành nước có kim ngạch xuất khẩu (XK) điều nhân số 1, chế biến đứng thứ 2 và giữ vị trí thứ 3 thế giới về năng suất và sản lượng điều. Năm 2016, ngành điều Việt Nam XK 347.000 tấn, đạt kim ngạch 2,84 tỷ USD, chế biến trên 50% sản lượng điều của thế giới. Ngành điều đem lại giá trị kinh tế lớn và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu nông dân và công nhân.

“Chế biến sâu nếu không làm thì chúng ta sẽ thua. Làm sao 5-10 năm tới kim ngạch xuất khẩu điều đạt 5 tỷ USD? Chỉ cần giữ nguyên sản lượng, tập trung đầu tư chế biến sâu, tăng xuất khẩu là đạt được mục tiêu đề ra”. Ông Nguyễn Đức Thanh – Chủ tịch Hiệp hội điều Việt Nam

Đánh giá về ngành điều, ông Lê Văn Liền – chuyên gia phân tích thị trường cho biết: “Hiện nay nguồn cung điều thô tăng 3,5%/năm, song không thể đáp ứng nguồn cầu (tăng 6%/năm) do mất mùa, hạn hán, biến đổi khí hậu. Giá điều thô tăng cao do thiếu hụt nguồn nguyên liệu. Ngành điều thế giới đang đối diện với rủi ro mất mùa gây tổn thất cho cả chuỗi giá trị, cũng như làm giảm khả năng cạnh tranh của hạt điều so với các loại hạt khác”.

Từ bức tranh cung cầu của ngành điều, ông Liền nhận định, ngành điều thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đối mặt với tình trạng cầu vượt cung, dẫn đến giá điều tăng trong vài năm gần đây. Giá điều thô tăng làm giá điều thành phẩm tăng, khiến người tiêu dùng chuyển dần sang sử dụng các sản phẩm thay thế khác. Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp từ những biến động tiêu cực của thị trường.

Sản xuất điều trong nước đang đối diện với nghịch lý, trong khi ngành điều mang lại giá trị kinh tế cao xấp xỉ 3 tỷ USD/năm, nhưng nguồn lực đầu tư cho ngành điều lại chưa tương xứng, khiến ngành điều chưa phát huy hết tiềm năng và đang đối diện với muôn vàn khó khăn: Sản lượng giảm, hiệu quả sản xuất thấp, thu nhập từ điều không cao, giá trị gia tăng thấp, nhiều diện tích điều bị thoái hóa hoặc bị chuyển đổi sang cây trồng khác.

Làm rõ vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Sơn – Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT) cho biết: “Diện tích điều có xu hướng giảm, năm 2005 có trên 400.000ha, hiện nay chỉ còn khoảng 300.000ha, bên cạnh đó diện tích trồng mới cũng có xu hướng giảm. Diện tích điều già cỗi, sinh trưởng kém, năng suất thấp chiếm khoảng 80.000ha ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Ngành điều chưa đầu tư thâm canh phù hợp, sản xuất điều phân tán, trình độ thâm canh chưa cao, công tác chọn giống chưa phù hợp, hệ thống tưới tiêu còn nhiều hạn chế”.

Cũng theo ông Sơn, một trong những yếu tố tác động lớn đến cây điều là do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, tình trạng hạn hán, mưa trái mùa cùng với sự xuất hiện của sâu bệnh làm giảm năng suất.

Nông dân đang nhặt hạt điều

Cần đẩy mạnh tái canh, chế biến sâu

Lo lắng ngành điều sẽ sụt giảm trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường cho hay: “Thế giới đang cạnh tranh mạnh mẽ về hàng hóa nói chung. Cây điều được dự báo nhu cầu sẽ tăng 6%, nhưng cũng sẽ không đáp ứng được (chỉ 3-3,5%), điều này rất vô lý. Việt Nam đang chế biến trên 50% sản lượng điều thô thế giới. Vậy nhưng mỗi năm diện tích trồng điều trong nước đang thu hẹp, sản lượng thấp dần, chỉ tự đáp ứng được trên 30% nguyên liệu”.

Bộ trưởng Cường đặt câu hỏi: Phải chăng cây điều, ngành điều không còn hấp dẫn, hay tự chúng ta làm cho hạt điều không còn hấp dẫn. Vì vậy nếu không có sự vào cuộc của chính phủ, doanh nghiệp, người nông dân, ngành điều sẽ đi xuống…

Nhiều chuyên gia cho rằng năng suất điều có thể tăng được 30-40% nếu áp dụng đồng bộ khoa học công nghệ trong canh tác tiên tiến, đây là một trong những giải pháp đột phá để phát triển ngành điều. Ông Lê Văn Liền cho hay: “Nguồn cung điều thế giới tăng trưởng chậm là cơ hội cho Việt Nam nếu chúng ta xây dựng được vùng nguyên liệu điều cho năng suất cao và ổn định, từ đó chủ động điều tiết giá và giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu điều xuất khẩu. Ngành điều Việt Nam đang sở hữu nhiều giống điều cho năng suất cao, năng suất cây điều có thể lên tới 2,5-3 tấn/ha”.

Bên cạnh nâng cao chất lượng giống, ông Nguyễn Hồng Sơn – Cục trưởng Cục Trồng trọt cho rằng tái canh, trồng mới là biện pháp quan trọng nhằm đổi mới vườn điều, trẻ hóa vườn cây, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệ quả kinh tế. Mặt khác tái canh góp phần hạn chế thiệt hại do mưa trái mùa, ảnh hưởng biến đổi khí hậu.

Giáo sư-Viện sĩ Trần Đình Long – thành viên Hội đồng quản trị Tập đoàn Pan cũng nhấn mạnh: “Ngành điều hiện tại chưa được quan tâm đầu tư một cách có hệ thống mà đang phát triển manh mún, rời rạc, thiếu sự hợp tác liên kết chặt chẽ giữa 4 nhà dẫn đến các hoạt động sản xuất chưa thực sự đạt hiệu quả. Tập đoàn Pan sẽ hình thành viện nghiên cứu giống điều, tự làm giống. Viện nghiên cứu này sẽ giải quyết vấn đề giống điều để tạo ra các giống cho chất lượng, năng suất cao”.

Nguồn: tintaynguyen.com được kiểm duyệt bởi Farmtech Vietnam.