Bệnh do kí sinh trùng gây ra ở đà điểu

Trong quá trình nuôi, đà điểu bị nhiễm kí sinh trùng là điều không thể tránh khỏi. Các ký sinh trùng bên trong cơ thể của những con đà điểu được nuôi nhốt thường ít hơn so với những con đà điểu được nuôi theo kiểu chăn thả hoặc tự do. Trong chăn nuôi đà điểu để kinh doanh, trứng thường được ấp nhân tạo và con non thì được nuôi cách ly thành từng nhóm (đàn). Việc nuôi riêng các con non này sẽ giúp cách ly chúng khỏi những con trưởng thành vốn đã đông đúc và như thế sẽ cản trở vòng đời của hầu hết các loại ký sinh trùng trong cơ thể.

Đa số các loại ký sinh trùng này không gây ảnh hưởng lắm về mặt kinh tế. Tuy nhiên, các loại ký sinh trùng sau đây lại được công nhận là gây ra tổn thất nghiêm trọng.

1. Giun dây trong mề đà điểu

Giun sống ở trong mề tuyến (vì thế nên có tên là giun trong mề). Giun trưởng thành có chiều dài từ 0,5-1 cm, màu nâu – hung đỏ, rất mỏng và giống như cái dây. Trứng giun được thải theo phân và vẫn có thể sống tới ba năm sau. Khi có đủ độ ẩm và ấm, trứng sẽ nở thành ấu trùng có khả năng gây bệnh. Kể từ khi nuốt phải, các ấu trùng phát triển thành con giun trưởng thành trong khoảng ba tuần.

Những con đà điểu còn nhỏ đặc biệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi loại ký sinh trùng này. Nếu nhiễm nhiều giun có thể làm ảnh hưởng tới mề và có thể làm cho tỷ lệ chết cao.

Các triệu chứng: Con đà điểu bị nhiễm giun có biểu hiện không muốn ăn, uể oải, không khỏe mạnh, mặt tái nhợt (biểu hiện của triệu chứng thiếu máu), bị bệnh đường ruột (trong trường hợp bị bệnh mạn tính) và chứng táo bón (ở những con đà điểu có đường ruột bị ảnh hưởng). Tỷ lệ ở con non thường cao.

Bệnh lý và chẩn đoán: Phát hiện có giun dây ở trong mề hoặc lớp bên trong sau khi tử vong, tìm thấy trứng giun trong phân nhờ phương pháp đãi nổi. Bề ngoài cơ thể và các cơ quan bên trong cơ thể tái nhợt, gan nhỏ và vàng.

Điều trị và kiểm soát: Levamizol là loại thuốc đầu tiên có tác dụng trị bệnh giun dây tốt. Tuy nhiên, gần đây các biểu hiện cho thấy chúng dường như kháng lại thuốc này. Hiện nay, nhóm benzimidazol đã được đưa vào để điều trị. Ví dụ, fenbendazole với liều lượng 15 mg/kg theo đường miệng. Nên nhớ rằng nếu trước đây chuồng trại đã bị nhiễm giun thì cần phải tẩy giun cho đà điểu (các con non và các con đang lớn) thường xuyên (ba tới bốn tuần một lần). Để tránh trường hợp giun kháng lại thuốc đặc trị thì cần phải dùng lần lượt hai hay thậm chí tới ba loại thuốc. Cần phải kiểm tra tất cả những con đà điểu khi mới đưa về trang trại.

2. Sán đà điểu (sán dây, sán xơ mít)

Sán sống ở trong ruột non và có thể làm cho đà điểu gầy mòn dần do bị đói liên tiếp. Trứng sán được thải ra từ một vật chủ trung gian. Loại vật chủ trung gian của sán đà điểu vẫn chưa được biết đến. Khi đà điểu ăn phải vật chủ trung gian thì sán sẽ phát triển thành con sán trưởng thành.

Triệu chứng: Đà điểu non dễ bị ảnh hưởng nhất và có biểu hiện nhiễm sán rất chậm; tình trạng sức khỏe suy sụp dần, uể oải và thiếu máu, đôi khi kèm theo tiêu chảy nhẹ.

Bệnh lý và chẩn đoán: Có sán trong ruột non, có các khúc sán hoặc trứng sán trong phân.

Điều trị và kiểm soát: Cách điều trị sán này cũng giống như điều trị giun dây nhưng loại thuốc fenbendazole cần phải uổng với liều cao hơn (25 mg/kg) ngoài ra cần uống thêm resorantel với liều 130 mg/kg. Với cách dùng thuốc kết hợp như vậy việc tẩy sán, đặc biệt là sau sáu tuần cho uống lại thuốc đó sẽ có hiệu quả cao.

3. Giun nematode

Loại giun Codiostomum struthionis chỉ có ở đà điểu. Nó sống ở ruột già và cản trở quá trình hấp thụ nước. Nó dài khoảng 1-1,5 cm và có màu trắng.

Triệu chứng: Không có các triệu chứng rõ ràng

Bệnh lý và chẩn đoán: Có giun ở đầu đoạn ruột kết, có thể tìm thấy trứng giun trong phân. Điều trị và kiểm soát: Giống như điều trị giun dây.

4. Sán mắt

Đây là một loại ký sinh trùng có thể gây nhiễm cho đà điểu cũng như một số loài chim khác. Loại sán này cần sử dụng loại sên nước ngọt làm vật chủ trung gian riêng. Nó gây ảnh hưởng tới mắt và sống ở túi dịch của màng kết mạc và dẫn tối bệnh viêm màng kết và viêm túi lệ. Sán mắt rất nhỏ, không dài quá 2 – 3 mm.

Điều trị và kiểm soát: Điều trị khoanh vùng ở túi dịch của màng kết mạc bằng bột muối cacbonat 5%. Đợt điều trị thứ hai sau 48 giờ.

5. Vi sinh vật đơn bào

Cầu trùng đã được tìm thấy ở đà điểu sống tại nhiều vùng Bắc Mỹ và châu Âu, đặc biệt là ở những nơi nuôi đà điểu non theo cách nhốt trong chuồng. Loại ký sinh trùng đơn bào này gây ra bệnh về đường tiêu hóa. Loài Eimeria đã được tìm ra nhưng các giống của loài này vẫn chưa được biết rõ.

Triệu chứng: Các triệu chứng bệnh đối với đà điểu thường rất ít. Bệnh chỉ có thể được chẩn đoán chính xác bằng cách kiểm tra đường ruột của chúng. Những con đà điểu bị nhiễm bệnh thường có biểu hiện ăn không ngon miệng, ốm yếu, lông xù lên, tư thế đứng lom khom và phân của chúng có thể có màu.

Bệnh lý và chẩn đoán: kết quả cho thấy có ký sinh trùng đơn bào trong hệ thống tiêu hóa và trong phân của đà điểu.

Điều trị và kiểm soát: thường xuyên dùng thuốc diệt vi sinh vật đơn bào là cách điều trị tốt nhất. Khi phát bệnh, cần khẩn trương tăng cường bổ sung lượng vitamin K, sulfonamide và vitamin A trong chế độ ăn hàng ngày cho đà điểu. Tẩy uế chuồng trại sạch bằng amoniac sau mỗi lứa con non sẽ là một cách không chế vi sinh vật đơn bào rất hiệu quả.

6. Các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể

Các loại côn trùng, bao gồm rận, mạt, bọ chét là những loài phổ biến nhất và là những loài ký sinh trùng bên ngoài phổ biến có ảnh hưởng tới đà điểu ở mọi độ tuổi. Những con đà điểu bị nhiễm các loại ký sinh trùng bên ngoài nói chung có biểu hiện ngứa ngáy khó chịu và phản ứng bằng cách gãi. Có thể tìm rận và mạt bằng cách kiểm tra da và lông, đặc biệt là ở vùng quanh đít, chân, cánh và cổ. Kiểm tra đà điểu vào ban đêm có thể tìm thấy các loại ký sinh trùng ăn đêm, nhưng để nhận ra được từng loại ký sinh trùng riêng thì cần phải kiểm tra bằng kính hiển vi.

Rận thuộc loài struthiolipenrus có thể gây hư hại và giảm khối lượng lông. Mạt ở đà điểu thuộc họ pterolichidae. Những con mạt soi được dưới kính hiển vi này sống ở trong cuống lông. Trong quá trình sống, mạt chui qua cuống lông và làm hư hại lông. Có mạt ở trong cuống lông sẽ khiến cho con đà điểu tự nhổ lông của chính mình và làm xây sát da. Ngoài việc làm giảm số lượng lông ra, sự khó chịu, căng thẳng cũng gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đà điểu như viêm đường hô hấp, đồng thời giảm khả năng sinh sản của chúng.

Bọ chét ở đà điểu thuộc về rất nhiều giống. Ở những vùng có lượng mưa lớn và cây cối rậm rạp thì bao giờ cũng có nhiều bọ chét. Chỗ hay bị tấn công nhất của đà điểu là ở đầu và cổ. Bọ chét là loại gây thiệt hại kinh tế đối với đà điểu. Thứ nhất là bọ chét không chỉ làm cho đà điểu không được thoải mái mà còn làm xây xát da do đó làm giảm giá trị của da. Thứ hai, một số giống bọ chét là vật mang của loài trùng rận gây ra bệnh “phù tim”.

Cách điều trị và kiểm soát chung

Nói chung có thể làm giảm tối thiểu các loại ký sinh trùng bên ngoài cơ thể bằng các phương pháp vệ sinh. Liệu pháp Ivermectin (ivoznec) có khả năng tiêu diệt rất tốt hầu hết các loại ký sinh trùng bên ngoài cũng như các loại ký sinh trùng bên trong cơ thể đà điểu nhờ tiêm dưới da liều lượng 0,2 mg/kg, mỗi tháng tiêm nhắc lại một lần trong vòng ba tháng. Nếu bị nhịễm bọ chét nặng thì dùng carbaryl 5 phần trăm rắc hai lần trong hai tuần sẽ rất hiệu quả.

Nguồn:

Kỹ thuật nuôi đà điểu từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi

Úm đà điểu con hay còn gọi là gột đà điểu là các kỹ thuật nuôi đà điểu từ lúc mới nở đến khi đà điểu con cứng cáp để có tỷ lệ sống cao nhất.

Chuồng nuôi gột

Nên chọn hướng có ánh nắng mặt trời, thoát nước tốt, mặt bằng cao ráo. Khu vực xung quanh yên tĩnh, tránh tiếng ồn như đường sắt, phi trường, nhà máy, đường ôtô… Nhà nuôi gột được thiết kế có chuồng kín nuôi úm và sân chơi đảm bảo diện tích như sau:

Tuổi đà điểu (ngày) Chuồng úm (m2/con) Sân chơi (m2/con)
1-30 0,3-0,5 2,0
30-60 0,7-1,3 3-3,5
60-90 1,5-2,0 4-6

Chuồng úm thông thoáng nhưng phải giữ được ấm. Sân chơi tốt nhất là thảm cỏ hoặc đất nền được nhật sạch các dị vật như mảnh thủy tinh, sợi kim loại, que nhọn… Có thể trải một lớp cát mỏng lên bề mặt sân chơi để đà điếu vận động tốt và hút ẩm các chất đà điểu bài tiết.

Đà điểu đang úm dưới bóng đèn nhiệt hồng ngoại

Thảm lót và chất độn chuồng

Từ 1- 2 tuần đầu nền nhà nuôi úm được lót bằng thảm mềm để đà điểu đi lại vững chắc và giữ ấm được phần bụng. Từ tuần thứ 3 trở đi dùng cát khô lót nền. Chức năng chạy của đà điểu rất quan trọng vì vậy khi nhốt ở nền cứng, trơn sẽ làm chân biến dạng, trật khớp dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao.

Máng ăn, máng uống

Máng ăn dùng bằng nhựa, cao su hoặc chậu sành, không dùng máng có góc cạnh nhọn sắc dễ gây chấn thương chân. Máng uống có thể dùng các chậu bằng sành, sứ, nhựa hoặc vật tương tự có bề mặt rộng để đà điểu thuận tiện khi uống bằng động tác ngậm nước đưa lên cao rồi mới nuốt.

Chọn đà điểu giống

Chọn đà điểu nở đúng ngày (ngày thứ 42 – 44), khoẻ mạnh không bị dị tật, nhanh nhẹn, mắt sáng, bụng gọn, khối lượng cơ thể đạt từ 0,8 – 1kg/con. Thức ăn và nuôi dưỡng

Tiêu chuẩn protein và năng lượng trong khẩu phần thức ăn tinh

Chỉ tiêu 0 -1 tháng tuổi  1-3 tháng tuổi
Protein (%) 21 19
ME (kcal) 2900 2800

Thức ăn nuôi đà điểu mới, không ôi mốc, tốt nhất sử dụng cám viên để đà điểu ăn không rơi vãi. Phương pháp cho ăn: cho ăn nhiều bữa trong ngày:

  • 1 – 30 ngày tuổi cho ăn 6 lần/ngày
  • 31 – 60 ngày tuổi cho ăn 4 lần/ngày
  • 61 – 90 ngày tuổi cho ăn 2 – 3 lần/ngày.

Có thể dùng riêng máng đựng thức ăn tinh và rau xanh. Trong những tuần đầu có thể trộn rau thái nhỏ với thức ăn tinh để đà điểu ăn được nhiều thức ăn tinh hơn. Đà điểu phát triền tốt có khả năng thu nhận thức ăn và đạt tăng trọng như sau:

Khả năng thu nhận thức ăn và khối lượng cơ thể

Tuần tuổi Khối lượng Thức ăn tinh (g/con/ngày)
Sơ sinh 0.85-0,90
1 roo 9,3
2 1,22 38,8
3 1,92 85,6
4 2,94 179,2
5 4,56 257,1
6 7,62 330,6
7 8,23 449,2
8 10,12 487,7
9 12,24 492,4
10 15,03 654,2
11 18,02 653,7
12 20,18 747,1
13 22,18 758,5

Thức ăn xanh gồm các rau mềm: xà lách, bắp cải, rau muống…

Lưu ý: tuần đầu khối lượng sơ sinh có khả năng giảm đến 10 ngày, giai đoạn này đà điểu sử dụng nguồn dinh dưỡng chú yếu là noãng hoàn, vì vậy nhu cầu thức ăn ăn vào không quan trọng bằng nước uống. Cả giai đoạn cho ăn thức ăn tinh tự do.

Giai đoạn 1 – 3 tháng tuổi rất quan trọng, kết quả nuôi tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác các lứa tuổi sau.

Chăm sóc và quản lý

Nhiệt độ và ẩm độ

Sau khi nở 24 giờ đưa đà điểu vào quây úm vì bộ lông lúc này chưa đầy đủ, điều hoà thân nhiệt kém nên phải giữ nhiệt cho nó. Ngoài ra trong bụng còn tích khối noãn hoàn lớn (253 – 350g) dễ bị lạnh khi nhiệt thấp hoặc chất độn chuồng không đủ dày, dẫn đến xơ cứng không tiêu hóa được, viêm nhiễm là nguyên nhân chính gây chết trong những ngày tuổi đầu. Vì vậy, giữ ấm trong giai đoạn gột úm là hết sức quan trọng. Khi úm luôn phải quan sát phản ứng của con vật với nhiệt độ. Nếu thấy nhiều con tránh xa khu vực lò sưởi (đèn) hay há miệng thở, cần giảm nhiệt độ xuống; ngược lại nếu nhiều con tập trung gần nơi phát nhiệt và những con ngoài rìa run run thì đó là nhiệt độ thấp cần phải tăng nhiệt lên. Khi đủ ấm đà điểu vận động mau lẹ hoặc nằm rải rác, ngủ ngon lành.

Tuần tuổi Nhiệt độ (°C) Ẩm độ tốt nhất (%)
Mới xuống chuồng 32-33 65-75
1 30-32 70-80
2 28-30 70-80
3 24-26 70-80
4 22-23 70-80
>5 22 70-80

Từ 1 tháng tuổi luyện cho đà điểu thích ứng dần với điều kiện ngoại cảnh. Ẩm độ chuồng gột giữ tốt nhất ở mức 65-75%

Ánh sáng – vận động

Ánh sáng và vận động phải phù hợp để kích thích đà điểu con ăn nhiều, tiêu hóa tốt, giảm bệnh tật, tăng trường nhanh. Nếu bên ngoài khí hậu tốt, ánh nắng đầy đù thì 20 ngày tuổi có thể cho đà điểu con ra ngoài sân chơi để vận động và tắm nắng. Thời gian thả tăng từ từ theo từng ngày và diện tích sân chơi cũng được mới rộng dần.

Một tháng thả tự do vận động khi thời tiết tốt, nhưng khi trời mưa, xấu thì phải nhanh chóng đưa chúng vào chuồng. Đà điểu không có tuyến nhờn ở phao cầu để bôi trơn lông vì vậy khi gặp mưa lông bị ướt, dẫn đến rét toàn thân, cảm lạnh.

Quy mô đàn

Để quan sát và chăm sóc đồng đều từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi nên bố trí 20 – 25 con/quây úm. Quy mô lớn hơn đà điểu hạn chế vận động, tăng trưởng chậm nếu gặp tác nhân hại đột ngột gây kích động làm chúng sợ hãi nháo nhác dẫm đạp lên nhau dễ gây chấn thương và các khuyết tật về chân.

Điều kiện yên tĩnh

Hệ thần kinh đà điểu rất nhạy cảm, dễ phát sợ kinh động khi có tiếng động lớn, đột ngột hoặc có người lạ mặt.

Lúc đó cả bầy dồn tụ lại một chỗ ngóc đầu lên cao, quay về bốn phía như đề phòng hiểm họa. Nếu có sự kinh động mạnh, cả bầy chạy toán loạn và có thể dẫm đạp lên nhau, đâm vào bất cứ chướng ngại vật nào dễ gây chấn thương, rách da hoặc gẫy cổ mà chết.

Đề phòng các vật lạ

Vì đà điểu là loại ăn tạp nên trong khu vực nuôi cần phải dọn sạch các vật như gạch, đá, mảnh thủy tinh, túi bóng hay các vật nhỏ nhọn sắc để tránh cho chúng ăn phải các thứ này, dễ gây tổn thương đường tiêu hoá.

Nguồn: Caytrongvatnuoi được kiểm duyệt lại bởi Farmtech VietNam.

Bệnh do virus ở đà điểu

Bệnh do virus gây ra thường khó điều trị và có tỉ lệ chết cao trong thời gian ngắn. Hãy cùng Framtech VietNam tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh, trệu chứng và cách phòng bệnh do virus gây ra ở đà điểu.

1. Bệnh Niucatsơn

Bệnh Niucatxơn ở đà điểu cũng gây ra do các chủng virut Nuicatxơn cường độc. Thường các chủng virut này được thải ra từ các ở dịch Niucatxơn của gà, tồn tại và phân tán trong môi trường tự nhiên. Đà điểu ăn thức ăn, uống nước có virut Niucatxơn sẽ bị nhiễm virut và phát bệnh.

Đà điểu ở các lứa tuổi đều bị mắc bệnh Niucatxơn. Đặc biệt đà điểu non 1-4 tháng tuổi thường bị bệnh thể cấp tính. Đà điểu có các triệu chứng lâm sàng đặc trưng sau:

– Các triệu chứng về tiêu hoá: Đà điểu ỉa chảy, phân không thành khuôn, có nhiều dịch nhày do niêm mạc ruột bị tróc ra. Đà điểu thường đứng ủ rũ, bỏ ăn, uống nhiều nước. Do ỉa chảy làm mất nước và rối loạn các chất điện giải nên đà điểu non thường chết do kiệt sức sau thời gian bị bệnh 6-8 ngày.

– Các triệu chứng hô hấp: Đà điểu có dấu hiệu viêm đường hô hấp, liên tục chảy nước mũi, nước rãi, và đặc biệt thở khó dần. Các trường hợp đà điểu bị bệnh thể hô hấp cũng bị chết với tỷ lệ cao sau 10-15 ngày.

– Các triệu chứng thần kinh: Đà điểu có các cơn run rẩy, đi lại xiêu vẹo, ngoẹo đầu, mổ không trúng thức ăn. Các trường hợp bị bệnh nặng, đà điểu thường lên cơn co giật, lăn quay, rãy rụa, cuối cùng bị liệt chân và sẽ chết sau thời gian hành bệnh 7-10 ngày.

Hiện không có thuốc chữa đặc hiệu bệnh Nuicatxon cho đà điểu cũng như cho gà. Bệnh pháp quan trọng nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh Niucatxơn cho đà điểu:

– Đối với đà điểu non từ 7 ngày đến 45 ngày tuổi. Dùng vacxin Lasota nhỏ và mắt mũi hoặc chủng dưới da cánh cho đà điểu. Vacxin thường được pha theo tỷ lệ 1/200 với nước cất. Sau khi dùng vacxin 10-14 ngày, đà điểu non có miễn dịch chống lại virut Niucatxơn.

Sau 45 ngày được sử dụng vacxin Lasota, đà điểu cần phải tiêm chủng vacxin Nuicatxon hệ 1, cũng tiêm dưới da cánh với liều 0,20-0,30 ml/1 đà điểu bằng dung dịch vacxin pha với nước cất theo tỷ lệ 1/200. Vacxin sẽ tạo miễn dịch chắc chắn cho đà điểu và miễn dịch kéo dài 12 tháng.

– Đối với đà điểu trưởng thành: mỗi năm cần tiêm vacxin Niucatxơn cho chúng một lần vào cuối mùa thu chuyển sang đông.

Thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi trường nuôi đà điểu để tránh lây nhiễm mầm bệnh. Chuồng trại và môi trường cần định kỳ tiêu độc bằng các loại thuốc diệt trùng như Crêsyl- 2% hoặc nước vôi 10%.

Không nuôi gà trong khu vực chăn nuôi đà điểu để đà điểu không bị nhiễm virut Niucatxơn từ gà.

2. Bệnh đậu mùa

Nguyên nhân là do virus đậu (Fowl pox) gây nên. Virut truyền nhiễm qua không khí, côn trùng truyền bệnh (thường là giống muỗi Cules và Aides) hoặc do ăn phải các mảnh vảy da bị nhiễm virut (các vảy da khô bong ra từ các nốt loét của con khác). Thời gian ủ bệnh ở đà điểu từ sáu đến mười ngày.

Triệu chứng: Xuất hiện các mụn trên da nhất nơi khóe mắt, mũi, miệng. Các mụn này vỡ ra chảy nước và dễ bị nhiễm khuẩn gây mủ. Con vật ngứa ngáy khó chịu, nhiều con bị sốt, bỏ ăn.

Tỷ lệ chết của bệnh này thường thấp (15 phần trăm) và nguyên nhân chết chủ yếu là do con đà điểu không thể ăn được hoặc không thể lấy được thức ăn và nước uống.

Điều trị: Không có thuốc trị, chủ yếu dùng các chất tăng cường sức đề kháng như Vitamin C, ADE, đường Glucoza.  Các nốt lở loét có thể điều trị bằng dung dịch nitrat bạc trong bốn đến năm ngày để tránh bị nhiễm virut lại.

Phòng bệnh: Vệ sinh, khử trùng chuồng trại, tăng sức đề kháng cho đà điểu bằng các loại vitamin, điện giải, đường Glucoza, trách gây sốc cho con vật. Dùng vaccin đậu gà chủng qua da cánh liều lượng bằng 1.5 liều gia cầm. Cần diệt trừ muỗi gây bệnh.

3. Bệnh cúm

Nguyên nhân gây bệnh là do virut được gọi là virut “cúm gây bệnh dịch ở loài chim” (HPAI).

Các triệu chứng: Các triệu chứng lâm sàng của bệnh cúm ở loài chim rất khác nhau theo từng độ tuổi và thể loại virut nhiễm phải. Bệnh cúm này gây khả năng chết đột ngột cao, ngừng đẻ trứng hoàn toàn, có các triệu chứng về hô hấp, có tiếng ran khi thở, chảy quá nhiều nước mắt, viêm xoang, đầu và mặt bị phù nề, ỉa chảy và nước tiểu chuyển thành màu xanh.

Điều trị: hiện nay, bệnh cúm ở loài chim không thể chữa được và cũng không có văcxin để phòng bệnh. Phòng bệnh tất nhiên chỉ để hạn chế sự lây lan của bệnh.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Tại sao thịt đà điểu có màu đỏ?

Tại sao thịt đà điểu lại đặc biệt?

Điều đầu tiên cần nhắc tới chính là mặc dù đà điểu là gia cầm nhưng thịt của chúng lại đỏ chứ không có màu trắng như hầu hết các loài chim khác. Hơn nữa, loại thịt đỏ này của đà điểu, tuy có màu sắc và mùi vị khá giống nhưng lại chứa ít chất béo, calo và cholesterol hơn thịt bò và thậm chí là cả những loại thịt gia cầm màu trắng khác như thịt gà và gà tây.

Trên thực tế, có một mối liên hệ mật thiết giữa loại cơ và các loại màu của thịt động vật. “Thịt đỏ” là loại thịt có màu đỏ trước khi nấu như thịt bò, thịt hươu và đà điểu. “Thịt trắng” thường có màu rất nhạt trước khi nấu và bao gồm thịt gà và thịt lợn. “Thịt đen” thường liên hệ với phần thịt đen hơn và có hàm lượng chất béo cao hơn ở loài động vật thịt trắng (như phần cánh và đùi gà). Thịt thỏ cũng được coi là “thịt đen”.

Yếu tố chính xác định xem thịt động vật là thịt trắng hay thịt đỏ là cơ của chúng thuộc loại cơ co nhanh hay cơ co chậm. Cơ co chậm thường được sử dụng nhiều trong các hoạt động kéo dài như đi bộ, đứng hoặc bay. Nó chứa rất nhiều myoglobin – loại protein dự trữ một lượng lớn oxy để hỗ trợ các hoạt động mang tính chất lâu bền. Cũng giống như bò, đà điểu dành phần lớn thời gian để đứng và đi bộ. Ngay cả phần cánh của chúng cũng hoạt động tương đối thường xuyên do đóng vai trò như “bánh lái”. Cơ của đà điểu chủ yếu là cơ co chậm nên thịt của chúng có màu đỏ.

Mặt khác, gà và gà tây không sử dụng cơ nhiều như đà điểu. Hầu hết khối lượng cơ của chúng là loại cơ co nhanh được sử dụng cho các hoạt động như nhảy nhanh. Cơ co nhanh không chứa nhiều myoglobin mà chủ yếu sử dụng glycogen nhạt màu. Vậy nên những loài động vật thuộc loại cơ co nhanh có thịt màu trắng nhạt.

Mặc dù vậy, vẫn tồn tại một ngoại lệ thú vị đó là “thịt đen” ở gia cầm. Các phần cơ thể hoạt động nhiều như chân (do gà đi lại thường xuyên) chứa nhiều myoglobin hơn phần ức của chúng. Chính vì vậy, thịt ở chân gà được xếp vào loại thịt đen chứ không phải thịt trắng như những bộ phận khác.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Bệnh về nấm ở đà điểu

Bệnh ở đà điểu do nấm tuy không nhiều nhưng người nuôi cần nắm rõ tác nhân và triệu chứng để nhận biết và có biện pháp kịp thời tránh lan rộng toàn đàn.

1. Bệnh nấm Aspergillosis

Nấm cúc nói chung là tác nhân gây bệnh về hô hấp cho đàn đà điểu. Bệnh thường do chủng nấm Aspergillus fumigatus gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh nấm Aspergillosis ở đà điểu nhỡ lại do chủng nấm A. flavus và A. niger gây ra, các bào tử nấm này có thể truyền qua rác rưởi hoặc thức ăn bị nhiễm mốc hoặc do hít phải các bào tử nấm trong khu vực ấp trứng bị nhiễm mốc.

Các triệu chứng: các triệu chứng lâm sàng xuất hiện từ độ tuổi ba tới tám tuần tuổi. Các triệu chứng của bệnh là mệt mỏi, biếng ăn, còi cọc và khả năng chết lên tới 50 phần trăm. Trái với giống chim khác, tuy bị tổn thương phổi rất nghiêm trọng nhưng ở đà điểu không thấy thể hiện bất cứ một triệu chứng lâm sàng nào của bệnh hô hấp thường gặp.

Điều trị: nỗ lực điều trị bệnh này nói chung là vô ích. Có thể pha dung dịch sunfat đồng (tỷ lệ 1:200) làm nước uống cho đà điểu để tránh cho bệnh khỏi lan rộng hơn. Cách hạn chế bệnh tốt nhất là loại trừ nguyên nhân gây bệnh, cần phải kiểm tra kỹ để loại trừ mốc trong các thùng đựng rác, thức ăn và nước uống, đồng thời phải khử trùng buồng ấp trứng bằng formalin (55 ml trong một cm³) và permanganat kali (35 g trong thể tích một cm³).

2.Bệnh nấm gây tưa

Bệnh này do chủng nấm Candida moniliformis gây ra. Ở đà điểu, thường phải điều trị lâu dài bằng thuốc kháng sinh. Nấm tác dụng tới nước dãi ở miệng và thực quản đà điểu gây biếng ăn, mất nước có khả năng gây chết.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

 

Những vấn đề gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đà điểu

Đà điểu là một trong những vật nuôi mang lại giá trị kinh tế cao và được nhiều người dân lựa chọn. Chúng có sức sống vô cùng mãnh liệt và hệ miễn dịch phát triển cao. Tuy nhiên khi đưa vào nuôi nhốt, đà điểu thường gặp một số vấn đề sau gây ảnh hưởng tới sức khỏe.

1.Va chạm

Tình trạng căng thẳng kèm theo điều kiện tiếp xúc với các vật lạ ở xung quanh sẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho đà điểu ăn bừa bãi cả những vật dễ gây ra cọ sát với mề tuyến và ngăn trong của mề.

Một số sai sót trong chăn nuôi cũng có thể gây tác hại tới dạ dày, ví dụ như vận chuyển chúng tới một nơi không quen thuộc, vấn đề thức ăn, thiếu sự luyện tập cho các con non mới nở và cho ăn nhiều cát, sỏi quá v.v…

Ở đà điểu, tác động gây cọ sát dạ dày có thể ở dạng cấp tính hoặc mãn tính. Nếu bị dạng cấp tính, đà điểu sẽ ngừng ăn, uống hoàn toàn mặc dù vẫn có thể nhìn thấy chúng mổ vào thức ăn và có vẻ như đang ăn.

Cho đà điểu uống loại muối nhuận tràng (hay còn gọi là muối magiê sunfat) có thể hạn chế được những ảnh hưởng gây các vết xây sát mạn tính nhẹ. Dùng phẫu thuật lấy ra các vật lạ chỉ là biện pháp áp dụng trong trường hợp đã chắc chắn đang bị tác hại hoặc rõ ràng đã nuốt phải các vật lạ từ bên ngoài.

2.Hiện tượng mổ lông và mổ thịt nhau

Thói xấu đối với đà điểu là nhổ lông, ăn lông và mổ vào thịt nhau ở mọi độ tuổi. Những thói xấu này cói thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nhiều đàn đà điểu. Chúng làm mất thẩm mỹ của con đà điểu và dẫn tới làm giảm giá trị của chúng trên thị trường.

Tình trạng này thường hay xảy ra với các con đà điểu non, các con nhỡ, thậm chí cả với các con trưởng thành và có thể dẫn tới tình trạng đánh chết nhau nếu không được xử lý kịp thời.

Các thói xấu của đà điểu thường là do cách chăn nuôi không đúng như nhốt quá đông, quá nóng, không thoáng gió, ẩm, cường độ ánh sáng không phù hợp, chỗ ăn, uống chật chội, nhốt lẫn những con đà điểu bị thương hoặc bị ốm, nhốt các con to lẫn với con nhỏ chung một chuồng v.v…

Dùng muối để chữa thói quen mổ nhau ở đà điểu là phương pháp đang được áp dụng tại 99% trang trại chăn nuôi. Có thể pha nước muối bằng cách cho một thìa canh đầy muối vào 4,5 lít nước uống cho mỗi buổi chiều. Cách ba ngày lại cho uống nước pha muối thành phần như vậy trong nửa ngày. Đồng thời, nên  bổ sung thường xuyên từ 0,5 đến 1 phần trăm muối vào khẩu phần ăn hàng ngày.

3.Sốc (khủng hoảng tinh thần)

Vào cỡ khoảng ba tháng tuổi, đà điểu dễ bị chết do nguyên nhân bị sốc. Tình trạng gây trầy xước, gãy xương và trật khớp khuỷu chân hoặc cánh nguyên nhân thường là do cách bắt đà điểu không đúng (ví dụ như cầm vào cánh), thiết kế hàng rào và bãi quây không hợp lý, chuyên chở hoặc vận chuyển không đúng cách hoặc để chúng thường xuyên chạy tán loạn cũng gây sốc dẫn tới chết.

4.Chân bị choãi

Tình trạng chân bị choãi ở đà điểu non (đặc biệt trong tuần tuổi đầu tiên) dường như có liên quan tới điều kiện ấp. Tuy nhiên các yếu tố khác như bề mặt nền của buồng nở con cũng như rác rưởi trong khu vực nở con đều gây ảnh hưởng.

5. Thân nhiệt bất thường

Đà điểu non được nuôi không có mặt bố mẹ thì cần có các điều kiện tối ưu. Nếu điều kiện nhiệt độ thấp trong một thời gian dài thì có thể gây ra tình trạng giảm thân nhiệt, chậm phát triển và làm chết đà điểu non. Đôi khi còn có thể gây ra các bệnh mạn tính như tai biến tim mạch, tràn dịch màng ngoài tim và tụ huyết thanh trong bụng.

6.Xoắn ruột

Mặc dù vấn đề này chỉ xảy ra ở từng con riêng biệt trong đàn nhưng nó cũng rất nguy hiểm và có thể gây ra khả năng chết tới 25%. Nguyên nhân gây ra xoắn ruột có thể liên quan tới sự thay đổi lớn trong chế độ ăn (từ loại thức ăn được cô đặc, vê tròn chuyển sang chế độ ăn chủ yếu là các loại lá được băm nhỏ).

7.Nhạy cảm với ánh sáng do ăn rau mùi

Những biến chuyển lâm sàng và bệnh lý đã chứng tỏ rằng bệnh nhạy cảm với ánh sáng cấp tính ở đà điểu là do ăn phải rau mùi (Petroselinum sativum). Đối với đà điểu nhỡ, các vết tổn thương thường ở xung quanh mắt, mặt và tai. Còn đối với đà điểu trưởng thành thì nơi dễ bị ảnh hưởng nhất lại là da ở cẳng chân. Những tổn thương thành tật là những vết sẹo để lại trên da và màu da ở những chỗ bị tổn thương trên mặt, cẳng chân sẽ chuyển từ màu ghi bình thường sang màu hồng.

8. Rối loạn thần kinh do ăn thức ăn lạ

Cho đà điểu ăn các loại thức ăn dùng cho trâu bò nào đó có thể dẫn đến tác hại. Gần đây, dự án do tổ chức nông nghiệp và lương thực liên hiệp quốc tài trợ ở Madagascar đã công nhận rằng cho đà điểu ăn cỏ gai trắng sẽ gây ra những rối loạn thần kinh mặc dù nguyên nhân của chứng bệnh này vẫn chưa rõ ràng.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật ấp trứng đà điểu

Ở ngoài tự nhiên đà điểu đẻ trứng vào cát sau đó đà điểu trống sẽ thực hiện ấp và bảo vệ những quả trứng đó. Chúng sử dụng thân nhiệt của mình để điều hòa thân nhiệt của các quả trứng. Sau khoảng 40 ngày ấp liên tục thì những quả trứng này bắt đầu nở thành những chú đà điểu con xinh xắn. Tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhốt ở các trang trại để đảm bảo tỉ lệ nở trứng cao chúng ta thường sử dụng lò ấp để ấp những quả trứng đà điểu này.

1. Chuẩn bị trứng trước khi ấp

* Chuẩn bị trứng ấp

Sau khi đà điểu mẹ đẻ trứng cần nhặt trứng ngay tránh trứng bị nhiễm khuẩn hoặc bị đà điểu bố mẹ giẫm nát.

Trứng sau khi đẻ ra bị lạnh so với nằm trong cơ thể mẹ vì vậy quá trình phát triển của phôi sẽ ngừng lại.

Để bảo quản trứng ấp có hiệu quả cao cần giữ trứng ở nhiệt độ khoảng 65oF, nhiệt độ bảo quản sẽ tạo điều kiện cho phôi phát triển, nhiệt độ không thích hợp có thể gây chế phôi hoặc phôi phát triển chậm

Trong khi bảo quản trứng sẽ bị bay hơi vì vậy để giảm quá trình bay hơi của trứng cần phải giữ độ ẩm môi trường thích hợp khoảng 55-60%

Trước khi mang trứng đà điểu đi bảo quản cần phải soi trứng và đánh dấu phần có bóng khí lại. Xếp trứng có phần bóng khí hướng lên trên, tốt nhất là nghiêng 45º so với chiều thẳng đứng, đảo trứng 1-2 lần/ngày để giúp lòng đỏ chuyển dần về phía buồng khí. Nên để trứng ở nơi thoáng mát, không bị hấp thụ nhiệt, tránh không để trứng ở nơi ô nhiễm hoặc nhà kho ẩm mốc.

2. chọn trứng để ấp

* Chọn trứng theo ngoại hình: Khi chọn trứng đà điểu mang ấp không nên chọn những quả có hình dáng khác thường như quá to, quá nhỏ, méo mó, quá mỏng, quá dầy, xù xì, rạn dập, quá dài hoặc quá tròn vì những quả trứng này có tỉ lệ ấp nở thấp, con non yếu hoặc dị tật, đặc biệt cũng không thể chọn đà điểu con từ những quả trứng này làm giống được.

* Chọn trứng qua đèn soi: Sau khi loại bỏ những quả có hình dáng đặc biệt cần kiểm tra bằng đèn soi để loại bớt những quả không đủ tiêu chuẩn như không có phôi, rạn nứt, buồng khí không đúng vị trí, đồng thời dùng bút khoanh đánh dấu nơi có buồng khí để khi ấp cho hướng lên trên.

* Xử lý trứng ấp: Trứng đà điểu sau khi kiểm tra phải được xông bằng hỗn hợp thuốc tím và phóc môn để khử trùng, diệt khuẩn.

3. Chuẩn bị máy ấp

Nếu ấp trứng trong máy ấp trứng đa kỳ thì sau khi cho trứng mới vào phải xông máy ấp bằng dung dịch thuốc tím và phóc môn để diệt khuẩn, tẩy trùng Nếu ấp trong máy đơn kỳ thì phải vệ sinh, diệt khuẩn, tẩy trùng máy sau mỗi lứa ấp

4. Chế độ ấp trứng

Cũng như quy trình ấp trứng gà, trứng vịt, quy trình ấp trứng đà điểu cũng có 4 yếu tố cơ bản.

* Nhiệt độ: Phôi bên trong của trứng đà điểu chỉ phát triển khi nhiệt độ môi trường cao, nhiệt độ ấp trứng lớn hơn 35,5oC, nếu ấp bằng máy ấp đơn kỳ thì có 3 giai đoạn như sau.
– Giai đoạn 1: Từ 1-10 ngày ấp, nhiệt độ 36,7-37oC
– Giai đoạn 2: Từ 11-34 ngày ấp, nhiệt độ 36,3-36,5oC
– Giai đoạn 3: Từ 40-43 ngày ấp, nhiệt độ 35,5-36oC

Nếu sử dụng máy ấp đa kỳ thì quá trình ấp trứng chia làm 2 giai đoạn chính như sau
– Giai đoạn 1: Từ 1-38 ngày, nhiệt độ 36,3-36,5oC
– Giai đoạn 2: Từ 39-42 ngày, nhiệt độ 35,5-36oC

* Độ ẩm
Trên vỏ trứng đà điểu có lỗ khí rộng, nhưng số lỗ khí/Cm2 ít, mặt khác khi ấp trứng cần phải giảm trọng lượng của trứng xuống vì vậy cần tạo ra môi trường có độ ẩm thấp, vì vậy cần khống chế độ ẩm trong lò ấp
– Giai đoạn ấp, độ ẩm 20-25%
– Giai đoạn nở 40-45%

* Đảo trứng: Trong khi ấp cần thiết phải đảo trứng, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình ấp trứng, lúc này phôi nằm trên đỉnh lòng đỏ, nếu không đảo trứng thì phôi chuyển ngược lên và dính vào vỏ, trứng cần được xoay định kỳ 90o một góc xoay

5. Kiểm tra trứng

Đợt 1: Trứng ấp được 10 – 11 ngày soi loại bỏ trứng không phôi, trứng chết phôi kỳ 1, trứng thối.

Đợt 2: Soi vào ngày 22 – 23 (chỉ để kiểm tra).

Đợt 3: Soi trứng ra nở 38 – 39 ngày, loại trứng chết phôi và trứng thối. Có thể chuyển trứng đà điểu sang máy nở làm nhiều đợt, khi soi thấy buồng khí đã đạt 1/3 và thấy mỏ và chân đạp mạnh ở phía buồng khí là những trứng sắp nở cần chuyển sang. Những trứng còn lại để tiếp tục trong máy ấp sau 1/2 ngày lại soi tiếp và chuyển những trứng tương tự sang máy nở.

Xác định phôi của từng quả trứng và ghi lại tất cả thông tin về từng con trống và mái sinh sản. Từ kết quả theo dõi soi trứng có thể giúp ta trong việc xác định lựa chọn được những đàn sinh sản có chất lượng.

Xác định vị trí buồng khí và theo dõi kích thước tảng trong quá trình ấp là một yếu tố quan trọng nhằm giúp ta hiểu rõ về quá trình giảm khối lượng trong công tác ấp trứng.

Theo dõi khối lượng trứng hàng ngày và ghi chép lại tỷ lệ giảm khối lượng của từng quả trứng ấp sẽ giúp cho tổng kết đánh giá nhiệt độ và độ ẩm trong quá trình ấp. Soi trứng còn cho ta biết được thời điểm nở và những thay đổi về vị trí thường xảy ra trong quá trình nở.

6. Khi trứng nở thành đà điểu con

Quá trình nở của đà điểu con thường bắt đầu từ tiếng kêu bên trong quả trứng khi vỏ trứng chưa được mổ. Công đoạn nở thường kéo dài đồng thời cũng có nhiều tiếng kêu và nhiều lần nghỉ, có mẻ trứng có thể nở trong thời gian 4-6 ngày, hiện tượng này thường do thời gian bảo quản, nhiệt độ thấp và kích thước trứng to.

Khi quả trứng đã được mổ một lỗ nhỏ ta không nên can thiệp giúp đà điểu con thoát ra ngoài vì điều này trái với tự nhiên làm cho đà điểu con thiếu động lực phá vỡ vỏ trứng dẫn đến hiện tượng đà điểu con sau này yếu hơn bình thường và có thể mắc một số bệnh do nhiễm khuẩn.

Sau khi đà điểu con mổ vỏ trứng ra ngoài cần tập trung lại cho vào phòng úm, ở đây cần tăng nhiệt độ trong phòng đến nhiệt độ cần thiết bằng cách thắp các bóng đèn sợi đốt, thắp các bòng đèn này giúp cho lông của đà điểu con nhanh khô, đà điểu con không bị rét, giúp cho hệ tuần hoàn và hệ tiêu hóa phát triển tốt.

Sau khi đà điểu con nở được 1 ngày cần thực hiện tiêm chủng kháng các bệnh dịch theo đúng quy trình tiêm vắc xin.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi đà điểu sinh sản nhân tạo

Để phát triển nghề nuôi Đà điểu thì cần chú trọng đến chất lượng trứng và con giống. Vì vậy việc chăn nuôi, chăm sóc đà điểu sinh sản là rất quan trọng, nó liên quan trực tiếp tới chế độ ăn, cách chăm sóc, phòng và trị bệnh cho đà điểu bố mẹ.

Quá trình nuôi đà điểu sinh sản có thể được chia thành các bước chính như sau

1. Giai đoạn nuôi dò và hậu bị

Sau khi đà điểu được nuôi gột khoảng 3 tháng thì chuyển sang chuồng mới để chuẩn bị quá trình tiếp theo là nuôi sinh sản. Khi chuyển từ chuồng nuôi gột sang chuồng mới cần chú ý cho đà điểu làm quen với đường chạy mới, chú ý chuồng nuôi, sân chạy mới phải bằng phẳng, ít chướng ngại vật, chuồng nuôi phải đủ kích thước để đà điểu có thể tự do vận động thoải mái

Thực hiện tẩy giun cho đà điểu 2 lần/ năm để đảm bảo đà điểu khỏe mạnh không có kí sinh trùng, đảm bảo tốc độ phát triển của đà điểu. Thực hiện đánh dấu từng con để đảm bảo quá trình quản lý, trông nom và chăm sóc riêng biệt từng con, theo dõi quá trình phát triển của từng cá thể trong đàn, quan tâm đặc biệt những con có biểu hiện khác thường.

Trong giai đoạn nuôi dò chế độ dinh dưỡng của đà điểu vẫn không thay đổi, nhưng cho đà điểu vận động nhiều hơn, đảm bảo sức đề kháng cho đà điểu chống lại mọi tác động xấu của môi trường

2. Quá trình sinh sản của đà điểu

Đà điểu thành thục khoảng từ 20-25 tháng tuổi, đà điểu cái phát dục sớm hơn đà điểu đực khoảng nửa năm, do vậy nếu ghép đàn đà điểu cái và đà điểu đực cùng lứa tuổi thì lứa trứng đầu thường không có phôi, do vậy không thể ấp nở thành đà điểu con được.

Để lứa đầu tiên của đà điểu cái có thể ấp nở được thì cần ghép đà điểu cái với đà điểu được già hơn khoảng 6 tháng tuổi trở lên, còn các lứa tiếp theo thì có thể ghép đàn đà điểu cái và đà điểu đực cùng lứa tuổi.

Trong lần đẻ trứng đầu tiên, đà điểu cái đẻ trứng thứ nhất, sau đó khoảng 16-18 ngày tiếp theo sẽ đẻ trứng thứ hai, tiếp tục khoảng 2-5 ngày tiếp theo lại đẻ trứng, do vậy trong giai đoạn này bà con cần chú ý để thu nhặt trứng cho vào lò ấp kịp thời, tránh trứng đà điểu dính nước làm giảm tỷ lệ ấp nở đà điểu con.

Đối với chuồng nuôi đà điểu sinh sản phải có mái che, kích thước chuồng nuôi khoảng 3-5m, bên trong chuồng nuôi có rải cát để đà điểu đẻ, tránh hiện tượng đà điểu đẻ xuống nền gạch, nền đất có nước, hoặc nền bê tông. Sân chơi của đà điểu rộng khoảng 8m chiều dài khoảng 80-100m để đà điểu có thể tự do đi lại, tự do chạy, đặc biệt khi đà điểu chạy tới tốc độ cao nhất thì không phải dừng lại đột ngột vì có chướng ngại vật phía trước. Mỗi chuồng nuôi có thể ghép 1 đà điểu trống với 2 đà điểu mái, hoặc có thể ghép 2 đà điểu trống với 3 đà điểu mái, nếu nuôi tập trung có thể ghép 5 đà điểu trống với 13 đà điểu mái.

* Phân biệt đà điểu trống và đà điểu mái

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái qua màu lông: Đà điểu lúc nhỏ thì rất giống nhau, tuy vậy đến khi trưởng thành (sau 7 tháng tuổi) thì màu lông của đà điểu đực và đà điểu cái lại rất khác nhau. Cụ thể đà điểu trống có màu lông đen, phần đầu cánh là lông trắng hoặc có màu bạc đá, còn đà điểu mái có màu nhạt hơn. Con trống thường to lớn hơn con mái, đồng thời đà điểu trống thường múa theo bản năng để mời gọi bạn tình. Khi múa đà điểu trống thường xòe cánh, rụt cổ đi vòng quanh đà điểu mái, đồng thơi hàm trên và hàm dưới gõ vào nhau tạo ra bản tình ca mời gọi. Nếu quan sát lâu thì đà điểu trống nghịch hơn đà điểu mái.

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái nhờ quan sát chúng đi vệ sinh: Dù đà điểu to, đà điểu nhỏ hay đà điểu trưởng thành thì khi đi vệ sinh nhìn chúng rất khác nhau. Đà điểu trống khi đi vệ sinh thì bộ phận sinh dục sẽ lồi ra ngoài. Vậy nên ta quan sát sẽ thấy phần như hạt đậu thò ra ngoài. Đà điểu mái thì khi quan sát thấy lỗ hậu môn phẳng đều.

Phân biệt đà điểu đực và đà điểu cái bằng cách khám lỗ huyệt: Khám lỗ huyệt là một phương pháp khám giới tính của gia cầm, việc này thường được thực hiện bởi các chuyên gia. cũng từ sự khác biệt giữa con trống và con mái nên khi cho ngón tay vào lỗ huyệt của con đà điểu con thì sẽ thấy gợn gợn ở đà điểu trống, và nhẵn bóng ở đà điểu cái

* Tiêu chuẩn chọn đà điểu đực làm giống 

Chọn đà điểu đực làm giống cần chọn những con có dáng đứng ngay thẳng, cổ không cong, màu lông đen tuyền, dáng vẻ oai vệ, thân hình cân đối, đặc biệt là những con đà điểu trống có màu mỏ và màu chân đỏ sẫm, hoạt bát, nhanh nhẹn, hay hiếu động. Tránh không chọn đà điểu trống quá hung dữ vì khó kiểm soát, hay đá người và làm tổn thương con mái. Chọn con trống có bộ phận sinh dục dài khoảng 25 Cm, cong về bên trái.

* Ghép đàn và phối giống

Đà điểu mái phát dục khoảng 20-25 tháng tuổi vì vậy trong giai đoạn từ 18 tới 20 tháng tuổi ta nên ghép đàn con đực và con cái với nhau để chúng có thời gian làm quen với nhau. Nên ghép con mái với con trống già hơn khoảng 6 tháng tuổi vì đà điểu mái phát dục sớm hơn.

Khi phối giống con đực đi vòng quanh con cái, hai cánh xòe ra giống như đang múa, cổ hơi cúi xuống, nếu con cái đồng ý cho con đực phối thì nó nằm xuống sát đất, con đực trèo lên người con cái, một chân để lên lưng con cái, hai đuôi úp dính vào nhau, sau khi xuất tinh trùng vào người con cái, con đực bỏ đi còn con cái nằm đấy khoảng 4-6 phút rồi mới đứng lên bỏ đi.

Thông thường đà điểu phối giống vào khoảng 6h-9h sáng và 14h tới 16h chiều, rất ít khi phối giống vào buổi trưa và buổi tối. Với những con đà điểu đực khỏe mạnh có thể phối khoảng 11-13 lần trong một ngày.

* Chế độ dinh dưỡng cho đà điểu sinh sản

Chế độ dinh dưỡng cho đà điểu bố, mẹ rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng trứng ấp nở, sức khỏe của đà điểu con vì vậy nuôi đà điểu sinh sản cần phải chú ý đặc biệt tới chế độ dinh dưỡng.

Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho đà điểu trong mùa đẻ trứng, có thể phân loại đà điểu theo năng suất trứng, với đà điểu có năng suất trứng lớn thì cho ăn khẩu phần cao hơn.Thành phần rau xanh cũng phải cung cấp đủ cho đà điểu, thông thường đà điểu ăn cỏ, cỏ voi và các loại rau mềm

* Chế độ nước uống cho đà điểu sinh sản

Đà điểu sinh sản cần nhiều nước uống hơn bình thường, đặc biệt là đà điểu không uống được nước nóng vì vậy bể đựng nước nên đặt dưới các tán cây hoặc trong nhà có mái che để nguồn nước luôn mát. Chú ý phải cọ sạch bể chứa nước một lần một ngày, thay nước đều đặc và phải đủ nước cho đà điểu uống.

* Mùa vụ sinh sản và quy luật đẻ trứng của đà điểu

Đà điểu thường đẻ từ tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau, thời gian nghỉ đẻ và thay lông khoảng 4 tháng. Đà điểu thường đẻ từ khoảng 14h-19h, vì vậy trong khoảng thời gian này phải bố trí người nhặt trứng, tránh đà điểu bố mẹ dẫm vỡ trứng, hoặc tránh trứng bị dính nước làm hỏng trứng hoặc ảnh hưởng tới tỉ lệ ấp nở. Nếu quá 19h mà đà điểu vẫn chưa đẻ thì ngày đó chúng không đẻ trứng.

Đà điểu cái thường đẻ thành từng đợt, chúng đẻ liên tiếp 8-10 quả rồi lại nghỉ khoảng 10 ngày rồi mới đẻ tiếp. Đôi khi đà điểu cái gián đoạn quá trình đẻ trứng đến 1-2 tháng

* Nhặt trứng đà điểu

Đà điểu thường đẻ trứng vào buổi chiều khoảng từ 14h-19h vì vậy ta cần phải thu nhặt trứng sau khi chúng đẻ xong, tránh trường hợp chúng làm hỏng trứng. Công việc này khá vất vả và mất thời gian vì đà điểu có thể đẻ ở bất cứ nơi nào mà chúng thấy thích. Để đà điểu cái có thể đẻ tập trung ở một chỗ ta có thể rải cát vào một chỗ để đà điểu có thể làm tổ ở đó, hơn nữa ta có thể dựng mái che, che nắng để đà điểu an tâm đẻ vào nơi đó.

Khi thu nhặt trứng cần thiết phải có hai người trở lên vì người nhặt trứng có thể sẽ bị đà điểu đực tấn công vì chúng muốn bảo vệ trứng trong ổ. Hai người phối hợp nhau nhặt trứng, một người cầm gậy hoặc que dài, có thể là một đoạn cành cây gồm có nhiều cành nhỏ vì đà điểu thường sợ những đối thủ to lớn hơn mình, hơn nữa khi bị đà điểu tấn công có thể cản chúng lại bằng cành cây này. Tại vị trí nhặt trứng nên làm hàng rào có khe hở ở dưới khi bị đà điểu tấn công ta có thể nhanh chóng thoát ra ngoài bằng

* Vòng đời sinh sản của đà điểu Vòng đời sinh sản của đà điểu phụ thuộc nhiều vào chế độ dinh dưỡng, điều kiện khí hậu và cách xây dựng chuồng trại. Thông thường một con đà điểu mái thường đẻ trứng trong khoảng 35-40 năm, số lượng và chất lượng tốt nhất của trứng vào giai đoạn đà điểu được 5 tuổi và kéo dài khoảng 12 năm, trong mỗi mùa chúng đẻ khoảng 40 quả trứng. Tính trung bình trong một đời đà điểu mái đẻ được tổng khối lượng trứng là 2.400 Kg trứng

Vòng đời sinh sản của đà điểu Vòng đời sinh sản của đà điểu phụ thuộc nhiều vào chế độ dinh dưỡng, điều kiện khí hậu và cách xây dựng chuồng trại. Thông thường một con đà điểu mái thường đẻ trứng trong khoảng 35-40 năm, số lượng và chất lượng tốt nhất của trứng vào giai đoạn đà điểu được 5 tuổi và kéo dài khoảng 12 năm, trong mỗi mùa chúng đẻ khoảng 40 quả trứng. Tính trung bình trong một đời đà điểu mái đẻ được tổng khối lượng trứng là 2.400 Kg trứng

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech VietNam.

Kỹ thuật nuôi đà điểu

Nuôi đà điểu con:Đây là giai đoạn rất quan trọng, quyết định đến kết quả nuôi tốt hay xấu ở các tháng trôi sau:

Chuồng nuôi. nên chọn hướng có ánh nắng mặt trời, thoát nước tốt, mặt bằng cao ráo. Khu vực xung quanh yên tĩnh, tránh tiếng ồn. Chuồng nuôi thông thoáng nhưng phải giữ được âm và có sân chơi có diện tích rộng, chiều dài ít nhất là 50m để đà điểu chạy múa không bị cản trở. Sân chơi tốt nhất là thảm cỏ hoặc đất nện được nhặt sạch không có các dị vật 1 -2 tuần đầu chuồng nuôi úm được lót bằng rơm hoặc trải thảm mềm để đà điểu đi lại vững chắc và giữ ấm phần bụng. Sang tuần 3 trở đi dùng trấu, phải bào, cát khô. Vì chức năng chạy cua đà điểu rất quan trọng, nếu nhốt ở nền cứng, trơn sẽ làm chân biến dạng, trật khớp dẫn đến hao hụt cao.

                                                   nuôi đà điểu

Nhiệt độ, ánh sáng: 24 giờ sau nở, đà điểu được đưa vào quây úm, lúc này bộ lông chưa đầy đủ, điều hoả thân nhiệt kém nên phải giữ nhiệt cho đà điểu con. Lúc này trong bụng đà điểu con còn tích khôi noãn hoàng lớn, dễ bị lạnh khi nhiệt độ thấp hoặc chất độn chuồng không đủ dày, dẫn đến xơ cứng không tiêu hóa được, nên chúng dễ bị viêm nhiễm – đây là  nguyên nhân chính gây chết trong những tuần đầu. Từ 1tháng tuổi luyện cho đà điểu thích ứng dần với điều kiện ngoại cảnh. Khi úm, phải luôn quan sát phản ứng của đà điểu với nhiệt độ. Nêu nhiều con cùng tránh xa khu vực lò sưởi (đèn) hay há miệng thở, cần giảm nhiệt độ xuống, ngược lại có nhiều con tập trung gần nơi phát nhiệt (những con ngoài rìa run run) đó là nhiệt độ bị thấp, cần phải tăng nhiệt lên. Đế dễ quan sát và chăm sóc đà điểu con được đồng đều thì từ sơ sinh đến 1 tháng tuổi nên bố trí 20-25con/quây úm ánh sáng, cùng với sự vận động phải phù hợp để kích thích đà điêu con ăn nhiều, tiêu hóa tốt, giảm bệnh tật, tăng trưởng nhanh. Nếu khí hậu tốt, ánh sáng đầy đủ thì 20 ngày tuổi có thể cho đà điểu con ra sân chơi để vận động và tắm nắng. Thời gian thả tăng theo từng ngày. 1 tháng tuổi trở ra thả tự do cho chúng vận động, nhưng phải đưa vào chuồng ngay khi thời tiết xấu, trời mưa. Ban đêm duy trì ánh sáng với cường độ 3W/m2 để chúng dễ dàng ăn uống.

Chăm sóc: đà điểu 1-2 ngày tuổi thường ngủ dưới bóng đèn sưởi. Từ ngày thứ 3 trở đi mới bắt đầu mô thức ăn, nếu không để sãn thức ăn, rau xanh thái nhỏ thì chúng sẽ ăn bất cứ vật gì nhặt được và dẫn đến tắc ruột chết. Từ 1-30 ngày tuổi cho ăn 6 lần/ngày. Từ 31 -60 ngày tuổi cho ăn 4 lần/ngày. Từ 61-90 ngày tuổi cho ăn 2-3 lần/ngày.

Cách cho ăn: có thể dùng riêng máng đựng thức ăn tinh và rau qủa xanh. Trong những tuần đầu có thể trộn rau non thái nhỏ với thức ăn tinh để đà điều ăn.

 Nuôi đà điểu thịt: Sau 3 tháng tuôi, chuyển điểu sang nuôi thịt.

Chuồng nuôi: đà điểu thích chạy nên sân chơi phải có diện  tích rộng (dài 80-100M), nền sân phải có thảm cỏ và có chỗ rải cát, vì đà điểu sống ở sa mạc, thường xuyên tắm cát làm sạch cơ thế và loại bỏ các loại ký sinh trùng ngoài da. Giai đoạn này đà điểu hầu như ngoài , vì vậy sân chơi với chú rất quan trọng. .

Chế độ ăn: đà điểu có hệ sinh vật ở màng tràng phát triển giúp tiêu hóa thức ăn khô, xơ thô tới 60%, nên thường xuyên bổ sung rau, cỏ xanh tự do hoặc băm 3-4cm để dễ ăn cho máng riêng hoặc để lên trên thức ăn tinh. Đà điểu thương phẩm cho ăn nhiều tăng trưởng nhanh có thể giết thịt từ 10 tháng tuổi.

Khẩu phần ăn cho đà thịt tăng theo tháng tuổi và trọng lượng cơ thể. Từ 2-6-9 tháng tuổi, cơ thể đạt 12-60-90kg, thức ăn từ 500 – 1.655 – 2.000 g//ngày. Thành phần dinh dưỡng: tăng lượng cỏ., ngũ cốc theo tháng tuổi và giảm lượng đạm, protein, Ca, P, Lizin… đạt 1 0 tháng tuổi. Việc sử dụng quá nhiều xơ trong khẩu phần thời kỳ này dễ làm giảm chuyển hoá thức ăn, làm chế việc hấp thụ thức ăn tinh các chất dinh dưỡng, dẫn  tăng trọng thấp.

Máng ăn, uổng: đà điểu phát triển to lớn vì vậy phải sử dụng máng ăn bằng gô với kích thước 0,3 x 0,25 x 0,1m. Máng ăn. cố định ở độ cạo 0,7-0,8m để đà điểu không giẫm đạp lên và ăn uống dễ dàng. Đảm bảo 4-5 con/máng ăn. Dùng bồn cao su đựng nước uống và dùng nước sạch, lượng đủ để đà điểu uống tự do. Mỗi ngày thay nước và rửa sạch máng 1 lần, duy trì nước mát, tránh dùng nước dưới ánh mặt trời.

Nuôi đà điểu sinh sản:

Giai đoạn hậu bị: Giai đoạn nuôi dò từ 4-12 tháng tuổi chăm sóc như nuôi thịt. Giai đoạn nuôi hậu bị từ 13-20 tháng tuổi cho đà điểu vận động nhiều, lượng thức ăn giảm, từ tháng 11 -14, lượng thức ăn tinh 1,2-1,5kg/con/ngày, thức ăn xanh 1,5kg/con/ngày; từ 15-24 tháng tuổi cho ăn 1,2 -1,5kg/con/ngày lượng thức ăn tinh, tự do chăn thả ăn thức ăn xanh.

Nuôi đà điểu phải cân định kỳ trọng lượng đế kiểm soát sự tăng trưởng. Đối với những con phát triển chậm hay tăng trưởng quá nhanh thì có biên pháp tăng cường hay hạn chế, bằng cách điều chỉnh khẩu phần và định mức cho ăn. Khi đà điểu còn nhỏ, tuyệt đối không được cầm vào cổ mà phải đưa tay luồn xuống bụng nâng lên. Đà điểu trưởng thành khi bắt cân 2-3 người, một người dùng móc sắt choàng vào cổ ấn xuống, những người khác nhanh chóng giữ chặt cánh và lông đuôi hai bên. Khi kiểm tra hoặc di chuyển phải có vải che mặt đà điểu để chúng không hoảng loạn. Lưu ý những người bắt phải đi ủng cao su để đà điểu tránh giẫm phải. Từ 4-24 tháng tuổi cần chú ý tạo môi trường cho đà điểu vận động, thường xuyên kiểm soát mức độ tăng trưởng để điều chỉnh chế độ dinh dưỡng. Đà điểu khoẻ mạnh có đôi chân vững chắc, lông óng mượt và óng ả. Từ 1 2 tháng tuổi trở đi màu sắc lông con trống và con mái sẽ khác biệt. Con trống lông đen mượt, chân và mỏ chuyển màu đỏ tươi là biểu hiện sức khoẻ tốt. Con mái lông mượt, nhìn săn chắc, gờ lưng có rãnh là có thể trạng béo tốt.

Giai đoạn sinh sản: đà điểu thành thục lúc 25 tháng tuổi. Con mái thành thục sớm hơn con trống nửa năm. Nên ghép trống già hơn mái từ 6 tháng đến 1 năm tuổi ở lứa đầu. Trước 12 tháng tuổi, đà điểu khó phân biệt trống mái. Từ 12 tháng tuổi, con trống có dáng cao lớn, lông đuôi đen và 2 bên cánh có lông vũ màu trắng chân và mỏ chuyển màu đỏ. Con mái kích thước nhỏ hơn, lông màu xám, tính hiền lành hơn.

Chuồng nuôi: chuồng cho đà điểu đẻ gốm chuồng có mái che kích thước 3x5m, trong đổ cát để đà điểu có thể vào đẻ; sân chơi có chiều rông 8m, dài 80-100M. Mỗi ô chuồng ghép 1 trống với 2 mái haặc 2 trống 5 mái.

Chọn đực giống: chọn hình thể cân đổi, cường tráng, tính ôn hoà, hoạt bát; đầu thanh tú; cổ thẳng; mắt lớn và linh hoạt; thể trạng không béo quá hoặc gầy quái hai ngón chân khoẻ mạnh, ngay ngắm cơ quan sinh dục phải lớn, dài, cong vé bên trái, chiều dài trung bình 25cm.

Ghép và phối giống: từ 18-20 tháng tuổi ghép đực với cái để chúng quen nhau. Sự phối giống thường diễn ra vào buổi sáng từ 6-9 giờ và chiều từ 14-16 giờ, ít khi diễn ra vào buổi tối. Con trống tốt có thể phối 10-12 lần/ngày.

Dinh dưỡng: đóng vai trò quan trọng đôi với năng suất trứng, tỉ lệ phôi và ấp nở Khẩu phần: protein 1 6-1 6,5%; năng lượng ME: 2.600-2.650kcal; Lizin 1 ,1%; Methionin 0,4-0,45%; Canxi 2,8-3%; Photpho 0,45-0,48%; Vitamin A:16.000UI; Vitamin D 3.700UI; Vitamin E 58,5UI. Định lượng cho ăn 1,6-1,8kg/con/ngày, tùy thời điểm đầu vụ hay lúc đẻ rộ. Thức ăn xanh gôm cỏ Ghinê, cỏ voi, các loại rau khác. Nên thả đà điểu ở bãi cỏ xanh để chúng tự nhặt cỏ tươi. Đà điểu sinh sản cần uống nhiều nước, nước phải mát, phải sạch, mỗi ngày thay nước 1 lần.

Mùa sinh sản: đà điểu đẻ từ tháng 11 năm trước đến tháng 8-9 năm sau và thường đẻ từ 2- 7 giờ tối, vì vậy phải theo dõi nhặt trứng, tránh để chúng giẫm vỡ. Đà điêu đẻ từng đợt từ 8-10 ngày thì nghỉ 7-1 0 ngày sau đó tiếp tục đẻ lại. Trứng có khối lượng từ 900-1.600g, chiều dài 16,5cm, chiều rộng 13cm, hình dạng trong, màu trắng ngà, vỏ bóng, dày 2mm. Sản lượng trứng từ 30-80quả/năm.

Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam